Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cú Săn Đêm

Tháng Mười. Mùa đông đến sớm như tấm mạng sương giá xám xịt phủ lên cả thành phố, và lên tấm thân lõa thể của cô gái mười bảy tuổi bị sát hại trong một nghi lễ kỳ dị vương đầy lông vũ. Một lần nữa, chỉ huy đội trọng án Holger Munch và nữ đồng nghiệp Mia Krüger dấn thân vào cuộc truy đuổi, đào sâu vào những bí mật ẩn giấu của một thành phố tưởng như êm đềm, đến với những tâm hồn tổn thương bị quên lãng, để rồi đưa sự nghiệp và thậm chí cả đời mình vào cuộc chơi của tên sát nhân bệnh hoạn. Cú săn đêm, tập tiếp theo trong series truyện về Holger Munch và Mia Krüger của Samuel Bjørk tiếp tục đưa độc giả đến với vùng đất Bắc Âu lạnh giá ẩn chứa nhiều bí mật rợn người. “Những tình tiết của Cú săn đêm không những thu hút, mà còn phức tạp như một ma trận, với vô vàn sự kiện xoay vần phi phường, khiến chúng ta không thể rời mắt cho tới tận phút cuối.” - Crime Scene Magazine *** Vốn có ấn tượng tốt với tác giả Samuel Bjork từ sau quyển “Tôi du hành một mình” (không hiểu sao Biển cứ nghĩ tác giả này là người Do Thái nhưng thật ra ông là người Na Uy), tuy từng đọc được review chê quyển “Cú săn đêm” nhưng Biển vẫn bất chấp mua về đọc, thật may rằng đây cũng là một câu chuyện hay, đáng đọc. Trong quyển “Cú săn đêm”, thi thể một thiếu nữ khoảng 16 tuổi được tìm thấy giữa đám lông vũ, hiện trường được xếp đặt như một nghi lễ hiến tế kỳ lạ. Chỉ huy đội trọng án Holger Much, nữ cảnh sát Mia Kruger và các đồng nghiệp khác đảm nhận việc phá án. Holger Munch phải cố gắng dành thêm thời gian cho gia đình, Mia Kruger phải vật vã cân bằng giữa cuộc sống hiện tại và những ký ức đau buồn trong quá khứ, những người khác trong đội trọng án cũng phải đương đầu và tìm cách vượt qua những khó khăn riêng của họ. Vụ án xoay chuyển theo hướng tồi tệ khi họ tình cờ nhận được sự hỗ trợ của một nhân vật tài giỏi bí ẩn…   Tuy thích trinh thám Bắc Âu nhưng Biển chưa có dịp đọc nhiều truyện thuộc thể loại này, tuy nhiên hầu như quyển trinh thám Bắc Âu nào Biển đọc, các nhân vật cũng nghiện rượu hoặc / và thuốc lá. Chẳng lẽ tại khí hậu Bắc Âu quá lạnh nên con người phải dựa vào chất cồn và thuốc lá để giữ ấm, giữ minh mẫn? Trinh thám TQ thì hay ca tụng nhân vật quá đáng, ai cũng long lanh lộng lẫy khí chất siêu phàm thoát tục, còn trinh thám phương Tây / Bắc Âu thì hay tả thực khuyết điểm của nhân vật đến mức gần như hạ thấp họ. Trong quyển “Cú săn đêm” này, nhiều lúc Biển bực bội với tính cách yếu đuối và sự thiếu kiểm soát bản thân của các nhân vật chính lẫn phụ. Holger Munch là ông già 60 mà đôi lúc còn suy nghĩ hành xử như một gã trai trẻ chưa hiểu chuyện đời; Mia Kruger có tài năng thiên bẩm trong việc phá án nhưng mãi chẳng thể vượt qua nỗi đau mất chị gái từ 10 năm trước, suốt ngày chỉ lạm dụng chất cồn và các loại thuốc, còn trẻ còn sống tốt mà cứ liên tục nghĩ đến chuyện tự tử để đoàn tụ với gia đình ở thế giới bên kia; còn một nhân vật phụ khác có gia đình êm ấm, người yêu hết lòng cưng chìu, thế mà ngoại tình và bị hãm hại nguy hiểm đến tính mạng… Đồng ý rằng trong tiểu thuyết nếu xây dựng nhân vật quá hoàn hảo thì sẽ bị rơi vào hình tượng Mary Sue (xin hãy Google để biết Mary Sue là ai) nhưng nếu bản thân đã là người có trách nhiệm / học vấn / địa vị / tài sản thì nên sống sao để có ích cho chính mình và sinh linh khác. Thân làm cảnh sát mà đầu óc cứ lơ mơ, hành xử bất cẩn, đến sống chết của mình còn chưa quản được thì làm sao cứu giúp người khác. Đây có lẽ là một trong những trường hợp Biển thích truyện của tác giả nhưng không thích nhân vật do tác giả xây dựng. Nhân vật Biển thích nhất trong quyển này là Kristian Karlsen. Về cốt truyện thì Biển thấy ổn, có lẽ sẽ có độc giả cho rằng quyển này dông dài lê thê nhưng ngoại trừ các đoạn viết hơi dư thừa về khuyết điểm của nhân vật thì tình tiết truyện đủ lôi cuốn, đọc không nhàm chán. Riêng đoạn kết Biển phải đọc hai lần mới biết ai là người qua đời. Bối cảnh là mùa đông Bắc Âu nên trong truyện có nhiều câu chữ và từ ngữ nói về cái lạnh, vừa là sự lạnh lẽo của thời tiết vừa là sự lạnh lùng trong lòng người. Truyện cũng khiến Biển nghĩ ngợi một chút về các thể loại hung thủ, có khi vì tuổi thơ bất hạnh dẫn đến đầu óc không bình thường, rối loạn nhân cách phản xã hội. Hung thủ như vậy dẫu đem xử tử thì vẫn thấy đáng thương. Như mọi khi, bìa sách của Nhã Nam vẫn rất hoàn hảo. Sách trình bày đẹp, dịch thuật rất tốt, không có lỗi chính tả hoặc lỗi in ấn. Tuy khá thích nội dung và văn phong của tác giả Samuel Bjork nhưng nếu các quyển sau vẫn là nhân vật Mia Kruger nghiện rượu nghiện thuốc và thích tìm chết thì khả năng 50% là Biển sẽ không đọc tiếp, trừ khi cốt truyện quá xuất sắc. – Biển *** LỜI DẪN Vào một ngày thứ Sáu mùa xuân năm 1972, lúc cha xứ thành phố Sandefjord đang khóa cửa nhà thờ, một cuộc viếng thăm bất ngờ đã khiến ông phải mở cửa phòng làm việc lâu thêm một chút. Ông chưa từng gặp cô gái, nhưng ông nhận ra chàng trai. Anh ta là con cả của một trong những người đáng kính nhất trong thành phố, một tay trùm vận tải không những thuộc hàng giàu nhất Na Uy mà còn là người ủng hộ trung thành của nhà thờ, và bằng sự hào phóng của mình, bên cạnh nhiều điều khác, mười năm trước đã cho làm một bức tranh thờ lớn bằng gỗ gụ chạm khắc mười bảy cảnh đời của Chúa Jesus, một tác phẩm trang trí khiến vị cha xứ rất đỗi tự hào. Cặp đôi trẻ có một đề nghị đặc biệt. Họ muốn thành hôn, nhưng họ muốn cha xứ chủ trì nghi lễ và không có bất kỳ ai khác hiện diện. Đề nghị đó không có gì khác thường, nhưng lý do đằng sau nó thì lại kỳ lạ đến nỗi ban đầu, cha xứ tưởng cặp đôi hắn đang nói đùa. Nhưng ông hiểu tay trùm vận tải, ông biết rõ hắn sùng đạo và bảo thủ đến mức nào, và ông bắt đầu nhận ra cặp đôi trẻ quả thật nghiêm túc. Sức khỏe của tay trùm vận tải dạo gần đây không được tốt, có lời đồn hắn đang nằm chờ chết. Chàng trai trẻ đang ngồi trước mặt ông sẽ sớm được thừa kế một cơ nghiệp kếch xù; tuy nhiên, bố anh ta đã đính kèm một điều kiện vào quyền thừa kế: không giọt máu ngoại tộc nào được trộn lẫn với huyết thống gia đình. Người phụ nữ kết hôn với người kế nghiệp, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cũng không được phép có con riêng từ những mối quan hệ trước. Mà rắc rối lại nằm ở đó. Người phụ nữ trẻ mà con trai của tay trùm vận tải đang yêu say đắm đã có con riêng từ cuộc hôn nhân trước. Một cô bé hai tuổi và một cậu nhóc đã lên bốn. Bọn trẻ sẽ được giấu đi xa, và khi đó vị cha xứ có thể lặng lẽ làm lễ thành hôn cho cặp đôi để có vẻ như cô dâu đáp ứng được yêu cầu của tay trùm vận tải, và sẽ không có ai nổi hứng tìm cách khui ra sự thật. Liệu việc đó có khả dĩ? Đây là kế hoạch mà cặp đôi đã vạch ra: chàng trai có một người họ hàng xa ở Úc. Bà ta hứa sẽ chăm sóc bọn nhỏ cho đến khi tay trùm vận tải qua đời. Một năm nữa, hoặc có lẽ là hai, và sau đó lũ trẻ có thể trở lại Na Uy. Ai mà biết được chứ, tay trùm vận tải có khi sẽ lên cổng thiên đàng sớm hơn dự kiến. Vị cha xứ nghĩ sao? Liệu ông có sẵn sàng giúp đỡ họ lúc cần? Vị cha xứ giả bộ như đang phân vân về đề nghị của họ, nhưng thật ra ông đã có quyết định. Chiếc phong bì mà chàng trai kín đáo để trên bàn rất dày, và tại sao lại không giúp đôi tình nhân trẻ chứ? Xét cho cùng, đòi hỏi của tay trùm vận tải quá mức vô lý, chẳng phải vậy sao? Cha xứ đồng ý làm lễ cho cặp đôi, và một tuần sau đó, trong buổi lễ nhỏ tổ chức tại nhà thờ đóng kín cửa, phía trước bức tranh thờ hoành tráng, họ đã thành hôn. Chưa đầy một năm sau, tháng Một năm 1973, cha xứ lại được viếng thăm lần nữa, lần này, người phụ nữ trẻ đến một mình. Rõ ràng cô đang rất bất an và thú nhận với ông cô không biết trông cậy vào ai khác. Tay trùm vận tải già đã qua đời, nhưng có điều gì đó không ổn. Cô không nghe được bất kỳ tin tức nào về bọn trẻ. Người ta hứa cô sẽ nhận được ảnh, thư, nhưng lại chẳng có gì hết, không một chữ nào, và cô bắt đầu nghi ngờ không biết người họ hàng xa ở Úc này có thật sự tồn tại hay không. Cô còn giãi bày với ông rằng người đàn ông cô lấy làm chồng hóa ra không như cô vẫn tưởng. Họ đã bất hòa đến mức không thèm nói chuyện với nhau, cũng không còn ngủ chung; anh ta có nhiều bí mật, những bí mật đen tối, những điều thậm chí cô còn không thể nói thành lời; những điều cô thậm chí khó có thể nghĩ tới. Liệu cha xứ có thể giúp cô? Ông trấn an cô, cam đoan là tất nhiên ông sẽ giúp, rằng ông sẽ cẩn thận suy nghĩ mọi chuyện, rồi ông dặn cô mấy ngày sau quay lại. Sáng hôm sau, người ta phát hiện ra thiếu phụ này đã chết, gục trên vô lăng trong xe hơi của mình giữa khe núi sâu gần căn nhà sang trọng của gia đình tay trùm vận tải tại Vesteroya, ngoài trung tâm Sandefjord. Báo chí bóng gió rằng người phụ nữ có thể đã lái xe khi đang say rượu, và cảnh sát quả thật đã xem cái chết của cô là một tai nạn thương tâm. Sau khi giúp đỡ gia đình thu xếp tang lễ, cha xứ quyết định tới thăm tay trùm vận tải trẻ tuổi. Ông giải thích, đúng theo sự thật, là người phụ nữ trẻ đã đến gặp ông hôm trước vụ tai nạn. Rằng cô rất lo lắng cho những đứa con của mình. Rằng có điều gì đó, chậc, có điều gì đó không hợp lý. Tay trùm vận tải trẻ lắng nghe và gật đầu. Giải thích rằng, buồn thay, dạo này vợ anh ta đang bệnh nặng. Phải uống thuốc. Uống rượu vô độ. Xét cho cùng, chính cha xứ đã chứng kiến cái kết cục bi thảm rồi đấy. Tay trùm vận tải trẻ viết một con số lên mẩu giấy rồi đẩy nó sang phía bên kia bàn làm việc. Thị trấn này chắc hẳn quá nhỏ đối với cha xứ? Chẳng phải sẽ tốt hơn nhiều nếu ông phụng sự Chúa ở một nơi khác, có lẽ gần thủ đô hơn? Cha xứ đứng lên khỏi ghế, và đó là lần cuối cùng ông gặp tay trùm vận tải trẻ tuổi và quyền lực. Vài tuần sau ông thu dọn hành lý. Ông không bao giờ đặt chân trở lại Sandefjord nữa. Trên sofa, cô gái nhỏ cố hết sức nằm yên dưới tấm chăn, đợi những đứa trẻ khác chìm vào giấc ngủ. Em đã quyết định. Tối nay, em sẽ làm việc đó. Em sẽ không phải sợ hãi nữa. Không phải chờ đợi nữa. Em đã bảy tuổi và đã người lớn lắm rồi. Em sẽ rời đi ngay khi trời vừa tối. Em đã không nuốt viên thuốc ngủ dành cho tối nay. Chỉ đẩy nó xuống dưới lưỡi, giữ nó ở đấy trong lúc em cho dì Julia thấy em ngoan như thế nào. “Cho dì xem nào.” Lè lưỡi ra. “Ngoan lắm. Người tiếp theo.” Anh trai em đã làm thế này một thời gian dài. Kể từ khi họ nhốt cậu vào trong hầm đất nện. Tối nào cậu cũng giấu viên thuốc dưới lưỡi chứ không nuốt. "Cho dì xem nào.” Lè lưỡi ra. “Ngoan lắm. Người tiếp theo.” Ba tuần trong bóng tối vì không chịu xin lỗi. Tất cả bọn trẻ đều biết cậu không làm gì sai, nhưng người lớn vẫn luôn nhốt cậu vào hầm. Kể từ lúc đó cậu đã thay đổi. Mọi tối cậu đều giấu viên thuốc dưới lưỡi chứ không nuốt, và khi viên thuốc của em bắt đầu phát huy tác dụng và em dần chìm vào giấc ngủ, em sẽ nhìn thấy cái bóng của cậu nhón chân rời khỏi phòng rồi biến mất. Cô gái nhỏ đợi cho đến khi nghe ra bọn nhóc đã chìm vào giấc ngủ rồi lẻn ra khỏi nhà. Trời đã vào đông nhưng vẫn còn ấm áp, hoàng hôn đã nhẹ nhàng buông xuống giữa những tán cây. Cô gái nhỏ đi chân trần băng qua khu vườn, nép mình trong bóng tối cho đến khi được cây cối che khuất. Sau khi chắc chắn mình sẽ không bị phát hiện, em chạy dọc con đường nhỏ nằm giữa những hàng cây cổ thụ hướng về phía cánh cổng mang dòng chữ “Kẻ xâm phạm sẽ bị truy tố”. Đây là nơi em quyết định bắt đầu cuộc tìm kiếm. Em đã nghe anh trai và một thằng nhóc khác thì thầm về nó. Một nhà kho cũ đổ nát, một cabin nhỏ bị bỏ quên nằm tít tận phía bên kia khu đất, nhưng em chưa bao giờ tận mắt thấy. Ngày nào cũng vậy, chúng luôn bị đánh thức vào sáu giờ sáng và lên giường vào chín giờ tối. Luôn là một quy trình giống nhau, không có sự thay đổi, với hai lần nghỉ mười lăm phút giữa các tiết học, bài tập về nhà, yoga, giặt giũ và đủ mọi việc vặt phải hoàn thành. Cô gái nhỏ mỉm cười trước tiếng dế kêu, và em cảm thấy những ngọn cỏ mềm mại đang mơn trớn bàn chân khi em rời khỏi con đường mòn và di chuyển thận trọng dọc hàng rào đến nơi em chắc mẩm cái cabin tọa lạc. Chẳng hiểu vì sao, em không sợ hãi. Em cảm thấy lâng lâng; nỗi khiếp sợ phải một lúc nữa mới đến; ngay bây giờ, em thấy hạnh phúc, tự do như một chú chim, một mình với những suy nghĩ trong khu rừng xinh đẹp tỏa mùi dễ chịu. Em cười rạng rỡ, lướt ngón tay bên trên một cái cây nhỏ giống hình ngôi sao; cảnh tượng gần giống như em thường mơ những khi viên thuốc ngủ không phát huy hết công dụng. Em vội thụp xuống bên dưới một cành cây và thậm chí không dám nhảy dựng lên khi nghe thấy tiếng sột soạt ở bụi cây gần đó. Có lẽ một con gấu túi đã đánh bạo trèo từ trên cây xuống. Em cười khúc khích một mình và tự hỏi không biết nếu vỗ về một con gấu túi thì sẽ như thế nào. Em biết chúng có móng vuốt sắc bén, và không được âu yếm cho lắm, nhưng em vẫn cố gắng tưởng tượng ra những xúc cảm khi xọc tay vào bộ lông mượt mà ấm áp của chúng, khi cái mũi mềm mại cù vào cổ em. Em suýt chút nửa quên mất lý do mình ra ngoài, nhưng rồi bỗng nhiên em nhớ ra và dừng khựng khi bức tường cabin xuất hiện ngay phía trước. Cô gái nhỏ nghiêng đầu chăm chú nhìn những tấm ván gỗ màu xám. Vậy ra nó có thật. Có một nơi ở trong rừng. Một nơi ta có thể ẩn náu. Được ở một mình. Em rón rén bước tới gần ngôi nhà gỗ và cảm thấy một niềm phấn khích râm ran khắp cơ thể khi em tiến dần đến cửa. Cô gái nhỏ không hề biết cảnh tượng đang đợi phía trước sẽ thay đổi cuộc đời em mãi mãi, và nó sẽ ám ảnh em hàng đêm suốt bao nhiêu năm tháng sắp tới: dưới tấm chắn trên chiếc sofa cứng, trên chuyến bay xuyên lục địa sau khi cảnh sát phát hiện ra những đứa trẻ đang kêu khóc, dưới chiếc chăn lông vịt trên chiếc giường êm ái tại một đất nước mới, nơi những âm thanh đều khác biệt. Em không biết gì về chuyện này khi với tay về phía nắm đấm cửa bằng gỗ và từ từ mở cánh cửa cọt kẹt. Bên trong tối thui. Mất một vài giây mắt em mới có thể nhìn rõ, nhưng không còn nghi ngờ gì nữa. Lúc đầu chỉ là những đường nét mơ hồ, rồi mọi thứ trở nên rõ ràng hơn, cậu đang ở trong nhà. Anh trai em. Cậu không mặc quần áo. Cậu hoàn toàn trần truồng. Trần truồng, nhưng cơ thể lại được bao phủ bởi… lông vũ? Cậu co rúm trong góc, giống như một con chim, một sinh vật vặn vẹo từ thế giới khác, miệng ngậm gì đó. Một con thú nhỏ. Một con chuột? Anh trai em người phủ đầy lông vũ và đang ngậm một con chuột chết giữa hai hàm răng. Đây sẽ là hình ảnh thay đổi cuộc đời em mãi mãi. Anh trai em từ từ quay lại nhìn em, đôi mắt ngập tràn vẻ băn khoăn, như thể không nhận ra em là ai. Ánh sáng xuyên qua cái cửa sổ bẩn thỉu chiếu xuống đôi bàn tay phủ lông vũ của cậu, lúc này đang chậm chạp cử động trong không trung. Miệng cậu ngoác ra thành một nụ cười toe toét để lộ hàm răng trắng bóc trong lúc cậu lấy con chuột trong miệng ra, đôi mắt tái dại nhìn thẳng vào mắt em và nói, “Tôi là con cú.” Mời các bạn đón đọc Cú Săn Đêm của tác giả Samuel Bjørk.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cái Chết Giữa Thinh Không - Agatha Christie
Cái Chết Giữa Thinh Không (Cái chết trên mây), Nguyên tác: Death in the Clouds/ Death in the Air. Là tập 12 trong series về Thanh Tra Hercule Poirot. Trên chuyến phi cơ hạng sang Prometheus nhắm hướng bay đến phi trường Croydon, thám tử Hercule Poirot theo thói quen nghề nghiệp đưa mắt theo dõi từng hành khách trên máy bay. Trước tiên là nàng Jane Grey đang ngồi thu mình rụt rè... còn Norman Gale đăm chiêu nghĩ ngợi... đến anh chàng nhà khảo cổ trẻ tuổi Jean Dupont vừa nhổm người đứng dậy giơ tay đập chết con o­ng vò vẽ bay vù vù trên đầu mọi người. Mãi đến lúc phát hiện Madame Giselle ngồi chết ở dãy ghế phía sau khoang tàu, thám tử Hercule Poirot mới nhận ra còn một con o­ng khác nữa, chính là một mũi tên tẩm độc dùng ống xì đồng thổi bay đi.  Tên của Hercule Poirot được lấy theo hai nhân vật thám tử khác là Hercule Popeau của nhà văn Marie Belloc Lowndes' và Monsieur Poiret của Frank Howel Evans trong đó Poiret là một thanh tra cảnh sát người Bỉ đã nghỉ hưu và sống ở Luân Đôn. Hercule Poirot xuất hiện lần đầu trong tiểu thuyết trinh thám đầu tay của Agatha Christie Vụ án bí ẩn ở Styles (The Mysterious Affair at Styles) xuất bản năm 1920. Hercule Poirot bắt đầu thực sự nổi tiếng sau khi tiểu thuyết Vụ ám sát Roger Ackroyd (The Murder of Roger Ackroyd) được Agatha Christie cho xuất bản năm 1926, sau đó nữ nhà văn còn cho ra đời nhiều tiểu thuyết xuất sắc khác về Poirot như Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông (Murder on the Orient Express), The ABC Murders (1935), Cards on the Table (1936) hay Five Little Pigs (1942). Lần xuất hiện cuối cùng của Poirot là trong tiểu thuyết Thám tử rời sân khấu (Curtain: Poirot's Last Case) xuất bản năm 1975 chỉ một năm trước khi Agatha Christie qua đời. Sau khi Thám tử rời sân khấu được xuất bản, tờ New York Times trong số báo ra ngày 6 tháng 8 năm 1975 đã có một bài điếu văn với tựa đề "Hercule Poirot is Dead; Famed Belgian Detective" ("Hercule Poirot đã chết; Thám tử người Bỉ danh tiếng"), Poirot là nhân vật giả tưởng duy nhất cho đến nay có được vinh dự này. Mặc dù Hercule Poirot là nhân vật xuất hiện nhiều nhất trong số các tiểu thuyết của Agatha Christie nhưng ngày từ năm 1930 nhà văn đã bộc lộ sự chán ngán với nhân vật này, tuy nhiên bà vẫn tiếp tục sáng tác các tiểu thuyết mới xoay quanh viên thám tử người Bỉ vì theo Christie thì nhiệm vụ của nhà văn là sáng tác ra những gì công chúng yêu thích, và Poirot lại là nhân vật được độc giả hết sức yêu mến. *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Cái Chết Giữa Thinh Không (Cái chết trên mây) của tác giả Agatha Christie.
Cái Bẫy Chuột - Agatha Christie
Tính đến năm 2007, Vở kịch The Mousetrap (Cái bẫy chuột) của Agatha Christie hiện đang giữ kỷ lục vở kịch được công diễn lâu nhất trong lịch sử sân khấu London, ra mắt lần đầu tại rạp Ambassadors Theatre ngày 25 tháng 11 năm 1952 và vẫn tiếp tục được diễn cho đến nay với trên 20.000 buổi diễn. Nội dung của nó kể về một vụ án mạng có thật, từng gây chấn động Vương quốc Anh vào năm 1945. Chiến tranh thế giới thứ hai, Vương quốc Anh là một trong những đế quốc tham chiến sớm nhất. Cho đến ngày hiệp ước đình chiến được các bên ký kết, tổng thiệt hại về người của đảo quốc sương mù cho cuộc chiến này là 320.000 người. So với những quốc gia tham chiến khác như Liên Xô, Đức, Ba Lan… thì con số này rất "nhỏ". Thế nhưng, chỉ tính riêng tại Vương quốc Anh, thì con số này lớn vô cùng. Ngày 9/1/1945, cậu bé Dennis O’Neill - 13 tuổi bị phát hiện đã chết trong tình trạng thể chất vô cùng kinh khủng. Cậu bé gần như chỉ còn một bộ da bọc xương, cơ thể bầm dập những vết đòn roi, vết đòn cũ chưa mờ thì đã bị che lấp bởi những trận đòn kế tiếp. Dennis và em trai Terence - 11 tuổi, được một đôi vợ chồng trung niên nuôi nhận ở một nông trại hẻo lánh tại Shropshire. 13 giờ chiều, mẹ nuôi của Dennis - bà Esther Gough gọi điện báo với bác sỹ rằng Dennis đã ổn định, sức khỏe đang hồi phục. Thế nhưng đến 15h cùng ngày, khi vị bác sỹ đến nông trại, Dennis đã chết. Và theo khám nghiệm tử thi cũng như kết luận từ các bác sỹ, Dennis đã chết nhiều giờ trước đó. Nước Anh một phen chấn động về cái chết của Dennis. Thời điểm ấy, báo chí xứ sở sương mù chỉ đưa tin về những chiến thắng của quân đội Anh trước phe phát-xít, về hàng nghìn kẻ thù bị tiêu diệt trong ở mỗi chiến trường, về những thiệt hại của người Anh trong cuộc chiến. Vậy nhưng, hình ảnh về cái chết thương tâm của Dennis O’Neill vẫn khiến tất cả phải ngậm ngùi. Kết quả khám nghiệm tử thi gây sốc với tất cả. Dennis bị trụy tim do bị đánh quá mạnh vào lồng ngực. Cậu bé bị giết, chứ không phải vì chết đói nữa. Dennis chết, chỉ 2 ngày trước sinh nhật tuổi 13. Và phải có kẻ phải chịu trách nhiệm cho tội ác này. *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Cái Bẫy Chuột của tác giả Agatha Christie.
Ba Điều Bí Ẩn - Agatha Christie
Ba Điều Bí Ẩn là tập 18 trong series về Thanh Tra Hercule Poirot. Tên của Hercule Poirot được lấy theo hai nhân vật thám tử khác là Hercule Popeau của nhà văn Marie Belloc Lowndes' và Monsieur Poiret của Frank Howel Evans trong đó Poiret là một thanh tra cảnh sát người Bỉ đã nghỉ hưu và sống ở Luân Đôn. Hercule Poirot xuất hiện lần đầu trong tiểu thuyết trinh thám đầu tay của Agatha Christie Vụ án bí ẩn ở Styles (The Mysterious Affair at Styles) xuất bản năm 1920. Hercule Poirot bắt đầu thực sự nổi tiếng sau khi tiểu thuyết Vụ ám sát Roger Ackroyd (The Murder of Roger Ackroyd) được Agatha Christie cho xuất bản năm 1926, sau đó nữ nhà văn còn cho ra đời nhiều tiểu thuyết xuất sắc khác về Poirot như Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông (Murder on the Orient Express), The ABC Murders (1935), Cards on the Table (1936) hay Five Little Pigs (1942). Lần xuất hiện cuối cùng của Poirot là trong tiểu thuyết Thám tử rời sân khấu (Curtain: Poirot's Last Case) xuất bản năm 1975 chỉ một năm trước khi Agatha Christie qua đời. Sau khi Thám tử rời sân khấu được xuất bản, tờ New York Times trong số báo ra ngày 6 tháng 8 năm 1975 đã có một bài điếu văn với tựa đề "Hercule Poirot is Dead; Famed Belgian Detective" ("Hercule Poirot đã chết; Thám tử người Bỉ danh tiếng"), Poirot là nhân vật giả tưởng duy nhất cho đến nay có được vinh dự này. Mặc dù Hercule Poirot là nhân vật xuất hiện nhiều nhất trong số các tiểu thuyết của Agatha Christie nhưng ngày từ năm 1930 nhà văn đã bộc lộ sự chán ngán với nhân vật này, tuy nhiên bà vẫn tiếp tục sáng tác các tiểu thuyết mới xoay quanh viên thám tử người Bỉ vì theo Christie thì nhiệm vụ của nhà văn là sáng tác ra những gì công chúng yêu thích, và Poirot lại là nhân vật được độc giả hết sức yêu mến. *** Hamborough Close, Westshire Ngày 24-9-1936 Kính gửi ông Hercule Poirot, Một vụ việc vừa phát sinh, đòi hỏi sự xử lý tinh tế và kín đáo. Tôi đã nghe nhiều người nói tốt về ông, nên quyết định giao phó việc này cho ông. Tôi có nhiều lý do để tự tin mình là nạn nhân của một vụ gian lận, Nhưng vì lý do gia đình, không muốn kêu cảnh sát. Tôi đã có một số biện pháp để phòng thân và đối phó với tình hình, nhưng ông cần sẵn sàng đến đây ngaykhi vừa nhận được điện. Ông khỏi cần trả lời thư này, xin gửi tới ông lòng biết ơn. Kính thư: Gervase Chevenix-Gore *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Ba Điều Bí Ẩn của tác giả Agatha Christie.
Thành Phố Trộm - David Benioff
Trong cuộc phong tỏa Leningrad tàn bạo của quân Đức, Lev Beniov bị bắt vì tội hôi của và bị ném vào cùng xà lim với tên đào ngũ điển trai tên Kolya. Thay vì bị hành quyết, Lev và Kolya còn có cơ hội giữ mạng sống bằng cách thực thi một nhiệm vụ tưởng chừng không thể: tìm về một tá trứng. Trong một thành phố bị cắt đứt mọi nguồn tiếp tế và chịu sự thiếu đói không thể tin nổi, Lev và Kolya dấn thân vào một cuộc săn lùng qua khắp tình trạng hỗn loạn tàn khốc của Leningrad và đằng sau phòng tuyến địch để tìm cái bất khả. Với những diễn biến khôi hài và thâm thúy, kinh hoàng và xúc động, Thành Phố Trộm là một cuộc phiêu lưu Thế chiến 2 nghẹt thở, đầy chất điện ảnh, là câu chuyện của lứa tuổi thành niên thân thiết với cảm xúc cực kỳ hiện đại để nói về quá trình các chàng trai trở thành đàn ông. “Cuốn tiểu thuyết thứ hai của David Benioff khắc họa một cốt truyện mạnh mẽ, một tình bạn sôi nổi, một chuyện yêu đương kỳ quặc, đủ hạng người xấu đáng sợ, một bầu không khí chập chờn giữa chủ nghĩa hiện thực thô sượng và sự lố bịch kiểu thần thoại và một khiếu hài tăm tối nhưng khó cưỡng; thật ra là mọi thứ mà bạn đọc có thể mong đợi ở một câu chuyện về tình bạn đặt trong bối cảnh quân Đức bao vây Leningrad trong Thế chiến 2.” *** Mùa đông năm 1941, Leningrad bị quân Đức vây hãm gắt gao. Gió rét cắt da cắt thịt, mọi mẩu gỗ trong thành phố đều đã biến mất và cháy trong bếp lò của ai đó, thức ăn đã từ lâu biến thành giấc mơ xa xỉ, những cư dân với phần ăn tem phiếu khiêm tốn trở nên gầy rộc vì đói kém và mọi hành vi phạm tội đều bị hành quyết bởi không có đủ lương thực nuôi tù nhân. Khi Lev Beniov bị bắt vì tội hôi của, cậu đã nghĩ mình sẽ chết chắc, cho đến khi bị ném vào cùng xà lim với tên đào ngũ điển trai Kolya. Họ có cơ hội được sống bằng cách thực hiện một nhiệm vụ bất khả thi: tìm về một tá trứng để làm bánh cho đám cưới của con gái ông đại tá. Trong một thành phố bị cắt đứt mọi nguồn tiếp tế và dường như không còn chút thực phẩm nào, Lev và Kolya đã dấn thân vào cuộc săn lùng không thể nào quên… Lev mười bảy tuổi, thân hình gầy gò càng thêm còi cọc vì thiếu ăn, tự nhận không phải là ý trung nhân lý tưởng của con gái, vẫn còn khá ngây thơ và chưa biết tình yêu là gì. Trong khi đó, Kolya hoàn toàn ngược lại: điển trai, khỏe mạnh, tự tin, là một gã khoác lác biết tuốt và nói nhiều không thể tin được. Đồng thời, Kolya là người tử tế, nghĩa hiệp, liều lĩnh, và là bộ óc chỉ dẫn lẫn hành động cho cả hai người. Nhưng dù trái ngược nhau về cả ngoại hình và tính cách, họ vẫn là một cặp bài trùng cực kỳ hợp rơ. Kolya đóng vai trò là người chăm sóc, còn Lev với vai trò một người lắng nghe và chia sẻ. Ngay từ lần đầu gặp mặt, Kolya đã cho Lev một miếng xúc xích ngon lành, rồi không ít lần bảo vệ cho Lev như thể đang bảo vệ một đứa em trai thân thiết. Còn Lev, mặc dù hay cáu kỉnh vì Kolya cứ lải nhải suốt trên hành trình, nhưng vẫn kiên nhẫn lắng nghe những câu chuyện của Kolya mà hóa ra đó chính là câu chuyện anh ta sáng tác. Tình bạn của họ, không phải là kiểu săn sóc cho nhau từng ly từng tí, đây là kiểu tình bạn điển hình của hai đứa con trai: trêu chọc và khiêu khích, nói tục, tình yêu, tình dục, ban đầu là khó chịu và tưởng như không thể hòa hợp, rốt cuộc lại nảy nở rực rỡ, sôi nổi, ồn ào nhưng sâu sắc và cảm động một cách diệu kỳ. Kolya thường vòng tay lên vai Lev và nói đủ thứ chuyện, khi thì để khai thông đầu óc vẫn còn ngây thơ của Lev, khi thì chia sẻ những khát khao bình dị hoặc kể tiếp câu chuyện dở dang… Thật ra, người thuần khiết nhất chỉ thích cho đi mà không cần nhận lại, và người ngây thơ nhất không cần biết phía trước là muôn vàn khó khăn chết chóc, người lạc quan nhất hài hước ngay cả khi cận kề cái chết, lại chính là Kolya.    Hành trình đi tìm trứng băng qua cả thành phố đến tận chiến tuyến kẻ thù cũng là hành trình băng qua súng đạn tàn khốc, băng qua những hậu quả nặng nề của chiến tranh, đối diện với cái đói khủng khiếp và cái lạnh tê người, chứng kiến những phận người lụi tàn và bất hạnh mà họ không thể nào giúp đỡ gì được vì chính họ cũng đang bị cái đói cào xé. Trong hành trình đó, họ đã trưởng thành hơn, Lev đã can đảm hơn và có thể tự hào kể lại đã đoạt mạng hai tên Đức bằng dao khi chưa đủ mười tám tuổi. Họ dấn thân vào cuộc phiêu lưu với mục đích được sống, nhưng đôi khi chỉ mong ước có một miếng bánh mì thật hay một miếng xúc xích thật, hoặc Lev thì ganh tị với Kolya vì được ngủ với Sonya xinh đẹp tốt bụng, hay như Kolya sẽ mở tiệc ăn mừng nếu có thể đi ị. Khôi hài, trần trụi nhưng sâu cay, những bất hạnh này chẳng phải để tố cáo hiện thực chiến tranh, mà sao vẫn nghe sống mũi cay cay. Khi mà chất bi kịch hòa lẫn trong hài kịch, khi mà nước mắt của cái đau khổ được giấu sâu cùng trong những cái cười khôi hài, thì những cái bất hạnh này đã trở nên quá lớn để nghĩ đến. Họ chỉ chấp nhận số phận của mình.    Giọng văn phóng khoáng và táo tợn, ngôn ngữ rất đời và rất chân thực, dùng những mảnh đời bất hạnh và những khát khao trần trụi để mô tả tinh vi bức tranh hiện thực của chiến tranh làm bối cảnh cho một tình bạn lạ kỳ. Diễn biến nhanh và thu hút như một bộ phim điện ảnh, dễ dàng đọc liền mạch từ trang đầu tiên đến trang cuối cùng, mới cười đó rồi lại tê dại đi sau đó, để lại sau cùng một ấn tượng mạnh mẽ về một tình bạn trong hoàn cảnh bắt buộc đã nhanh chóng nảy sinh và gắn bó không thể quên đến cuối đời. *** David Benioff sinh năm 1970 tại New York trong một gia đình Do Thái. Ông là nhà văn, nhà biên kịch, nhà sản xuất truyền hình và đạo diễn. David Benioff là một nhà biên kịch và nhà sản xuất truyền hình, nhà văn và đạo diễn người Mỹ. Cùng với cộng tác viên của mình D. B. Weiss, anh được biết đến nhiều nhất với tư cách là đồng sáng tạo, người dẫn chương trình và nhà văn của Game of Thrones, bộ phim chuyển thể từ HBO của George R. R. Mời các bạn đón đọc Thành Phố Trộm của tác giả David Benioff.