Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vua Mèo - Đào Hiếu

Vua Mèo là một người đàn ông trung niên, quan hệ với nhiều đàn bà nhưng suốt đời bị ám ảnh bởi kiếp người phù du. Ông là một người uyên bác nhưng lúc say lúc tỉnh, lúc thông thái lúc ngu đần. Lọ Lem là một cô gái hoang dã, vừa sống trong rừng với rắn rít vừa sống ngoài đời với loài người. Tuy nhiên dù ở môi trường nào cô cũng sống hồn nhiên như cây cỏ. Ngày kia chiếc xe của cô tình cờ đâm phải Vua Mèo khiến ông ta bất tỉnh nhiều ngày trong bệnh viện. Khi tỉnh lại, Vua Mèo chạy trốn và Lọ Lem đi tìm ông, dẫn ông vào ở chung trong khu vườn đầy rắn của mình. Vua Mèo càng lúc càng bị ám ảnh bởi cái chết và càng trở nên cô độc. Cùng lúc, Lọ Lem bị cuốn dần vào cuộc sống xô bồ ngoài phố. Vua Mèo bỏ đi tìm một thứ ảo ảnh nơi một hòn đảo huyền thoại. Khi Lọ Lem trở về thì chỉ còn ngôi nhà hoang và bầy rắn độc. Cô liều bơi ra đảo tìm Vua Mèo và họ đã gặp nhau ngoài hoang đảo ấy *** Không biết trong lý lịch nàng tên gì, nhưng mọi người gọi nàng là Lọ Lem vì thấy nàng ăn mặc xoàng xĩnh và không mấy khi nghĩ đến chuyện trang điểm. Tuy vậy, nàng là một thiếu nữ có nhan sắc. Các chàng trai thường rình mò theo dõi chỗ ở nhưng nàng lánh mặt họ một cách tài tình. Có kẻ đã theo tới sát bờ biển, bỗng thấy nàng mất hút trong một xóm chài. Có người từng ngồi đợi trên bờ biển từ năm giờ sáng đến tám chín giờ, không thấy bóng dáng, tưởng hôm đó nàng bệnh, bèn về cơ quan thì đã thấy nàng ngồi ở đó rồi. Liền hỏi. -Cô đến đây bằng lối nào vậy? -Lối thường lệ. -Nhà cô ở xóm chài phải không? -Ở dưới biển. Lọ Lem tiếp tục đánh máy chữ. Cái máy chữ lớn chạy bằng điện, mười ngón tay lướt nhẹ, tạo ra tiếng kêu lách tách. Chàng nọ bỏ đi và nói với bạn bè: -Ðó là cô tiên trên trời bị đày xuống trần gian. Bạn bè gồm bốn năm người ngồi ở quán cà phê dưới gốc những cây nhãn um tùm. Một thanh niên cao lớn ngồi lặng thinh trên chiếc ghế mây nghe chuyện một cách phớt tỉnh. Anh ta hút thuốc lá và nhìn ra phía biển. Buổi sáng trời âm u, mặt biển xám xịt, trầm lặng. Anh ta nói: -Tao có thể nói với tụi bay rằng Lọ Lem là một người cá chính cống. Chính mắt tao đã nhìn thấy cô đùa giỡn với một con cá heo ngoài khơi. Mọi người nhìn chàng trai với vẻ hoài nghi. -Mày nhìn thấy lúc nào? -Lúc chín giờ đêm. -Mày làm gì ngoài khơi lúc chín giờ đêm? -Ði câu. Một mình một xuồng nhỏ. Lúc ấy trăng bắt đầu lên và biển lặng. Không có chút gió. Bỗng tao nghe tiếng cười khúc khích của một cô gái. Tao nổi da gà, tắt phụt ngọn đèn dầu và ngồi thụp xuống quan sát chung quanh. Tự nhiên mặt biển nổi sóng, dưới ánh trăng lung linh, tao nhìn thấy cái bụng trắng ngời của con cá heo. Nó phóng lên cao, lấp lóa ánh trăng rồi nhào xuống nước mất dạng. Lúc ấy tiếng cười của cô gái lại nổi lên. Rõ ràng là giọng cười của Lọ Lem. Rồi tao thấy thân hình mềm mại của cô gái hiện ra, lướt đi trên những gợn sóng. -Thực hay đùa? -Thực trăm phần trăm. -Cô ta có mặc gì trên người không? -Hoàn toàn khỏa thân. Tóc dài, uyển chuyển trong sóng nước trông thật kỳ ảo, lạ lùng. -Nhưng có thể đó chỉ là một mỹ nhân ngư, đầu người đuôi cá. -Không phải. Một cô gái. Cô Lọ Lem chứ không ai khác. -Mày nhận ra tiếng cười à? -Ừ. Tiếng cười. -Nhưng tiếng cười có thể bị lầm lẫn. -Cả giọng nói nữa, anh chàng to lớn khẳng định. Lúc con cá heo bơi đi quá xa, cô gái bèn gọi nó: “Rita! Rita! ” rồi nàng huýt sáo, thế là con vật quay trở lại. Lúc đến gần cô gái, nó phóng lên cao che khuất mặt trăng và cái bụng trắng nõn của nó lại sáng lấp lóa. Cô gái cười khúc khích. Anh chàng vừa theo đuổi cô gái về, ngồi nghe say mê, mắt không chớp, nín thở, người chồm tới, những chàng trai khác thì thích thú quan sát chàng nọ với vẻ châm chọc. Họ không tin câu chuyện kể kia nhưng họ không bài bác, trái lại họ rất thích thú và bịa ra những chuyện khác. Ví dụ: -Cô ta là con dã tràng hóa thân. Tôi đã theo nhiều lần và thấy cô ấy đi về phía cồn cát. Khi có một cơn gió xoáy thì cô ta biến mất trong cát. Bao giờ cô ta cũng biến mất trong cát. -Chui dưới cát? -Dĩ nhiên là không. -Vậy thì làm sao mày biết cô ta biến vào cát? -Chắc chắn là cô ta biến mất trước khi ra đến biển. Lúc ấy chạng vạng tối. Thực ra thì cô ta về sớm hơn nhưng vì thấy có người theo dõi nên cô ghé chỗ này chỗ nọ. Mình không nản lòng. Cô dừng thì mình dừng, cô đi thì mình đi. Ðến chiều thì cô ra đến cồn cát. Gió thổi lồng lộng, mình nép vô bụi gai. Cô tưởng không còn ai theo nên đi nhanh về phía biển, ngược gió. Tóc bay tơi bời, quần áo cô dán vào da thịt, vậy mà cô lướt nhẹ như chiếc lá. Mình chạy đuổi theo, cồn cát mênh mông không một bóng cây, không một mái nhà, không một bóng người, thế mà cô ta cứ lướt đi như con diều. Có lúc mình tưởng như cô ta mất hút trong bóng chiều. Mình sợ. Nhưng không thể lui được nữa. Mình chạy bay tới, chỉ còn cách cô có vài thước. Thế là cô quay lại, cười khúc khích. Chợt đâu một cơn lốc xoáy cuộn đến, cát tung mù mịt, cát bắn vào da đau điếng. Mình phải ngồi thụp xuống ôm mặt một lúc khá lâu. Khi gió lặng, mở mắt ra thì cô gái đã biến mất, còn lại mỗi mình giữa cồn cát tối mịt. Mình cắm đầu chạy, cỏ gai cắt nát bàn chân. Gió cứ hú từng cơn. Rõ ràng là cô ta đã biến mất trong cát như con dã tràng. -Cũng có thể cô ta theo cơn lốc xoáy lên trời. -Không. Trên trời lúc ấy không có gì ngoài ráng chiều đỏ như máu. Cái màu đỏ ấy làm mình khiếp đảm. Một chàng trai khác lại nói: -Tôi thì đuổi theo tận khu rừng. Các bạn có đến đó bao giờ chưa? -Tôi nhìn thấy nó từ ngoài biển. -Tôi theo đến tận nơi những không thể xâm nhập vào khu rừng ấy được. -Vì sao? -Rắn. Ðó là giang sơn của rắn. Không phải chỉ có dưới đất. Cô ta vừa lẫn vào rừng bạch đàn là tôi bám theo liền. Bỗng nhiên từ trên cành cây thòng xuống một con rắn hổ đất. Nó thở phì phì, mang bạnh ra, vươn cổ đến sát mặt tôi. Rồi những tiếng phì phì như thế nổi lên khắp nơi. Cây cỏ xung quanh xao động. Trong bóng chiều lờ mờ tôi nhìn thấy đàn rắn độc đang trườn tới chỗ tôi đứng. Tôi quay đầu chạy. Trời ơi, thế mà cô ấy đi vào rừng thảnh thơi như không. -Thôi, đừng xạo, một chàng trai có gương mặt khắc khổ, buồn rầu nói, tất cả những gì các anh nói từ nãy giờ đều xạo hết. Lọ Lem là một cô gái bình thường như mọi cô gái, là bạn của tôi và tôi rất yêu Lọ Lem. -Nhưng vấn đề là cô ấy có yêu mày không? -Ðiều đó không quan trọng. Cũng như chuyện nàng ở đâu, con cái nhà ai đối với tôi không quan trọng. -Vậy cái gì mới là quan trọng? -Sự có mặt của Lọ Lem trên đời này là quan trọng. Cũng như sự có mặt của biển trên trái đất. Người thanh niên cao lớn lúc nãy cười khẩy, đánh một que diêm và đưa ra giữa mọi người. Anh ta nói to: -Mặc kệ các vị tin hay không tin, tôi xin thề rằng những điều tôi nói là sự thật. -Tôi cũng xin thề. -Xin thề. Mọi người đều đốt thuốc từ lửa của que diêm ấy, chỉ có chàng trai khắc khổ và si tình kia thì lẳng lặng đứng lên và bỏ đi một mình về phía biển. o O o Anh ta là một nhân viên cùng cơ quan với Lọ Lem. Nhà xa, nên buổi trưa phải ở lại. Anh đem cơm theo ăn và nghỉ trưa trên bàn làm việc. Lọ Lem thì chọn cái kho giấy. Ðó là một căn phòng rộng thênh thang, giấy cuộn chất cao như núi. Giữa những cuộn giấy khổng lồ trắng tinh ấy là những khoảng trống. Lọ Lem thích nằm ở đó vì giống như nằm trong hang đá và vì giấy có mùi thơm riêng của nó, gợi cho cô nhớ tới mùi gỗ bạch đàn trong khu rừng mênh mông của cô. Chàng trai thì nằm và nghĩ về cô gái. Chàng ít khi ngủ được và thường chỉ nằm độ mười phút là trở dậy. Cuối cùng chàng quyết định đến kho giấy để trò chuyện với Lọ Lem. Trước đây chưa bao giờ chàng dám có ý nghĩ táo bạo như thế. Chàng leo lên những cuộn giấy lớn và tìm kiếm những hang hốc. Chàng huýt sáo và nằm rạp xuống chờ đợi. Vẫn im lặng, chàng lại gọi: -Lọ Lem ơi! Lọ Lem! Vậy là nghe tiếng cười: -Xuống đây! Cô gái nói. Tôi biết chỗ anh trốn rồi. Nhưng chàng vẫn chưa phát hiện ra chỗ của Lọ Lem. Chàng nhảy liều xuống và ngạc nhiên khi thấy cô đang thay áo. Lọ Lem chẳng có vẻ gì là mắc cỡ. Cô nói: -Vô đây. Rồi cô nắm tay chàng kéo vào cái hang nhỏ xíu của mình. Cô gái mới chỉ cài được có một cái cúc áo vì thế chàng thấy thấp thoáng cái rún phẳng lặng và xinh đẹp của cô. Cô gái nói: -Tôi mắc cột tóc. Anh cài nút áo giúp tôi đi. Chàng trai run lên và không cài được cái nào cả. -Sao thế? -Sợ. -Sợ gì? -Không biết sợ gì. -Có gì mà sợ. Chàng trai nóng mặt. Lọ Lem tự cài nút áo cho mình rồi bảo chàng ngồi xuống chiếu. -Anh ăn trưa chưa? -Rồi. -Ăn thêm với tôi? Chàng trai nhìn cô gái đăm đăm và hỏi: -Người ta nói cô ăn chay phải không? -Tôi ăn uống bình thường như mọi người. -Nhà ở đâu? -Anh giữ lý lịch của tôi mà. Trong đó có ghi địa chỉ. -Nhưng cô không ở đó. Người ta nói cô ở dưới biển, có người nói cô ở trong cồn cát, người khác bảo cô ở trong rừng bạch đàn. Thế cô ở đâu? -Tôi ở nhà tôi. -Hôm nào tôi đến nhà chơi, được không? -Không được. -Sao vậy? -Tôi không thích. Cô lấy trong gói giấy ra mấy trái xoài chín. Chàng trai cúi đầu ngẫm nghĩ rồi lại đăm đăm nhìn cô gái. Lại hỏi: -Lọ Lem theo đạo Phật phải không? -Không theo đạo gì cả. -Sao ăn chay trường? -Có ăn chay đâu. Nhưng tôi thích trái cây. Chàng trai lại im lặng. Chàng thở dài, mặt buồn hiu, khốn khổ. Lại nói: -Này, Lọ Lem. -Gì vậy? -Cô có yêu ai chưa? -Yêu để làm gì? -Yêu thích lắm Lọ Lem ạ. Cũng giống như tôi yêu cô vậy. Tức là thấy nhớ. Muốn gặp gỡ nói chuyện. Nhất là nhớ. Nhớ lắm. Lọ Lem đang gọt xoài chợt ngừng tay nhìn sững chàng trai. -Sao anh không cho tôi hay? -Tôi sợ cô giận. -Không giận đâu. Có gì anh cứ nói, tôi sẽ giúp. -Vậy thì tôi yêu cầu thế này nhé, cô đừng ngồi ở góc phòng mà ra ngồi gần hành lang. -Chi vậy. -Ðể mỗi lần tôi đi ngang qua có thể nhìn cô được. -Anh thấy tôi đẹp lắm hả? -Ðẹp. -Tôi cũng thấy tôi đẹp. Cuộn giấy rung rinh, tiếng ai thở nặng nhọc. Hai người cùng ngước nhìn, thấy một cái mặt đàn bà sồn sồn khô đét hiện ra. -Ai nói chuyện gì rầm rì vậy? -Dạ em đây, chị Mỹ. Chàng trai nói. -Cậu vô kho giấy làm gì? -Em có chuyện cần bàn với cô Lọ Lem một tí. -Chuyện gì để đến giờ làm việc hãy bàn. Ðây là chỗ đàn bà con gái ta nghỉ trưa, cậu mò vô làm gì? Lọ Lem mút hột xoài, mật dính quanh mép: -Em gọi ảnh vô đấy, chị Mỹ ơi. -Tôi không nói chuyện với cô, cô bé dở hơi à. Còn bây giờ thì tôi bảo cậu đi ra. Có đi không? Chàng trai chu mỏ lại chọc quê bà và chạy trốn mất biệt sau các cuộn giấy lớn. Bà Mỹ tức điên lên, quay ngoắt người lại, cuộn giấy rung rinh và từ từ lăn đi. -Ối! Ối! Chặn nó lại, Lọ Lem ơi! Chặn nó lại giúp chị với. Lọ Lem bước đến bên cuộn giấy và thay vì chặn nó, cô cứ thong thả đi theo nó, vừa đi vừa ngắm nhìn người đàn bà đang cuống cuồng, giữ thăng bằng, cô nói: -Chị hãy tưởng tượng mình là con chuột bạch đang quay vòng, chị sẽ thấy rất thích thú. Nhanh một tí nữa nhé? Lọ Lem đẩy nhẹ một cái, vỗ tay cười như trẻ con. o O o Hôm sau chàng trai lại đột nhập vào kho giấy. Lọ Lem đi chợ chưa về nên chàng trải chiếu ra và nằm xuống, lúc ấy chàng mới biết là ngay trên đầu mình có một sợi dây căng giữa hai cuộn giấy, ở giữa treo một cái quần xoa màu đen, chàng ngắm nó rồi nghiêng người sờ soạng trong đống đồ đạc lỉnh kỉnh mà Lọ Lem vứt bừa bãi chung quanh chỗ nằm. Mấy cái cuộn tóc bằng nhựa, hộp xà bông, cái ly uống nước. Ở mép chiếu tự nhiên lòi ra mấy tờ giấy bạc. Chàng moi trong xó ra thấy rải rác chỗ này vài trăm, chỗ kia năm bảy chục, chỗ nọ vài ngàn, khi thì tiền lẻ, khi thì tiền chẵn, bạc mới bạc cũ lẫn lộn nhàu nát. Chàng gom lại được hơn bảy ngàn và bó lại một bó cất trong gối của Lọ Lem. Lúc cô đi chợ về chàng nói: -Tôi đến xem cô có tiền mượn đỡ vài ngàn. Lọ Lem đặt gói giấy xuống chiếu, moi tìm trong xó một lúc: -Tôi để lộn đâu đó, lát tìm cho. -Thế cái gì trong gối vậy? Lọ Lem cười: -A, tôi cất trong bao gối mà tôi lại quên. Cô lôi gói bạc ra, không hề ngạc nhiên. Cô tháo cọng thun, thảy xấp bạc ra chiếu. -Chắc chắn là hơn hai ngàn. Lọ Lem nói. -Tiền của cô mà cô không biết là bao nhiêu à? Lọ Lem lấy trái cây để lên chiếu rồi đưa hai ngàn cho chàng trai. Chàng bỏ tiền vào túi mình rồi lấy dao gọt vỏ trái cây. Lúc hai người đang ăn đu đủ thì phía ngoài kho giấy có tiếng bước chân đi qua đi lại và tiếng đằng hắng. Lọ Lem lấy một trái cam bảo chàng trai đem đưa cho bà Mỹ nhưng khi chàng vừa ló đầu ra khỏi những cuộn giấy thì người đàn bà đã quay mặt và bỏ đi thẳng lên lầu. Hôm sau chàng trai bỏ năm ngàn trong cái phong bì, đưa cho Lọ Lem: -Trả cô hai ngàn. Lọ Lem bỏ phong bì vào xách tay. Chàng trai hỏi cô đã đi chợ chưa. Lọ Lem bảo chưa và họ rủ nhau đi. Cô đến hàng trái cây quen thuộc và mua một ít sa-pô-chê, mãng cầu dai và hạt dẻ. Lúc tính tiền người bán hàng nói: -Cô cho hai ngàn. Lọ Lem móc cái phong bì trao cho người đàn bà rồi kéo tay chàng trai đi. Chàng hỏi: -Mua trái cây hết bao nhiêu vậy? -Hai ngàn. -Nhưng trong phong bì có năm ngàn. Chàng trai kéo tay Lọ Lem nhưng cô đã gỡ ra, nói: -Thôi đi về. Ngày mai sẽ đòi. Hai người lại chui vô cái hang của mình và ăn trưa với nhau. Ăn xong Lọ Lem bảo chàng trai kiếm cái quạt. Chàng nhìn quanh quất một lúc, cuối cùng lôi từ trong kẹt ra một cái quạt giấy. Lọ Lem nằm sấp xuống chiếu và bảo chàng trai. -Anh quạt cho tôi đi. Chàng ngồi xếp bằng bên cạnh cô gái và quạt. Chỉ một lúc sau Lọ Lem đã ngủ. ... Mời các bạn đón đọc Vua Mèo của tác giả Đào Hiếu.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Cột Trụ của Trái Đất - Ken Follett
Những Cột Trụ của Trái Đất của nhà văn Ken Follett về sự phản bội và niềm tin,  thể hiện sự hỗn loạn, quyền lực, chiến tranh cùng những lời nguyền trong nền quân chủ thế kỉ 20 ở Anh. Những Cột Trụ của Trái Đất thực sự là một chuyến đi đầy mê đắm và đầy màu sắc qua thế giới giả sử mà Follett đã tạo dựng nên. *** Ken Follett sinh ngày 05 tháng 6 năm 1949 tại Cardiff, Wales, Anh quốc, con trai lớn nhất của ông Martin, một vị thanh tra thuế vụ và bà Veenie Follett. Cũng như những vợ chồng trẻ sau thời Đệ Nhị Thế Chiến, cha mẹ cậu Ken không thể đầy đủ phương tiện để cho cậu con trai có được một cuộc sống vàng son nên rất tự nhiên, từ năm lên 7 tuổi, đã tự tưởng tượng ra cho mình những cuộc phiêu lưu của cậu. Cha mẹ Ken Follett lại là những người thiên chúa giáo rất sùng đạo, cấm cậu bé không được xem truyền hình, nghe radio hoặc đi xem ciné, nhưng Ken Follett đã vượt qua sự "cô lập" hàng ngày bằng thú đọc sách. Khi được 10 tuổi, gia đình Follett dời Cardiff về Luân Đôn sống. Tại đây Ken Follett hoàn tất trung học và theo học tại University College, London; cũng theo lời của Ken Follet việc chọn lựa triết học như một định mệnh để sau này cho phép ông liên kết giữa triết học và những chuyện hư cấu. Trong lúc chờ đợi những thành công, thực tế khá phũ phàng đuổi bắt Ken Follett: Cô bạn gái của chàng sinh viên triết học mang thai, hai người làm đám cưới và chỉ một thời gian thật ngắn sau đó Emanuele, một đứa bé trai ra chào đời vào tháng 7 năm 1968. Follet đóng hai vai trò cùng lúc vào lúc mới được 19 tuổi: Người sinh viên trẻ và người cha. Bấy giờ người ta đang ở vào thời kỳ cuối những năm 1960, chiến tranh Việt Nam đang trong giai đoạn cao điểm và Follett khởi sự đam mê chính trị. Tháng 9 năm 1970, sau khi tốt nghiệp triết học tại University College Luân Đôn, Ken Follett theo học cấp tốc 3 tháng về nghề ký giả rồi làm việc với tư cách phóng viên cho tờ South Wales Echo ở Cardiff. Rồi năm 1973 sau khi Marie Claire, cô con gái thứ hai ra chào đời, Ken về làm cho tờ Evening News tại Londres. Cùng lúc Ken Follett sáng tác những truyện hư cấu vào ban đêm và những ngày nghỉ cuối tuần. Năm 1974, Ken Follett bỏ nghề báo chí đến làm việc cho nhà xuất bản Everest Books. Cũng trong năm này, Ken Follett xuất bản hai tác phẩm đầu tiên: The Big Needle và The Big Black với bút hiệu Simon Myles. Năm 1975, tác phẩm The Big Hit được Follett cho xuất bản cũng với bút hiệu Symon Myles rồi sau đó tác phẩm The Shakeout với tên thật là Ken Follett. Nhờ vào những lời khuyến cáo của người đại lý văn chương, Al Zuckerman, sách dần dần bán khá chạy. Rồi tác phẩm Eye of the Needle ra đời, một tác phẩm trinh thám căng thẳng và độc đáo với một nhân vật nữ với cá tính khó thể quên được trong vai chính. Tác phẩm đã đoạt giải Edgar và ngay sau đó đã bán được hơn 10 triệu ấn bản - đưa Ken Follett lên hàng đầu những tác giả lừng danh cũng như đã cho phép Ken Follet tậu một ngôi biệt thự ở miền nam nước Pháp để sống và sáng tác. Ba năm sau, gia đình Follet trở về Anh; cư trú tại Surrey. Tại đây Ken Follett lao đầu vào những chương trình quyên góp qũy và trợ giúp vào những vận động bầu cử cho đảng Lao Động Anh. Trong lúc thực hiện những việc này Follett đã quen biết một nữ thành viên của đảng Xã Hội Anh mà ông sẽ lấy làm vợ vào năm 1985, Barbara Follet Broer cũng là dân biểu Stevenage từ năm 1997 và được bổ nhiệm chức vụ bộ trưởng trong chính phủ của thủ tướng Gordon Brown vào ngày 3 tháng 10 năm 2008. Ken Follett đã sáng tác 14 tập truyện trong 23 năm và hoàn toàn là những tác phẩm bestsellers. Sau 5 tập tiểu thuyết gián điệp với thành công vô cùng lớn : Eye of the Needle, Triple, The Key to Rebecca, The Man from St Petersburg và Lie Down with Lions, vào năm 1989 Ken Follett đã gây ngạc nhiên cho độc giả bằng sự thay đổi một cách triệt để với tác phẩm The Pillars of the Earth, một truyện đề cập tới việc kiến tạo một ngôi giáo đường vào thời Trung cổ. Tập sách xuất bản tháng 9 năm 1989 đã nằm trong bảng danh sách những bestsellers kéo dài suốt 18 tuần lễ và nằm hàng thứ 1 tại Canada, Anh, Ý, Đức (suốt 6 năm). Sách được chọn bởi Oprah Winfrey cho hiệp hội sách vào cuối năm 2007, "Pillars" thêm một lần nữa vẫn là một best seller 18 năm sau ngày xuất bản lần đầu tiên. Tiếp sau đó là Night over Water, A Dangerous Fortune, và A Place Called Freedom. Ken Follett lại viết truyện giật gân trở lại. The Third Twin một tiểu thuyết ly kỳ nóng bỏng với một nhân vật khoa học nữ bị vấp phải một kinh nghiệm bí mật về khoa di truyền học. Bản quyền truyện đã bán cho CBS với giá 1 triệu 400 ngàn dollars, kỷ lục cho một phim truyền hình ngắn 4 tiếng đồng hồ. The Third Twin được xếp hạng sách bán chạy thứ 2 trên thế giới sau tác phẩm của nhà văn Hoa Kỳ John Grisham trên hit parade những tiểu thuyết thành công. The Hammer of Eden, một tác phẩm hồi hộp hiện đại xuất bản năm 1998, sau đó Code to Zero xuất bản năm 2000, liên quan đến cuộc chiến tranh lạnh trong những năm 50 được đứng hàng thứ nhất trong danh sách best seller tại Hoa Kỳ, Đức và Ý. Ken Follett lại quay sang viết về thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến với hai tiểu thuyết: Tiếp đó là Jackdaws (2001), nói về những người nữ chiến binh quân đội đồng minh nhẩy dù xuống đất Pháp để phá hoại hệ thống thông tin liên lạc của quân đội Đức quốc xã, tiểu thuyết này đã đoạt giải Corine Prize năm 2003 rồi đến tiểu thuyết Hornet Flight xuất bản năm 2002 đề cập tới cuộc phiêu lưu của những người Đan Mạch trẻ tuổi bỏ trốn quê hương họ trên một chiếc máy bay hai cánh Hornet. Trong thời kỳ tìm kiếm tài liệu viết , Follett đã học lái một chiếc máy bay sưu tập cũ, chiếc Hornet Moth của cơ sở Havilland Aircraft Company. Whiteout, xuất bản năm 2004, đề cập về một chuyện đánh cắp một loại vi khuẩn giết người tại một phòng thí nghiệm... Tiểu thuyết được Ken Follett vừa cho xuất bản vào tháng 10 năm 2007 là World Without End, truyện được người đọc chờ đợi, tiếp theo của The Pillars of the Earth. Suốt 32 tuần lễ tác phẩm World Without End đứng trong bảng danh sách bestseller của tờ New York Times. Tính tới nay Ken Follett là một nhà văn có những tác phẩm bán nhiều nhất trên thế giới, hơn 100 triệu ấn bản. Mời các bạn đón đọc Những Cột Trụ của Trái Đất của tác giả Ken Follett.
Thương
Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Mỹ đoạt giải Nobel vừa được dịch ra tiếng Việt với tên gọi “Thương”. Sách do NXB Phụ Nữ và Công ty sách Alpha phối hợp ấn hành. Beloved được xuất bản tại Mỹ năm 1987 và đoạt giải Pulitzer năm 1988. Tác phẩm kể về cuộc đấu tranh sinh tồn của Sethe và cô con gái Denver sau khi thoát khỏi kiếp sống nô lệ. Một ngày, một cô gái trẻ xuất hiện tại ngôi nhà của hai mẹ con, tự xưng tên mình là “Beloved”. Sethe tin rằng đây chính là đứa con gái xấu số đã bị cô tự tay giết chết từ lúc hai tuổi để đánh đổi lấy sự sống cho mình và Denver. Cuốn tiểu thuyết dựa trên cuộc đời thực của một người phụ nữ da đen tên là Margaret Garner. Là sáng tác quan trọng nhất trong sự nghiệp văn chương của Toni Morrison, cuốn sách được đánh giá là: “Lịch sử thân phận cá nhân tải nặng cả một quá khứ tập thể. Một bản thánh ca dâng tặng tình yêu, tình mẫu tử. Một cuốn tiểu thuyết của lầm lỗi và lòng khoan dung, của sự lãng quên và nỗi ám ảnh, của cái chết cũng như sự hy sinh tất yếu và khát vọng sống mãnh liệt, của những dày vò đau đớn đối với tâm hồn và ngọn lửa yêu thương bất diệt”. Cuốn sách từng được bình chọn là tác phẩm văn học hay nhất của Mỹ 25 năm qua. Toni Morrison sinh năm 1931. Bà là nhà văn da đen đầu tiên của Mỹ đoạt giải Nobel Văn học (1993), ngoài Beloved (Thương), Morrison còn nổi tiếng với những tác phẩm như: The Bluest Eye (Con mắt xanh biếc), Song of Solomon (Bài ca của Solomon), Sula... *** I24 hằn học. Đầy nọc độc trẻ thơ. Những người đàn bà trong nhà biết thế và lũ trẻ cũng biết thế. Đã nhiều năm, mỗi người chịu đựng sự hằn học ấy theo cách riêng của mình, nhưng đến năm 1873, chỉ còn Sethe và con gái Denver là nạn nhân của nó. Bà nội Baby Suggs đã mất, và hai đứa con trai Howard và Buglar đã trốn đi khi chúng mười ba tuổi − khi chỉ nhìn vào gương thôi đã đủ làm nó vỡ tan (dấu hiệu cho Buglar); ngay sau khi hai vết bàn tay nhỏ hiện ra trên mặt chiếc bánh ngọt (thế là xong với Howard). Chúng không đợi để chứng kiến thêm nữa; thêm một nồi đậu đổ chất đống bốc khói trên sàn nhà; bánh quy giòn bóp vụn và rải dọc theo bệ cửa. Chúng cũng không đợi đến lúc mọi chuyện nguôi ngoai, khi nhiều tuần, thậm chí nhiều tháng trôi qua mà không điều gì bị xáo trộn. Không. Từng đứa tức thì bỏ đi − ngay khi căn nhà phạm một điều đối với chúng là sự lăng mạ không chịu đựng nổi hay không thể chứng kiến đến lần thứ hai. Trong vòng hai tháng, ngay giữa mùa đông, chúng để mặc bà nội Baby Suggs, mẹ Sethe và em gái Denver tự mình xoay sở trong căn nhà trắng xám ở đường Bluestone. Lúc ấy nhà không có số, vì Cincinnati chưa kéo dài đến chỗ ấy. Thật ra, lúc thằng anh rồi đến đứa em nhồi chăn vào mũ, chụp đôi giày, và lẻn trốn khỏi sự hằn học dữ dội căn nhà dành cho chúng thì Ohio chỉ mới tự nhận là tiểu bang được bảy mươi năm. Baby Suggs không buồn nhấc đầu dậy. Từ giường bệnh bà nghe chúng đi, nhưng không phải vì vậy mà bà nằm yên. Với bà, chuyện lạ là mãi đến lúc ấy hai thằng cháu mới nhận ra không ngôi nhà nào giống như ngôi nhà trên đường Bluestone. Ở lưng chừng giữa cuộc sống khốn nạn và cái chết ác mó, rời bỏ cuộc đời hay tiếp tục sống bà đều không thiết tha, nói gì đến nỗi sợ của hai thằng cháu đang lẻn đi. Quá khứ của bà cũng giống như hiện tại − chịu không thấu − và vì bà biết rằng cái chết không là gì khác ngoài sự quên lãng, bà dùng chút hơi tàn để suy ngẫm về màu sắc. “Mang chút màu tím nhạt vào nếu con có. Nếu không, thì mang màu hồng.” ... Mời các bạn đón đọc Thương của tác giả Toni Morrison.
Những Quân Cờ Domino - Minh Nhật
"Ngay khi đó, cô bừng tỉnh. Tất cả chỉ là giấc mơ. Khanh nằm im lặng trong căn gác mái. Chút ánh sáng nhỏ nhoi từ cửa sổ hắt vào ngờ vực. Cô ngồi im, như sự tan mất những cảm xúc còn đọng lại trong mình. Giọt mocha cuối cùng của ảo mộng rót xuống tâm hồn Khanh những kỳ vọng lớn lao. Giấc mơ quá thật đến nỗi cô không muốn tỉnh dậy. Nếu cho Khanh quyền lựa chọn, cô sẽ không nhường  hoàng hôn đỏ rực đầy quyến rũ đó lại cho bất - kì - ai. Không một ai." Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của "Hoàng tử teen story" Minh Nhật sau hàng loạt những tập truyện ngắn, tản văn gây sốt, một bước ngoặt trong con đường chinh phục độc giả bằng ngòi bút lôi cuốn đầy sức lay động của nhà văn trẻ này. *** Chủ nhật đẹp trời. Nắng tràn trề rực rỡ trên phố. Thứ nắng này luôn khiến người ta tưởng tượng đến một điều gì đó huy hoàng sắp xảy ra, nhưng thực ra sẽ chẳng có gì xảy ra, chỉ là nắng thôi. Những chùm bóng bay nhiều màu tỏa khắp mọi con đường, giống cảnh quay cuối cùng trong một bộ phim Pháp. Chút gió nhẹ cuối cùng tiễn mùa cũ, từng cành cây bên đường như ngả thấp xuống một chút sát với hơi thở của phố. Cuối cùng thì hè cũng đã đến. Điều khó chịu nhất khi sống ở một nước nhiệt đới là bạn sẽ phải liên tục thay đổi cảm xúc cho phù hợp với mùa. Mùa đông ngày càng ngắn lại, ai cũng có thể nhận thấy rõ điều đó. Nhiệt độ không phải thứ quyết định lối sống tại thành phố này, tuy thế bạn cũng phải có một tủ quần áo đa dạng đủ để không trở nên ngớ ngẩn mỗi khi hè sang đông tới. Khanh thử đi thử lại mớ quần áo trong tủ, cái thì ngắn quá, cái thì nực nội, cái vừa thì lại không biết mặc gì cho hợp, cái hợp với nhau thì lại không hợp với cô. Quả là bi kịch. Một nghiên cứu nhỏ chỉ ra rằng phụ nữ tốn khoảng sáu năm trong cuộc đời chỉ dành riêng cho việc đứng trước gương mỗi ngày thay ra mặc vào mớ vải đủ màu sắc, cá nhân Khanh cho rằng nói như vậy có vẻ hơi quá. Nhưng nếu bạn đã bắt đầu dễ dãi với bản thân trong việc đắp gì lên người cũng ra đường được, thì xin chúc mừng, bạn sắp ế chồng. Tuy còn đến gần mười năm mới phải lo về thảm kịch ấy, Khanh đã mường tượng ra được viễn cảnh từ người dì của mình – một người phụ nữ luôn là chủ đề dèm pha của cả họ hàng gia tộc anh em gần xa gà mèo chim chuột mỗi khi họ có dịp tụ tập lại – một bữa giỗ hay tất niên chẳng hạn. Bản thân cô, hai mươi tuổi, chẳng phiền muộn cuộc đời, mỗi ngày chỉ ăn một bữa rưỡi, ngủ sau mười hai giờ, vẫn còn dán poster một boyband thần tượng ngay đầu giường; nhưng đã sớm ý thức được rằng phụ nữ dẫu có đẹp mấy mà không sớm được nhấc đi trước khi đầu ba ập tới, thì nhất định sẽ thành một của nợ không hơn không kém trong đại gia đình. Có ai đó nói rằng phụ nữ qua hai mươi tám tuổi mà vẫn chưa lấy chồng thì giống như là cái quạt gió giữa mùa đông – đến bố mẹ bạn còn chẳng hiểu nhiệm vụ của bạn trong nhà là gì, nữa là người khác. ... Mời các bạn đón đọc Những Quân Cờ Domino của tác giả Minh Nhật.
Sơn Ca Vẫn Hót
Câu chuyện xoay quanh 2 chị em Isabelle (biệt danh "Sơn ca") và Vianne tham gia kháng chiến, sẵn sàng nhận những nhiệm vụ đầy thách thức trong cuộc chiến tranh năm 1939 tại Pháp. *** Kristin Hannah là tác giả Mỹ đoạt giải và nhà văn ăn khách của hơn 20 tiểu thuyết, bao gồm cả bom tấn quốc tế.  Các tác phẩm tiêu biểu: A Handful of Heaven, The Enchantment, Once in Every Lifetime, If You Believe, When Lighting Strikes, Waiting for the Moon, Home Again, On Mystic Lake, Angel Falls, Summer Island, Distant Shores, Betwwen Sisters, The Thing We Do for Love, Comfort & Joy, Magic Hour… Sơn ca vẫn hót (The Nightingale), là tựa sách đoạt giải Tiểu thuyết lịch sử hay nhất do bạn đọc bình chọn trên Goodreads năm 2015, và thắng giải Bạn đọc bình chọn ở hạng mục sách hay cùng năm. Cô cũng đoạt giải Sách hay nhất của năm trên trang Amazon, iTunes, Buzzfeed, thời báo Wall Street Journal, Paste, và The Week. Sơn ca vẫn hót hiện đang hoàn tất khâu sản xuất tại hãng phim Tri Star, với sự chỉ đạo của đạo diễn giành được nhiều giải thưởng Michelle MacLaren. Home Front đã được hãng phim 1492 Film (nhà sản xuất của bộ phim đề cử Oscar The Help) lựa chọn để dựng thành phim, với Chris Colombus viết kịch bản, sản xuất, và đạo diễn. Cuốn Between Sisters từng được chương trình The Early Show của kênh CBS chọn là một trong những cuốn sách hay nhất trong mùa hè. Những điều chúng ta làm vì yêu là một câu chuyện đầy sâu lắng, trọn vẹn để tôn vinh sự kỳ diệu của tình mẫu tử, những niềm vui sướng khi được trở về nhà, và nhận được kết quả xứng đáng của tình yêu. Tác giả ăn khách nhất của Thời báo New York Times “đã chạm vào nơi sâu lắng nhất, đa cảm nhất trong từng góc nhỏ của trái tim chúng tôi.” (tác giả Tami Hoag).  “Hannah nắm bắt được niềm vui và nỗi đau trong một gia đình khi cuốn hút người đọc vào cuộc đời các nhân vật của cô và khiến họ cảm thấy như những người bạn thân quen, một lần nữa chứng tỏ cô là ngôi sao trong thể loại văn học hư cấu về người phụ nữ.” (Booklist) “Hannah rất giỏi đi sâu vào tâm lý của các nhân vật chính và khắc họa những sắc thái của cảm xúc.” (The Washington Post Book World) “Vô cùng thú vị… Hannah có đôi tai nhậy cảm với lời thoại và khả năng thiên phú đưa người đọc xâm nhập vào trong đầu nhân vật.” (The Seattle Times) “Cuốn sách tuyệt vời này là một ví dụ kinh điển cho những câu chuyện vô cùng xúc động và kích thích tư duy, sở trường của Hannah. Sự ấm áp và đa dạng của các nhân vật đã chạm tới được những cảm xúc sâu kín nhất.” (Romantic Times) *** Những ánh đèn sẽ tắt trên toàn cõi châu Âu; Cả đời chúng ta sẽ không thấy chúng sáng trở lại nữa. SIR EDWARD GREY, VỀ THẾ CHIẾN I   Tháng Tám năm 1939 Pháp Vianne Mauriac rời khỏi căn bếp lạnh lẽo với những bức tường trát vữa giả đá và bước ra sân trước. Trong buổi sáng hè đẹp nắng này ở thung lũng sông Loire, mọi thứ thật rực rỡ. Những tấm khăn trải giường màu trắng bay lật phật trong gió, đám hoa hồng xô nhau hé cười dọc theo tường rào bằng đá ngăn giữa ngôi nhà của chị với con đường. Hai chú ong cần mẫn lượn quanh những bông hoa. Vianne nghe thấy tiếng một đoàn tàu rền rĩ xa xăm, sau đó là tiếng cười đáng yêu của một bé gái. Sophie. Vianne mỉm cười. Chắc đứa con gái tám tuổi của chị đang chạy quanh nhà, khiến bố con bé phải làm đủ thứ để vừa lòng nó trong lúc chuẩn bị cho chuyến dã ngoại ngày thứ Bảy của cả nhà. - Con gái em đúng là một bạo chúa. - Antoine lên tiếng khi xuất hiện trên ngưỡng cửa. Anh đi về phía vợ, mái tóc bóng mượt loang loáng dưới ánh nắng. Anh vừa tút tát lại đồ nội thất sáng nay - chà giấy ráp một cái ghế đã nhẵn bóng - nên trên mặt và vai anh có một lớp bụi gỗ mỏng. Anh cao lớn, vai rộng, khuôn mặt chữ điền, và có một lớp râu mỏng đen nhánh luôn đòi hỏi phải nỗ lực để ngăn nó trở thành một hàm râu rậm rì. Antoine vòng một cánh tay quanh người Vianne và kéo vợ sát vào người anh. - Anh yêu em, V. - Em cũng yêu anh. Trên thế giới này không còn điều gì chân thật hơn thế. Vianne yêu mọi thứ nơi người đàn ông này: nụ cười của anh, cách anh lầm bầm trong khi ngủ, cười ngượng nghịu sau khi hắt hơi, và hát ông ổng trong lúc tắm. Chị đã phải lòng anh từ mười lăm năm trước, trên sân trường, trước cả khi hiểu được tình yêu là gì. Anh là tất cả những điều đầu tiên đối với chị - nụ hôn đầu, mối tình đầu, người yêu đầu. Trước khi gặp Antoine, Vianne chỉ là một con bé gầy như que củi, vụng về, hay lo lắng và nói lắp bắp mỗi khi sợ hãi, mà sợ hãi là chuyện khá thường xuyên. Một đứa con gái mồ côi mẹ. - Giờ con sẽ là người lớn trong nhà, - ba đã nói với Vianne như thế khi họ đến ngôi nhà này lần đầu tiên. Lúc đó Vianne mới mười bốn tuổi, mắt đỏ hoe và đau buồn không chịu nổi. Chỉ trong một khoảnh khắc, ngôi nhà này đã từ một chỗ nghỉ mát của gia đình trở thành một dạng nhà tù. Mẹ mất chưa được hai tuần, ba của Vianne đã từ bỏ vai trò người cha. Khi họ đến đây, ông không còn nắm tay hay đặt tay lên vai con gái, hay thậm chí là đưa cho nó một cái khăn mùi xoa để thấm nước mắt. - Nhưng con... con còn nhỏ mà, - Vianne đã nói như thế. - Con không còn nhỏ nữa. Lúc đó Vianne đã nhìn xuống đứa em gái, Isabelle, một đứa bé bốn tuổi chỉ biết mút ngón tay và chẳng hiểu được chuyện gì đang diễn ra. Isabelle cứ hỏi đi hỏi lại khi nào thì mẹ về. Khi cửa nhà bật mở, một phụ nữ có cái mũi như vòi nước và hai con mắt nhỏ xíu, đen thui như quả nho khô xuất hiện. - Bọn trẻ đây à? - Người phụ nữ hỏi. Cha Vianne gật đầu. - Chúng sẽ không gây rắc rối cho ông nữa. Chuyện đó diễn ra rất nhanh. Vianne không thực sự hiểu hết. Người cha rũ bỏ hai đứa con gái như người ta thay quần áo bẩn và để chúng lại với một người xa lạ. Hai đứa bé chênh tuổi nhau quá nhiều, đến nỗi dường như chúng không phải chị em ruột. Vianne muốn dỗ Isabelle, nhưng bản thân còn đang đau buồn tới mức chẳng thể nghĩ đến ai khác, đặc biệt là một đứa bé cứng đầu, nóng nảy và ồn ào như em gái mình. Còn nhớ những ngày đầu tiên ở đây, Isabelle cứ khóc ré lên và bị bà kia đánh đòn. Vianne phải xin cho con bé và cứ nhắc đi nhắc lại: “Chúa ơi, Isabelle, đừng khóc nữa. Nghe lời đi em”. Nhưng dù chỉ mới bốn tuổi, Isabelle đã tỏ ra là một đứa bất trị. Vianne đã trở nên tuyệt vọng vì tất cả chuyện đó - nỗi đau mất mẹ, nỗi buồn bị cha bỏ rơi, sự thay đổi gia cảnh đột ngột, và việc đòi mẹ đến ngán ngẩm của Isabelle. Chính Antoine là người đã cứu Vianne. Mùa hè đầu tiên sau cái chết của mẹ, hai đứa đã không thể tách rời nhau được. Với Antoine, Vianne đã tìm được một lối thoát. Năm mười sáu tuổi Vianne đã mang thai, và đến năm mười bảy thì kết hôn, trở thành bà chủ của Le Jardin. Hai tháng sau, Vianne sẩy thai và hoang mang, bối rối một thời gian. Không có cách nào khác hơn để diễn tả điều đó. Vianne thu mình lại với nỗi đau buồn và để nó vây kín mình, không thể quan tâm đến bất kỳ ai, hay bất kỳ điều gì, đặc biệt là đứa em gái nhỏ ưa khóc lóc vòi vĩnh. Nhưng chuyện đó đã qua rồi. Đó không phải là ký ức mà Vianne muốn nghĩ đến trong một ngày đẹp trời như hôm nay. Chị dựa người vào chồng trong lúc đứa con gái chạy đến chỗ hai người, tuyên bố: - Con xong rồi. Mình đi thôi. - Ồ. - Antoine nhăn mặt. - Công chúa đã sẵn sàng, chúng ta phải lên đường thôi. Vianne mỉm cười quay trở vào nhà để lấy chiếc mũ treo trên cái móc cạnh cửa. Vốn có mái tóc vàng hoe ánh đỏ, làn da trắng sứ và đôi mắt xanh, chị luôn phải bảo vệ mình khỏi ánh nắng. Trong lúc chị đội chiếc mũ rơm rộng vành, lấy đôi găng tay ren và chiếc làn đựng đồ ăn, Sophie và Antoine đã ra khỏi cổng. Vianne nhập bọn với hai cha con trên con đường đất trước nhà Nó chỉ vừa đủ rộng cho một chiếc xe hơi chạy qua. Bên kia đường là những đồng cỏ mênh mông, điểm xuyết cỏ xanh, hoa anh túc đỏ, thanh cúc lam, và những cánh rừng. Trong khu vực này của thung lũng sông Loire, những cánh đồng thích hợp để trồng cỏ khô hơn là trồng nho. Chỉ cách Paris chưa đầy hai giờ xe lửa, nhưng nó giống như một thế giới khác hẳn. Khách du lịch ít khi đến đây, kể cả trong dịp hè. Thỉnh thoảng một chiếc xe hơi bình bịch chạy qua, hoặc một chiếc xe đạp, xe bò, nhưng chủ yếu chỉ có gia đình họ trên đường. Họ sống cách Carriveau khoảng một cây số rưỡi, thành phố chưa đến một ngàn dân được biết đến như một điểm dừng chân trên con đường hành hương đến với thánh Jeanne d’Arc. Thành phố không có ngành công nghiệp nào, và chỉ có rất ít việc làm - ngoại trừ những chỗ làm ở sân bay, niềm tự hào của Carriveau. Đó là sân bay duy nhất của cả vùng. Ở Carriveau, các con đường nhỏ hẹp lát đá cuội len lỏi giữa những tòa nhà xây bằng đá vôi nép vào nhau một cách vụng về. Vữa rơi ra từ những bức tường đá, dây thường xuân che giấu sự sụp đổ khó thấy bằng mắt nhưng luôn cảm nhận được. Trải qua nhiều thế kỷ, ngôi làng đã được xây dựng theo kiểu chắp vá từng phần: những con đường cong queo, những bậc thang khấp khểnh và ngõ cụt. Màu sắc làm cho các tòa nhà trông sống động hơn: bạt đỏ căng trên khung sắt đen, ban công tô điểm những cây phong lữ trồng trong chậu sành. Đâu đâu cũng thấy thứ gì đó hút mắt: một khay bánh hạnh nhân với các tông màu nhạt, những chiếc làn đan bằng cành liễu đầy phô mai, giăm bông và xúc xích khô, những thùng cà chua, cà tím và dưa chuột đầy màu sắc... Các quán cà phê đông khách trong một ngày Chủ nhật đẹp trời. Cánh đàn ông ngồi quanh những chiếc bàn sắt, uống cà phê và hút thuốc lá tự cuốn, tranh luận sôi nổi. Đó là một ngày như mọi ngày ở Carriveau. Ông LaChoa đang quét quáy phía trước tiệm bán xa lát, bà Clonet lau tủ kính bày bán mũ, một nhóm các cậu thiếu niên sánh vai nhau đang đi bát phố, chuyển tay nhau một điếu thuốc lá và đá tung những món rác rưởi trên đường. Khi đến cuối thành phố, cả nhà rẽ về phía dòng sông. Tại một bãi cỏ phẳng phiu bên bờ sông, Vianne đặt làn đồ ăn xuống và trải khăn dưới bóng một cây dẻ. Chị lấy từ trong làn ra một ổ bánh mì que nóng giòn, một miếng phô mai béo ngậy, hai quả táo, vài lát giăm bông Bayonne, và một chai Bollinger’36. Chị rót cho chồng một ly champagne rồi ngồi xuống bên cạnh anh trong khi Sophie chạy ra bờ sông. Ngày hôm ấy trôi qua trong bầu không khí khoan khoái ấm áp của mùa hè. Họ trò chuyện, cười đùa và ăn uống. Chỉ đến cuối ngày, khi Sophie đã vác cần đi câu cá và Antoine đang làm cho cô bé một vòng hoa cúc đội đầu, anh mới nói: “Hitler sẽ sớm lôi tất cả chúng ta vào cuộc chiến tranh của hắn.” Chiến tranh. Đó là tất cả những gì người ta nói tới trong những ngày ấy, nhưng Vianne không muốn nghe nhắc đến nó. Đặc biệt là trong một ngày hè đẹp trời như thế. Chị khum tay che mắt quan sát con gái. Bên kia dòng nước, thung lũng sông Loire được canh tác cẩn thận và tỉ mỉ. Không có hàng rào, ranh giới, chỉ có những cánh đồng xanh mướt trải dài nhiều dặm, các mảng rừng và đây đó những ngôi nhà hoặc kho chứa xây bằng đá. Nhiều bông hoa nhỏ xíu màu trắng bay lơ lửng trong không khí, tựa như những túm bông nhỏ. Vianne đứng dậy và vỗ tay. - Sophie, đến giờ về rồi con. - Em không thể phớt lờ chuyện này được đâu, Vianne. - Em có cần phải bận lòng không? Mà tại sao chứ? Mẹ con em có anh bảo vệ đây rồi. Nói đoạn Vianne bật cười, có lẽ hơi to quá mức. Chị thu dọn đồ dã ngoại rồi dẫn cả nhà quay về con đường đất. Chưa đầy ba mươi phút sau, họ đã ở trước cánh cổng gỗ vững chãi của Le Jardin, trang viên của gia tộc chị từ ba trăm năm qua. Ngôi nhà hai tầng xây bằng đá đã ngả màu xám theo thời gian, có các cửa sổ cánh chớp màu xanh dương nhìn ra vườn cây. Dây thường xuân leo lên tận hai ống khói và phủ kín lớp gạch. Diện tích của khu đất chỉ còn lại bảy mẫu. Hai trăm mẫu đã bị bán đi trong hai thế kỷ, khi tình hình tài chính của gia đình suy sụp dần. Bảy mẫu là quá đủ đối với Vianne. Chị không nghĩ mình cần nhiều hơn thế. Vianne đóng cửa lại sau khi mọi người đã vào nhà. Trong bếp, xoong chảo bằng đồng và gang được treo phía trên bếp lò. Những bó oải hương, hương thảo và cỏ xạ hương được treo trên xà nhà. Ngoài ra còn một cái chậu bằng đồng đã gỉ xanh qua năm tháng, đủ to để tắm cho một con chó nhỏ. Theo thời gian, lớp thạch cao trên tường đã bong tróc nhiều chỗ. Phòng khách là một sự pha trộn lung tung các món đồ và vải trang trí: ghế trường kỷ bọc dạ, thảm Aubusson, đồ gốm cổ Trung Hoa, rèm hoa và tranh vải. Một vài bức tranh treo trên tường rất đẹp và có thể được giá, số còn lại có vẻ nghiệp dư. Bao trùm lên tất cả là nét lộn xộn chắp vá của tình trạng sa sút tiền nong và gu thẩm mỹ lỗi thời, hơi tồi tàn, nhưng dễ chịu. Vianne dừng lại trong phòng khách và nhìn qua cửa kính trông ra sân sau, nơi Antoine đang đẩy Sophie trên chiếc xích đu anh làm cho con bé. Chị nhẹ nhàng treo mũ lên cái móc cạnh cửa rồi với lấy chiếc tạp dề, mặc vào người. Trong khi hai bố con chơi ngoài trời, Vianne nấu bữa tối. Chị bọc một miếng thăn lợn trong khoanh thịt hun khói cắt dày, buộc dây nhiều vòng rồi rán vàng trong dầu nóng. Trong lúc món thịt lợn được nướng trong lò, Vianne chuẩn bị các món ăn còn lại. Đúng tám giờ tối, chị gọi cả nhà vào dùng bữa rồi mỉm cười mãn nguyện khi nghe thấy tiếng chân chạy rầm rập, tiếng trò chuyện vui vẻ và tiếng kéo ghế ken két bên bàn ăn. Sophie ngồi ở đầu bàn, con bé đội vòng hoa cúc mà bố đã làm cho ở bờ sông. Vianne đặt đĩa thức ăn lên bàn. Một mùi thơm phức bốc lên - thịt lợn nướng và thịt xông khói rán giòn nấu táo, bên trên phủ một lớp nước xốt rượu vang béo ngậy, bên dưới là một lớp khoai tây nướng. Cạnh đó là một bát đậu Hà Lan tươi rưới bơ và rắc lá ngải giấm nhà trồng. Và để dùng kèm thì không thể thiếu bánh mì mà Vianne đã nướng sáng hôm qua. Như thường lệ, Sophie huyên thuyên suốt trong bữa ăn. Về khoản này thì con bé giống y hệt dì Isabelle của nó, không thể giữ mồm giữ miệng được. Cuối cùng, lúc họ ăn đến món tráng miệng - île flottante, đảo trứng nổi trên một lớp kem Anh -, sự im lặng hài lòng bao trùm quanh bàn ăn. - Thôi. - Cuối cùng Vianne đẩy món tráng miệng mới ăn hết một nửa của mình sang một bên và tuyên bố. - Đến lúc rửa bát rồi. - Mẹ ơi... - Sophie mè nheo. - Không được làm nũng. - Antoine nói. - Con lớn rồi. Vianne và Sophie đi vào trong bếp như mọi buổi tối. Hai người đứng vào vị trí - Vianne cạnh cái chậu đồng, Sophie cạnh cái bàn đá - và bắt đầu rửa rồi lau khô bát đĩa. Vianne có thể ngửi thấy thứ mùi ngòn ngọt và hơi gắt của điếu thuốc mà Antoine hút sau bữa tối phảng phất trong nhà. - Hôm nay bố chẳng thèm cười với mấy câu chuyện con kể. - Sophie nói trong lúc Vianne xếp đĩa lên chiếc kệ gỗ treo tường. - Bố bị làm sao ấy. - Không cười á? Ờ, chuyện đó cũng đáng báo động đấy. - Bố đang lo lắng vì chiến tranh. Chiến tranh. Lại nữa rồi. Vianne xua con gái ra khỏi bếp. Hai mẹ con lên gác rồi vào phòng của Sophie. Chị ngồi trên chiếc giường đôi, lắng nghe con gái huyên thuyên trong khi thay đồ ngủ; đánh răng và lên giường. Chị cúi xuống hôn con bé. - Con sợ lắm. - Sophie nói. - Chiến tranh sắp xảy ra ạ? - Đừng sợ. - Vianne nói. - Bố sẽ bảo vệ mẹ con mình. Nhưng ngay khi nói câu vừa rồi, chị chợt nhớ ngày trước mẹ cũng từng bảo chị đừng sợ. Đó là khi cha Vianne ra chiến trường. Sophie có vẻ chưa yên tâm. - Nhưng mà... - Không nhưng nhị gì cả. Con không việc gì phải lo lắng. Giờ thì ngủ đi. Vianne hôn Sophie lần nữa và để môi mình nấn ná lâu hơn trên má con bé. Chị xuống cầu thang rồi bước ra sân sau. Trời đêm khá oi bức, không khí đượm mùi hoa nhài. Chị tìm thấy Antoine đang ngồi ở chiếc ghế uống cà phê bằng sắt đặt trên bãi cỏ, chân choãi ra, người ngả sang một bên. Chị đến bên cạnh và đặt một tay lên vai chồng. Antoine nhả khói, rồi rít một hơi thuốc dài. Sau đó anh ngước nhìn vợ. Dưới ánh trăng, khuôn mặt anh tái nhợt và u ám, gần như không thể nhận ra. Anh thò tay vào trong túi áo và lôi ra một tờ giấy. - Anh bị động viên rồi, Vianne. Cùng với hầu hết đàn ông tuổi từ mười tám đến ba lăm. - Động viên? Nhưng... chúng ta chưa có chiến tranh mà? Em không... - Thứ Ba tới anh sẽ phải lên đường. - Nhưng... nhưng... anh chỉ là một bưu tá. Anh nhìn sâu vào đôi mắt chị, khiến chị đột nhiên nghẹn ngào. - Giờ anh đã là một người lính. Hình như thế. Mời các bạn đón đọc Sơn Ca Vẫn Hót của tác giả Kristin Hannah.