Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Pháo Hiệu Đỏ

Tác phẩm Pháo Hiệu Đỏ khắc họa tinh thần chiến đấu của những người lính Liên Xô trong cuộc chiến tranh Vệ quốc, thông qua một trận đánh chiếm trường học với quân Đức. Cuốn Pháo Hiệu Đỏ này gồm hai truyện vừa: Pháo hiệu đỏ Gia đình đại úy Đôrôkhin *** Lời tác giả Các bạn thân mến! Cuốn truyện vừa nhỏ bé này đã được viết vào lúc nghỉ ngơi giữa các trận đánh hồi cuối năm 1942: thời kỳ gian khổ của cuộc chiến tranh mà đất nước chúng tôi đã tiến hành để chống chủ nghĩa phát-xít Đức. Tôi đã phục vụ trong một sư đoàn đã tham gia phòng thủ Moskva, về sau sư đoàn ấy đã tham gia cuộc phản công của quân đội chúng tôi đánh đuổi bọn xâm lược Hitler. Trong truyện vừa này, tôi cố kể lại về chủ nghĩa anh hùng của những người lính Xô-viết đã chiến đấu trên những phòng tuyến ngoại thành Moskva. So với hồi bấy giờ thì trong truyện vừa này không có điều gì đặc biệt và khác thường cả, truyện này chỉ nêu lên việc xảy ra bình thường ngoài mặt trận. Trong những ngày ác liệt này, chủ nghĩa anh hùng của nhân dân Xô-viết ở ngoài tiền tuyến cũng như ở hậu phương là một biểu hiện chung của mọi người và ở khắp nơi; hồi đó, chiến công là tiêu chuẩn trong tư cách con người. Nhân dân Xô-viết thuộc mọi lứa tuổi, mọi nghề nghiệp đều đứng lên chiến đấu chống quân thù. Đảng cộng sản đã đoàn kết toàn dân – và chúng tôi đã chiến thắng! Tôi vô cùng sung sướng là cuốn sách này của tôi sẽ được các bạn đọc, tôi hy vọng như thế. Chúng tôi, những người Xô-viết, hiểu rất rõ thế nào là chiến tranh, chúng tôi nhớ lại mọi điều: những trận ném bom thường xảy ra, những đám cháy của thành thị, tình trạng tâm thần căng thẳng tột độ, những hy sinh, những mất mát họ hàng thân thích… Và vì thế, hỡi các bạn thân mến, chúng tôi rất khâm phục tinh thần dũng cảm của các bạn! Nhân loại sẽ không bao giờ quên chiến công huy hoàng của các bạn, những người Việt Nam gan dạ, tự hào và tha thiết yêu tự do. Còn kẻ thù của các bạn, kẻ thù độc ác trong nhiều năm ngập ngụa trong những tội ác đẫm máu, thì nhất định sẽ bị đánh bại. Cũng như chủ nghĩa phát-xít Đức đã bị đánh bại – điều đó thì không còn nghi ngờ gì nữa. Cuối cùng thì thắng lợi bao giờ cũng thuộc về chính nghĩa, tự do và dũng cảm. Hỡi các chiến sĩ Việt Nam, chúng tôi hết lòng ủng hộ các bạn! Georgy Beryozko *** Đúng 17 giờ 30, trung úy Gorbunov dẫn quân mở đợt tấn công, và để chấp hành mệnh lệnh, trung úy vừa chiến đấu, vừa lao vút đến rìa phía đông của làng. Một bộ phận những xạ thủ của anh đã nằm trong những chiến hào phủ băng mà bọn Đức bỏ lại. Gorbunov vừa bắn tiểu liên vừa chạy đến ngôi trường đen sẫm. Ngọn lửa chập chờn chiếu sáng gian phòng trống, ngổn ngang những gạch vỡ. Gorbunov dừng lại và ngừng bắn. Anh nghe ở phía sau lưng có tiếng chân nện thình thịch và hơi thở hồng hộc của những người đang chiến thắng. Các chiến sĩ dùng báng súng mở toang những cánh cửa và lần lượt chiếm lớp này đến lớp khác. Tiếng hô “xung phong” đã ngừng bặt, và trung úy cất cao giọng khản đặc ra lệnh bắn ba phát pháo hiệu trắng. Theo mệnh lệnh đã quy định thì đó là dấu hiệu chiến thắng của anh. Những chiếc pháo hiệu bay vút lên bầu trời, và bây giờ thì chính Gorbunov phải chờ tín hiệu. Pháo hiệu đỏ ở hướng tây-nam sẽ phải báo cho anh biết về cuộc tấn công chung đã bắt đầu. Gorbunov nhận được lệnh yểm hộ cuộc tấn công của nhóm quân chủ lực có nhiệm vụ đánh chiếm, còn sau đó thì sẽ hợp nhất với nhóm đó để tiêu diệt quân thù. Mệnh lệnh rõ ràng và ngắn gọn, như mọi mệnh lệnh xuất sắc khác. Các chiến sĩ bố trí trong trường học. Họ nạp lại đạn, làm huyên náo, ăn tuyết – một sự khích động lớn đang nung nấu trong lòng họ. Sức mạnh đáng sợ của lòng căm thù dữ dội đã làm cho họ vùng lên, và chỉ vừa mới đây thôi, họ đã chạy trên lũy đất băng giá được những ánh lửa chói lòa bùng lên soi sáng. Nảy sinh từ ý chí muốn sống, sức mạnh đó đã làm tiêu biến nỗi lo sợ chết, và giờ đây sức mạnh đó vẫn đang tìm lối thoát. Tròng trắng của những cặp mắt dữ tợn ánh ngời lên trên những khuôn mặt đen sạm và tím lại vì băng giá. Hơi tỏa ra từ những cái mồm mở rộng, bay lơ lửng trên đầu. Gorbunov đứng giữa lớp vừa thét vừa ra lệnh. Qua lỗ thủng to tướng trên tường do đạn đại bác đã xuyên qua, nom thấy rõ mảnh trời trăng dày đặc sương mù. Những viên đạn sáng rực vút bay trong không trung màu lam nhạt. Gorbunov đi đến gần lỗ thủng, áp mình vào tường và nhìn ra ngoài. Ở phía trước, khoảng chừng một trăm rưởi thước, bọn Đức đang ở trên bờ cao của dòng mương xói phân cách làng với trường học. Chúng ẩn nấp trong những ngôi nhà gỗ đen ngòm, phủ đầy tuyết; ở hầm nhà thì chúng đặt những khẩu đại liên. Những nòng súng không nom thấy từ đó chĩa thẳng đến trường học và các chiến hào… Đằng sau ngôi nhà đó, mờ mờ hiện lên một dải rừng xanh phủ tuyết, giống như một đám mây đen sa xuống. Ở phía ấy, trong lòng sâu của đám mây đen kia, đáng lẽ phải lóe sáng lên ánh chớp của mũi tấn công chủ lực, nhưng dải rừng lúc đó thật là yên tĩnh và bí ẩn. Thỉnh thoảng những chiếc pháo sáng treo lơ lửng trên hàng tiền duyên tuyến phòng ngự của địch. Ánh sáng không sinh khí tỏa xuống mương xói, và Gorbunov nom thấy rõ rệt ở đáy mương xói một thành giếng phủ đầy băng, những lối mòn in hằn trên tuyết, những xác chết đã biến dạng tựa hồ như những vết mực nhòe. Ở đằng xa trên chân trời, một cái ấp đang cháy. Ngọn lửa vàng khè, hầu như bất động, le lói sáng trong màn đêm sâu thẳm và giá lạnh của tiết tháng giêng. Gorbunov vuốt mặt, sờ thấy trên má một thỏi băng con. Anh rứt nó đi và cảm thấy ran rát đau. Té ra là khi tấn công, anh bị xây xát mặt mà không biết. Anh lấy lòng bàn tay thu nhặt tuyết có lẫn cả gạch và áp vào má. Tuyết nhanh chóng tan ra. Trung úy nhìn bàn tay vấy bẩn nước đen đen, nghĩ rằng cần phải băng má lại, nhưng ngay lập tức, anh đã quên bẵng điều đó. - Trung úy đâu? – một giọng khản đặc thét lên trong bóng tối. Gorbunov nhận ra Medvedovsky, tiểu đội trưởng. - Có chuyện gì thế hở? – trung úy thét lên và chỉ đến bây giờ anh mới nhận thấy là mình luôn mồm thét to, mặc dù chẳng cần phải thét nữa. - Báo cáo đồng chí trung úy, các chiến sĩ hỏi, cớ sao bọn ác ôn kia được ngồi trong nhà sưởi ấm, còn chúng ta thì giẫm chân trong băng giá. - Củng cố vị trí rồi chứ? – cố kìm mình, trung úy hỏi khẽ. - Báo cáo có! – tiểu đội trưởng gào to. - Việc gì anh phải thét lên thế? – Gorbunov nói. - Tôi không thét ạ! – tiểu đội trưởng gào to. - Củng cố rồi, thế là được! – Gorbunov đáp. Anh cảm thấy nóng và dựng những vành tai của chiếc mũ lông lên. Khí phách hiên ngang vừa vui vẻ vừa dữ dội lạ lùng vẫn còn sôi nổi trong tâm hồn anh. Trong giây lát, một ý nghĩ điên rồ thoáng hiện trong óc trung úy: không chờ tín hiệu, cứ dẫn quân tấn công đánh chiếm làng mà không cần sự chi viện của ai cả. Một cảm giác tinh nghịch đã thôi thúc anh, giống như cảm giác của con bạc gặp vận đỏ đang đặt món tiền cái tăng gấp đôi. Nhưng mệnh lệnh là mệnh lệnh, không lôi thôi gì cả; và hơn nữa với lực lượng nhỏ bé mà anh hiện có trong tay thì cuộc tấn công vào một vị trí đã được củng cố chắc chắn sẽ thất bại thảm hại. - Hãy quan sát, – trung úy nói. – Có lẽ là chúng ta sẽ sưởi ấm cho đến tảng sáng. Các chiến sĩ túm tụm lại. Trong góc, những chiếc áo dài ngụy trang của họ ánh lên màu trăng trắng. Sau giờ phút căng thẳng đến kiệt lực của trận tấn công, giờ đây mọi người đều muốn ăn và hút. Họ gặm lương khô, và những ánh lửa thuốc lá lập lòe trong bóng tối. - Nó xông vào tớ, – Lugovykh thét to, anh ta là một nông dân mặt chữ điền, râu ria xồm xoàm, quê ở Ngoại Ural, – nhưng chính cu cậu thì lại sợ quá nên khẩu súng trường run rẩy trong tay. Tất nhiên là tớ chẳng bỏ lỡ cơ hội… - Tớ lễ phép bảo nó: “Đồ chó đẻ, đầu hàng đi!” còn nó thì đưa tay lấy lựu đạn. Tớ liền nói: “Tùy ngài thôi…” Dvoeglazov không nói hết câu và nhún vai. - Cậu bắn chứ? – Lugovykh thét to. - Nếu kẻ thù không hàng thì người ta diệt nó, – Dvoeglazov nói. - Đúng thế! – Kochesov gào lên. – Tớ cũng làm như thế. Kochesov quê ở Baku, anh là một người xà ích có đôi vai rộng, vạm vỡ như ông hộ pháp, anh thở hồng hộc và chậm rãi đảo qua đảo lại cặp mắt tròn, tựa hồ như cặp mắt người say rượu. Vừa ngắt lời nhau vừa tranh nhau nói, các chiến sĩ kể lại trận đánh mà họ đã chiến đấu rất giỏi. Họ cảm thấy sung sướng vì họ còn sống và được thấy quân thù tháo chạy khỏi họ. Sự gần gũi của đồng đội giờ đây đã đem lại cho họ nỗi lòng khoan khoái rõ rệt. Việc cùng nhau chịu đựng nguy nan và cùng nhau vui hưởng thắng lợi đã xóa bỏ mọi điều không thích nhau giữa người này với người khác mà trong những hoàn cảnh khác thì có thể xảy ra. Vì bị kích động nhiều nên họ chửi rủa và đùa cợt lẫn nhau. Gorbunov gọi trung sĩ Rumyantsev đến chỗ mình. Một vệt xám rời khỏi tường và bò trên sàn. Trung sĩ đứng sau lưng Gorbunov. Ngoái lại, trung úy thấy khuôn mặt sạm đen với cái mũi hếch và đôi mắt ti hí tươi cười. - Cảm ơn, trung sĩ, – Gorbunov nói. – Anh không bị thương chứ? - Còn sống! – với một vẻ ngạc nhiên vui vẻ, Rumyantsev trả lời. Gorbunov mỉm cười nhìn trung sĩ. Chính anh ta, Rumyantsev, người đầu tiên len lén bò đến hầm súng máy, liệng vào đấy một quả lựu đạn, và khi bọn Đức sống sót chạy thục mạng, thì anh đã hét to đến nỗi mọi người đều nghe được: “Nào, các cậu ơi! Bọn phát-xít trong tay chúng ta rồi!” - Còn sống, – Gorbunov lặp lại, tỏ vẻ tán đồng, dường như chính điều đó là công lao chủ yếu của cá nhân trung sĩ. – Cừ lắm! Rumyantsev thích người chỉ huy của mình. Giờ đây anh đặc biệt khoái trá thấy nét mặt trông nghiêng của trung úy với gò má cao, cái mũi to và đôi môi mỏng. Trong sự nghiệp đầy nguy hiểm lớn lao ấy mà họ cùng nhau thực hiện, đời sống của mỗi người tùy thuộc không những vào sự khéo léo hay may mắn của cá nhân, mà còn vào điều những người khác đã xử sự và hành động như thế nào. Sau trận đánh thắng lợi, Rumyantsev cảm thấy một niềm tin vô hạn đối với trung úy. Anh cho là cái may mắn riêng của mình trong một chừng mực nào đó cũng là nhờ những hành động khéo léo của người chỉ huy. Anh lúng túng lặng thinh, không tìm được lời diễn đạt lòng biết ơn và khâm phục của anh. - Còn sống! – anh nhắc lại một lần nữa với giọng biết ơn. Trung úy giao cho một người chỉ huy cấp dưới của anh theo dõi xem ở hướng tây-nam pháo hiệu đỏ có xuất hiện không. Anh bảo Rumyantsev đi theo và ra đi xem xét trường học. Bước ra cửa thì hai người gặp Masha Ryzhova. - Chào đồng chí trung úy! – Masha nói khẽ, giọng hầu như là trẻ con. – Có gì mới không ạ? - Không, – Gorbunov nói. - Khó khăn lắm mới lần đến chỗ đồng chí được, – Masha nói. - Cô ta thì dù khó khăn đến mấy đi nữa, bao giờ cũng vẫn lần đến được cả! – Rumyantsev nói to. Cô gái thở dài, cất mũ và lắc đầu giũ làn tóc rối. Dưới ánh trăng lờ mờ, Gorbunov thấy khuôn mặt tròn trĩnh của cô với đôi mắt sâu trong bóng màu lam đẹp một cách lạ lùng. Cũng như mọi người trong đơn vị, anh tự hào về người nữ y tá của mình. Nhưng Masha là một cô gái trẻ măng, nên Gorbunov cho rằng anh có thể hỏi cô những điều mà không bao giờ anh hỏi người đàn ông. - Thế nào, chị đi đến đây có sợ không? – anh niềm nở nói. - Mọi người đều hỏi tôi như thế, – Masha nói. – Khoảng không quanh tôi thì rộng và nhiều, tôi chỉ chiếm một chỗ không lớn lắm ở trong đó. Thế thì vì sao đạn lại cứ phải nhất thiết trúng vào tôi? - Viên đạn là đồ ngốc, – trung úy âu yếm nói. - Đúng thế, – Rumyantsev bật cười. - Tôi chỉ phải băng cho ba người, – Masha nói. – Thiệt hại chỉ có thế thôi. - Ivanovsky thế nào? – trung úy hỏi. - Sẽ khỏi thôi, – Masha đáp. - Tội nghiệp, anh chàng thật không may, – Gorbunov nói. Chính trị viên Ivanovsky bị thương lúc mới bắt đầu tấn công. - Mệt kinh khủng, – Masha phàn nàn. - Thế thì chị hãy nghỉ đi, – trung úy nói. Gorbunov và Rumyantsev lần theo cầu thang bằng đá có tay vịn bị sập xuống, leo lên tầng hai. Trong gian phòng mà họ bước vào, có lẽ trước đây là thư viện của nhà trường. Sách nằm hàng đống trong góc, phủ đầy tuyết từ ngoài trời bay vào, Những tờ giấy bị xé ra nổi lên lờ mờ màu lam nhạt trên nền nhà đen thẫm. Gorbunov cúi xuống nhặt một quyển sách, Anh đọc trên trang bìa: – “Gogol. Taras Bulba”. Trung úy nhặt một quyển sách khác: “Jules Verne. Tám vạn dặm dưới nước”. - Sách hay đấy, – anh nói với Rumyantsev, rồi lấy tay áo phủi lớp sương muối trên bìa và để sách lại chỗ cũ. Trong khung cửa sổ hình chữ nhật tràn ngập ánh trăng, hai chiến sĩ đã đặt khẩu súng liên thanh. Chiếc bàn dài trắng xóa lạ thường vì bị phủ lớp sương muối. Gorbunov nói chuyện với các chiến sĩ, rồi đi tiếp. Trong một lớp học bên cạnh còn giữ được hai tấm các tông treo trên tường, trên đó có dán những tranh vẽ của học sinh. Trên một mẩu giấy con, có những chiếc phi cơ kỳ lạ đang bay; những bông hoa với tràng cân đối hướng về phía người xem. Những con người với những cặp chân quẹo đứng bên cạnh những ngôi nhà bé tí, đẹp đẽ, và mặt trời tua tủa những gai, hệt như một con nhím, chiếu sáng họ từ trên bầu trời quang mây. Sương muối bám trên những nếp cong của tờ giấy, trên những góc gãy của tấm các tông. - Thật giống hệt như cháu Lena nhà tôi đấy, – Rumyantsev thốt lên. – Con gái của tôi, cũng là nữ họa sĩ cơ đấy. - Chúng nó vẽ tuyệt thật! – Gorbunov nói tin tưởng. Anh đã hai mươi bốn tuổi, chưa vợ. Nhưng đứng trước những tranh vẽ mà trên đó có ghi tên họ của các tác giả theo đủ mọi hướng “Vitya Pogorelov, lớp II”, “Zoya Surovtseva, lớp I”, “Dusya Pyatakova, lớp I”, “S. G. Lukashin, lớp II”, “Nina Volkova, lớp II”, trung úy cảm thấy nếu anh không phải là bố của những đứa bé ấy, thì cũng là người anh cả của chúng. Anh khâm phục chúng, với tư cách một người bà con gần gũi nhất. Và với tư cách là một người bà con, anh cảm thấy rất hài lòng với ý nghĩ là chính anh cùng với các chiến sĩ của mình đã trả lại trường học cho bé Nina Volkova. Bọn Đức đã đuổi các em đi khỏi nơi này, đã phá phách thư viện và làm bẩn các lớp học, – còn trung úy, trong khi đánh đuổi bọn Đức đi, anh đã làm một công việc thật là thiêng liêng. Anh đã làm cho chính nghĩa được thắng lợi. Ý nghĩ đó nảy ra sau trận đánh, dường như là một phần thưởng vì đã trải qua những trận thử thách đầy gian khổ. Chính ngay trong trận chiến đấu, trong tiếng nổ ầm ầm của kim loại, trong đám khói thuốc súng thơm thơm, trong hoạt động căng thẳng đến tột độ, anh cảm thấy hình như chỉ có những cái gì đang diễn ra chung quanh mới có ý nghĩa mà thôi. Khi tiếng súng tiếng đạn đã ắng lặng thì tất cả những điều gì đã bị lãng quên giờ đây lại lơ mơ hiện ra trong trí nhớ, lần lượt điều nọ nối đuôi điều kia, dường như trở lại với cuộc sống, cuộc sống một lần nữa đã giữ gìn được. Gorbunov nhớ lại rằng anh làm nghề khí tượng và tốt nghiệp trường đại học một thời gian không lâu trước chiến tranh, rằng mẹ anh, Natalia Sergeevna Gorbunova, đang ở Saratov, rằng chị anh đã lấy chồng và em anh đi bộ đội. Anh buồn nhớ những đồng chí đã hy sinh trong chiến đấu và hỏi xem quân bưu đã đưa thư đến chưa. Anh thấy đói và phái người đi hỏi xem bao giờ thì người ta sẽ đưa cơm nước đến. Ý thức về ý nghĩa cao cả và tính chất chính nghĩa của cuộc chiến đấu mà anh đang tham gia, đã đem lại cho lòng anh một niềm kiêu hãnh tràn đầy. Cũng như mọi quân nhân khác, trung úy không đánh giá cao những người đàn ông ở lại hậu phương, nhưng thỉnh thoảng anh cũng thương hại nghĩ đến họ. Những người đó thì không bao giờ được biết nỗi hân hoan mà hiện giờ Gorbunov đang cảm thấy khi nhìn vào những tấm các tông của học sinh. Gorbunov đứng ngắm tranh vẽ trong vài giây, rồi nhanh nhẹn bước đi, dường như có một sức mạnh kỳ diệu nâng anh lên. Anh đi qua những chốn quê hương thân mến mới giành giật lại được trong tay quân cướp nước bằng một trận chiến đấu ác liệt. Anh cảm thấy mình là người bảo vệ cho những người yếu đuối – cho Gogol, Jules Verne, Nina Volkova, những người sẽ trở lại đây, theo sau các chiến sĩ của anh. Anh là một người đem lại hạnh phúc. Đi qua dãy hành lang ngổn ngang những bàn học, Gorbunov bước vào gian phòng có treo những giá trống không trên tường. Anh là người giải phóng, và ngọn gió chiến thắng đã thổi xốc anh tiến lên. Trung úy lấy chân đá mạnh vào cái ống của chiếc mặt nạ Đức đề phòng hơi độc, cái ống ấy chạm vào tường kêu loảng xoảng. Trong lớp rơm trải trên sàn, thấy lấp lánh sáng những vỏ đồ hộp. Cửa phòng bên cạnh đã đóng chặt, và trung úy mở toang cửa ra. Gian phòng ở góc tràn ngập ánh sáng xanh lam. Ngay đối diện cửa, một người cao, có râu, mặc áo vét-tông đen, đứng áp sát tường. Đầu của người đó ngoẹo ra sau, mặt ngửa lên, và hai mắt sợ hãi sáng lên nhìn chằm chằm những người đang đi vào. Gorbunov suýt nữa thì kêu lên: “Anh làm gì ở đây thế?”, nhưng nghẹn lời và nghiến chặt quai hàm. Hai chân không giày của người đó lơ lửng trên sàn. Một cái khung ảnh bằng gỗ dán có đường chạm trổ, nằm gọn trong bàn tay duỗi nắm chặt, chắc là nó bị giật ra trong giây phút giãy giụa cuối cùng của người đó để tìm chỗ bấu víu. Một sợi dây điện mảnh choàng qua cổ, chạy thẳng lên trần nhà. Các cửa sổ đều không có kính, và tuyết phủ lên tấm vải trải giường nhàu nát, lên bàn, lên áo của người bị xử giảo. Gorbunov và Rumyantsev tháo dây thòng lọng cho cái thi hài nặng nề, cứng đờ như một tấm gỗ, rồi khiêng đặt lên giường. - Chắc là thầy giáo… – Rumyantsev thốt lên. - Vâng, – trung úy nói. Trời bỗng sáng bật hẳn lên. Ngọn lửa xanh nhạt của chiếc đèn dù Đức chiếu sáng gian phòng. Tròng trắng lồi ra của cặp mắt đùng đục như thủy tinh trên mặt cụ già, lấp lánh lên, dường như trong giây lát sức sống đã sáng lên. Trong chiếc khung gỗ dán mà cụ giáo viên không muốn rời ra, có tấm ảnh một cô bé đeo hai chiếc nơ trên mái tóc. - Đồ quỷ sứ! – trung sĩ cau có lầu bầu. Hai người đi ra và lặng thinh bước xuống bậc cầu thang. - Chắc là cháu gái của cụ, – trung sĩ phỏng đoán. Gorbunov hình dung thấy cụ giáo viên già vùng vẫy đôi tay, quào bấu trên tường cố giữ cho thân hình không rơi vào cõi chết. - Có thể là thế, – trung úy nói lạnh lùng. Anh cảm thấy nghẹn lời, khó nói về cụ già bị hành hạ. Trong trận đánh gần đây, Gorbunov đã tự tay mình bắn chết một tên lính phát-xít. Nhớ lại điều đó, anh thấy nhẹ nhõm hơn trong lòng. Anh đi đến gần người quan sát đang đứng cạnh lỗ thủng ở tường. Chẳng hiểu vì sao Gorbunov cảm thấy là hình như ngay bây giờ anh sẽ ra lệnh tấn công. Anh khát khao được trả thù ngay lập tức, trả thù một cách đầy đủ. - Báo cáo đồng chí trung úy, không có pháo hiệu đỏ, – người quan sát báo cáo. - Anh xem kỹ rồi chứ? – Gorbunov hỏi. Và cả hai người nhìn về hướng tây-nam, về phía dải rừng xa xăm, phủ đầy tuyết, dải rừng bí ẩn và đen sẫm, giống như một đám mây dông. Mời các bạn đón đọc Pháo Hiệu Đỏ của tác giả Georgy Beryozko.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Câu Chuyện Dòng Sông - Hermann Hesse
Tất cả tác phẩm của Hermann Hesse đều nói lên niềm cô đơn tâm linh của con người thời đại, nỗi thao thức triền miên của những tâm hồn khát khao đi tìm một chân trời mới cho mình và nhất là những nỗ lực vô hạn để vươn lên mọi ràng buộc của thân phận làm người. Trọn tác phẩm của ông là lới thánh ca bay vút lên chín tầng trời, vọng lên nỗi đau đớn vô cùng của kiếp sống và lòng hướng vọng nghìn đời của con người... Câu chuyện dòng sông là cuốn tiểu thuyết mang tính cách ngôn của Hermann Hesse kể về hành trình tâm linh của một người Ấn Độ tên là Siddhartha trong thời đại của Tất-đạt-đa Cồ-đàm. Đây là tiểu thuyết thứ chín của Hesse, được viết bằng tiếng Đức, trong một ngôn ngữ đơn giản nhưng có vần điệu. Cuốn sách kể lại chuyện xảy ra ở Ấn Độ vào thời cổ đại vào khoảng thời gian của Phật (thế kỷ thứ 6 TCN). Truyện bắt đầu khi Siddhartha, con của một Brahmin, bỏ nhà ra đi để tham gia những nhà tu khổ hạnh cùng với người bạn thân là Govinda. Cả hai đều ra đi để tìm sự khai sáng. Siddhartha đã đi qua một chuỗi các thay đổi và tự nhận thức khi anh cố gắng đạt được mục đích này. *** Cạnh những con thuyền, dưới ánh nắng ven sông, trong bóng cây cổ thụ và trong khu rừng vàng nhạt, Tất Đạt, người con trai Bà La Môn đĩnh ngộ ấy đang lớn lên cùng bạn chàng là Thiện Hữu. Nắng nhuộm màu “bồ quân” đôi vai thon đẹp khi chàng tắm lễ “thánh tẩy”. Mắt chàng thoáng những nét trầm tư mỗi lúc chàng dạo chơi trong khu rừng xoài, khi nghe mẹ hát, trong những buổi học với cha, hay khi chuyện trò cùng những người thức giả. Tất Đạt từ lâu đã sớm dự phần trong các cuộc đàm luận của những bậc tri thức, thường tranh biện với Thiện Hữu và cùng bạn thực tập suy tư quán tưởng. Chàng có thể đọc tiếng “Om”* trong im lặng – nói tiếng ấy trong tâm khi thở vào và thở ra, với tất cả tâm hồn, vầng trán chàng chói ngời tia sáng trí tuệ. Cha chàng rất sung sướng vì con thông minh và khát khao hiểu biết. Ông tin tưởng chàng sẽ lớn lên thành một học giả, một mục sư, một hoàng tử trong giới Bà La Môn. Mẹ chàng đầy kiêu hãnh khi nhìn con đi, đứng, khoẻ mạnh, xinh đẹp, dẻo dai. Tất Đạt chào mẹ với một dáng điệu nho nhã. Và mỗi khi Tất Đạt dạo bước qua phố phường, với vầng trán cao, đôi mắt vương giả, dáng điệu thanh tao, thì những cô gái Bà La Môn bỗng nghe lòng rộn lên một niềm yêu thương rào rạt. Thiện Hữu bạn chàng, con một người Bà La Môn, yêu chàng hơn ai hết. Chàng yêu đôi mắt và giọng nói trong trẻo của Tất Đạt. Chàng yêu dáng đi của Tất Đạt, cử động của chàng. Chàng yêu tất cả những điều Tất Đạt làm và nói, và trên tất cả, chàng yêu kiến thức của Tất Đạt, những tư tưởng đẹp đẽ và đầy nhiệt tình, ý chí mạnh mẽ và thiên tính cao vời của chàng. Thiện Hữu biết rằng chàng trai kia sẽ không trở thành một người Bà La Môn tầm thường, một người hành lễ tế thần biếng nhác, một kẻ ham nói phù chú, một người hùng biện khoác lác, một mục sư xảo quyệt, hay chỉ một con chiên ngoan ngớ ngẩn giữa đàn chiên đông. Không, và chính chàng, Thiện Hữu cũng không muốn trở thành một Bà La Môn như trăm ngàn Bà La Môn khác. Chàng muốn theo Tất Đạt, con người khả ái tuyệt vời kia. Vì nếu Tất Đạt có ngày trở thành một vị chúa tể, nếu có một ngày chàng bước vào cõi quang minh, thì lúc ấy Thiện Hữu muốn theo chàng như bạn chàng, như người tôi tớ của chàng, như cái bóng của chàng. Mọi người đều yêu quí Tất Đạt như thế. Chàng làm cho họ vui vẻ hạnh phúc. Nhưng chính chàng, Tất Đạt, lại không hạnh phúc. Lúc lang thang dọc những con đường hồng trong vườn, khi ngồi trầm tư trong bóng xanh nhạt của cụm rừng, khi rửa đôi chân trong buổi thánh tẩy với tư thái đầy trang nghiêm, đâu đâu chàng cũng được mọi người quí trọng và là nguồn vui cho tất cả. Tuy thế thâm tâm chàng lại không được yên vui. Mộng ảo và những suy tư khắc khoải dồn vào tâm tưởng chàng từ khúc sông cuồn cuộn, từ những vì sao lấp lánh, từ ánh mặt trời chan hoà. Mộng tưởng và vọng động xâm chiếm chàng, dâng lên từ làn khói của những cuộc tế thần, phát ra từ những thánh thi tuôn tràn từ những giáo lý của các vị Bà La Môn. Tất Đạt bắt đầu thấy những hạt giống khổ đau trong chàng. Chàng bắt đầu cảm thấy tình thương của song thân cũng như tình thương của Thiện Hữu không thể cho chàng hạnh phúc bình an, không thể thoả mãn chàng. Chàng bắt đầu ngờ rằng phụ thân đáng kính của chàng và các sư phụ khác, những vị Bà La Môn thông thái đã truyền hết cho chàng những tri kiến của họ rồi, tất cả kiến thức của họ đã trút vào túi khôn của chàng rồi. Nhưng túi khôn không đầy, trí năng chàng không thoả mãn, linh hồn chàng không bình yên và con tim không an nghỉ. Nước tịnh thuỷ tắm hàng ngày thật tốt, nhưng đây cũng chỉ là nước, không thể rửa sạch tội lỗi, không làm vơi bớt khổ đau của tâm hồn. Những cuộc tế thần và khấn nguyện cùng Thượng đế thật là tuyệt diệu, nhưng đấy phải chăng là tất cả... Và thần linh ấy là gì... Có phải thật là đấng sáng tạo ra thế giới... Không phải rằng linh hồn duy nhất đã tạo ra vũ trụ hay sao... Và thần linh phải chăng là những hình thái được tạo dựng như tôi và người, những sinh vật phù du... Và như thế phải chăng rất nên dâng lễ cho các thần linh... Và ta phải dâng cúng lễ vật cho ai nữa, phải kính nể ai nữa nếu không phải thần linh. Linh hồn duy nhất... Và linh hồn ở đâu, trái tim bất diệt ở đâu, nếu không phải Tự ngã, trong phần thâm sâu, bất diệt mà mỗi người đều mang sẵn... Nhưng đâu là Tự ngã ấy, phần thâm sâu ấy... Đấy không phải là thịt xương, cũng không phải tư tưởng hay ý thức. Những người trí thức đều dạy chàng như thế. Vậy thì nó ở đâu... Đi tìm Tự ngã, Linh hồn ấy, có nơi nào khác đáng đặt chân không... Không ai chỉ đường, vì không ai biết, từ cha chàng, thầy chàng, những bậc thức giả cho đến những bài thánh thi. Những người Bà La Môn và những thánh kinh của họ biết hết về mọi sự, họ đã đi sâu vào mọi vấn đề - sự tạo thiên lập địa, nguồn gốc của ngôn ngữ, thức ăn, hơi thở vào, thở ra, sự sắp đặt của những giác quan, hành động của những thần linh. Họ thông thạo vô số vấn đề - nhưng có bỏ công không, nếu họ không thấu hiểu vấn đề quan trọng độc nhất... Mời các bạn đón đọc Câu Chuyện Dòng Sông của tác giả Hermann Hesse.
Phục Sinh - Lev Tolstoy
Phục sinh là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn người Nga Lev Tolstoy. Tác phẩm phản ánh con đường trăn trở đi tìm chân lý của tác giả, đồng thời cũng là một bản án kết tội chế độ nông nô và Giáo hội Nga. Phục Sinh là câu chuyện kể về tình yêu đầu đời nông nổi, bồng bột và không ít sai lầm của chàng quý tộc trẻ tuổi Nêkhliuđốp và cô hầu trong trắng, xinh đẹp Cachiusa. Thời gian trôi qua, cùng với sự xa cách và những suy nghĩ sai lệch, chàng Nêkhliuđốp  đã bỏ rơi Cachiusa tội nghiệp, đẩy cô vào kiếp sống long đong, vất vả và tù tội. Một lần, vô tình gặp lại người yêu cũ, trước tình cảnh của Cachiusa, chàng đã dằn vặt, đấu tranh và quyết định sẽ thay đổi cách sống. Chàng quan tâm, giúp đỡ đến mọi người, hết lòng bù đắp cho Cachiusa. Và cuối cùng, tình yêu của họ đã được phục sinh. Hãy sống tốt đẹp luôn quan tâm đến mọi người xung quanh và mang trong mình tình yêu, niềm tin tưởng...Đó chính là thông điệp mà tác phẩm muốn gửi tới bạn đọc. *** Dù cho mấy chục vạn con người chen chúc nhau trong một vùng chật hẹp, có tàn huỷ đến mấy mảnh đất họ đang giầy xéo dưới chân; dù cho họ có lấy đá lát kín đi để không một mầm non nào hòng trồi lên được; dù cho họ vặt kỳ hết từng ngọn cỏ mới nhú; dù cho họ phạt trụi cây cối đuổi hết chim muông, mặc, mùa xuân vẫn cứ là mùa xuân, ngay cả trong thành phố. Trời nắng ấm, cỏ sống lại mọc xanh rờn ở khắp những nơi không bị giẫy, chẳng riêng gì ở các thảm ven đại lộ, mà cả trong kẽ những tấm đá lát mặt đường. Những cây phong, cây dương, cây anh đào vươn ra những chùm lá thơm tho, bóng nhẫy, những cây bồ đề, búp nõn cương lên chỉ những muốn trổ mầm. Quạ, sẻ, bồ câu gặp tiết xuân về, lại ríu rít làm tổ; đàn ruồi, được hơi nắng ấm, vo ve bay nhộn trên các đầu tường. Tất cả đều hớn hở, tươi vui, từ cây cỏ, chim chóc, sâu bọ đến trẻ con. Duy chỉ có người ta - những người lớn, những người đã trưởng thành mà vẫn cứ dối mình, lừa người, làm tội thân mình và hành hạ người khác. Cái buổi sáng mùa xuân kia, cái đẹp thần tiên Trời ban cho muôn loài kia, cái đẹp nhủ ta quay về với thuận hoà, tương thân tương ái kia, họ không coi là thiêng liêng và trọng đại. Cái họ coi là thiêng liêng và trọng đại lại là những trò họ bày ra để đè đầu cưỡi cổ lẫn nhau. Tại phòng giấy nhà lao một tỉnh lỵ kia cũng vậy, cái được coi là thiêng liêng và trọng đại không phải là niềm vui tươi trìu mến Chúa xuân ban cho muôn vật và con người, mà lại là việc họ mới nhận được chập tối hôm qua một tờ trát có ghi số, có tiêu đề, có đóng dấu son, tờ trát đòi vào hồi chín giờ sáng hôm nay, 28 tháng Tư, phải áp giải lên toà ba bị can hậu cứu - một nam, hai nữ; trong hai người phụ nữ, một bị coi là phạm tội nặng, cần phải áp giải riêng. Và đây, theo đúng lệnh đó, hồi tám giờ sáng ngày 28 tháng Tư, viên quản ngục bước vào dãy hành lang tối tăm, hôi hám của khu giam phụ nữ. Theo sau lão là một người đàn bà mặt mày tiều tuỵ, tóc quăn đã bạc, mặc áo chẽn, ống tay có đính lon, lưng thắt đai viền xanh. Đó là mụ cai ngục. ... Mời các bạn đón đọc Phục Sinh của tác giả Lev Tolstoy.
Ông Trùm Texas - Diana Palmer
Leslie Murry, một cô gái xinh xắn nhưng luôn nhút nhát. Cô ngại tiếp xúc với mọi người, đặc biệt là đàn ông, bởi trong quá khứ của cô đã từng tồn tại một bóng ma đáng sợ. Khi còn là vị thành niên, cô suýt nữa đã bị người tình của mẹ cô làm hại. Người đàn ông thân thiết mà không làm cho cô có cảm giác sợ hãi chính là Ed, người bạn thân của cô. Khi đang học đại học năm thứ hai, Leslie đã bỏ ngang việc học của mình để làm trợ lý luật sư tại công ty luật của cha Ed, sau đó cũng nhờ Ed mà Leslie mới được nhận vào làm trợ lý công ty Caldwell danh tiếng. Ông chủ là anh họ cậu - Matt Caldwell. Matt Caldwell không có ấn tượng tốt về Leslie. Anh nghĩ rằng cô đã lợi dụng em họ anh vì thế anh luôn có thành kiến với cô. Cũng chính vì những thành kiến đó mà Matt đã thường xuyên để ý đến Leslie và không biết từ lúc nào anh đã bị thu hút bởi cô gái xinh xắn vừa nhút nhát lại vừa mạnh mẽ này. Thế nhưng bóng ma tâm lý quá khứ vẫn luôn bám riết lấy Leslie, cô tưởng chừng như không thể chấp nhận anh và luôn tìm cách né tránh anh. Đứng trước sự “trốn chạy” của Leslie, Matt sẽ làm gì để “bắt” được cô? Anh sẽ làm thế nào để giúp cô thoát khỏi những ám ảnh đen tối của quá khứ kia? *** Người đàn ông ngồi trên lưng ngựa có cốt cách phong nhã và thanh thoát khiến cô gái trẻ nhìn không chớp mắt. Anh ta đang quan sát đám súc vật được dồn về trại nơi mà người bạn đi cùng đưa cô đi xem. Theo tiêu chuẩn của Texas, trại nuôi này tương đối nhỏ, nhưng so với các trại khác trong toàn vùng Jacobsville thì nó đủ lớn để đưa chủ nhân của mình lọt vào danh sách mười người có trang trại lớn nhất. “Bụi quá hả?”, Ed Caldwell hỏi kèm theo tiếng cười thầm, không biết rằng người đi ngựa đằng sau bị mất hút trong đám bụi tung mù mịt. “Tớ mừng vì mình làm việc ở công ty chứ không phải ở đây. Tớ thích không khí xung quanh phải sạch sẽ và mát mẻ.” Leslie Murry mỉm cười. Cô không xinh đẹp. Khuôn mặt bình thường, không có nét gì đặc biệt, tóc vàng lượn sóng tự nhiên và đôi mắt màu xanh xám. Ngoài vóc dáng mảnh dẻ, Leslie còn có khuôn miệng trễ nải đáng yêu. Thời gian gần đây cô trở nên rất lặng lẽ, gần như thu mình lại với mọi thứ xung quanh. Mà cô vốn đâu phải như vậy. Thời niên thiếu, Leslie luôn tươi vui và dễ bắt chuyện, lúc nào cũng có thể cuốn được đám bạn theo những trò vui của mình. Giờ mới đang ở tuổi hai mươi ba nhưng cô đã trầm tĩnh như một người đàn bà có chồng. Sự thay đổi đó nơi Leslie đã khiến không ít người từng biết cô lấy làm sửng sốt. Cô quen biết Ed từ hồi còn học đại học ở Houston. Cậu tốt nghiệp lúc cô đang học năm hai, và cô bỏ ngang việc học của mình để làm trợ lý luật sư tại công ty luật của cha cậu. Mọi thứ ở đây trở nên quá phức tạp và Ed một lần nữa ra tay cứu nguy. Thực ra là nhờ Ed cô mới được nhận vào làm trợ lý công ty Caldwell danh tiếng vì tầm cỡ rộng lớn của nó. Ông chủ là anh họ cậu. Leslie chưa từng gặp Mather Gilbert Caldwell, hay Matt như dân trong vùng vẫn thường hay gọi. Nghe thiên hạ bảo anh ta tử tế và dễ chịu với những kẻ yếu thế hơn mình hay tầng lớp bị hiếp đáp. Thực ra, Ed vẫn thường tự nhủ như thế. Hai người cất công đến tận đây để Ed có thể giới thiệu Leslie với ông chủ tập đoàn. Nhưng cho đến lúc này những gì họ trông thấy chỉ là đám bụi mịt mù, lũ gia súc và toán cao bồi đang cật lực làm việc. ... Mời các bạn đón đọc Ông Trùm Texas (Long, Tall Texans #22) của tác giả Diana Palmer.
Nơi Trú Ẩn - Kathi Appelt
Lọt vào vòng chung kết giải sách quốc gia Mỹ và là cuốn sách đáng chú ý hiệp hội thư viện Mỹ, Nơi trú ẩn tuy không phải là một tác phẩm dễ đọc ngay từ đầu, nhưng càng kiên nhẫn đọc thì ta càng bị lôi cuốn và mê đắm với những áng văn trữ tình, với những tình huống gay cấn, những tình tiết mang tính huyền thoại được kể theo trí tưởng tượng kì lạ của tuổi trẻ với một nền tảng vững chắc đậm phong cách Mỹ và được bố cục như cách xây dựng và sắp xếp mỗi phân cảnh trong điện ảnh. “Nối tiếp theo cuốn Tuck Everlasting của Natalie Babbitt như một bản sách hiếm hoi về trí tưởng tượng kì lạ của tuổi trẻ với một nền tảng vững chắc đậm phong cách Mỹ.”- Tạp chí Booklist “Một câu chuyện thần kì về sự phản bội, trả thù, tình yêu và sự quan trọng của việc giữ lời hứa.” – Kirkus Reviews “Hiếm khi nào mà tôi đọc hết một cuốn sách khiến cho tôi phải nín thở, nó nhắc tôi nhớ lại vì sao mình mong muốn trở thành một nhà văn… Một cuốn sách kinh điển.” – Alison McGhee, tác giả cuốn Someday nằm trong danh sách bán chạy nhất của New York Times *** Nơi trú ẩn là tác phẩm đầu tay của nhà văn Kathi Appelt kể về câu chuyện đầy chất sử thi và vô cùng cảm động trong thế giới của loài vật. Một con mèo tam thể đang mang thai gần đến ngày sinh, nghe thấy tiếng tru cô đơn buồn bã của một con chó săn bị xiềng xích, bèn lần tìm đến. Sự thiếu vắng yêu thương đã khiến chúng tự động xích lại với nhau, hình thành nên một gia đình nhỏ, sống trú mình dưới sàn nhà để tránh gã chủ tàn bạo có thể bắt lũ mèo con làm mồi nhử cá sấu. Gia đình ấy sẽ cứ bình yên như thế nếu không có khoảnh khắc hiếu kì của một chú mèo con, trong một lần mạo hiểm bước ra ngoài khoảng sân, đã tạo nên một chuỗi biến cố lạ lùng, khác thường làm thay đổi số phận các nhân vật. *** Một con mèo tam thể đang mang thai gần đến ngày sinh, nghe thấy tiếng tru buồn bã cô đơn của một con chó săn bị xích ở một nơi tù túng gần con sông nhánh bèn lần đi tìm. Khi chúng gặp nhau, con mèo mẹ tam thể và con chó săn Ranger, đã nhanh chóng nảy sinh một mối quan hệ kì lạ được hình thành trong cảnh cô đơn và được sưởi ấm bởi một tình yêu mãnh liệt. Chúng đã trở thành một gia đình sau khi mấy chú mèo con được sinh ra, và Ranger khuyên mèo mẹ hãy ở lại bên dưới Gầm sàn để nuôi nấng Sabine và Puck, bởi vì Gar Face, gã đàn ông độc ác sống trong căn nhà, chắc chắn sẽ bắt nó hoặc là những đứa con của nó để làm mồi nhử cá sấu một khi gã trông thấy chúng. Chúng sẽ được an toàn bên dưới Gầm sàn... miễn là chúng chịu ở yên nơi đó. Tuy nhiên trong một khoảnh khắc hiếu kì, một con mèo con đã bắt đầu một chuỗi những biến động xảy ra khắp con sông nhánh và đem quá khứ trở lại để gắn kết cùng với hiện tại theo những cách thức lạ thường. Kế thừa truyền thống của Marjorie Kinnan Rawlings, Flannery, Connor và Carson McCullers, với quyển sách.Nơi trú ẩn, Kathi Appelt đã dệt nên một câu chuyện đau buồn nhưng ngọt ngào tràn đầy những đề tài hấp dẫn như quyền năng của tình yêu (và cả sự thù hận), sự mong manh của hạnh phúc và tầm quan trọng của việc giữ lời hứa.cuốn tiểu thuyết rất cảm động dành cho bạn.   Mời các bạn đón đọc Nơi Trú Ẩn của tác giả Kathi Appelt.