Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nàng Lika - Ivan Bunin

“Nàng Lika” là phần cuối (phần V) của bộ tự truyện Cuộc đời Arxênhép, tác phẩm chủ yếu mà nhờ đó Bunhin đã được tặng giải thưởng Nôben (1933). Sinh thời Bunhin cũng như sau này ở Liên Xô nhiều lần phần này của bộ tự truyện đã được in riêng như một tác phẩm độc lập bởi sự hoàn chỉnh về hình thức cũng như chủ đề. Gọi là “tự truyện” cũng chỉ là tương đối, vì ở đây cái thật cái hư xen lẫn nhau. Địa danh, tên người phần lớn đều được thay đổi. Hình mẫu của nàng Lika Vácvara Pasencô, người mà Bunhin đã cùng chung sống suốt mấy năm, khi ông mới bước vào đời. Trong truyện của Bunhin, so với Vácvara, Lika đẹp lên rất nhiều cả về nội tâm cũng như ngoại hình. Lika mất ngay sau khi chia tay, còn ngoài đời thật thì Vácvara đã kịp đi lấy Bibicốp, con một nhà buôn giàu có và sống với y hơn 20 năm. Lika của Bunhin là hiện thân của vẻ đẹp cổ điển Nga, – yếu đuối, chân thành, cả tin, hồn hậu mà cũng rất bạo liệt vào những khúc rẽ ngoặt của cuộc đời. Còn nhân vật “tôi” thì đã phải trả giá cho cách sống quá phóng đãng của mình. Anh yêu Lika, yêu tận cuối lòng, nhưng lại nhân danh “chất nghệ sĩ” tự cho mình cái quyền đón nhận mọi cảm giác mới lạ của những chuyến phiêu du. Lika không chấp nhận được bất cứ sự san xẻ tình cảm nào, nàng đã tự chọn con đường ra đi… Nhưng có lẽ cái kết thúc ấy đã giữ cho tình yêu của nàng trọn vẹn…” *** Ivan Bunin sinh ngày 22/10/1870 tại Voronezh, tốt nghiệp trường Đại học Moskva. Sau đó ông là một nhà báo, và thư ký. Ông xuất bản tập thơ đầu tiên của mình vào năm 1891. Đến năm 1903, ông được nhận giải thưởng Pushkin của học viện Nga về các tác phẩm thơ dịch của Anh và Mỹ. Sau khi cuộc cách mạng bolshevik nổ ra vào năm 1917, ông sang Paris sinh sống. Các tác phẩm chính của ông bao gồm, các tuyển tập truyện ngắn Gospodin iz San Frantsisko – Quý ngài đến từ San Francisco và Tyomnye Alley – Con đường u ám, các tiểu thuyết Derevnya – Ngôi làng và Mitina lyubov – Tình yêu của Mitia. Truyện ngắn của I.Bunin phần lớn thuộc loại truyện không có cốt truyện. Các truyện viết chủ yếu là thông qua sự hoài niệm, nhớ lại của tác giả về những gì đã qua. Vì thế, tính chất tự truyện cũng là một đặc điểm nghệ thuật của văn xuôi Bunin. Có thể là ký ức của chính tác giả, hoặc của nhân vật “tôi” trong truyện. Chính hình thức nhớ lại này đã giúp cho tác giả bộc lộ cảm xúc trữ tình của mình đối với con người và cảnh vật được mô tả. Trong các truyện ngắn của ông, chúng ta thường thấy các cụm từ "ngày ấy", “vào thời gian đó” hay "hình như ngày đó"... diễn tả khoảng thời gian xảy ra chuyện nhưng cũng chính là hoài niệm của tác giả. Với lối kết cấu này, mặc dù đang sống thời hiện tại nhưng nhà văn có thể trở lại với quá khứ một cách dễ dàng thông qua những hồi ức, kỷ niệm. Chính sự đam mê hội hoạ và âm nhạc từ nhỏ của nhà văn là yếu tố quan trọng tạo nên chất tạo hình và khắc họa chân dung trong sáng tác của ông. Nhân vật hầu như không có sự xung đột hoặc cãi cọ nhau ồn ã. Sự thất vọng được thể hiện thông qua tiếng thở dài (Lần gặp gỡ cuối cùng); cái lắc đầu và nhắm mắt thay cho sự day dứt, luyến tiếc (Những lối đi dưới hàng cây tăm tối). Nhà văn dành những năm cuối đời để viết quyển sách về Chekhov, nhưng không kịp hoàn thành. Đêm 8/11/1953, Ivan Bunin qua đời trong tay người vợ của mình. Ông được mai táng tại Sainte-Geneviève-des-Bois, nghĩa trang "người Nga" ở Paris. *** Về chiều nắng nực giảm đi. Mặt trời đã khuất phía sau nhà. Chúng tôi ngồi uống trà trong phòng kính, bên cạnh cửa sổ mở ra sân. Lúc này nàng đọc rất nhiề những giờ ấy nàng hay đặt nhiều câu hỏi với anh tôi, và anh tôi thích thú chỉ dẫn cho nàng cặn kẽ. Chiều thật yên ắng, lặng gió, – chỉ có mấy chú nhạn thoáng bay qua sân rồi bỗng vút lên cao, mất hút trong thinh không xa thẳm. Họ nói chuyện với nhau, còn tôi thì lắng nghe tiếng ai đang hát. Bài ca hát về mấy người dân quê đang gặt lúa trên mấy cánh đồng cao cao. Âm điệu bài ca phẳng lặng, ngân dài, thấm đượm nỗi buồn ly biệt, tiếp đó là những âm thanh rắn rỏi, hùng dũng về những đoàn quân.   Bài ca như buồn bã dõi theo đoàn quân kazắc đang chầm chậm tiến qua thung lũng, dẫn đầu là vị tướng Đôrôsencô vinh quang…   Tôi lắng nghe tiếng bài hát, trong lòng cảm thấy buồn buồn pha chút ghen tỵ ngọt ngào.  Vào lúc hoàng hôn chúng tôi di dạo chơi, thỉnh thoảng đi lên phố, có lúc tới vườn hoa nhỏ trên bờ đất thoai thoải gần nhà thờ, có khi ra cánh đồng ngoài thành phố. Trong thành phố có vài đường phố lát đá, – đó là khu buôn bán của người Do Thái với một số lượng nhiều đến khó hiểu những hiệu đồng hồ, thuốc tân dược và hiệu thuốc lá. Những đường phố này còn giữ nguyên cái nóng sau một ngày mặt trời thiêu đốt, trên những ngã tư có quầy giải khát, ở đó khách bộ hành có thể uống những cốc xirô đủ màu sắc. Điều này nhắc tôi nhớ tới niềm Nam, thúc giục tôi đi xa hơn về phía Nam, – tôi vẫn còn nhớ dạo ấy không hiểu sao tôi rất hay nghĩ tới miền Kerơsơ. Nhìn từ trên nhà thờ xuống thung lũng, tôi mường tượng ra mình đang đi đến Krêmemtrúc, đến Nhicôlép. Ra cánh đồng ngoài thành phố chúng tôi thường đi qua vùng đầu ô phía tây trông hệt như thôn quê. Những ngôi nhà, vườn cây, ruộng dưa hấu nằm sát bên con đường thẳng tắp dẫn đến Mirơgôrốt. Tít tận đằng xa trên con đường dọc theo hàng cột dây thép có chiếc xe do hai con bò kéo đang chầm chậm lăn bánh rồi dần dần mất hút đi trên biển thảo nguyên như hàng cột điện cũng dần dần trở nên bé như cái que rồi không còn thấy nữa. Đó là đường tới Ianốpsina, Iarexca, Sisaki…   Nhiều khi chúng tôi dạo chơi buổi tối trong công viên thành phố. Ở đấy có dàn nhạc chơi, hàng hiên sáng ánh đèn của nhà hàng nổi bật lên từ xa như một cái sân khấu. Anh tôi đi thẳng vào nhà hàng, còn tôi và nàng thỉnh thoảng đi về phía vườn giáp với bờ sông cao cao. Đêm tối đen, ấm áp. Trong bóng đêm phía dưới, đây đó thấp thoáng ánh đèn, những bài ca khi bổng khi trầm nghiêm trang vọng lại – đó là những đám thanh niên vùng ngoại ô đang hát. Bài ca như hoà lẫn vào bóng đêm yên tĩnh. Đoàn tàu với những ô cửa sáng rầm rập chạy qua, tiếng động của nó nhỏ dần, nhỏ dần – lúc đó tôi cảm thấy thật rõ cái thung lũng này xa, sâu đến thế nào, vệt sáng đoàn tàu dần mất hút trong đó như thể nó chui sâu xuống đất. Tiếng hát lại nghe rõ, cả vòng cung chân trời bên thung lũng như chìm trong tiếng ếch kêu mơ hồ không dứt.   Khi chúng tôi bước lên hàng hiên đông đúc người ở nhà hàng, ánh sáng ở đấy khiến chúng tôi ngỡ ngàng lóa mắt. Anh tôi lúc này đã ngà ngà say, vẻ mặt hiền hoà, ngay lập tức vẫy tay gọi chúng tôi lại bàn, nơi anh ngồi cùng Vaghin, Lêôntêvích, Xulima. Mọi người hồ hởi xếp chỗ ngồi cho chúng tôi, cho gọi thêm rượu vang trắng, đưa thêm cốc và đá. Lát sau tiếng nhạc đã ngừng, vườn cây quanh hiên đã vắng vẻ chìm trong bóng tối, thỉnh thoảng có làn gió nhẹ từ đâu thổi tới, mấy ngọn nến đặt trong chụp thủy tinh bám đầy côn trùng bé lấm tấm; nhưng mọi người vẫn tiếp tục nói chuyện, thời gian còn sớm sủa. Cuối cùng thì mọi người đều thấy rằng đã đến lúc phải ra về. Tuy nhiên chúng tôi cũng không chia tay ngay – chúng tôi kéo cả đoàn đi về nhà, vừa đi vừa nói to, nện gót giầy cồm cộp. Vườn cây đã yên lặng như tờ, che phủ một màn đen bí ẩn, trăng muộn màng nhô lên trên đường chân trời tỏa ánh sáng vàng mờ nhạt, ấm áp. Khi chỉ còn anh em tôi cùng nàng đi vào sân nhà mình, ánh trăng đã rọi xuống đấy, soi sáng gian nhà kính; có tiếng con chim chích chốn nào kêu khe khẽ; mỗi một cái lá cây dạ hợp mọc gần ngôi nhà nhỏ, mỗi cành cây đều in bóng rõ ràng mềm mại lên bức tường màu trắng. ... Mời các bạn đón đọc Nàng Lika của tác giả Ivan Bunin.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Anh, Em Sai Rồi
Tô Tiểu Lai: Anh, em sai rồi. Trình Thiếu Phàm: Sai thế nào? Tô Tiểu Lai: Em không nên đi học muộn, không nên thường xuyên trốn học. Trình Thiếu Phàm: Chỉ có vậy? Tô Tiểu Lai: Thỉnh thoảng đêm không về ký túc xá. Trình Thiếu Phàm: Là thỉnh thoảng sao? Tô Tiểu Lai: Em thề với ánh trăng, tuyệt đối chỉ thỉnh thoảng. Trình Thiếu Phàm: 3 năm đại học có 81 đêm không về ký túc xá, chỉ là thỉnh thoảng? Tô Tiểu Lai: Ách… Anh, em sai rồi. Trình Thiếu Phàm: Sai thế nào? Tô Tiểu Lai: Thế nào cũng đều sai rồi … Nhận xét cá nhân: Cuối cùng cũng tìm được bộ truyện thích. Truyện này hài hước, dễ thương, không hề đau buồn, lâm ly bi đát gì.  *** Lâm Vi Vi bước vào cửa ký túc xá nhìn ghé vào thấy Tô Tiểu Lai đang nằm hấp hối trên bàn, Lâm Vi Vi cảm thấy không đúng tí nào, hình ảnh Tô Tiểu Lai lúc này, giống như vừa bị ngộ độc thức ăn, cô chưa bao giờ thấy qua, cô biết Tô Tiểu Lai là một thanh niên tràn đầy sức sống tươi trẻ năng động, là người gặp chuyện bất bình thì kêu la, là kẻ đến người giết người quỷ giết quỷ cũng không sợ trời không sợ đất, là người một ngày ăn năm bát cơm, đến nửa đêm còn như bị ma đói quấn thân đứng dậy tìm đồ ăn bỏ vào bụng, là học sinh nổi tiếng trốn học toàn bộ các môn lại còn không biết xấu hổ nói to : Không cần sủng bái chị, chị đây chính là huyền thoại, là người mặc bộ đồ 13 ngày không đổi hóa màu xám cũng chỉ là chuyện vặt ....... Lâm Vi Vi không thể không nhìn vào người chị em tốt cùng ăn cùng ngủ ba năm nay mà bày tỏ an ủi, kỳ thật chủ yếu chính mình cũng muốn tám chuyện một chút, ngẫm lại phòng 308 đã bao lâu rồi không được nghe tin tức nào mới mẻ, cho nên Lâm Vi Vi liếc mắt một cái đã nhận ra Tô Tiểu Lai hôm nay là bị chuyện cũ hành hạ. Kết quả phải bắt đầu cuộc đối thoại. Mời các bạn đón đọc Anh, Em Sai Rồi của tác giả Hoàng Hôn Tứ Hợp.
Kim Vân Kiều Truyện
LỜI DẪN VỀ VĂN BẢN C húng ta ai cũng biết rằng, dựa trên cơ sở văn bản Kim Vân Kiều truyện do Thanh Tâm tài nhân biên thứ, Nguyễn Du đã tái tạo thành thi phẩm nổi tiếng Đoạn trường tân thanh. Vì vậy, muốn hiểu Nguyễn Du một cách đầy đủ và khách quan, đặc biệt là muốn hiểu những nỗi “đau đớn lòng” trước thời cuộc “bể dâu” mà ông đã từng “trải qua”, từng “trông thấy”, rồi đem thể hiện chúng qua ngòi bút thiên tài của mình thì không thể không đọc Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân. Hiện nay có nhiều văn bản Kim Vân Kiều truyện và bản nào cũng ghi là Thanh Tâm tài nhân biên thứ. Song khi đọc, ta không khỏi ngạc nhiên, bởi chúng không chỉ khác nhau ở một vài chi tiết mà khác nhau cả về nội dung cũng như cách ngắt hồi. Tựu chung, có hai loại văn bản về Kim Vân Kiều truyện: loại in từ nửa đầu thế kỉ XX trở về trước và loại in từ giữa thế kỉ XX trở lại đây. Loại thứ nhất, về cơ bản chúng giống nhau, sự dị biệt về chữ nghĩa là không đáng kể. Chỉ có điều khác là, bản do Quán Hoa Hiên tàng bản thì không có lời đề tựa cùa một người tên hiệu là Thiên Hoa Tàng chủ nhân và lời bình luận của Quán Hoa đường; còn bản do Đại Liên đồ thư quán thì ngược lại, không có lời bình của Quán Hoa đường, nhưng lại có lời đề tựa của Thiên Hoa Tàng chủ nhân. Loại thứ hai, chẳng hạn, bản do Đinh Hạ hiệu điểm, hoặc bản do Xuân Phong văn nghệ xuất bản... về cơ bản cũng gồm 20 hồi như các bản Quán Hoa hiên, Đại Liên... nhưng dài hơn, có nhiều chi tiết hơn tạo nên sự hoàn thiện cho tác phẩm, nâng giá trị vể nội dung cũng như về nghệ thuật của tác phẩm cao hơn, đặc biệt tạo nên mạch lôgíc gần gũi với lối tư duy của người hiện đại. Hơn nữa, có bản, chẳng hạn bản do Đinh Hạ hiệu điểm, cách ngắt hồi cũng khác với hai bản Quán Hoa Hiên và Đại Liên. Điểu này tạo nên sự phức tạp, thậm chí rối loạn khi nghiên cứu - so sánh giữa Đoạn trường tân thanh với Kim Vân Kiều truyện. Dĩ nhiên, công việc của chúng tôi không phải là phê phán các văn bản Kim Vân Kiều truyện hoặc đưa ra phương pháp nghiên cứu - so sánh mà chỉ muốn giới thiệu một bản dịch Kim Vân Kiều truyện. Ở Việt Nam ít nhất đang lưu hành ba dịch bản Kim Vân Kiểu truyện. Bản thứ nhất do Hùng Sơn Nguyễn Duy Ngung dịch, in năm 1925. Bản thứ hai được dịch bởi các cụ Nguyễn Khắc Hanh, Nguyễn Đức Vân, in rônêô năm 1962, sau đó năm 1994 Nhà xuất bản Hải Phòng in lại và La Sơn Nguyễn Hữu Sơn giới thiệu. Bản thứ ba do cụ Tô Nam Nguyễn Đình Diệm dịch, in năm 1971. Trong ba bản dịch kể trên thì bản dịch của cụ Hùng Sơn bị bỏ mất ba hồi và cũng khá tuỳ tiện thêm bớt; bản của cụ Tô Nam ra đời sau, lại bỏ mất những lời bình của Quán Hoa đường, bản của các cụ Nguyễn Khắc Hanh, Nguyễn Đức Vân ra đời trước bản của Tô Nam, lại có đầy đủ cả bài tựa và lời bình. Vì vậy, chúng tôi chọn bản này để giới thiệu. Tuy nhiên, bởi dựa vào bản chép tay kí hiệu A.953 có duy nhất vào thời kì bấy giờ để dịch nên bản của các cụ Nguyễn Khắc Hanh và Nguyễn Đức Vân không khỏi có một vài sai sót mà ông Phạm Đan Quế trong Truyện Kiều đối chiếu đã nêu: “…Có một số sai khác, lược bỏ một vài đoạn ngắn của một số bài thơ..”[1]. Nay may mắn, được Nhà giáo Nhân dân - Giáo sư Nguyễn Đình Chú, giảng viên khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội cho mượn văn bản Kim Vân Kiều truyện do Tiểu Hoa Hiên tàng bản, Quán Hoa đường bình luận và được Giáo sư cùng nhà văn Siêu Hải thay mặt gia đình hai cố dịch giả[2] cho phép tôi hiệu chỉnh lại dịch bàn cùa hai cụ. Tôi đã hiệu chỉnh theo ba nguyên tắc sau đây: 1. Bổ sung những đoạn mà dịch giả thiếu, có thể do bản chép tay A.953 bỏ sót... 2. Điều chỉnh những chỗ khác biệt khá xa với nguyên bản. 3. Điều chỉnh các xưng hô. Đối với người Việt Nam, cách xưng hô biểu hiện thái độ của người giao tiếp với đối tượng mình đang giao tiếp. Không phải ngẫu nhiên Thanh Tâm tài nhân toàn gọi Mã giám sinh là Mã Bất Tiến, hoặc Mã Quy, trừ trường hợp duy nhất mụ mối giới thiệu y với gia đình Thúy Kiều mới gọi là Giám sinh họ Mã. Đối với Thúy Kiều cùng vậy, lúc tác giả gọi là Thúy Kiều, lúc lại gọi là phu nhân hoặc Vương phu nhân. Điều đó đều do dụng ý nghệ thuật của tác giả. Cách xưng hô còn biểu hiện trình độ văn hoá và quan hệ của người xưng hô với đối tượng giao tiếp. Hoạn Thư là con nhà gia giáo, có phong cách của bậc tiểu thư con quan Thượng thư bộ Lại, dù có ghét Thúy Kiều đến đâu nàng cũng không thể mày tao chí tớ với Thúy Kiều; Bạc Hạnh dù có cố phình nịnh để lừa Thúy Kiều thì y cũng không thể xưng anh anh em em với nàng... Gặp các trường hợp tương tự như vậy, tôi đều hiệu chỉnh lại. Ngoài ba nguyên tắc nêu trên, những chỗ nguyên bản không có mà dịch bản có, tôi cũng lược bỏ đi. Sau khi hiệu chỉnh xong, tôi đã đưa để Giáo sư Nguyễn Đình Chú duyệt lần cuối cùng. Nguyện vọng của tôi là chỉ muốn cung cấp cho bạn đọc một dịch bản Kim Vân Kiều truyện càng ít sai sót và càng gần với bản Nguyễn Du dùng để sáng tạo Đoạn trường tân thanh bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Tuy nhiên, mong muốn là một chuyện, còn có đạt được mong muốn ấy không, lại là vấn để khác vì nó phụ thuộc vào tình hình tư liệu và trình độ của người hiệu chỉnh. Văn bản dùng dể hiệu chỉnh là Kim Văn Kiều truyện do Tiếu Hoa Hiên tàng bản. Dù có cố gắng bao nhiêu, tôi cũng biết rằng, khó tránh khỏi những thiếu sót. Mong được sự chỉ giáo của độc giả gần xa. Cuối cùng, có được bản Kim Vân Kiều truyện này là nhờ sự giúp đỡ của Giáo sư Nguyễn Đình Chú và nhà văn Siêu Hải - thân nhân của hai cố dịch giả Nguyễn Khắc Hanh, Nguyễn Đức Vân và Nhà xuất bản Đại học Sư phạm. Nhân đây xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó. Hà Nội, ngày 03 - 01 - 2000 Người hiệu chỉnh PGS.TS. NGUYỄN ĐẢNG NA *** Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc được Thanh Tâm Tài Nhân viết vào đời Thanh; truyện được mang sang nước ta từ lâu và Nguyễn Du đã mượn cốt truyện mà viết nên Truyện Kiều bằng chữ Nôm. Việc này là bình thường, nhất là khi tác phẩm viết sau lại nổi tiếng, hơn hẳn gốc ban đầu. Văn chương thế giới đã có nhiều trường hợp tương tự. Trường hợp thường được nhắc đến nhất là nhà soạn kịch tài danh của Pháp Corneille đã dùng Las  Mocedades del Cid của Guillen de Castro, người Tây Ban Nha để viết nên tuồng Le Cid rất nổi tiếng… Tiếp tục mạch bài về cách hiểu Truyện Kiều của Nguyễn Du, nhất là các đoạn được trích trong sách giáo khoa, hôm nay, Tòa soạn giới thiệu bài viết thứ 7 của thày giáo, nhà nghiên cứu Nguyễn Cẩm Xuyên về chủ đề này. Các bài viết này, không chỉ có giá trị tham khảo trong giảng dạy cho các thày cô giáo, mà còn là những góc nhìn, phân tích rất thú vị của riêng tác giả đối với tác phẩm bất hủ của đại thi hào Nguyễn Du. Trân trọng giới thiệu cùng độc giả. Ở nước ta Truyện Kiều được phổ biến rộng nên Kim Vân Kiều truyện cũng được các dịch giả chú ý dịch ra quốc ngữ; trước sau có đến khoảng 4, 5 bản dịch khác nhau: có lẽ bản dịch đầu tiên là của Hùng Sơn Nguyễn Duy Ngung do Phan Bá Cẩn xuất bản năm 1925, Tân Dân tái bản năm 1928, tiếp đến là bản dịch của Nguyễn Đức Vân và Nguyễn Khắc Hanh do Viện Văn học in ronéo năm 1962, NXB Hải Phòng tái bản năm 1994 và NXB Đại học Quốc gia Hà Nội năm 1999. Ở miền Nam, có bản dịch của Tô Nam Nguyễn Đình Diệm được Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa xuất bản năm 1971. Gần đây có Tình sử Vương Thuý Kiều (Phong Tình Cổ Lục) do Mộng Bình Sơn khảo dịch, NXB Văn học xuất bản năm 2000. Truyện Kiều đối chiếu của Phạm Đan Quế, NXB Hà Nội xuất bản năm 1991, NXB Hải Phòng tái bản năm 1999… *** Thanh Tâm Tài Nhân (青心才人) sống vào đời nhà Minh. Ông quê ở huyện Sơn Âm, tỉnh Chiết Giang, học giỏi, hiểu biết rộng, nhưng đi thi không đỗ, bèn làm mặc khách của Hồ Tông Hiến. Sinh thời đã có lần Thanh Tâm Tài Nhân thảo tờ biểu "Dâng hươu trắng" cho vua nên trở thành nổi tiếng. Ngoài tác phẩm chính Kim Vân Kiều truyện, ông còn có loạt kịch Tứ thanh viên (Vượn kêu bốn tiếng) gồm 4 vở kịch: Ngư dương lộng, Thúy nương mộng, Hoa mộc lan và Nữ trạng nguyên. Mời các bạn đón đọc Kim Vân Kiều Truyện của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân.
Trả Hoa Hồng Cho Đất
Trả hoa hồng cho đất của Nguyễn Thị Diệp Mai là 1 trong 2 tác phẩm đoạt giải B (không có giải A) cùng với Trên đồi cao chăn bầy thiên sứ của Nguyễn Ngọc Thuần tại cuộc thi "Sáng tác văn học cho tuổi trẻ" lần 2 của Nhà xuất bản Thanh Niên (2002 -2004). Trả hoa hồng cho đất của Nguyễn Thị Diệp Mai đầy ắp kỷ niệm, chứa chan tình người. Đấy là câu chuyện tình cảm của những thanh niên trẻ quê ở Kiên Giang nhưng đã sống quãng đời đẹp nhất ở đất Hà thành với nhiều mâu thuẫn, xung đột đan cài ngẫu nhiên, bất ngờ. Có lẽ vì vậy mà tiểu thuyết còn nặng trĩu sự khắc khoải, nhớ thương. Sóng gió của tuổi trẻ trôi qua như một giấc mơ, trong đó có những cơn ác mộng đã đẩy con người xuống tận địa ngục. Và người phải chịu đựng nhiều nhất là Vy – một cô gái có “nét là lạ ưa nhìn”, sống cá tính và luôn hết lòng vì người khác. Không phải ngẫu nhiên mà Vy thường viết câu thơ “Nếu không còn yêu anh. Hoa hồng kia xin trả về cho đất.”... Mộc mạc và tinh tế, Nguyễn Thị Diệp Mai đã thể hiện thành công khát vọng và những ngộ nhận trong tình cảm, tình yêu của những người trẻ tuổi. Mỗi nhân vật là một thế giới cực kỳ phức tạp, sống hết mình, yêu hết mình, tình yêu đích thực luôn ở bên mà hạnh phúc vẫn đến muộn. Câu chuyện không dài nhưng gợi cảm giác man mác, buồn vui như trải ra vô tận bởi nhiều người dễ tìm thấy một phần mình trong đó... *** R ạch Giá, Mùng một Tết Vy đang sửa lại bình hoa trên bàn, chuẩn bị bánh kẹo để đón những người bạn đầu tiên đến nhà ngày đầu năm mới. Vy vừa thò tay định mở hộp bóc kẹo ăn thì nghe tiếng cô em út la lên: - Chị Hai không được ăn, phải để khách mở trước! - Cái gì mà ghê vậy? – Vy nhăn mặt. – Thì hồi nãy chị bóc kẹo bỏ ra hộp chứ ai. - Không được ăn là không được ăn. Chị mà ăn thì cả năm sẽ không có ai đến thăm nhà mình đâu. – Con bé lắc đầu cương quyết. – Xui lắm! Vy phì cười: - Không đến thì đỡ tốn chứ gì mà xui? - Tại chị không biết thôi. Chị đi biền biệt, mỗi ngày cha mẹ đi làm tới tối mới về. Chỉ có em và chị Mỹ thay phiên nhau vừa đi học vừa giữ nhà.. Ở nhà một mình buồn thấy mồ, lâu lâu có khách đến chơi cũng vui. Nghe My nói, Vy thấy thương em quá. Ở nhà, hai đứa nhỏ đã gánh giùm cô bao công việc gia đình để cô có thể yên tâm xa nhà suốt bốn năm học đại học. Bây giờ mới học được một năm rưỡi mà cô đã thấy hai đứa em mình đã trưởng thành hẳn. Gia đình công chức, cha mẹ đi làm ngày tám tiếng, tối còn phải làm them. Hai đứa em của Vy chịu thương chịu khó chăm lo vườn tược, heo gà giúp cha mẹ. Vy không biết làm sao để đỡ gánh nặng cho hai em. Một năm cô đã mất hết mười tháng ở Hà Nội, thời gian được ở nhà quá ít ỏi. Về nhà Vy chỉ còn biết cố làm tất cả những gì có thể để cha mẹ và hai em cảm thấy vui. Vy cười khì bỏ viên kẹo trở vào hộp: - Không cho ăn thì thôi! Trời đất, ai tô son cho My vậy? Son trèo hết ra ngoài vành môi rồi kìa. Thôi vô buồng bôi sạch đi chị ô lại cho! Cô bé chạy tuốt vô buồng, vừa soi gương vừa cãi nhau chí chóe với chị Mỹ của nó. Vy phẩy tay kêu trời. Mùng Một Tết mà đã cãi nhau rồi, thật là không ra thể thống gì nữa! Cô đành đứng dậy đi vàô buồng dàn xếp cuộc đấu khẩu. Vy lấy khăn giấy lau hết son trên môi bé My rồi chọn màu son nhạt tô lại. Mỹ cũng chụm vào xem. Vy vừa trang điểm xong cho em thì nghe có tiếng xe máy dừng trước cổng. Cô bảo hai em tự đi thay quần áo rồi ra mở cổng. Vy gật đầu chào người thanh niên dắt xe đi sau Uyên. Anh ta mỉm cười, gật đầu chào lại. Uyên nheo mắt nhìn hai người: - Ủa có quen không mà nhìn nhau cười tươi vậy? - Người chở chị đến thì chắc là bạn của chị rồi. Trước không quen thì sau cũng phải quen thôi. Uyên cười khì chỉ tay vào người thanh niên, giới thiệu: - Anh Huy. Còn đây là Vy mà em thường kể đó. - Anh Huy! – Vy tròn xoe mắt nhìn người khách lạ. Uyên nắm tay Vy kéo tuốt lên sa-lông, bỏ mặc người khách lạ tìm chỗ dựng xe. Uyên với tay lấy hộp bánh lên ngắm nghía rồi mở nắp hộp bốc một cái bánh bột đầu, đưa lên miệng. Vy ngồi quan sát người thanh niên. Anh có một kiểu cười khóe môi hơi nhếch lên nửa thân thiện, nửa lạnh lung ngạo mạn. Nụ cười đó đặt trên một gương mặt sạm nắng. Cằm hơi dài với đôi lông mày rậm nhíu ở đầu, đuôi mắt ẩn dưới đôi mày ấy. Khổ người to cao với mái tóc dợn sóng - dân của miền biển. Chiếc áo sơ-mi màu nâu nhạt với những đường sọc đên nhã nhặn, đi kèm với chiếc quần may đúng mốt. Huy có vẻ hơi trầm lặng và kín đáo. Bé My từ phòng trong ào ra mừng Uyên, tíu tít cười nói quên cả chào khách. Vy bảo em: - Đi vô trong làm mấy ly nước ngọt đãi khách đi! - Đợi em đi khuất, Vy phân bua. - Bé My xem chị Uyên như người nhà nên hay đùa giỡn lắm, anh Huy đừng phiền. - Đâu có gì mà phiiền, - Huy mỉm cười, - cô bé dễ thương lắm! - Còn em thì sao? – Uyên vừa nhai bánh vừa hỏi – Hai mươi mốt tuổi rồi em dự định gì đây Vy? - Xì, - Vy trề môi nguýt dài. – Hơn người ta chưa tới bốn tuổi mà ra vẻ quá vậy? Chị lo cho chị đi. Ăn nhiều tròn trùng trục coi chừng anh Huy chê bỏ đó. - Huy không bỏ chị đâu – Uyên đưa cho Huy một miếng mứt bí trắng muốt – Anh đâu bao giờ bỏ Uyên phải không anh? Mời các bạn đón đọc Trả Hoa Hồng Cho Đất của tác giả Nguyễn Thị Diệp Mai.
Những Năm Tháng Rực Rỡ
Cuốn truyện "Những tháng năm rực rỡ" kể về Ah Reum, cậu bé 17 tuổi mang vẻ già nua của ông lão 80 do mắc hội chứng lão hóa sớm. Ae Ran Kim, tốt nghiệp khoa Biên kịch Đại học Nghệ thuật quốc gia Seoul, chủ nhân của nhiều giải thưởng văn học Hàn Quốc danh giá như giải Lee Hyo-seok, giải Shin Dong-yeop, giải Lee Sang… Đặc biệt, năm 2005, tập truyện ngắn Bố ơi, chạy đi đã giúp Ae Ran Kim trở thành nhà văn trẻ nhất từng nhận giải thưởng văn học Hankook Ilbo uy tín đầy thuyết phục khi mới 25 tuổi và được đánh giá là cây viết trẻ tài năng của làng văn học Hàn Quốc. Các tác phẩm của Ae Ran Kim tập trung vào hình ảnh con người trong cuộc sống hiện đại, đưa ra cái nhìn mới mẻ về xu hướng thay đổi của xã hội, nhưng đủ khéo léo, thuyết phục và nhận được cảm tình của độc giả. Những tháng năm rực rỡ kể về một câu chuyện cảm động xoay quanh tình cảm, sự yêu thương giữa các thành viên trong gia đình kỳ lạ có bố mẹ trẻ nhất và đứa con già nhất hẳn cũng đã quen thuộc với các khán giả Việt Nam qua bộ phim cùng tên do Song Hye Kyo và Kang Dong Won thủ vai. Câu chuyện được dẫn dắt bởi giọng kể của Ah Reum, một cậu bé tuy mới 17 nhưng đã có hình hài của cụ ông 80. Những nỗi đau mà em và gia đình phải gánh chịu đôi khi được bộc lộ qua giọng văn ngây ngô và góc nhìn trong sáng, có lúc thốt lên những câu hỏi khiến người ta khó thốt nên lời. “Bố mẹ có tôi khi mới mười bảy tuổi. Năm nay tôi vừa tròn mười bảy. Cũng chẳng có cách nào để biết chắc tôi có thể lớn lên thành mười tám hay mười chín tuổi hay không. Điều đó không do chúng tôi định đoạt. Điều duy nhất chúng tôi biết, là thời gian không còn nhiều.” Ah Reum mang trong mình căn bệnh quái ác, em không biết liệu còn có thể đón sinh nhật tiếp theo. Nhưng trái tim yếu ớt chưa lúc nào thôi háo hức rộn ràng trước vẻ đẹp của cuộc sống, ngôn từ, tình cảm gia đình, cùng chút rung động đầu đời với “cô bạn” qua thư… Và cuộc sống, dẫu ngắn, dẫu dài, vẫn là những tháng năm rực rỡ trong quãng thời gian cậu "tồn tại". Nhìn những đứa trẻ bằng tuổi, cậu bé Ah Reum không khỏi chạnh lòng. “Những đứa trẻ cứ lớn nhanh như thổi. Còn tôi thì già đi trông thấy. Khoảng thời gian một tiếng với ai đó, đối với tôi như một ngày và một tháng đối với người khác lại là một năm với tôi. Bây giờ tôi còn già hơn cả bố tôi. Bố nhìn vào tôi để thấy được khuôn mặt lúc ông tám mươi tuổi. Còn tôi nhìn vào bố để bắt gặp hình ảnh khi tôi ba mươi tư. Có một sự đối lập, phản chiếu giữa một tương lai chưa đến và một quá khứ chưa qua. Tôi và bố tôi thường hỏi nhau rằng: Làm bố mẹ ở tuổi mười bảy có phù hợp hay không? Mất đứa con ở tuổi ba tư có phù hợp hay không?” Cha mẹ cậu dường như đâu đó trong tiềm thức vẫn mắc kẹt ở tuổi 17 lúc sinh ra cậu, nhưng chắc chắn họ biết cách yêu thương cậu hơn ai hết. Bố hỏi tôi rằng: “Nếu được sinh ra lần nữa thì con muốn trở thành gì?” Tôi đã dõng dạc trả lời: “Thưa bố, con muốn trở thành bố ạ.” Bố tôi hỏi tiếp: “Còn rất nhiều điều khác tốt hơn, tại sao con lại muốn là bố?” Tôi thoáng bối rối nhưng vẫn nói rằng: “Bởi vì con muốn biết tấm lòng của bố sau khi sinh con ra đời.” Bố tôi khóc. Tác phẩm Những tháng năm rực rỡ  từng lấy đi nước mắt của hàng triệu độc giả. Khi gấp lại cuốn sách, qua những lời tâm sự của nhân vật chính, bạn đọc sẽ quý trọng, thêm yêu cuộc sống của chính bản thân mình. *** Bố mẹ có tôi khi mới mười bảy tuổi. Năm nay tôi vừa tròn mười bảy. Cũng chẳng có cách nào biết chắc tôi có thể lớn lên thành mười tám hay mười chín tuổi hay không. Điều đó không do chúng tôi định đoạt. Điều duy nhất chúng tôi biết, là thời gian không còn nhiều. Những đứa trẻ cứ lớn nhanh như thổi. Còn tôi thì già đi trông thấy. Khoảng thời gian một tiếng với ai đó, đối với tôi như một ngày. Và một tháng đối với người khác lại là một năm với tôi. Bây giờ tôi còn già hơn cả bố tôi. Bố nhìn vào tôi để thấy khuôn mặt mình khi tám mươi tuổi. Còn tôi nhìn vào bố để tìm hình ảnh khi tôi ba mươi tư. Có một sự đối lập, phản chiếu giữa một tương lai chưa đến và một quá khứ chưa qua. Tôi và bố tôi thường hỏi nhau rằng: Làm bố mẹ ở tuổi mười bảy có phù hợp hay không? Mất đứa con ở tuổi ba mươi tư có phù hợp hay không? § Bố hỏi tôi rằng: “Nếu được sinh ra lần nữa thì con muốn trở thành gì?” Tôi đã dõng dạc trả lời: “Thưa bố, con muốn trở thành bố ạ.” Bố tôi hỏi tiếp: “Còn rất nhiều điều khác tốt hơn, tại sao con lại muốn là bố?” Tôi thoáng bối rối nhưng vẫn nói rằng: “Bởi vì con muốn biết tấm lòng của bố sau khi sinh con ra đời.” Bố tôi khóc. Và đây là câu chuyện về một cặp cha mẹ trẻ nhất và một đứa con già nhất. “Mỗi khi một ngọn gió thổi qua, vốn từ vựng ít ỏi trong tôi lại xáo trộn dữ dội. Giống như những chú cá bị hong khô trong chính làn gió biển mặn mòi, những từ ngữ đó khiến tôi thấy thể tích cơ thể mình như đang bị thu nhỏ lại giữa một không gian cứ rộng ra mãi. Hồi nhỏ, tôi hay tập viết lại tên các sự vật mà tôi học phát âm lần đầu. Đây là “tuyết”, kia là “đêm”, đằng xa là “cái cây”, dưới chân có “đất”, “tang sin”* nghĩa là “bạn”... Tôi tập làm quen với cuộc sống bằng âm thanh, rồi sau đó mới dần dần tập viết lại từng âm tiết một. Cho đến bây giờ, đôi khi tôi vẫn thấy ngạc nhiên rằng mình đã biết đến tên các sự vật theo cái cách như thế.” Thuở nhỏ, tôi nói ríu ran suốt cả ngày. “Mẹ ơi, cái này là cái gì thế ạ? Cái kia là cái gì hả mẹ?” Tôi cứ nói luôn miệng như vậy khiến mọi người xung quanh phải chóng mặt với tôi. Mọi cái tên đều trong sáng và nhẹ nhàng đến mức chẳng thể dính được vào sự vật. Và tôi thì cứ hỏi đi hỏi lại những điều hôm qua tôi đã nghe, hôm kia tôi đã học, như thể mới lần đầu tiên. Chỉ cần tôi đưa ngón tay lên chỉ, là những từ ngữ, những âm thanh lạ lùng đó lại đua nhau rớt ra khỏi miệng mọi người trong nhà tôi. Dường như khi tôi cất tiếng hỏi thì thứ gì đó sẽ chuyển động giống như là cảnh vật đung đưa trong gió vậy. Vì thế, tôi khá là thích thú câu hỏi: “Cái này là cái gì?” Thậm chí tôi còn thích câu hỏi này hơn cả câu trả lời của mọi người. “Bi” thì là mưa, “nat” thì là ban ngày, “yeo-rưm” thì là mùa hè... Mỗi ngày trôi qua tôi lại học được kha khá từ vựng. Có những từ tôi hay nhắc đến và cũng có những từ tôi chẳng sử dụng bao giờ. Người ta bảo rằng cứ gieo thứ gì xuống mặt đất thì ắt sẽ có cái gì đó khẽ cựa mình nhô lên như mầm cây. Khi tôi gọi “yeo-rưm” là mùa hè, dường như tôi có thể sở hữu nó. Tôi tin như vậy và còn hỏi nhiều hơn. Cái này gọi là “đất”, cái này gọi là “cây”, còn đây nữa là “bạn”... Cái này, cái kia, cái đó, mọi thứ cứ lặp đi lặp lại và chuyển động theo nhịp hơi thở của tôi. Nếu tôi phát âm từ “kư-keot” (cái đó), tôi cảm thấy một vòng tròn đồng tâm bắt đầu mở rộng ra từ âm thanh “cái đó”. Thỉnh thoảng tôi còn cảm thấy nó to lớn như thế giới của tôi vậy. Bây giờ tôi đã biết gần hết những từ cần thiết cho cuộc sống của tôi. Điều quan trọng nhất có lẽ là những từ đó đo đếm được độ rộng lớn của cái thế giới bên ngoài cứ ngày một thu nhỏ cơ thể của tôi. Khi nói từ “gió”, tôi mường tượng ra hàng nghìn phương hướng thay vì chỉ là bốn phương. Khi nói từ “phản bội”, tôi thấy mình như đang đuổi theo bóng cây thánh giá cứ đổ lúc một dài hơn dưới ánh hoàng hôn. Khi gọi tiếng “bạn”, tôi như đang thăm dò một vùng đất bằng phẳng, ẩn giấu chiều sâu thăm thẳm, tựa như có lớp tuyết phủ che lấp một khe hở sâu bên dưới. Dường như đó cũng là việc khó khăn nhất trên đời này. Gió vẫn cứ thổi như thế, và tôi, từ khi sinh ra chưa từng một lần được trẻ. Vậy nên, đương nhiên là những lời tôi nói cũng vậy thôi. Mời các bạn đón đọc Những Năm Tháng Rực Rỡ của tác giả Ae-ran Kim.