Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thạch Trụ Huyết - Nguyễn Trần Bé

Dưới ngòi bút của nhà văn Nguyễn Trần Bé cuộc đời của bạo chúa khát máu Sùng Chứ Đa hiện lên vừa đáng thương vừa đáng sợ, một minh chứng cụ thể về cơn mê quyền lực của con người. Nguyễn Trần Bé là nhà văn sở hữu lối viết rất đa dạng, từ bút ký đến thơ thiếu nhi ông đều có thể sáng tác. Văn chương của cây viết lão làng này thường mang tính phổ quát cao, dễ đọc, dễ tiếp nhận nhưng cũng vô cùng đẹp đẽ hướng tới cái chân, thiện, mỹ ở đời. Để hoàn thành tác phẩm Thạch trụ huyết, tác giả đã phải vất vả trong suốt bảy năm vừa viết vừa lao động, tìm hiểu, quan sát cuộc sống sinh hoạt của bà con đồng bào người Mông. Tác phẩm với cái tên ấn tượng này đã đem về cho ông giải ba trong cuộc thi viết tiểu thuyết lần thứ thứ tư của Hội Nhà văn Việt Nam. Thạch trụ huyết là câu chuyện kể về cuộc đời của tên bạo chúa Sùng Chứ Đa. Sinh thời hắn vốn là một chàng trai khôi ngô, tuấn tú, có tố chất trở thành thủ lĩnh thâu tóm một vùng thiên hạ. Nhưng người đời vẫn nói, trẻ sinh giờ thiêng hoặc thành kỳ nhân hoặc thành ác nhân. Chứ Đa là con của trời, nó có sự dũng cảm bản lĩnh hơn người nhưng cái ác trong máu cũng mạnh mẽ hơn bất kỳ ai. Ở nơi mù sương, xám đá này từ một thanh niên tay trắng mà hắn đã lập nên cả một cơ nghiệp với đội quân Đại Thạch khét tiếng chỉ bằng con đường điều chế và bán thuốc phiện. Người dân bị khủng bố tinh thần bằng bạo lực, bị tàn sát không thương tiếc. Nơi vó ngựa Chứ Đa đi qua cỏ không mọc nổi. Đỉnh điểm của sự tàn bạo độc tài ấy là việc tên bạo chúa cho xây dựng một cột trụ đá để hành hình những kẻ chống lại mình. Nạn nhân sẽ phải chịu đau đớn, giày vò cả thể xác lẫn tinh thần cho đến chết. Máu của kẻ xấu số tưới đẫm cột thành những mảng loang lổ như một con quái vật kỳ dị đang ngấu nghiến nuốt trọn con mồi. Nhưng ngồi trên tháp ngà tự phong Chứ Đa không hề hay biết một cuộc cách mạng đang âm thầm diễn ra và kẻ lãnh đạo lại chính là đám bạn thân thiết thủa hàn vi của hắn. Họ là Seo Lử, Mí Vư, Tháo Mỷ, A Pẩu… những người con chiến đấu vì nhân nghĩa, vì đạo làm người, giải thoát chúng sinh, bá tánh khỏi cảnh thống khổ, lầm than.   Truyền thống Đông phương thường khuyên con người ăn ở sao cho hợp lẽ đời, đừng tạo nghiệp để tránh tai ương. Giáo lý nhà Phật khuyên chúng ta hãy cố gắng tu tập hướng đến mục tiêu chính là cuộc sống hướng thiện, giải thoát, tự tại. Người nào đạt được những điều trên, kẻ ấy hạnh phúc nhất thế gian. Thật tiếc Chứ Đa lại nằm ngoài số đó. Vì thế dù cố gắng nhưng y cũng không thể kháng được mệnh trời. Khi cái ác bị đẩy lên tới tận cùng đương nhiên sẽ xuất hiện sự phản kháng, cách mạng. Bản chất dã man, thú tính của Chứ Đa được miêu tả sắc bén tới nỗi chính quân binh dưới trướng cũng không thể chịu nổi. Họ đã bật khóc trong bất lực, vụng trộm giấu kín đi hàng nước mắt xót thương cho những kiếp người bị bạo chúa hành hình. Bằng một lối viết nặng miêu tả, tác giả khéo léo dẫn dắt, xuyên suốt các sự kiện khiến người đọc bị thuyết phục. Thiện ác đối đầu, không một chi tiết thừa thãi, tạo cho mạch chuyện một sự chắc chắn, hoàn chỉnh về thuyết nhân quả cõi đời. Bên cạnh đó nội tâm của các nhân vật cũng được phơi bày, đặc tả kỹ càng, tường tận nhất có thể. Nếu như Sùng Chứ Đa làm người đọc kinh hãi, căm hờn bằng những hành động không thể dung thứ thì cái tình, cái lý, sự đùm bọc nơi chốn hoang vu giữa người với người lại khiến độc giả cảm thấy ấm lòng mà rưng rưng nước mắt. Cái thiện vẫn chưa bị tận diệt, luôn song hành chờ ngày phản kháng. Seo Lử được tạo ra như một thế đối trọng với Chứ Đa, không quá lời nếu ví chàng trai Mông này sống trọng tình như Lưu Bị trong Tam Quốc diễn nghĩa. Cũng chính sức mạnh ấy mà anh được buôn làng tin theo, cầm vũ khí cùng Seo Lử chống lại kẻ thù. Trong Thạch trụ huyết không có ai là kẻ ác mãi mãi. Tác giả đã thể hiện góc nhìn nhân đạo với tất cả các nhân vật từ đó để cho họ một đường lùi để cải tà quy chính. Đọc văn mà như thấy được khuyên răn, tự nhủ trong lòng sống tốt, đời sẽ không đãi bạc người lành. Thạch trụ huyết miêu tả khá nhiều về các trận đánh của Chứ Đa. Một yếu tố khiến cuốn tiểu thuyết trở nên đáng đọc. Tài cầm quân và đầu óc đầy tham vọng, mưu lược đã giúp hắn chiếm được hết các vùng đất, bày binh bố trận không thua kém mưu sĩ năm xưa. Vậy tại sao một kẻ tài giỏi như vậy lại sa ngã, lầm lạc? Đây sẽ câu hỏi khiến người đọc phải suy nghĩ, thậm chí là ám ảnh để rút ra câu trả lời của riêng mình. Những thứ Chứ Đa hướng tới như tài sản, quyền lực, thuốc phiện chỉ là phù du hư ảo, một ngọn lửa thiêu sẽ xóa sạch mọi sự tồn tại của y. Hắn đã ỷ vào sức mạnh để hà hiếp chèn ép mọi người mà quên đi con người thật của mình, mặc cho chất độc gặm nhấm, mục nát tận bên sâu trong tâm hồn. Một hồi chuông cảnh tỉnh cho ai đang sa đà, u mê. Nếu tất cả chỉ lo làm giàu về của cải vật chất mà sống không có đạo đức thì sẽ tạo ra mầm họa lớn cho xã hội. *** Tác giả Nguyễn Trần Bé sinh năm 1960 tại Hoa Lư, Ninh Bình. Từ những năm 1980 ông tham gia sáng tác văn học (viết truyện ngắn, kịch bản, ký và thơ). Thời kỳ đầu chủ yếu cộng tác với Báo Tân Trào (Hội VHNT Tuyên Quang) và báo Tuyên Quang; đồng thời có gửi tác phẩm cho một số báo khác của Trung ương.  Ông có khá nhiều tác phẩm được đăng trên các báo và đọc trên Chương trình Văn nghệ của Đài Tiếng nói Việt Nam. Nổi bật là các tác phẩm: Xanh mướt đồng ngô, Hương của đất (bút ký), Tạo vốn ăn chơi, Em và tôi (truyện ngắn); Mẹ không cô đơn, Thơ viết ở vùng chè (thơ), Sự tích rùa vỡ mai, Nỗi oan của chim sâu (thơ thiếu nhi)… đăng trên báo Tân Trào; Hoa hướng dương (truyện ngắn) đăng trên báo Tiền Phong; Dòng sông có một chuyện tình (truyện ngắn) đăng trên tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam... Một số tác phẩm nổi bật của ông được chọn in trong các tuyển tập; có truyện được trích đưa vào sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2… *** Đã nhiều đêm già làng Nỏ Pó trăn trở không sao ngủ được. Ông già lắm rồi, sướng khổ đã có đủ. Nhưng ông chưa thể thanh thản an hưởng tuổi già vì còn có một chuyện vướng bận trong lòng. Thâm tâm ông nghĩ, việc này mà không lo xong thì không thể nào yên tâm nhắm mắt. Nghĩ đến đấy già làng Nỏ Pó vùng dậy, với cây gậy song đã nhẵn bóng, in đậm dấu tay, lật đật chống sang nhà Seo Lử. Ông đi xiêu vẹo, chuệnh choạng, chốc chốc lại phải đưa tay ôm ngực để nén cơn ho. - Hầy dà, cái chân không muốn bước nữa rồi! - Nỏ Pó buông cây gậy ngồi phệt xuống vệ đường đầy đá xám để nghỉ lấy lại sức. Ông đưa mắt nhìn về phía cái cột đá gớm ghê đã từng là nỗi ám ảnh của biết bao gia đình ở cái thung lũng đá Sủng Pả này. Cứ nghĩ đến những chuyện bà con trong bản kể về cái cột đá làm hại dân lành một cách nửa hư, nửa thực ông lại thở dài. Như có một sức mạnh vô hình, già làng Nỏ Pó cầm gậy đứng lên, bước xăm xăm về phía ngôi nhà tộc trưởng Seo Lử. Seo Lử nhìn thấy già làng từ xa, vội chạy xuống đón. Đưa đôi tay rắn chắc đỡ vị già làng đáng kính, Seo Lử bảo: - Sao già không cho người nhà gọi tôi đến mà phải tự đi cho khổ? - Chuyện này chưa xong thì không thể để lộ ra ngoài được! - Già làng Nỏ Pó nói trong tiếng thở dốc. Seo Lử dìu ông già chậm chạp bước vào nhà, mời ngồi lên chiếc phản gỗ đen bóng. Seo Lử vào buồng trong bê ra một bình rượu ngâm cao xương dê núi và rễ cây thuốc, rót ra hai chiếc chén làm bằng ống tre. - Mời già chén rượu quí! - Seo Lử thân mật đưa chén rượu tre cho Nỏ Pó. - Hầy dà! Rượu ngon đấy, mới ngửi đã thấy thơm, thấy say rồi! - Rượu này ngâm cao xương dê núi, cùng mấy chục loại rễ cây thuốc quý và các hương liệu ở núi đá Sủng Pả đấy già ạ. Người già uống vào khoẻ ra nhiều lắm. Sau vài tuần rượu, đến khi đã lâng lâng, Nỏ Pó nói với Seo Lử: - Seo Lử à, cái cột đá vẫn ác quá! Chủ nhân của nó chẳng còn nữa mà sao nó vẫn cứ làm hại dân lành? Già nghe dân bản kể, người chửa đi qua cái cột đá ấy bị sảy thai; trai gái yêu nhau đi qua cột đá sẽ sinh ra ghét nhau rồi bỏ nhau; người làm nương đi qua cột đá thì cây ngô, cây đậu không sai quả, mẩy hạt; trâu, bò, dê, ngựa đi qua cột đá sẽ sinh bệnh mà chết!... - Già có tin vào những chuyện đó không? - Seo Lử hỏi. - Ta thấy thật khó tin. Nhưng dân bản lại bảo những chuyện đó là có thật. Và họ muốn đập bỏ cái cột đá khủng khiếp ấy. - Vậy ý già làng thế nào? - Theo ta, để dân bản không phải lo nghĩ nhiều thì tộc trưởng cứ cho người đập bỏ cái cột đá ấy đi. Già như ta mà nhìn thấy nó còn sợ, huống chi là dân bản! Ngẫm ngợi hồi lâu, Seo Lử nói: - Tôi cho rằng những chuyện đồn đại ấy là do nỗi ám ảnh từ cái cột đá sinh ra. Chừng nào cái cột đá ấy còn đứng đó thì những nỗi khiếp đảm sẽ còn ám ảnh trong tâm trí mọi người. Có lẽ cần phải kéo đổ nó xuống. Chỉ kéo đổ thôi, chứ không đập đi đâu. Cái cột đá ấy không có tội, bởi nó chỉ là cái thứ để những kẻ mặt người dạ thú thỏa mãn cơn tàn sát cuồng điên của chúng. Vì thế phải giữ cái cột đá ấy lại để chúng ta và con cháu đời sau luôn nhớ đến tội ác của bạo chúa Sùng Chứ Đa. Nhớ đến nó để mà sống tốt hơn, thương yêu nhau hơn. Phải thế không già? - Tộc trưởng nói phải lắm! Thế là già này yên tâm nhắm mắt được rồi! - Nỏ Pó cười một cách khó nhọc, đôi mắt mờ đục của ông rớm nước. ... Mời các bạn đón đọc Thạch Trụ Huyết của tác giả Nguyễn Trần Bé.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Quảng Trường Ngôi Sao - Patrick Modiano
QUẢNG TRƯỜNG NGÔI SAO ra mắt bạn đọc lúc Patrick Modiano mới 23 tuổi, đã gây tiếng vang khá lớn. Với lối hay xếp các nhà văn vào từng “phái”, có người đã từng xếp Modiano vào số “Những cây bút viết ngụ ngôn mới” (Les nouveau fabulistes). Modiano thuộc số những nhà văn biết cách rung động một công chúng khá rộng rãi bằng cách huy động những phương tiện rất tinh tế: sử dụng hồi ức, tạo những cuộc chạm trán bất ngờ giữa những sự việc diễn ra trong nội tâm và ngoài cuộc đời, bằng một giọng văn kín đáo. QUẢNG TRƯỜNG NGÔI SAO đã từng là sách bán chạy nhất trong nhiều năm liền, đến này vẫn được tái bản đều đặn, và được tặng giải thưởng văn học Roger Nimier 1968. TÁC PHẨM CỦA MODIANO   1968: Quảng trường Ngôi Sao - Giải thưởng Roger Nimier   1969: Tuần tra ban đêm   1972: Một tuổi trẻ   1972: Những đường phố ngoại vị - Giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp   1976: Biệt thự buồn - Giải các hiệu sách   1978: Phố của Những cửa hiệu u tối - Giải Goncourt   1985: Khu phố hẻo lánh   1986: Những Chủ nhật tháng Tám Mời các bạn đón đọc Quảng Trường Ngôi Sao của tác giả Patrick Modiano.
Phố Những Cửa Hiệu U Tối - Patrick Modiano
Sẽ chẳng bao giờ biết được Guy Roland đã tìm thấy gì ở số 2, phố Những Cửa hiệu U tối... Một địa chỉ tại Rome, địa chỉ cuối cùng, địa chỉ bí hiểm nhất trong số các địa chỉ mà người đàn ông mất trí này tìm đến. Guy Roland là nhân viên của một hãng thám tử tư do nam tước xứ Baltique Constantin von Hutte thành lập, von Hutte vừa nghỉ hưu. Guy Roland, trước thay đổi này, đã quyết định lần tìm về quá khứ để khám phá bí mật nhân thân mình. Anh vừa đoan chắc mình chính là “hậu duệ của một gia đình có tên hiển thị trên một vài cuốn Bottin thời lưu cũ” thì đã bị hướng ngay đến vết dấu của một Pedro McEvoy nào đó vốn là thư ký của một “tòa công sứ Nam Mỹ” từng sống trên phố Cambacérès, quận VIII Paris. Nhưng liệu đó có phải tên đi mượn của Jimmy Stern làm nghề môi giới và đã mất tích vào năm 1940 không? Và chuyện gì đã xảy đến với vợ anh, Denise Coudreuse, một người làm mẫu theo giờ, cũng cùng anh trốn đến Megève lánh nạn vì “Paris đang trở nên quá nguy hiểm”? Thoạt tiên, Guy Roland chỉ tiến hành điều tra trong thủ đô, rồi dần dà anh khôi phục được các mảnh ghép của cuộc sống trước đây của mình. Các mảnh ghép của một câu chuyện không chắc chắn cùng những nhân chứng tha hương, Freddie Howard de Luz, Oleg de Wrédé, Gay Orlow, Porfirio Rubirosa, André Wildmer, và những người khác. Các mảnh ghép của “một thời kỳ kỳ cục”, thời Chiếm đóng và săn lùng người Do Thái, lan đến tận Bora Bora, New York, Jouy-en-Josas, Vichy, và dĩ nhiên là Rome nữa. Phố những cửa hiệu u tối là cuốn tiểu thuyết thứ sáu của nhà văn Nobel 2014 Patrick Modiano, xuất bản năm 1978 và cùng năm đó được giải thưởng văn học Goncourt danh giá nhất nước Pháp. ***  Ta còn lại gì sau khi đã sống qua một đời? Vài bức ảnh ố vàng đựng trong mấy cái hộp bánh bích quy, đôi ba số điện thoại đã đổi chủ thuê bao, một nhúm chứng nhân đến lượt họ cũng tan như mây khói... rồi chẳng còn gì nữa, ta gần như không tồn tại. Nhưng liệu sống thì có ích gì khi ta không nhớ và nhớ thì có ích gì khi ta không sống? Những cuốn sách lớn, dù mỏng manh tới đâu, vẫn mang trong chúng một sức nặng ngầm ẩn. Phố những cửa hiệu u tối là một trong số đó.  Le Monde   - Một ngôn ngữ thoảng qua. Một sự giản đơn bí ẩn. Một thực tế hoàn toàn ảo mờ. Chỉ tài năng đặc biệt của Modiano mới có thể tạo ra được một Phố những cửa hiệu u tối  như thế. L’Express   Mời các bạn đón đọc Phố Những Cửa Hiệu U Tối của tác giả Patrick Modiano.
39 Manh mối tập 8: Mật Mã của Hoàng Đế - Gordon Korman
39 Manh mối là một bộ tiểu thuyết phiêu lưu được nhiều tác giả nổi tiếng của dòng fantasy cùng chắp bút. Qua từng cuốn sách, chúng ta sẽ cùng hai chị em Amy Cahill và Dan Cahill đến những đất nước khác nhau truy tìm 39 manh mối để sở hữu quyền lực vĩ đại nhất từng thấy. Bạn sẽ đắm mình vào cuộc phiêu lưu hồi hộp, tìm hiểu những câu chuyện hư hư thực thực về những con người nổi tiếng có trong phả hệ nhà Cahill như Benjamin Franklin, Mozart, hay Shakespeare... *Bộ sách còn được một số quốc gia đưa vào trò chơi trực tuyến với phần thưởng có giá trị. Mật Mã của Hoàng Đế là cuốn sách thứ tám trong bộ 39 Manh Mối, cuốn sách này được viết bởi Gordon Korman. Ông cũng là tác giả của tập 2 trong bộ sách này, Bí mật của Mozart. Sau cuộc tranh cãi nảy lửa với chị gái Amy, Dan bị nhà Kabra bắt cóc. Nellie và Amy đi tìm Dan, theo một Manh Mối dẫn dắt tới nhà leo núi thuộc nhà Tomas là George Mallory và vị Hoàng Đế cuối cùng của Trung Quốc. Đây là lần đầu tiên Amy và Dan tách khỏi nhau – làm sao chúng có thể tìm thấy nhau giữa một đất nước có hơn một tỷ người? Mời các bạn đón đọc 39 Manh mối tập 8: Mật Mã của Hoàng Đế của tác giả Gordon Korman.
Đỏ và Đen - Stendhal
Stendhal là người mở đầu cho trào lưu hiện thực phê phán trong Văn học Pháp, song ngoại trừ Honore de Dalzac, ông không được các nhà văn cùng thời đánh giá cao. Mặc dù vậy, trải bao biến thiên thời cuộc, đến nay, vị trí của người có "Giọng điệu cá biệt nhất trong văn học từ trước tới nay" (như nhận xét của Valery) ngày càng thêm vững chắc. Cuốn tiểu thuyết "Đỏ và đen" của Stendhal hiện vẫn là một trong những cuốn sách bán chạy tại nhiều nước trên thế giới (hiện ở Trung Quốc, nó đã xuất hiện với 8 bản dịch khác nhau). Gần đây, Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy cũng tiết lộ rằng, cuốn sách ưa thích nhất của ông chính là tiểu thuyết "Đỏ và đen" của Stendhal. Stendhal tên thật là Marie - Henri Beyle. Ông sinh ngày 23/1/1783 tại Grenoble, một thị trấn nằm ở miền Đông nước Pháp, cách biên giới Italia 100 km. Bởi mẹ mất sớm, bố có tư tưởng bảo thủ, ngay từ nhỏ, ông đã được giao phó cho một linh mục Gia tô kèm cặp. Chính sự hà khắc trong cách giáo dục của vị linh mục đã khiến trong trái tim thơ trẻ của ông luôn đầy ắp ác cảm với nhà thờ. Stendhal trưởng thành trong một thời đại có nhiều biến động dữ dội, gắn với vai trò thắng - bại của Napoleon (Stendhal từng làm thư ký cho Bộ trưởng Bộ Chiến tranh Pháp trong cuộc chiến tranh Pháp - Italia thời Đế chế I). Sinh thời, mặc dù Stendhal thường phát biểu rằng việc viết văn với ông chỉ là một thú tiêu khiển, song thực tế ông đã dành rất nhiều tâm huyết cho việc sáng tạo. Tác phẩm đầu tiên ông viết tại Milan là một công trình biên khảo: "Tiểu sử của Haydn, Mozart và Metastasio" (1814). Ba năm sau, cuốn "Lịch sử hội họa Italia" được in thành hai tập. Năm 1827, tiểu thuyết đầu tay của ông ra đời, đó là cuốn "Armance". Khi Stendhal còn sống, cuốn ''Bút ký của một du khách" viết năm 1838 được coi là tác phẩm đặc sắc nhất của ông. Hai cuốn khác, "Laniel" và "Lucien Lenowen" chỉ được xuất bản sau khi ông mất. "Đỏ và đen" là cuốn tiểu thuyết trứ danh nhất của Stendhal, được xuất bản vào năm 1830. Tác giả dựa trên một sự việc có thật đăng trên nhật báo Tòa án từ ngày 28 đến ngày 31/12/1827. Tiểu thuyết có phụ đề "Ký sự của năm 1830" và lời đề từ: "Sự thật, sự thật cay nghiệt". Nhân vật chính của tiểu thuyết - chàng thanh niên Julien Sorel (có nhiều bóng dáng của Stendhal) là một người đàn ông giàu nghị lực và rất thông minh. Anh ta luôn nuôi dưỡng trong mình những ảo tưởng lãng mạn nhưng rồi cuối cùng trở thành nạn nhân của các mưu đồ chính trị. Stendhal dùng hình ảnh một người hùng bị thất bại để đả phá cái giả trá của tầng lớp quý tộc trong xã hội Pháp thời đó. Tiểu thuyết "Tu viện thành Parme" được xuất bản năm 1839, chỉ ít năm trước khi tác giả tạ thế. Và điều gì xảy ra sau đó? Ông viết "Đỏ và đen", "Tu viện thành Parme". Những tác phẩm cực kỳ tao nhã". Không biết có phải vì sự nhân văn, "tao nhã" này mà trong thời gian Giang Thanh lộng hành ở Trung Quốc, bà ta tỏ ra không thích "Đỏ và đen" của Stendhal. Và đó là một trong những lý do khiến nhiều độc giả ở đất nước đông dân nhất hành tinh này càng thêm tò mò muốn tìm đọc cuốn sách? Mời các bạn đón đọc Đỏ và Đen của tác giả Stendhal.