Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuốn Sổ Vàng

Lần đầu tiên được xuất bản năm 1962 và hiện đã trở thành một trong các tác phẩm vĩ đại nhất thế kỷ hai mươi, Cuốn Sổ Vàng là câu chuyện của Anna Wulf, một người mẹ đơn thân với hàng loạt các mối quan hệ bế tắc, một nhà văn từng thành danh nhưng hiện cũng bế tắc với một cuốn tiểu thuyết dở dang. Sợ mình phát điên, cô đã ghi lại các trải nghiệm của mình trong bốn cuốn sổ có màu khác nhau. Nhưng cuốn sổ thứ năm, Cuốn Sổ Vàng, mới là thứ kết nối các mảnh cuộc sống của cô lại và là chìa khóa giúp cô bình phục về mặt tinh thần. Cuốn tiểu thuyết đồ sộ này là hành trình nội tâm của Anna qua những mảnh vỡ của bản thân trong một thế giới cũng đang tan rã: Tình yêu, tự do, cái chết, tín điều, đặt giữa hỗn loạn các hệ tư tưởng, trong tiếng ầm ì của chiến tranh, mối đe dọa hủy diệt của bom H, quá trình phi thực dân hóa của nước Anh, sự hình thành của các quốc gia mới. Phức tạp nhưng vẫn thanh tú đến kỳ lạ, tác phẩm dẫn người đọc theo bước Anna đến những trang cuối cùng, không phải tới một đáp án toàn năng cho toàn bộ các vấn đề của cá nhân và nhân loại, mà khả thi hơn thế, dễ chịu hơn thế, tới một chút khai sáng, cảm giác mới mẻ như vừa tái sinh, khi nhận ra những thất bại và thiếu sót trong quá khứ, cả hỗn loạn của hiện tại hay u ám của tương lai, vẻ đẹp và sự phù phiếm của chúng, tất cả đều đáng giá từng giây ta sống trên đời. *** Doris May Lessing (1919-2013) là nhà văn, nhà thơ, nhà biên kịch người Anh từng được trao giải Nobel Văn chương năm 2007. Bà là người lớn tuổi nhất khi được trao giải thưởng cao quý này. Bà cũng từng được trao giải David Cohen cho thành tựu trọn đời đóng góp cho nền văn học Anh và đứng thứ 5 trong danh sách “50 nhà văn Anh vĩ đại nhất kể từ năm 1945”. *** Tiểu thuyết “Cuốn sổ vàng” của nhà văn Doris Lessing, đạt giải Nobel Văn chương năm 2007, được liệt vào hạng kinh điển làm đau đầu không biết bao nhiêu thế hệ bạn đọc với một nỗi băn khoăn rất thực tế và rất hãi hùng: Ai và tại sao lại xếp nó vào kinh điển? Bởi câu hỏi ấy được khởi từ một khổ sở khác, thực tế không kém, Làm nào vượt qua được nỗi chán ngán vô tận để không vứt luôn cuốn sách từ hai chục trang đầu tiên? Sau rất nhiều nghị lực, tôi nghĩ mấu chốt nằm ở điểm này, xin trích lại lời của chính nhân vật chính, nhà văn Anna Wulf, trong một buổi sinh hoạt văn chương định hướng của Đảng, “điều tôi thấy quan trọng nhất, đó là câu chuyện đó có thể đọc theo lối giễu nhại, mỉa mai, hay nghiêm túc đều được.” Quả đúng như thế, “Cuốn sổ vàng” hoàn toàn có thể là một câu chuyện nửa nghiêm nửa nhại về những người phụ nữ tự nhận mình là tự do đầy nhiệt huyết cách mạng lang chạ với Chủ nghĩa cộng sản và đàn ông có vợ, với văn chương và ngôn ngữ. Song song với những cú đánh đu đó, lại là những ham muốn và lo lắng không bao giờ được giải đáp, kéo theo những hao tổn về tinh thần xuống đáy hố của điên loạn. Trước hết, “Cuốn sổ vàng” là một công trình đầy tham vọng về một đại tiểu thuyết mô tả cả một giai đoạn lịch sử những năm 1950 của nước Anh của những phụ nữ trung lưu không còn bị ràng buộc về những chuẩn mực giới tính. Ngay trong lời nói đầu cuốn sách, tác giả đã ấp ủ mình sẽ thành công hơn George Eliot, để sánh ngang Tolstoy và Stendhal, là một điểm bùng nổ, một bước ngoặc trong truyền thống văn chương Anh, khi phản ánh được hiện thực như hai tác gia kia đã làm với, lần lượt, Nga và Pháp. Dẫu có chối bỏ và nổi giận với những bài phê bình về sách của mình, một việc Lessing làm hơi bị thường xuyên, thì tiểu thuyết này đầu tiên và thứ đến, đề cập đến phong trào phụ nữ, và phòng trào của phụ nữ tham gia Chủ nghĩa xã hội. Và tiếp đến nữa, có lẽ, là quan hệ con người. Nhân vật chính của “Cuốn sổ vàng” là Anna Wulf, một nhà văn từng có tiểu thuyết đầu tay nổi tiếng “Những biên giới chiến tranh”, một bà mẹ đơn thân, Đảng viên, chơi thân với Molly một diễn viên chưa nổi, cũng li dị và cũng đơn thân, hay cãi nhau với Richard, chồng cũ của Molly, yêu Michael, một đàn ông có vợ, để rồi bị ruồng bỏ, tuyệt vọng, và quan trọng hơn, đang rơi vào trạng thái tắc tị không sáng tác được. Ấy vậy mà, Anna vẫn ghi chép đều và không mệt mỏi, những trải nghiệm của cá nhân, vào bốn cuốn sổ, phân theo các màu khác nhau. Đủ cả, như Lessing đã tóm tắt, “Ràng buộc. Tự do. Tốt. Xấu. Có. Không. Tư bản chủ nghĩa. Xã hội chủ nghĩa. Tình dục. Tình yêu…” Tưởng như phân định được rạch ròi, như cách định vị của ngôn ngữ, bằng cách dùng một phần gọi là “Phụ nữ tự do” như một sợi chỉ đỏ cho người đọc lần theo, Anna phân cho cuốn sổ màu đen là những trang viết năm tháng 1940 ở châu Phi nơi cô sinh hoạt Đảng cùng một nhóm trung lưu phù phiếm khác, cuốn sổ màu đỏ ghi chép sinh hoạt Đảng của Anna ở Anh nơi cô dần thất chủ nghĩa Cộng sản là một cái giếng cạn khô, cuốn sổ màu vàng là cuốn tiểu thuyết ngoại tình nơi Anna lấy chính mình làm cảm hứng và nhân vật mẫu, còn cuối sổ màu xanh là những ghi chép thường nhật và những giấc mơ. Anna đã tách rời bốn cuốn sổ nhưng rồi trên thực tế chúng lại ới ời gọi nhau, với những cấu trúc song song, của đầy những ngổn ngang, ẩn ức, bất an, rối loạn, sụp đổ, của chính Anna Wulf. Các trải nghiệm của Anna, tuy bị ràng buộc bởi cái lực duy lí là tách biệt để tránh sự hỗn độn, lại vòng vo và rối như tơ vò, bện chặt tất cả lại với nhau, các hiện thân của Anna, các hiện thực khác, các cuộc đời và các tinh thần khác. Những cái tôi vừa giống vừa khác Anna, được kể bằng các phong cách, điểm nhìn, giọng văn, khác nhau, ở các cuốn sổ, cho phép độc giả và chính nhà văn trải nghiệm những gì mà Anna không thể trải nghiệm và hiểu được Anna ở nhiều khía cạnh hơn. Những mảnh tự sự này giúp cấu trúc một nhân cách nhiều mặt ở Anna và cũng là tham vọng kiến tạo một sự hoàn chỉnh mang tính chất hồi phục và hướng tới ổn định, mạch lạc và gắn kết, khi Anna ghép bốn cuốn sổ thành một. Nhưng liệu đây có phải là một niềm tin đầy ảo tưởng khác của Anna, rằng trật tự chống lại được hỗn loạn? Như bao ảo tưởng đã mai một, như chủ nghĩa cộng sản, như Phụ nữ tự do. Chính ở bốn cuốn sổ với hình thức truyện lồng trong truyện này mà người đọc nhận ra tham vọng vượt quá những giới hạn của văn chương của Lessing: không kiến tạo những định danh rạch ròi của trải nghiệm, và đẩy cao sự nhập nhằng giữa tiểu thuyết và sự thật, và vì thế tạo nên sự đọc đa dạng. Sự phân tách thành các mảnh tự sự, với một sự nghiêm túc hiếm có nhưng lại kể những câu chuyện lố bịch đến khó hiểu, mà cuốn tiểu thuyết đã xuất bản của chính Anna là một minh chứng: bối cảnh một châu Phi chủ nghĩa phân biệt chủng tộc nơi những con người không thuộc giới cần lao sinh hoạt Đảng đi kèm với sinh hoạt tình dục, với tiệc tùng và khiêu vũ. Trở lại London, đời sống của Anna cũng không thay đổi nhiều lắm, với đồng chí anna và đồng chí molly làm tình với đồng chí michael và đồng chí Ella làm tình với đồng chí Paul và nhiều đồng chí khác nữa. Tình cảm của phụ nữ trong “Cuốn sổ vàng” thì lên xuống như thủy ngân, khi có giai đoạn họ nhăng nhít với cộng sản một cách nghiêm túc, và khi họ dè nhau phải cẩn thận để không chuyển sang căm ghét Đảng. Và đây chính là một điểm quan trọng của “Cuốn sổ vàng” sự mâu thuẫn không bao giờ giải quyết được, sự phi lý đến từ nhân vật, cho đến hình thức của cuốn tiểu thuyết, bằng một giọng văn vừa chân thành, vừa lấp ló nhài nhại phù phiếm. Anna là hiện thân của một mẫu hình giới nữ, với những đau khổ dằn vặt thường nhật của yêu và không được yêu, của làm tình cực khoái và không cực gì cả, của cãi cọ và làm hòa, của buồn khổ chán chường, tuyệt vọng và hy vọng. Quan trọng hơn, của không thể giải thích, không thể hiểu, không thể tự thoát, mối trầm cảm không kiểm soát, để cuối cùng chính Anna nhận ra, vấn đề của cô, là không biết hạn chế cảm xúc. Với tham vọng như tiểu thuyết lịch sử, được sắp xếp theo trình tự thời gian, cuốn tiểu thuyết này của Lessing, trình bày các mối quan hệ bằng một lối viết chân thực ròng rã, của những trang viết dài dòng về làm tình và hành kinh, như thể đối chọi là với James Joyce và đại tiện. Giọng văn đều đều như máy khoan, chi tiết và cụ thể, phân tách và chì chiết, chảy hết từ tâm trạng này sang tâm trạng khác của nhân vật chính, trôi từ người tình này sang người tình kia, cuốn từ cuộc họp Đảng này sang cuộc họp Đảng khác, không sự kiện, không kịch tích, không giải trí, như năm tháng, như cuộc đời của Anna và Molly. Cho đến một ngày, truyện đột ngột kết thúc, không báo trước, không trông đợi, không gây hấn, với quyết định của nhân vật là trở thành anh của mọi nhà là em của mọi kiếp phôi pha. Bật lên trên cái nền đầy chán ngán này, là những trải nghiệm phụ nữ trong mối quan hệ đàn ông đàn bà nơi đàn bà thì liên tục thèm muốn cần chở che cần được yếu ớt còn đàn ông thì thù địch chối từ mọi nhu cầu của đàn bà. Anna Wulf nằm ở cái nan đề giữa là một người đàn bà ý thức rõ cái tình thế tiến thoái lưỡng nan kia và việc là một người đàn bà bình thường không chối lại cái tình thế đó, không giải phóng mình ra khỏi đó. *** Cuốn tiểu thuyết này được sắp xếp như sau: Có một bộ xương, hoặc bộ khung, tên là Phụ nữ tự do, là một tiểu thuyết ngắn viết theo lối truyền thống dài khoảng 60.000 từ, có thể đứng độc lập được. Nhưng nó được chia thành năm đoạn, xen giữa là các phần của bốn cuốn sổ có bìa màu đen, đỏ, vàng và xanh dương. Các cuốn sổ này thuộc về Anna Wulf, nhân vật trung tâm của Phụ nữ tự do. Cô viết vào bốn chứ không phải một cuốn bởi vì, như cô thừa nhận, cô phải tách rời các thứ với nhau, vì sợ sự hỗn loạn, sự vô định hình - sợ sụp đổ. Áp lực, từ bên trong lẫn bên ngoài, đã khép lại các cuốn sổ; một dòng đen đậm được kẻ ngang trang giấy từ cuốn này sang cuốn khác. Nhưng giờ khi bốn cuốn sổ đã kết thúc, từ các mảnh vỡ của chúng có thể xuất hiện một thứ mới mẻ, Cuốn Sổ Vàng. Từ đầu đến cuối các cuốn sổ, các nhân vật đã đưa ra những lời bàn luận, giả thuyết, giáo điều, dán nhãn, chia ngăn - đôi khi bằng một giọng chung chung và tiêu biểu cho thời đại tới mức họ trở thành ẩn danh, bạn có thể đặt cho họ những cái tên như trong các vở kịch luân lý thời trước, ông Giáo-Điều và ông Tôi-Tự-Do-Bởi-Vì-Tôi-Chả-Thuộc-Về-Nơi-Nào-Cả, cô Tôi-Phải-Có-Được-Tình-Yêu-và-Hạnh-Phúc và bà Tôi-Phải-Giỏi-Trong-Mọi-Việc-Tôi-Làm, ông Phụ-Nữ-Đích-Thực-Ở-Đâu? và cô Đàn-Ông-Đích-Thực-Ở-Đâu?, ông Tôi-Điên-Vì-Người-Ta-Bảo-Vậy, và cô Cuộc Đời-Qua-Trải-Nghiệm-Mọi-Việc, ông Tôi-Làm-Cách-Mạng-Vì-Vậy-Tôi-Tồn-Tại, và ông bà Nếu-Chúng-Ta-Xử-Lý-Tốt-Vấn-Đề-Nhỏ-Này-Thì-Có-Lẽ-Chúng-Ta-Có-Thể-Quên-Đi-Rằng-Chúng-Ta-Không-Dám-Nhìn-Vào-Những-Vấn-Đề-Lớn. Nhưng họ cũng phản ánh lẫn nhau, là các mặt của nhau, khai sinh ra suy nghĩ và hành vi của nhau - là nhau, tạo thành các chỉnh thể. Trong Cuốn Sổ Vàng bên trong cuốn sách này, tất cả đã tập hợp lại, mọi ngăn cách bị phá vỡ, tình trạng phân mảnh chấm dứt để lại sự vô định hình - sự chiến thắng của chủ đề thứ hai, tức là thống nhất. Anna và tay người Mỹ Saul Green đều “đổ vỡ”. Họ điên, họ rồ, họ tâm thần - muốn dùng từ gì cũng được. Họ “vỡ” vào nhau, vào người khác, phá tan những mô hình giả dối họ dựng lên từ quá khứ của mình, những mô hình và công thức mà họ tạo ra để chống đỡ cho bản thân và cho nhau, họ tan rã. Họ nghe thấy ý nghĩ của nhau, nhận ra người kia trong chính mình. Saul Green, con người từng ghen tị và là tác nhân hủy diệt Anna, giờ ủng hộ cô, khuyên nhủ cô, gợi ý chủ đề cho cuốn sách thứ hai của cô, Phụ nữ tự do- một cái tên mỉa mai, mở đầu bằng: “Chỉ có hai người phụ nữ trong căn hộ ở London.” Và Anna, từng ghen vì Saul đến mức phát điên, chiếm hữu và đòi hỏi, đã cho Saul cuốn sổ mới xinh đẹp, Cuốn Sổ Vàng, mà trước đó cô đã từ chối không cho, gợi ý cho anh chủ đề mới cho cuốn sách tiếp theo của anh, viết vào đó câu đầu tiên: “Trên một sườn đồi khô ráo ở Algeria, người lính ngắm ánh trăng lấp lánh trên khẩu súng trường.” Trong Cuốn Sổ Vàng bên trong Cuốn Sổ Vàng, do cả hai cùng viết, không còn phân biệt nổi đâu là Saul và Anna, hoặc đâu là họ và đâu là những người khác trong cuốn sách. Chủ đề “sụp đổ” này - rằng đôi lúc khi người ta “đổ vỡ” đấy cũng là một cách chữa lành bản thân, cách mà bản thể nội tại gạt bỏ những lưỡng phân và chia rẽ sai lầm - từ đó đến nay đã được nhiều người khác, cũng như chính bản thân tôi, đề cập tới. Nhưng nếu không tính đến vài cái truyện ngắn thi thoảng thì cuốn sách này là tác phẩm đầu tiên tôi viết về nó. Ở đây nó thô ráp hơn, gần với trải nghiệm thực hơn, trước khi trải nghiệm thực đã định hình thành ý nghĩ và mô hình - và có giá trị hơn có lẽ vì nó là nguyên liệu thô. Nhưng không ai để ý mấy đến chủ đề trọng tâm này, bởi vì cuốn sách này lập tức hoặc bị coi thường, bởi những nhà phê bình thân thiện cũng như thù địch, rằng nó chẳng qua chỉ viết về cuộc chiến giới tính, hoặc được những người phụ nữ chiếm lấy làm một thứ vũ khí hữu dụng trong cuộc chiến giới tính. Kể từ đó tôi ở vào một vị thế không thành thật, bởi vì từ chối ủng hộ những người phụ nữ không phải là một việc tôi muốn làm. Để chốt lại cái đề tài Giải phóng Phụ nữ này - tất nhiên là tôi ủng hộ phong trào đó, bởi vì phụ nữ là những công dân hạng hai, như người ta đang nói rất hay và rất hăm hở ở nhiều quốc gia. Có thể nói rằng họ đang thành công, dù thành công của họ chỉ đến mức là đang được nghiêm túc lắng nghe. Những người trước đây thù địch hoặc thờ ơ thì giờ đã nói: “Tôi ủng hộ mục tiêu của họ nhưng tôi không thích giọng nói the thé cũng như cái kiểu hành xử thô tục, xấu tính của họ.” Đây là một giai đoạn không thể tránh khỏi và dễ nhận thấy trong bất cứ phong trào cách mạng nào: những người cải cách phải chuẩn bị tinh thần bị chối bỏ bởi những người đang sung sướng hưởng thụ những thành quả mà họ đã giành được. Mặc dù vậy, tôi không nghĩ rằng phong trào Giải phóng Phụ nữ sẽ thay đổi được nhiều - không phải là vì mục tiêu của nó có gì sai, mà vì rõ ràng là những biến cố mà chúng ta đang trải qua đang khiến cả thế giới rung chuyển thành một mô hình mới: có thể là khi chúng ta trải qua xong chặng này, nếu chúng ta sống sót được, những mục tiêu của Giải phóng Phụ nữ trông sẽ rất nhỏ bé và kỳ khôi. Những cuốn tiểu thuyết này không phải là tiếng kèn cổ vũ cho Giải phóng Phụ nữ. Nó mô tả nhiều cảm xúc của phụ nữ như hung hăng, thù địch, oán giận. Nó đưa chúng ra trang giấy. Rõ ràng là những gì mà nhiều phụ nữ vẫn đang nghĩ, cảm nhận, trải nghiệm, đã đem đến một niềm kinh ngạc lớn. Ngay lập tức rất nhiều vũ khí cổ xưa được đem ra, những món chính, như thường lệ, chính là các câu kiểu như “Cô ta chả đàn bà tí nào”, “Cô ta là một mụ ghét đàn ông”. Dường như phản xạ này không thể nào bị phá hủy. Đàn ông - và nhiều phụ nữ, từng nói rằng phụ nữ đòi quyền bầu cử đầu thế kỷ 20 là phi nữ tính, là nam tính, là đã nhiễm thói hung bạo. Tôi chưa đọc được một tài liệu nào nói về một xã hội trong đó phụ nữ đòi hỏi nhiều hơn những gì tự nhiên ban phát cho mà lại không ghi nhận phản ứng này từ phía đàn ông - và một số phụ nữ. Nhiều phụ nữ nổi giận với Cuốn Sổ Vàng. Những gì phụ nữ vẫn nói với những phụ nữ khác, cằn nhằn trong nhà bếp, phàn nàn, buôn chuyện hoặc bộc lộ qua cái cách họ sung sướng với nỗi khổ của mình, lại không phải là những gì họ muốn nói lớn thành tiếng - vì sợ đàn ông có thể nghe lỏm thấy. Phụ nữ hèn nhát như thế bởi vì họ đã sống gần như là nô lệ trong thời gian quá dài. Số phụ nữ sẵn sàng đứng lên bảo vệ những gì họ thực sự nghĩ, cảm nhận, trải nghiệm với người đàn ông họ yêu vẫn còn ít ỏi. Hầu hết phụ nữ vẫn sẽ bỏ chạy như những chú cún con bị ném đá khi đàn ông nói: Em không nữ tính, hung hăng, em đang làm mất hết nam tính của anh. Tôi tin rằng bất cứ phụ nữ nào kết hôn với một anh chàng sử dụng kiểu đe dọa này, hoặc đặt niềm tin vào anh ta theo một cách nào đó, đều xứng đáng với những gì cô ta nhận được. Vì đàn ông như thế chỉ là một kẻ ức hiếp người khác, không biết gì về thế giới anh ta đang sống, hoặc về lịch sử của nó - đàn ông và phụ nữ đảm nhiệm vô số vai trò trong quá khứ, và cả hiện tại, trong các xã hội khác nhau. Vì vậy nên anh ta hoặc dốt nát, hoặc sợ bị lạc loài - một tên hèn… Tôi viết tất cả những nhận xét này bằng đúng cái cảm giác như thể tôi đang viết thư gửi vào quá khứ xa xôi: Tôi chắc chắn rằng mọi thứ chúng ta bây giờ coi là đương nhiên, sẽ bị quét sạch trong thập kỷ sau. (Thế thì tại sao lại viết tiếu thuyết? Thật sự đấy, tại sao! Tôi đồ rằng chúng ta phải tiếp tục sống như thể…) Một số cuốn sách không được đọc đúng cách bởi vì chúng đã nhảy cóc qua một giai đoạn phát triển quan điểm, giả định một sự kết tinh thông tin trong xã hội mà thực tế vẫn chưa xảy ra. Cuốn sách này được viết như thể mọi thái độ mà các phong trào Giải phóng Phụ nữ tạo ra đã tồn tại trong thực tế. Lần đầu tiên nó xuất hiện là cách đây ngót mười năm, 1962. Nếu ra mắt bạn đọc vào thời điểm hiện tại, có lẽ người ta sẽ thực sự đọc nó chứ không chỉ đơn thuần là phản ứng lại: tình hình đã thay đổi rất nhanh. Một số thói đạo đức giả nhất định đã biến mất. Chẳng hạn, mười, hoặc thậm chí năm, năm trước - một thời nổi loạn về mặt tình dục - tiểu thuyết và kịch được viết rất nhiều bởi những anh đàn ông giận dữ chỉ trích phụ nữ - đặc biệt là ở Mỹ, nhưng ở cả đất nước này cũng có - được mô tả như những người thích gây hấn và phản bội, nhưng đặc biệt là phá hoại và đào mỏ. Nhưng những thái độ này ở các nhà văn nam lại được coi là đương nhiên, được chấp nhận như là một cơ sở triết học đúng đắn, một điều khá bình thường, và chắc chắn không bị coi là ghét phụ nữ, hung hăng, hay loạn thần kinh. Điều này vẫn tiếp diễn, tất nhiên - nhưng mọi chuyện đã tốt hơn, không có gì phải nghi ngờ cả. Tôi chìm đắm vào việc viết cuốn sách này đến nỗi không nghĩ đến cảnh nó sẽ được đón nhận như thế nào. Tôi toàn tâm toàn ý với nó không chỉ đơn thuần là vì cuốn sách này khó viết - giữ dàn ý trong đầu, tôi viết liền tù tì từ đầu đến cuối, một việc không hề đơn giản - mà vì thứ tôi học hỏi được trong lúc viết. Có thể là bằng việc đưa ra cho bản thân một cấu trúc chặt chẽ, quy định những giới hạn cho bản thân, ta sẽ vắt ra được chất liệu mới nơi ít mong đợi nhất. Đủ loại ý tưởng và trải nghiệm mà tôi không nhận ra là của mình đã nổi lên khi viết. Vì thế, thời gian viết thực tế, chứ không chỉ những trải nghiệm đã đi vào việc viết lách ấy, thực sự là một kinh nghiệm có tính sang chấn: nó khiến tôi thay đổi. Bước ra từ quá trình kết tinh này, giao bản thảo cho nhà xuất bản và bạn bè xong, tôi được nói cho biết rằng mình đã viết một luận văn về cuộc chiến giới tính, và nhanh chóng khám phá ra rằng bất kể tôi nói gì cũng chẳng thể nào thay đổi được nhận định đó. Nhưng cốt lõi của cuốn sách, cách thức tổ chức của nó, mọi thứ trong đó, đã nói một cách cả thẳng thắn và ngầm ẩn rằng chúng ta không được tách rời mọi thứ, không được chia ngăn. “Ràng buộc. Tự do. Tốt. Xấu. Có. Không. Tư bản chủ nghĩa. Xã hội chủ nghĩa. Tình dục. Tình yêu…” Anna nói, trong Phụ nữ tự do, tuyên bố chủ đề của cuốn sách - gào lên, trống giong cờ mở thông báo một mô típ xuyên suốt… hoặc là tôi tưởng tượng như vậy. Cũng như khi tôi tin rằng trong một cuốn sách có tên Cuốn Sổ Vàng, cái phần bên trong đặt trùng tên với nó có thể được cho là tâm điểm, mang theo sức nặng của toàn bộ cuốn sách, và đưa ra một tuyên bố. Nhưng không. Còn có nhiều chủ đề khác cũng đi vào cuốn sách này, với tôi đây là một thời điểm quan trọng: những suy nghĩ và chủ đề mà tôi vẫn đang giữ trong đầu nhiều năm nay giờ đã được nối vào với nhau. Một trong số đó là không thể tìm thấy cuốn tiểu thuyết nào mô tả môi trường trí thức và đạo đức cách đây một trăm năm, vào khoảng giữa thế kỷ vừa qua, ở nước Anh, theo cách mà Tolstoy làm cho nước Nga, Stendhal làm cho nước Pháp. (Đến đây cần phải đưa ra những lời tạ sự không tránh được.) Đọc Đỏ và Đenvà Lucien Leuwen là biết về nước Pháp như thể ta đang sống ở đó, đọc Anna Karenina là biết nước Nga khi đó. Nhưng một cuốn tiểu thuyết thời Victoria rất hữu ích như vậy lại không bao giờ được viết nên. Hardy cho chúng ta biết cảm giác thế nào khi người ta nghèo, khi có một trí tưởng tượng lớn hơn những gì một thời đại chật hẹp như vậy cho phép, khi làm một nạn nhân. George Eliot, trong phạm vi của mình, cũng rất hay. Nhưng tôi nghĩ hình phạt mà bà phải trả giá khi làm một phụ nữ thời Victoria là bà vẫn phải tỏ ra là một phụ nữ tốt, ngay cả khi bà không “tốt” nếu chiếu theo những tiêu chuẩn đạo đức giả của thời đó - có rất nhiều điều bà không hiểu bởi vì bà chú trọng đạo đức. Meredith, nhà văn bị đánh giá thấp một cách đáng kinh ngạc, có lẽ gần đạt được điều này nhất. Trollope thử đề tài này nhưng thiếu tầm. Không có lấy một cuốn tiểu thuyết nào có đủ khí lực và thể hiện được sự xung đột giữa các tư tưởng đương thời như trong một cuốn tiểu sử đàng hoàng về William Morris. Mời các bạn đón đọc Cuốn Sổ Vàng của tác giả Doris Lessing & Lê Khánh Toàn (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bọn Chiếm Đóng - Kobo Abe
Trong khi Murakami và Yoshimoto là những nhà văn đang nổi lên trên văn đàn Nhật Bản và là hai nhân vật hết sức quen thuộc ở Việt Nam hiện nay, tôi muốn lưu ý bạn đọc về một xu thế mới có lẽ tồn tại như một dòng chảy ngầm. Khi nói về xu thế này, vào năm 1990 nhà văn danh tiếng Kenzaburo Oe ( 1935 - 2007), Giải thưởng Nobel Văn chương năm 1998 có viết: “Lớp nhà văn này đã tích luỹ trong mình  cảm nghĩ về thực trạng xã hội và sức mạnh của văn học. Trong số họ nổi lên hàng đầu là Kobo Abe, một trong những gương mặt quan trọng nhất, nổi bật nhất sau chiến tranh. Ông sáng tác với ý thức tách khỏi truyền thống Nhật Bản, tuy gắn bó với việc xây dựng thế giới ảo tưởng, nhưng vẫn in đậm một lối nhìn riêng tư mà nghiêm túc về đời sống hiện đại”. Kobo Abe sinh ngày 7.3.1924 tại Tokyo. Tên thực của ông là Kimifusa (“Kobo” là cách phát âm theo Hán tự của từ “Kimifusa”). Cha ông là bác sỹ tại một bệnh viện nằm trong trường Cao đẳng Y khoa Hoàng gia ở Manchuria. Khi còn trẻ, Abe rất hứng thú với môn toán học và sưu tập côn trùng. Cũng giống nhiều nhà văn Nhật Bản hiện đại nổi tiếng thế hệ trước như Mori Ogai, Natsume Soseki, Tanizaki Junichiro... ông tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các nhà tư tưởng bậc thầy của phương Tây, có lẽ do nhiều năm sống ở nước ngoài và đời sống văn hoá đương đại của nó đã thôi thúc ông, nghiên cứu các nhà triết học phương Tây như Heidegger, Jaspers và Nietzsche... Năm 1941 Abe trở về Nhật Bản, năm 1943 ông thi đỗ Đại học Tokyo rồi theo học y khoa tại đây. Luôn ốm yếu do mắc bệnh đường hô hấp nên Abe được miễn quân dịch. Trong chiến tranh, ông tới sống ở Manchuria. Sau khi khỏi bệnh Abe tiếp tục việc học hành và tốt nghiệp vào năm 1948, nhưng ông tự nhủ sẽ không bao giờ hành nghề y. Từ đấy Abe đã bước vào sự nghiệp văn học. Ông tham gia nhóm văn chương do Kiyoteru Hamada dẫn dắt. Khuynh hướng sáng tác là hợp nhất các kỹ thuật của Chủ nghĩa siêu thực với tư tưởng Marxist. Ngay từ năm 1943 Abe đã cho ra đời một tác phẩm đầu tay. Bạn đọc hẳn đã nhận thấy Haruki Murakami tác giả Rừng Na-uy viết với một phong cách bộc trực, giọng điệu trung tính, lạnh lùng, câu ngắn gọn, đôi khi cộc lốc. Ông tránh lối diễn đạt uyển chuyển mà người Nhật hay dùng để câu nói mềm mại hơn khiến ngôn từ trở nên mập mờ. Còn văn  phong của Abe lại cô đọng và chuẩn mực, nó cho thấy nỗi bận tâm của ông đối với tư tưởng của tác phẩm hơn là kỹ thuật viết cốt tạo ra phong cách . Những nhà văn chủ chốt có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển thẩm mỹ văn học của ông: Edgar Allan Poe, Samuel Beckett, Rainer Maria Rilke và Fyodor Dostoyevsky, và đặc biệt là Franz Kafka. Ảnh hưởng Kafka càng rõ rệt trong tác phẩm Kabe - Esu Karuma shino hanzai (Bức tường - tội lỗi của S.Karma, 1951). Tác phẩm này được Giải Akutagawa, giải thưởng văn học cao quý nhất ở Nhật, kể chuyện một người phát hiện ra rằng tấm danh thiếp của anh ta tự hoá thành người và giả dạng anh ta mà phạm tội khiến anh bị toà án lôi ra phán xử. Năm 1947 Abe cho ra mắt một tuyển tập thơ. Abe chỉ thực sự được coi là một nhà văn nổi tiếng với tiểu thuyết Owarishi michi no shirube ni (1948), kể về cuộc đời một kẻ nghiện thuốc phiện. Vào những năm 1950, Abe gia nhập Đảng Cộng sản Nhật Bản. Năm 1962 ông xin ra khỏi đảng bởi những bài báo phê phán chính sách của đảng này. Những tác phẩm mang tính cách trải nghiệm của Abe được thế hệ độc giả trẻ hết sức ngưỡng mộ. Abe đã nhận được giải thưởng cho ba truyện ngắn của ông, “Akai mayu” (1950, Cái kén đỏ), “Kabe” (1951) và “S.Karuma - Shi no hanzai” (1951). Như nhiều nghiên cứu đã đề cập tới, vấn đề chủ đề và phong cách viết thường là nỗi ám ảnh đối với nhà văn Kafka đến mức ông đã phải khai thác nhiều yếu tố qua các truyện khoa học viễn tưởng và trinh thám để xây dựng tác phẩm của mình. Còn các tiểu thuyết và vở kịch của Abe thì đặc trưng ở sự quan sát kín đáo và các kỹ thuật viết tiên phong (avant - garde techniques). Khi đã quen thuộc một số tác phẩm của Kobo Abe bạn đọc sẽ nhận thấy thông thường các cảnh ngộ hay hoàn cảnh mà các nhân vật của ông phải đối mặt, hay đương đầu, thường là kỳ quặc, không giống thực tế và thái độ cùng hành vi của họ được bộc lộ qua khái niệm tự do ý chí. Các tác phẩm sau của Abe là những minh chứng cụ thể cho nhận định này: Daiyon kampyoki  (1959), Moetsukita chizu (1967, Tấm bản đồ rách), Mikkai (1977) và Hako otoko (1974, Người đàn ông trong chiếc hộp). Ở phương Tây, Abe hết sức nổi tiếng với hai tiểu thuyết The Woman in the Dunes, (1962, Người đàn bà trong cồn cát) và The Face of Another (1964, Khuôn mặt người khác). Chủ đề trung tâm trong các tác phẩm này của Abe là nỗi lạc lõng về thân phận, mặc cảm bị xa lánh và ghét bỏ, nỗi cô đơn cá nhân giữa một thế giới kỳ quặc, và những con người gặp khó khăn trong việc hòa nhập với cộng đồng. Hai kiệt tác này là các tác phẩm vượt khỏi mỹ quan truyền thống Nhật Bản, sáng tạo mới mẻ, dùng nhiều ẩn dụ, nhiều hình tượng cụ thể hay siêu thực để diễn tả nội tâm và tiềm thức con người bị tha hoá, vong ngã, trong xã hội đô thị. Các quan niệm giáo điều hay thành kiến đã được ông lật ngược lại. Thông thường con người được xem là trung tâm của vũ trụ, chúa tể của muôn loài, tác phẩm của ông lại chủ trương bình đẳng giữa các loài. không những thế còn có thể biến đổi từ loài này sang loài khác, và ngược lại, con người hoá thân thành sinh vật, sinh vật lại mang nhân cách như con người. Ông đề cao ý thức, lại chủ trương nhục thể chi phối tinh thần, hoàn cảnh xã hội quy định ý thức, và tự do chỉ có thật khi cá thể thoát ra khỏi mọi tập thể như quốc gia hay cộng đồng. Kobo Abe không ngừng thử nghiệm những thủ pháp và tư tưởng mới lạ, kể cả khoa học viễn tưởng, triết lý hiện sinh, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Với số lượng tác phẩm to lớn và những đóng góp đặc sắc của ông cho văn học Nhật Bản, Kobo Abe  được đánh giá là một trong những tác gia quan trọng nhất của nền văn chương nước này ở thế kỷ XX. Những tác phẩm chính: Người đàn bà trong cồn cát (1963), Khuôn mặt người khác (1964), Người hộp (1973) Cái Kén Đỏ Chiếc thuyền Nô-Ê Bọn Chiếm Đóng Và một số và kịch. *** Abe Kôbô là một trong những nhà văn hậu chiến Nhật Bản thế hệ Shôwa 30 (từ năm 1955 trở đi) có khuynh hướng đi tìm một thủ pháp mới với mục đích bắt gặp con người toàn thể như một sinh vật có tính xã hội và chính trị. Nhà văn thế hệ nầy đều muốn tìm hiểu đâu là lối sống thích hợp của con người trong điều kiện của xã hội hiện tại. Abe Kôbô trên giấy tờ được gọi là Kimifusa theo cách đọc âm Nhật của hai chữ Hán Kôbô. Song thân gốc miền bắc (đảo Hokkaidô) nhưng ông sinh ra ở Tôkyô ngày 7 tháng 3 năm 1924. Cha ông, một bác sĩ y khoa tùng sự tại Mãn Châu. Do đó, ông lớn lên ở Phụng Thiên (nay là Thẩm Dương thuộc Trung Quốc) nhưng đã trở về nước để học thuốc và tốt nghiệp y khoa Đại học Đế Quốc Đông Kinh năm 1948. Sau khi Nhật bại trận và cha chết, ông sống cuộc đời nghèo túng nhưng vẫn cố gắng bỏ tiền túi in thơ (1947) và tiểu thuyết (1948). Không hành nghề y như cha, ông theo nghiệp văn như mẹ, một nhà giáo có đầu óc khuynh tả. Đầu tiên, ông sử dụng một bút pháp trừu tượng, xa rời hiện thực, nhưng sau chuyển qua văn phong tiền vệ với khuynh hướng đi tìm những ý tưởng và phương pháp biểu hiện mới mà trung tâm là những câu chuyện ngụ ngôn có tính khoa học giả tưởng. Đặc điểm của văn chương ông trước tiên là bản chất con người khoa học của ông. Thứ đến là tình cảm thiếu quê hương vì nơi ông gắn bó sâu đậm nhất là Mãn Châu, một nơi về sau đã trở thành một tỉnh của Trung Quốc. Ở Tôkyô, ông có cảm tưởng như mình sống trong một miền đất lạ. Quê hương ông là Mãn Châu có sa mạc ngút ngàn và những cơn bão cát chứ không phải là thành phố Tôkyô xô bồ, lạ mặt. Đặc điểm thứ ba là kinh nghiệm đau thương của cuộc sống khốn cùng sau những ngày Nhật Bản bại trận, lúc người di dân lập nghiệp ở thuộc địa trong số đó có gia đình ông đã phải vượt qua bao khó khăn để có thể về đến mẫu quốc. Người có ảnh hưởng đến lối suy nghĩ của ông là Abe Rokurô, ông giáo dạy tiếng Đức và là nhà nghiên cứu về triết học của Nietsche [1] và Shestov [2]. Qua Abe Rokurô, ông làm quen được Haniya Yutaka [3]. Trước khi ra trường (1947), ông kết hôn với Yamada Machiko, một nữ sinh viên ngành hội họa. Họ sống đạm bạc trong một căn nhà lợp tạm và đeo đuổi hoạt động nghệ thuật. Bà Machiko đã giúp đỡ ông rất nhiều trong việc trang trí hình bìa những tác phẩm và trong việc dựng phông cảnh khi Abe chuyển qua kịch nghệ. Tài năng của Abe đa dạng. Ông không những làm thơ, viết văn, dựng kịch, vẽ tranh mà còn chen vào các lãnh vực truyền thanh, truyền hình. Ở đâu, ông cũng chứng tỏ một tài năng phi thường và thí nghiệm không mệt mỏi những thủ pháp diễn đạt mới. Vì lúc nào cũng đi trước thời đại nên không phải ai cũng yêu chuộng ông. Mumyô shishuu "Tập thơ không tên" (1947) là tác phẩm đầu tay. Akai Mayu "Cái kén đỏ" (1950) giúp ông đoạt giải thưởng văn học hậu chiến, Kabe - S. Karuma nohanzai "Bức tường. tội của S. Karma" (1951) đem giải Akutagawa về tay ông lúc mới có 27 tuổi. Sau đó là một loạt tác phẩm như Daishikan Hyôki "Thời kỳ băng hà thứ tư" (1959), Suna no Onna "Người đàn bà trong động cát" (1962), Ta.nin no kao "Gương mặt kẻ khác" (1964), tất cả đều gây nên tranh cãi. Ngoài các vở kịch như Doreigari "Săn nô lệ" (1955), Yuurei wa koko ni iru "Đây có ma" (1958), sau nầy ông còn viết Hako-otoko "Người hộp"(1973) Hakobune sakuramaru "Chiếc thuyền lợp mái tránh lụt tên gọi anh đào" (1984). Với lối viết tiền vệ, nhà văn Abe Kôbô được sắp vào số tác giả khoa học giả tưởng qua "Bức Tường - Tội của ông Karuma","Thời băng hà thứ tư"nói trên, cũng như Moetsukitachizu "Bức địa đồ cháy rụi" (1967) mà ông viết theo phong cách nhà văn Pháp Alain Robbe-Grillet. Ông đặc biệt chú trọng tới chủ đề tha hóa (alienation). Abe Kôbô còn nhảy vào sân khấu như lạc bước vào một mê cung lúc nào không hay. Năm 1955, trong một cuốn tiểu thuyết nhan đề Seifuku "Đồng Phục" ngẫu nhiên có một số đoạn, ông trình bày như đối thoại của kịch. Thế rồi, Yuurei wa koko ni iru "Đây có ma" (1958) của ông đã ra đời 3 năm sau như ta đã biết. Ông đưa lên sân khấu những ảo tưởng (phantasm) của thời mới như ảo tưởng tinh thần, tâm lý hay thương mãi và muốn bắt nọn khán giả. Ông xem sân khấu phải là một loại chất dẻo để khán giả có thể nắn theo ý mình và để lại những dấu tích sự tham dự của họ vào quá trình xây dựng chung giữa nhà viết kịch bản, diễn viên và khán giả đó. Khán giả không thể là vô can. Họ được xem như có khả năng phạm tội. Ông muốn nói như thế về vai trò của người xem kịch khi viết vở Omae ni mo tsumi ga aru "Mầy cũng có tội nữa đấy" (1965). Một ví dụ khác với vở Enomoto Takeaki (1967), trong đó ông mô tả cuộc nổi loạn để thành lập một chế độ Cộng Hòa ở Hokkaidô năm 1870 của Enomoto Takeaki nhưng không phải là không muốn chất vấn khán giả về thái độ họ phải chọn lựa trước sự kiện ấy. Từ năm 1969, Kôbô chuyển qua dàn cảnh và thành lập trung tâm nghiên cứu và thí nghiệm kịch nghệ Abe Kôbô Studio (từ 1973), thử sửa đổi và dựng lại nhiều vở cũ, chuyển một số tiểu thuyết, kịch phóng thanh, kịch bản phim đã viết thành kịch nói. Danh tiếng ông vang dội trong lẫn ngoài nước. Hầu như cứ một lần viết một tác phẩm mới, ông lại như nới rộng thêm chân trời văn học. Ông được quốc tế đánh giá cao, tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng như Anh, Ý, Đức. Tháng 9 năm 1992, ông được Hàn Lâm Viện Khoa Học Nghệ Thuật Hoa Kỳ trao tặng danh hiệu hội viên danh dự. Chẳng bao lâu, một ngày cuối năm, đang ngồi viết trong thư phòng, ông bị tai biến mạch máu não, mê man và được đưa vào bệnh viện cấp cứu. Đầu năm sau, lại nhập viện vì vấn đề tim mạch và mất vào ngày 22 tháng giêng năm 1993, khép lại cánh cửa một cuộc đời hoạt động văn học nghệ thuật không ngừng nghĩ.   Mời các bạn đón đọc Bọn Chiếm Đóng của tác giả Kobo Abe.
Tro Tàn Sắc Đỏ
“Anh”, nhân viên một công ty hóa phẩm, bất ngờ được cử sang công ty mẹ tại nước C công tác bởi lý do hết sức lạ lùng: có khả năng bắt chuột. Tại đất nước đang chìm trong cơn khủng hoảng vì một căn bệnh lạ, vướng phải nghi án về một vụ giết người, “anh” tự trút bỏ nhân phẩm, đánh mất danh tính, để tuột quá khứ, và bị cuốn vào một cuộc trốn chạy chưa biết về đâu. Ngắn và sốc, “Tro tàn sắc đỏ” chỉ xoay quanh một nhân vật không tên, tại một thành phố chưa xác định – “anh” có thể là bất kỳ ai và thủ đô nước C có thể là bất kỳ đô thị tư bản nào đang ngập trong rác thải và các quyền lực y tế. Tàn nhẫn, độc đáo, mẫu mực, tác phẩm của Pyun Hye-Young như một lăng kính kỳ dị đã nhìn thấu suốt một thời đại, liên tiếp đưa người đọc qua những “cơn rùng mình” khi chứng kiến sự xoay vần của xã hội và con người trong vòng quay bánh xe số phận. "Các cảnh báo nguy hiểm bao giờ cũng nhiều hơn so với những nguy hiểm xảy ra trên thực tế, vậy nhưng khi mối nguy thực sự xảy đến thì thường lại chẳng có một cảnh báo nào. Cũng chính vì lẽ đó mà những tờ hướng dẫn kiểm dịch và quy định phòng chống bệnh truyền nhiễm dán đây đó khắp sân bay, anh cũng chỉ nhìn qua rồi ngó lơ như chẳng có gì quan trọng. Cứ nhìn cảnh báo nhiều thế kia thì rõ ràng là chẳng có gì nguy hiểm hết. Như thể đọc được ý nghĩ của anh, nhân viên kiểm dịch trong bộ đồ phòng dịch kín mít từ đầu đến chân, tay lăm lăm nhiệt kế, khẽ nhăn mặt. Không biết vì nhiệt kế báo sốt nhẹ, hay vì mùi rượu tỏa ra từ người anh. Anh cắn môi, đưa tay sờ lên trán. Trán anh hâm hấp sốt như nhiệt độ của nồi cơm điện đặt ở chế độ hâm nóng. Chuyến bay ngắn nhưng thật mệt mỏi. Ngay trước ngày bay anh vẫn liên tục làm việc quá sức, rồi cơn say váng vất đêm qua giờ vẫn còn nguyên vẹn. Tay anh còn nóng hơn cả trán. Cổ tay anh buốt nhói, còn lòng bàn tay thì bỏng rát như thể đã gồng hết sức nắm chặt vật gì đó quá lâu. Nhìn lại thì thấy lòng bàn tay anh đầy những vết bầm tím. Chỉ hơi gắng sức một chút là đã dội lên một cơn đau nhức nhối. Lần này, nhân viên kiểm dịch kê nhiệt kế vào tai phải anh. Tiếng nhiệt kế hoạt động bên tai nghe hệt âm thanh báo động. Như phản ứng lại âm thanh đó, anh bật ra một cơn ho ầm ĩ. Nhân viên kiểm dịch lập tức đứng lùi lại một bước. Phát sinh ra thủ tục kiểm dịch thế này là vì đang có một căn bệnh truyền nhiễm. Còn chưa xác định được con đường lây truyền, căn bệnh đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia đầu tiên phát hiện mầm bệnh, lan nhanh và bùng phát ở hầu khắp các nước trên thế giới, hệt như một cái đệm rơm bắt lửa. Con đường lây nhiễm chưa rõ, thuốc điều trị còn đang trong giai đoạn nghiên cứu, mức độ lây lan cao, thêm vào đó, để đảm bảo nguồn vắc xin còn khan hiếm, một cuộc đấu đá ngấm ngầm giữa các nước đã nổ ra và đang trong hồi quyết liệt... vậy nhưng cũng may là tỷ lệ tử vong không cao lắm. Theo như thời sự trong nước đưa tin, anh thấy dù cho căn bệnh đó có nguy hiểm đến đâu đi nữa, chỉ cần giữ gìn vệ sinh cá nhân thật tốt thì cũng chẳng có gì đáng lo cả. Vị khách trước đó ngồi kế bên anh trên máy bay đang đứng xếp hàng ở lối bên cạnh, vẫn cứ ho liên tục không ngừng suốt từ lúc ở trên máy bay đến tận bây giờ. Người này mặc áo khoác vải tuýt kiểu cũ, dày quá mức so với thời tiết hiện tại, trên chuyến bay kéo dài năm giờ đồng hồ đến nước C đã phải uống tới bốn viên aspirin vì có triệu chứng ớn lạnh và đau đầu nghiêm trọng. Tiếp viên nói chắc là do máy lạnh, rồi mang tới hai cái chăn tự tay đắp cho vị khách đó. Có vẻ như đã uống thuốc mà cơn sốt vẫn không hạ, vị khách bên cạnh mặt đỏ gay. Nếu biết thủ tục kiểm dịch gắt gao thế này, chắc anh đã uống trước một viên aspirin, và nếu biết mức độ lây lan cao như vậy thì anh đã sớm đề nghị đổi chỗ ngồi rồi. Nhân viên kiểm dịch khẽ liếc nhìn anh một cái rồi đưa máy bộ đàm lên miệng nói gì đó. Lẫn trong tạp âm, giọng trả lời của ai đó vang lên rồi tắt phụt, ngay sau đó, từ bên cạnh khu vực chốt kiểm tra, hai người đàn ông bước lại. Hai người này mặc bộ đồ phòng dịch to phồng, lại đeo mặt nạ kín mít, trông như mấy chiếc xuồng cao su hay cưỡi dòng nước bập bềnh trồi lên ngụp xuống. Trước ngực bộ đồ phòng dịch in khá rõ dòng chữ “Trung tâm kiểm soát bệnh dịch”. Có vẻ là nhân viên bên y tế công cộng của sân bay. Hai người đó không những phục trang giống nhau mà ngay cả chiều cao, khổ người cũng tương tự, chẳng có điểm gì khác biệt. Mặt nạ che kín không nhìn thấy mắt, nhưng chắc chắn là họ đang chú mục vào anh. Tim anh bắt đầu đập loạn nhịp. Chẳng biết vì sao nhưng tự nhiên anh có ý nghĩ không thể đứng yên chịu trói thế này được. Anh vội vàng đưa mắt nhìn quanh. Trong chớp mắt, nhân viên kiểm dịch túm lấy cánh tay anh. Bất ngờ bị nhân viên kiểm dịch giữ chặt một cách đáng ngờ như vậy, anh đành bất lực đứng im. Hai nhân viên y tế công cộng vừa tiến đến áp sát hai bên, nhân viên kiểm dịch liền buông tay anh ra. Tuy không bị túm tay nữa nhưng giờ lại bị kẹp cứng giữa hai gã cao lớn, anh toát mồ hôi, trông không khác gì bị bắt. Những người đang đứng chờ kiểm dịch và làm thủ tục nhập cảnh nhìn anh chằm chằm. Có lẽ vì cảm nhận được những ánh nhìn đó mà anh toát mồ hôi lạnh, hốt hoảng nuốt khan đến phát sặc, cơn ho khiến máu dồn lên làm mặt anh nóng bừng. Sau khi đi dọc theo một hành lang kéo dài chẳng có gì đặc biệt, anh được đưa tới một căn phòng trông như thể vừa bị nhúng vào thùng sơn trắng rồi nhấc ra. Sàn nhà lát gạch trắng, bốn vách tường và trần đều sơn một màu trắng. Chăn đệm phủ trên cái giường thấp cũng một màu trắng, bên cạnh giường, đặt chơ vơ một bộ bàn ghế cũng màu trắng nốt. Tất cả mọi thứ trong phòng đều tỏa ra thứ ánh sáng giống một cái bồn rửa vừa được tẩy trắng và sát khuẩn. Vì vậy căn phòng trông thật lạnh lẽo, mà thực tế là ở đây cũng đang bật điều hòa ở nhiệt độ thấp nhất tới mức có thể cảm nhận rõ cái lạnh, khiến anh mấy lần phải xoa xoa bắp tay đang nổi da gà mà bật ho một tràng. Một trong hai nhân viên y tế công cộng bảo anh ngồi xuống ghế, rồi cũng chậm rãi ngồi xuống ghế đối diện. Giọng anh ta nhẹ nhàng, lịch sự nên anh cũng thấy yên tâm phần nào. Anh đã tưởng vừa bước vào phòng là sẽ bị vật ra ngay. Nhân viên y tế công cộng cho biết thân nhiệt của anh cao hơn bình thường nên cần kiểm tra kỹ hơn, vì thế buộc phải đưa ra biện pháp là giữ anh lại như thế này, mong anh thông cảm. Câu nói chẳng có gì khó, vậy mà anh nghe không hiểu họ đang nói gì. Anh chưa thạo tiếng nước C, lại đang trong lúc hoang mang, rối trí nên ngay cả những từ đã biết, anh cũng không nghe ra được. Nhân viên y tế công cộng lặp lại lần nữa, nhưng anh cứ đờ ra nhìn như thể đã biến thành con cá trong bể cá cảnh, nhân viên còn lại có vẻ sốt ruột nên đã kiếm đâu ra ngay một cái từ điển điện tử. Với sự trợ giúp của từ điển, hai bên vừa nói vừa viết mà trao đổi câu chuyện... " *** Các cảnh báo nguy hiểm bao giờ cũng nhiều hơn so khi mối nguy thực sự xảy đến thì thường lại chẳng có một cảnh báo nào. Cũng chính vì lẽ đó mà những tờ hướng dẫn kiểm dịch và quy định phòng chống bệnh truyền nhiễm dán đây đó khắp sân bay, anh cũng chỉ nhìn qua rồi ngó lơ như chẳng có gì quan trọng. Cứ nhìn cảnh báo nhiều thế kia thì rõ ràng là chẳng có gì nguy hiểm hết. Như thể đọc được ý nghĩ của anh, nhân viên kiểm dịch trong bộ đồ phòng dịch kín mít từ đầu đến chân, tay lăm lăm nhiệt kế, khẽ nhăn mặt. Không biết vì nhiệt kế báo sốt nhẹ, hay vì mùi rượu tỏa ra từ người anh. Anh cắn môi, đưa tay sờ lên trán. Trán anh hâm hấp sốt như nhiệt độ của nồi cơm điện đặt ở chế độ hâm nóng. Chuyến bay ngắn nhưng thật mệt mỏi. Ngay trước ngày bay anh vẫn liên tục làm việc quá sức, rồi cơn say váng vất đêm qua giờ vẫn còn nguyên vẹn. Tay anh còn nóng hơn cả trán. Cổ tay anh buốt nhói, còn lòng bàn tay thì bỏng rát như thể đã gồng hết sức nắm chặt vật gì đó quá lâu. Nhìn lại thì thấy lòng bàn tay anh đầy những vết bầm tím. Chỉ hơi gắng sức một chút là đã dội lên một cơn đau nhức nhối. Lần này, nhân viên kiểm dịch kê nhiệt kế vào tai phải anh. Tiếng nhiệt kế hoạt động bên tai nghe hệt âm thanh báo động. Như phản ứng lại âm thanh đó, anh bật ra một con ho ầm ĩ. Nhân viên kiểm dịch lập tức đứng lùi lại một bước. Phát sinh ra thủ tục kiểm dịch thế này là vì đang có một căn bệnh truyền nhiễm. Còn chưa xác định được con đường lây truyền, căn bệnh đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia đầu tiên phát hiện mầm bệnh, lan nhanh và bùng phát hầu khắp các nước trên thế giới, hệt như một cái đệm rơm bắt lửa. Con đường lây nhiễm chưa rõ, thuốc điều trị còn đang trong giai đoạn nghiên cứu, mức độ lây lan cao, thêm vào đó, để đảm bảo nguồn vắc xin còn khan hiếm, một cuộc đấu đá ngấm ngầm giữa các nước đã nổ ra và đang trong hồi quyết liệt... vậy nhưng cũng may là tỷ lệ tử vong không cao lắm. Theo như thời sự trong nước đưa tin, anh thấy dù cho căn bệnh đó có nguy hiểm đến đâu đi nữa, chỉ cần giữ gìn vệ sinh cá nhân thật tốt thì cũng chẳng có gì đáng lo cả. Vị khách trước đó ngồi kế bên anh trên máy bay đang đứng xếp hàng ở lối bên cạnh, vẫn cứ ho liên tục không ngừng suốt từ lúc ở trên máy bay đến tận bây giờ. Người này mặc áo khoác vải tuýt kiểu cũ, dày quá mức so với thời tiết hiện tại, trên chuyến bay kéo dài năm giờ đồng hồ đến nước C đã phải uống tới bốn viên aspirin vì có triệu chứng ớn lạnh và đau đầu nghiêm trọng. Tiếp viên nói chắc là do máy lạnh, rồi mang tới hai cái chăn tự tay đắp cho vị khách đó. Có vẻ như đã uống thuốc mà cơn sốt vẫn không hạ, vị khách bên cạnh mặt đỏ gay. Nếu biết thủ tục kiểm dịch gắt gao thế này, chắc anh đã uống trước một viên aspirin, và nếu biết mức độ lây lan cao như vậy thì anh đã sớm đề nghị đổi chỗ ngồi rồi. Nhân viên kiểm dịch khẽ liếc nhìn anh một cái rồi đưa máy bộ đàm lên miệng nói gì đó. Lẫn trong tạp âm, giọng trả lời của ai đó vang lên rồi tắt phụt, ngay sau đó, từ bên cạnh khu vực chốt kiểm tra, hai người đàn ông bước lại. Hai người này mặc bộ đồ phòng dịch to phồng, lại đeo mặt nạ kín mít, trông như mấy chiếc xuồng cao su hay cưỡi dòng nước bập bềnh trồi lên ngụp xuống. Trước ngực bộ đồ phòng dịch in khá rõ dòng chữ “Trung tâm kiểm soát bệnh dịch”. Có vẻ là nhân viên bên y tế công cộng của sân bay. Hai người đó không những phục trang giống nhau mà ngay cả chiều cao, khổ người cũng tương tự, chẳng có điểm gì khác biệt. Mặt nạ che kín không nhìn thấy mắt, nhưng chắc chắn là họ đang chú mục vào anh. Tim anh bắt đầu đập loạn nhịp. Chẳng biết vì sao nhưng tự nhiên anh có ý nghĩ không thể đứng yên chịu trói thế này được. Anh vội vàng đưa mắt nhìn quanh. Trong chớp mắt, nhân viên kiểm dịch túm lấy cánh tay anh. Bất ngờ bị nhân viên kiểm dịch giữ chặt một cách đáng ngờ như vậy, anh đành bất lực đứng im. Hai nhân viên y tế công cộng vừa tiến đến áp sát hai bên, nhân viên kiểm dịch liền buông tay anh ra. Tuy không bị túm tay nữa nhưng giờ lại bị kẹp cứng giữa hai gã cao lớn, anh toát mồ hôi, trông không khác gì bị bắt. Những người đang đứng chờ kiểm dịch và làm thủ tục nhập cảnh nhìn anh chằm chằm. Có lẽ vì cảm nhận được những ánh nhìn đó mà anh toát mồ hôi lạnh, hốt hoảng nuốt khan đến phát sặc, cơn ho khiến máu dồn lên làm mặt anh nóng bừng. Sau khi đi dọc theo một hành lang kéo dài chẳng có gì đặc biệt, anh được đưa tới một căn phòng trông như thể vừa bị nhúng vào thùng sơn trắng rồi nhấc ra. Sàn nhà lát gạch trắng, bốn vách tường và trần đều sơn một màu trắng. Chăn đệm phủ trên cái giường thấp cũng một màu trắng, bên cạnh giường, đặt chơ vơ một bộ bàn ghế cũng màu trắng nốt. Tất cả mọi thứ trong phòng đều tỏa ra thứ ánh sáng giống một cái bồn rửa vừa được tẩy trắng và sát khuẩn. Vì vậy căn phòng trông thật lạnh lẽo, mà thực tế là đây cũng đang bật điều hòa ở nhiệt độ thấp nhất tới mức có thể cảm nhận rõ cái lạnh, khiến anh mấy lần phải xoa xoa bắp tay đang nổi da gà mà bật ho một tràng. Mời các bạn mượn đọc sách Tro Tàn Sắc Đỏ của tác giả Pyun Hye Young & Kim Ngân (dịch).
Vì Em Yêu Anh - Debbie Macomber
Tập trung vào chuyện tình của Christie và Bobby, chính là chuyện cổ tích về một nàng Lọ Lem hiện đại, duy mỹ và siêu thực.  Không có ai tầm thường và thiếu hi vọng như Christie khi nàng cặm cụi để tuổi xuân trôi trong tiệm thẩm mỹ, nhưng nàng vụt sáng thành công chúa khi tình yêu của Bobby đến như mặt trời tỏa rạng quanh nàng.  *** Debbie Macomber, tác giả của những bộ tiểu thuyết lãng mạn dài tập Trở lại phố Blossom, Khu vườn nhà Susannah, Một câu chuyện hay; Cửa hàng trên phố Blossom, Giữa những người bạn và Chuyện tình vịnh Cedar. Là một trong những cây bút hàng đầu hiện nay về dòng văn học giành cho phụ nữ. Debbie nổi tiếng nhất với khả năng tạo ra các nhân vật có sức chiến đấu và thổi hơi thở cuộc sống vào những câu chuyện của họ. Rút ra từ những trải nghiệm của bản thân và những người trong gia đình cũng như bạn bè, bà đã chứng minh khả năng nhìn thấu tâm hồn những người phụ nữ và khả năng diễn đạt trạng thái cảm xúc, các giá trị cũng như những lo lắng của họ. Trong bất kỳ cuốn sách nào của bà cũng thể hiện tính hài hước nổi bật. Thường xuyên xuất hiện trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất với hơn 100 triệu bản in, tác giả giành được nhiều giải thưởng này đã ghi một mốc son chói lọi trong sự nghiệp của bà vào tháng 9 năm 2007 khi tập sách mới đây nhất về Chuyện tình vịnh Cedar, 74 SEASIDE AVENUE (Vì anh yêu em), cùng lúc chiếm vị trí số 1 trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất của NEWYORK TIMES, USA TODAY, Publishers Weekly, Bookscan. Với những cuốn sách được dịch ra 23 thứ tiếng khác nhau, bà được độc giả trên toàn thế giới yêu mến. - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do Amazon.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do BordersBooks.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất do BarnesandNoble.com bình chọn - Top những cuốn sách bán chạy nhất của New York Times, USA Today, Publishers Weekly, Wall Street Journal, Waldenbooks, Los Angeles Times, Chiacago Tribune, Seattle Times… Truyện mở ra tại Vịnh Cedar, một thị trấn mơ mộng nằm trên bờ vịnh cùng tên, nơi mỗi sớm nắng nhuộm màu hồng mặt nước và mỗi đêm hải đăng hắt ánh vàng trên những lớp sóng lô xô, Đâu phải vì yêu là vở nhạc kịch tình say đắm về 2 đôi uyên ương mà số phận dun dủi kéo họ lại chung một lối. Olivia Lockhart đã tưới lọ nước hoa hạnh phúc cho Ian và Cecillia Randall, rồi chính bản thân nàng cũng nhận được cho mình vài giọt trong veo, nồng nàn quyến rũ. Ian và Cecil tìm lại nhau nhờ sự thu hút xác thân mãnh liệt, còn Jack đến với Olivia vì nàng nổi bật trên muôn người. Vượt qua mọi đam mê bản năng giữa đàn ông và đàn bà, chàng giục ngã trước vẻ đẹp tâm hồn và cá tình nàng. Họ sẽ đi về đâu với những đam mê ấy? Bằng ngòi bút lãng mạn và lôi cuốn, Debbie Macomber từng bước xây dựng cả một thiên đường tình ái đầy thiết tha mời gọi giữa chốn nhân gian này... *** Chiều tối thứ Năm, trên đường về nhà, Teri Polgar ghé vào cửa hàng tạp hóa. Vừa tha thẩn mua thức ăn, cô vừa nghĩ đến món đặc biệt sẽ làm tối nay - món thịt hầm mì ống và pho mát. Nghe có vẻ hợp với một tối mùa đông hơn là một tối giữa tháng Bảy, nhưng Teri thích món này vào mọi thời điểm trong năm. Và còn Bobby nữa chứ, Bobby thì hầu như chẳng bao giờ để ý đó là mùa gì, hay thậm chí là giờ nào trong ngày. Về đến nhà, Teri thấy chồng mình đang ngồi trước bàn cờ, tập trung cao độ. Điều này chẳng có gì là lạ. Nhưng lần này, cái bàn cờ lại đặt trên bàn ăn và em trai cô đang ngồi đối diện Bobby. Cả hai việc này đều bất bình thường. Johnny cười ngượng ngập khi Teri bước vào phòng với một túi đầy thực phẩm trên tay. “Em chỉ định rẽ qua nhà chị chơi một chút nhưng anh Bobby lại nằng nặc đòi chỉ cho em vài nước”, cậu giải thích. Bobby lẩm bẩm điều gì đó, có lẽ là để công nhận sự xuất hiện của cô. Anh rất hay nói chuyện một mình, chìm trong thế giới của những quân cờ của riêng anh. Nói là chồng cô hơi đặc biệt chưa đủ. Bobby vốn là người rất giỏi trong làng cờ quốc tế và anh là một trong những tay cờ hàng đầu thế giới. “Thế nào rồi?”. Teri vừa đặt túi đồ lên quầy bếp vừa hỏi. Johnny nhún vai, “Vẫn chưa có manh mối nào. Hỏi anh Bobby ấy”. “Chào anh, anh yêu”, cô vừa lướt sang phía bàn bên kia vừa hỏi chồng. Cô nhẹ nhàng vòng tay ôm cổ anh và đặt lên đó một cái hôn thật nồng nàn. Bobby siết chặt tay vợ và nhìn sang phía Johnny. “Em nhớ phải luôn bảo vệ hậu đấy nhé!”, anh khuyên cậu em trai vợ và cậu ta kiên nhẫn gật đầu. “Em ở lại ăn tối nhé?”. Cô bảo Johnny. Việc em trai cô ghé thăm vào một ngày trong tuần thế này là một ngạc nhiên thú vị. Teri rất tự hào về Johnny nhưng luôn cảm thấy cần phải bảo vệ cậu em trai của mình. Cô cho rằng điều này là hoàn toàn tự nhiên vì cô đã một mình nuôi dạy cậu. Giống Bobby, nhưng theo một cách hoàn toàn khác, gia đình cô cũng khá đặc biệt. Gần đây nhất, cô tính ra là mẹ mình đã lấy chồng tới sáu lần. Hay là bảy lần nhỉ? Teri không thể nhớ chính xác. Em gái cô cũng giống mẹ, chỉ có điều Christie đủ minh mẫn để không cưới những kẻ dễ dãi từng bước chân vào cuộc đời mình rồi lại nhanh chóng ra đi. Bản thân Teri cũng không tránh khỏi những bài học cay đắng nhất của cuộc đời, đặc biệt là những bài học liên quan tới loại đàn ông “dùng và lợi dụng”. Teri vẫn khó mà tin rằng Bobby Polgar có thể yêu cô. Cô làm việc ở một tiệm làm tóc và móng nghệ thuật. Cô luôn cho rằng bản thân có sự cách biệt lớn so với những người trí thức. Bobby luôn nói rằng cô có một thế giới tri thức thật sự, thiết thực và nhạy bén hơn những người làm việc trí óc như anh. Cô yêu anh vì lời nói ấy và thậm chí bắt đầu tin rằng đó là sự thực. Thật ra, cô yêu con người anh và yêu tất cả những gì thuộc về anh. Với cô, hạnh phúc này vẫn mới mẻ và nó làm cô hơi lo sợ. Cô có lý do để lo lắng, xuất phát từ thực tế, mặc dù không đến mức khiến cô mất ăn mất ngủ. Gần đây có hai người đàn ông đã tiếp cận cô, đó là kiểu người giống như những nhân vật trong một đoạn của bộ phim Sopranos . Cả người họ toát lên vẻ găng-xtơ. Mặc dù họ chưa thực sự làm gì cả, ngoài việc làm cô sợ hãi trong vài phút. Rõ ràng những tên khủng bố này được thuê để đe dọa Bobby. Dường như thông điệp của chúng là, dù Bobby có là ai đi chăng nữa, thì bất kể lúc nào, ông chủ của chúng cũng có thể tiếp cận cô. Tệ thật. Teri rất có ý thức cảnh giác khi đi trên đường phố và cô biết cách tự lo cho bản thân mình, tuy nhiên cô cũng phải thừa nhận là hai gã đó đã khiến cô phải lo lắng một chút. Nếu Bobby biết ai là kẻ phải chịu trách nhiệm về mối đe dọa nhằm vào cô, anh cũng không nói. Nhưng cô để ý thấy rằng anh chồng yêu quý của mình không hề tham gia vào cuộc đấu cờ nào kể từ khi những gã đàn ông đó tiếp cận cô. “Em phải về,” Johnny trả lời khi Teri mời ở lại ăn tối. ... Mời các bạn đón đọc Vì Em Yêu Anh của tác giả Debbie Macomber.
Vẫn Mãi Yêu Anh - Debbie Macomber
“Vẫn mãi yêu anh” của nữ nhà văn Debbie Macomber là cuốn truyện thứ 5 trong bộ tiểu thuyết lãng mạn dành cho phụ nữ, đã được dịch ra hơn 23 thứ tiếng khác nhau, với hơn 100 triệu bản sách đã được bán và được độc giả trên toàn thế giới yêu mến. Quá khứ có cách để song hành cùng hiện tại, “Vẫn mãi yêu anh” chứa đựng sự tương giao giữa rộng mở và bí ẩn. Lần đầu tiên trong cả series, người đọc thấy mình bị thách thức chứ không chỉ tận hưởng. Bởi khói ám của sự nghi ngờ bỗng nhen nhóm trong không gian tươi tắn thường thấy của Vịnh Cedar. Mọi việc bắt đầu khi những giỏ quà và bưu thiếp nặc danh thình lình xuất hiện một cách khó hiểu trước thềm nhà McAfee. Dò theo dấu vết của sự thách thức, Roy bị dẫn vào miền ký ức, với bao giằng co giữa hiện tại ấm áp và quá khứ chông chênh, với bao trăn trở giữa con người hưởng thụ và con người phấn đấu. “Vẫn mãi yêu anh”, như một dòng sông vừa nhận được thác nguồn bỗng phải đối mặt với một địa thế hiểm nghèo. Liệu Roy có vượt lên được dòng cuồng lưu nguy hiểm mà đầy cám dỗ ấy không? Tập truyện “Vẫn mãi yêu anh” là diễn biến của những va chạm, xung đột và thử thách, để các nhân vật tìm được tình yêu đích thực của mình. Đây còn là một câu chuyện đẹp, sâu sắc và cảm động trong mỗi cửa hàng của hiệu ở vịnh Cedar, khi luôn có bạn mới để gặp, còn những người bạn cũ thì luôn hân hoan chào đón... “Vẫn mãi yêu anh” chứa đựng vừa đủ tình yêu và tiếng cười, nỗi buồn và sự thanh thản của tâm hồn, sự lãng mạn và nồng nàn, thấm đẫm tình cảm gia đình. Người đọc như bị cuốn hút với diễn tiến của câu chuyện khi các nhân vật đi từ nỗi thất vọng cùng cực đến chỗ học cách để mỉm cười lần nữa. Còn những người phụ nữ trong truyện tìm thấy - nếu không phải tình yêu - thì chắc chắn là sự thanh thản trong tâm hồn để sống hạnh phúc mãi mãi về sau ... Cuộc sống với những câu chuyện tại vịnh Cedar thực sự là một thế giới tuyệt diệu, mà tác giả của nó, Debbie Macomber, nữ nhà văn hàng đầu ở thể loại tiểu thuyết dành cho phụ nữ, đã là một người dẫn đường tuyệt vời. Giọng văn tình cảm, lãng mạn và tinh tế của bà là lý do khiến bộ sách được hàng triệu phụ nữ trên thế giới yêu thích và đồng cảm. Cũng giống như các tập truyện khác của “Chuyện tình Vịnh Cedar”, “Vẫn mãi yêu anh” tiếp tục là một câu chuyện đẹp, nhẹ nhàng về về đề tài phụ nữ, trong đó mỗi người có những khát khao yêu thương và có bạn đồng hành, nương tựa lẫn nhau, giúp nhau tìm thấy mục đích sống trong mỗi cuộc đời. *** Debbie Macomber, tác giả của những bộ tiểu thuyết lãng mạn dài tập Trở lại phố Blossom, Khu vườn nhà Susannah, Một câu chuyện hay; Cửa hàng trên phố Blossom, Giữa những người bạn và Chuyện tình vịnh Cedar. Là một trong những cây bút hàng đầu hiện nay về dòng văn học giành cho phụ nữ. Debbie nổi tiếng nhất với khả năng tạo ra các nhân vật có sức chiến đấu và thổi hơi thở cuộc sống vào những câu chuyện của họ. Rút ra từ những trải nghiệm của bản thân và những người trong gia đình cũng như bạn bè, bà đã chứng minh khả năng nhìn thấu tâm hồn những người phụ nữ và khả năng diễn đạt trạng thái cảm xúc, các giá trị cũng như những lo lắng của họ. Trong bất kỳ cuốn sách nào của bà cũng thể hiện tính hài hước nổi bật. Thường xuyên xuất hiện trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất với hơn 100 triệu bản in, tác giả giành được nhiều giải thưởng này đã ghi một mốc son chói lọi trong sự nghiệp của bà vào tháng 9 năm 2007 khi tập sách mới đây nhất về Chuyện tình vịnh Cedar, 74 SEASIDE AVENUE (Vì anh yêu em), cùng lúc chiếm vị trí số 1 trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất của NEWYORK TIMES, USA TODAY, Publishers Weekly, Bookscan. Với những cuốn sách được dịch ra 23 thứ tiếng khác nhau, bà được độc giả trên toàn thế giới yêu mến. - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do Amazon.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do BordersBooks.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất do BarnesandNoble.com bình chọn - Top những cuốn sách bán chạy nhất của New York Times, USA Today, Publishers Weekly, Wall Street Journal, Waldenbooks, Los Angeles Times, Chiacago Tribune, Seattle Times… Truyện mở ra tại Vịnh Cedar, một thị trấn mơ mộng nằm trên bờ vịnh cùng tên, nơi mỗi sớm nắng nhuộm màu hồng mặt nước và mỗi đêm hải đăng hắt ánh vàng trên những lớp sóng lô xô, Đâu phải vì yêu là vở nhạc kịch tình say đắm về 2 đôi uyên ương mà số phận dun dủi kéo họ lại chung một lối. Olivia Lockhart đã tưới lọ nước hoa hạnh phúc cho Ian và Cecillia Randall, rồi chính bản thân nàng cũng nhận được cho mình vài giọt trong veo, nồng nàn quyến rũ. Ian và Cecil tìm lại nhau nhờ sự thu hút xác thân mãnh liệt, còn Jack đến với Olivia vì nàng nổi bật trên muôn người. Vượt qua mọi đam mê bản năng giữa đàn ông và đàn bà, chàng giục ngã trước vẻ đẹp tâm hồn và cá tình nàng. Họ sẽ đi về đâu với những đam mê ấy? Bằng ngòi bút lãng mạn và lôi cuốn, Debbie Macomber từng bước xây dựng cả một thiên đường tình ái đầy thiết tha mời gọi giữa chốn nhân gian này... *** Corrie McAfee đang lo lắng và chị biết rằng Roy, chồng mình cũng vậy. Không biết đó là ai nhỉ? Từ tháng Bảy, thám tửRoy bắt đầu nhận được một loạt các tấm thiệp không đề tên người gửi mà nội dung không hẳn là những lời đe dọa, song rõ ràng nó khiến người nhận phải ăn không ngon ngủ không yên. Đầu tiên là thông điệp được gửi đến văn phòng nói về sự ăn năn hối tiếc. Tiếp theo là một vài thông điệp khác rải rác suốt tuần. Corrie đã đọc kỹ không sót một tấm thiệp nào đến mức chị có thể nhớ nội dung từng chiếc một. Tấm thiệp đầu tiên viết: “Ai cũng có điều gì đó phải ăn năn. Có điều gì anh đã làm và ước mình có thể làm lại không? Hãy nghĩ về điều đó”. Không bao giờ có chữ ký người gửi trên những tấm thiệp này và chúng được gửi rải rác từ các địa điểm khác nhau. Những thông điệp bí ẩn cứ vẩn vơ trong tâm trí chị. Thời gian trôi qua mà vẫn chẳng đi đến đâu, Corrie thấy mình dần chìm vào mông lung, y như hồi mới nhận tấm thiệp đầu tiên, dù bây giờ đã là tháng Mười. Tiếng những giọt cà phê tí tách rơi xuống cốc làm Corrie giật mình, tạm quên những lo âu - chị đưa mắt nhìn qua ô cửa rộng trông ra vịnh Cedar, Washington. Làm thư ký và trợ lý của Roy cũng có cái lợi riêng, nhưng trường hợp này lại có những bất lợi. Có những chuyện không biết lại tốt hơn, và điều đó đúng với Corrie lúc này. Hẳn chị đã không phải thao thức hằng đêm nếu không biết gì về những tấm thiệp bí ẩn kia. Cho dùRoy cố giấu thì chị vẫn có thể biết, vì tấm thiệp mới rồi được đưa tới tận cửa nhà của hai vợ chồng thay vì gửi tới văn phòng như mọi khi. Một buổi tối muộn, có người đã tới tận cửa nhà khi Roy và Corrie đang mời khách dùng cơm tối. Họ mở cửa và thấy có người nào đó đã để một giỏ hoa quả cùng lời nhắn. Một cảm giác lành lạnh chạy dọc sống lưng Corrie khi chị nghĩ rằng kẻ giấu mặt đã biết nơi ở của hai vợ chồng. “Cà phê đã pha xong chưa em?”. Roy hỏi vọng ra từ trong văn phòng. Tất nhiên chị chưa thể pha xong nhanh như vậy. “Anh chờ chút đi chứ!”. Corrie không muốn gắt với chồng và chị vốn không phải người nóng nảy, song những điều bí ẩn gần đây khiến chị không khỏi bồn chồn. Corrie thở dài, rót cà phê ra tách và mang vào cho Roy, những làn khói bay lên nghi ngút. “Thôi được, chuyện là thế này”, chị vừa nói, vừa đặt tách cà phê lên góc bàn. “Chúng ta cần phải nói chuyện”. Như thể chẳng có gì phải lo nghĩ, Roy dựa vào ghế, tay đan vào nhau, đặt ở sau đầu. Họ đã cưới nhau được 27 năm, cho đến giờ Corrie vẫn thấy Roy hấp dẫn như hồi chị gặp anh ở trường đại học. Hồi đó Roy ở trong đội bóng của trường Đại học Washington và mọi người thường ca ngợi anh là chàng sinh viên của khu ký túc. Anh cao to, vai rộng, cơ bắp săn chắc và dáng người cứng cáp. Corrie cảm thấy hơi ghen tị vì dường như anh luôn giữ được vóc dáng như vậy mà chẳng cần chút nỗ lực kiêng khem gì. Mái tóc đen, mỏng của anh đã điểm bạc, nhưng điều đó càng làm tăng thêm vẻ đạo mạo cho người đàn ông điển trai này. Trong số tất cả những cô gái anh hẹn hò hồi ở đại học, anh đã phải lòng Corrie. Tuy vậy, chưa hề có một cuộc tán tỉnh dễ dãi nào. Họ chia tay hơn một năm và khi quay lại, cả hai đã nhận ra rằng họ yêu nhau và tình cảm của họ bền chặt biết nhường nào. Không lâu sau khi tốt nghiệp, hai người đã kết hôn và sau nhiều năm, tình yêu của họ đã nếm trải đủ cả thử thách lẫn niềm vui hạnh phúc. “Nói về điều gì cơ?”. Roythờ ơ hỏi. Sự thờ ơ đó không làm Corrie nản chí. Chồng chị đã biết rõ chị đang nghĩ gì. “Tin nhắn QUÁ KHỨ CÓ CÁCH ĐỂ SONG HÀNH CÙNG HIỆN TẠI có gợi cho anh điều gì không?”. Corrie ậm ừ, vừa nói vừa ngối xuống chiếc ghế dành cho khách hàng. Chị muốn chồng biết rằng mình không bỏ cuộc dễ dàng. Chị sợ rằng anh sẽ giả vờ tỏ ra không quan tâm lắm đến những tấm thiệp. Có vẻ như anh muốn ra sức làm chị nhụt chí, ngừng tìm hiểu về những rắc rối đang diễn ra.Roy nhíu mày: “Những thông điệp đó chẳng có gì liên quan đến em nên đừng để ý đến chúng làm gì”. ... Mời các bạn đón đọc Vẫn Mãi Yêu Anh của tác giả Debbie Macomber.