Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bí Quyết Đơn Giản Hóa Cuộc Sống

H ọc hỏi và sống một cuộc đời ý nghĩa Cuốn sách mà bạn đang cầm trong tay sẽ trở thành một trong những cuốn sách quan trọng nhất trong cuộc đời bạn. Hẳn bạn cũng đã từng nghe nhiều tác giả nói như thế về sách của họ. Tuy nhiên, sau nhiều cuộc hội thảo, thuyết trình và các khóa bổ sung kiến thức chuyên sâu, chúng tôi tin rằng cuốn sách này sẽ thật sự làm cho cuộc sống của bạn trở nên đầy đủ hơn. Cuốn sách này đề cập đến nghệ thuật am hiểu cuộc sống, giải phóng tiềm năng trong con người bạn, đồng thời đưa bạn đến với hạnh phúc và sự viên mãn. Chúng tôi tin rằng không ai có thể mang đến cho bạn ý nghĩa của cuộc sống bởi nó hiện diện ngay bên trong bạn. Sống một cuộc đời ý nghĩa bao gồm việc phát triển tiềm năng của mình theo hướng tốt nhất và tham gia vào các hoạt động xã hội, nơi bạn có thể đạt được sự phát triển tuyệt vời nhất cho bản thân và cho cộng đồng – đây là sự cân bằng lý tưởng giữa tình yêu thương bản thân và lòng vị tha. Nếu làm theo "con đường đơn giản hóa" được giải thích trong cuốn sách này, bạn sẽ tìm được ý nghĩa và vận mệnh của cuộc đời mình. Bạn sẽ thay đổi từ ngoài vào trong và từ trong ra ngoài. Bạn sẽ tìm được những lục địa mới trong chính bản thân mình. Bạn sẽ phát triển những nguồn sức mạnh của bản thân mà trước đây bạn chưa từng biết. Bạn sẽ tìm thấy một cấp độ hoàn toàn mới của sự thỏa mãn về mặt thể chất. Vị thế của bạn sẽ được cải thiện. Bạn sẽ được đề cao và yêu thương. Và bạn sẽ thật sự hạnh phúc từ trong nội tâm. Nhiều người không tìm được ý nghĩa trong cuộc sống bởi họ đặt ra những câu hỏi quá phức tạp. Họ không nhìn thấy vẻ đẹp của sự đơn giản. Khi bạn đã đọc đến đây, nghĩa là bạn đã bắt đầu cuộc hành trình đơn giản hóa. Chúng tôi hy vọng bạn sẽ tìm được những trải nghiệm thú vị và vui vẻ khi tiến những bước xa hơn trên hành trình đó. Tiki Küstenmacher Lothar J. Seiwert *** CON ĐƯỜNG ĐƠN GIẢN HÓA SỰ ĐƠN GIẢN HÓA CÓ Ý NGHĨA GÌ ĐỐI VỚI BẠN? Đ iều gì xuất hiện trong đầu khi bạn nghe thấy cụm từ "đơn giản hóa"? Đối với nhiều người, đây là một thuật ngữ mang tính tích cực hiển nhiên. Khi nghe thấy cụm từ "đơn giản hóa", họ gật đầu mỉm cười và tỏ vẻ thấu hiểu. Đó là vì họ đã phải chịu đựng sự phức tạp của cuộc sống, từ cuốn hướng dẫn sử dụng điện thoại di động dầy cộm đến những biến đổi khó lường của thị trường chứng khoán… Về bản chất, sự đơn giản hóa có nghĩa là chẳng làm gì cả. Sự đơn giản hóa trái ngược với sự đòi hỏi. Nó mang tính tích cực và là một khả năng mà bạn đã có từ lâu. Bản chất con người là một thực thể đơn giản. Nếu có dịp đến thăm sở thú hoặc du ngoạn thiên nhiên hoang dã, hãy ngắm nhìn những người họ hàng gần nhất của chúng ta – loài vượn người, bạn sẽ thấy được khả năng kỳ diệu của chúng trong việc trải qua hàng giờ liền nhởn nhơ, chơi đùa hoặc chẳng làm gì cả. Dạng thức cơ bản nhất của sự đơn giản chính là chỉ đơn thuần tồn tại mà thôi. SỰ ĐƠN GIẢN - MỘT NHU CẦU CƠ BẢN CỦA CON NGƯỜI Thật kỳ lạ là tất cả những hoạt động phức tạp, những phát minh và yêu cầu của chúng ta đều xuất phát từ nhu cầu cơ bản về sự đơn giản, tức là mong muốn sống thảnh thơi và chẳng làm gì cả. Mọi người đều muốn kiếm thêm tiền để được an toàn và sống thoải mái hơn trong tương lai. Chúng ta cố gắng xây một căn nhà đẹp với không gian thoáng đãng để có thể ngả lưng ra chiếc ghế dựa trong vườn thư giãn mà chẳng cần lo lắng gì. Chiếc máy rửa chén công phu được phát minh để chúng ta có thể dùng thời gian rửa chén làm những công việc khác dễ chịu hơn. Nhà nước ra đời khi con người muốn giải quyết các tranh chấp để có thể sống thanh thản và ý nghĩa hơn, thay vì phải lo lắng không ngừng về mối hiềm khích với người khác. Các quỹ bảo hiểm, những thiết bị gia đình, công việc hành chính cùng nhiều điều khác được tạo ra nhằm giúp ta có được cuộc sống đơn giản và hạnh phúc hơn. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, chúng ta đã không nhận ra ý định tốt đẹp ấy. Giấc mơ về một khoản bảo hiểm xã hội kha khá đã trở thành một cuộc chiến về sự đóng góp giữa các thế hệ và các nhóm thu nhập. Gia đình trở thành công việc toàn thời gian đối với nhiều người. Và hẳn là không ít người trong chúng ta từng gặp phải những công chức quan liêu luôn tìm cách gây khó dễ cho người dân - những người mà đáng ra họ phải phục vụ. Nói tóm lại, khát vọng về sự đơn giản đã bị biến thành một quá trình gia tăng sự phức tạp. Con đường đơn giản hóa giúp ta đảo ngược lại điều này và quay trở về với mục đích thật sự của cuộc sống. Đó chính là sự đơn giản, phản ánh những quả ngọt của một cuộc sống trưởng thành và viên mãn. Nếu bạn đang phải đối mặt với một giai đoạn rối rắm và phức tạp của đời mình, thì có thể mục tiêu này thật vô lý đối với bạn. Nhưng chính khi ở cực đỉnh của sự phức tạp thì bạn thật lòng mong cuộc sống của mình sẽ trở nên đơn giản hơn. Đơn giản hóa bao gồm việc mở ra một con đường mới trong mỗi lĩnh vực của cuộc sống và việc kích hoạt một loại "hiệu ứng A ha". Chỉ thật dễ dàng như thế! Con đường đơn giản hóa đòi hỏi việc tìm kiếm sự đơn giản tiềm ẩn trước mắt bạn và ở trong bạn. Sự đơn giản này chỉ có thể cảm nhận được khi đặt nó trên cái nền của sự phức tạp. Con đường đơn giản hóa sử dụng kinh nghiệm cuộc đời bạn và những lỗi lầm mà bạn đã mắc phải. Nó không phải là thứ vật chất được làm sẵn mà bạn có thể mua. Nó là kết quả của sự hào hứng khi khởi đầu một con đường mới. Nó là một món trang sức quý giá mà bạn nhận được ở cuối cuộc hành trình – dù điều đó không có nghĩa là cuộc hành trình đã được hoàn tất. Cuộc hành trình tiến từ bên ngoài vào bên trong. Nó bắt đầu từ bàn giấy của bạn, trong nhà bạn và với việc tổ chức thời gian của bạn. Nó tiếp tục với những mối quan hệ cá nhân của bạn, từ người bạn đời, con cái, bạn bè và các đồng nghiệp của bạn. Con đường ấy dẫn bạn đến với cơ thể mình, đến với sự thích nghi cả về thể chất lẫn tinh thần. Và nó kết thúc trong ý nghĩ và cảm xúc của bạn, ở giữa cuộc sống và cá tính của bạn. Hãy trông đợi một cuộc hành trình thật hào hứng… và hãy bắt đầu con đường đơn giản hóa của bạn bằng một giấc mơ. Giấc mơ đơn giản hóa của bạn: Đêm đầu tiên Hãy tưởng tượng bạn mơ thấy một người vô hình nắm lấy tay bạn và dẫn bạn ra khỏi phòng. Một màn sương màu xám xanh bao xung quanh bạn và ở xa xa, bạn mơ hồ nhận thấy một ngày mới đang đến. Thật khó để nói rõ liệu bạn đang trôi bồng bềnh, đang đi hay đang bay về phương nào. Nhưng rồi bạn thấy rằng mình đã đến một vùng đất rất quen thuộc. Một tòa lâu đài hiện ra trước mặt bạn, tựa như một kim tự tháp. Và bạn biết đó chính là kim tự tháp của đời mình. Bạn chỉ có thể đoán được độ cao của nó bởi đỉnh chóp đã bị làn sương mù che khuất. MÔ HÌNH KIM TỰ THÁP NHIỀU TẦNG Chúng ta có thể so sánh con đường đơn giản hóa với một kim tự tháp. Con đường dẫn đến phần cốt lõi, đơn giản và tinh túy nhất của cuộc đời bạn qua bảy tầng, tượng trưng ảy lĩnh vực khác nhau của cuộc sống. Chiều cao của kim tự áp tượng trưng cho chiều sâu nội tâm của bạn. Sẽ rất hiệu quả nếu ở mỗi tầng, bạn có ít nhất một bước đột phá. Thứ tự của các tầng không quan trọng và bạn có thể bắt đầu từ dưới chân, ở giữa kim tự tháp hoặc bất kỳ vị trí nào bạn thích. Từ kinh nghiệm của mình, chúng tôi cho rằng khao khát sự đơn giản thường bắt đầu từ cấp độ thấp nhất: trong công việc và trong gia đình bạn. Đó là lý do vì sao khi mô tả tổng quan về bảy bước đơn giản hóa, chúng tôi lại chọn bắt đầu bằng một chủ đề hết sức quan trọng: dọn dẹp vệ sinh. Tầng 1: Các vật dụng của bạn Hãy bắt đầu với tất cả những vật dụng mà bạn đang sở hữu. Theo thống kê, trung bình mỗi chúng ta sở hữu khoảng 10.000 vật dụng. Con số này dao động tùy theo từng người và bạn có thể có nhiều hơn thế. Bạn nên bắt đầu dọn dẹp từ bàn làm việc của mình để có được cảm giác tuyệt vời khi đã làm chủ được những công việc giấy tờ. Sau đó, hãy tiếp tục với các ngăn tủ, các phòng trong nhà, ga ra và chiếc xe của bạn. Tầng 2: Tình hình tài chính của bạn Tài chính là vấn đề rất khó nắm bắt một cách rõ ràng. Đơn giản là vì các vấn đề liên quan đến tiền bạc thường khó khăn hơn việc dọn dẹp những đống đồ đạc hỗn độn. Ở đây, chúng ta không chỉ bàn đến tiền mặt và số dư trong tài khoản ngân hàng mà còn nói về các khoản nợ nần, các khoản cho vay và đặc biệt là các khuôn mẫu ứng xử về vấn đề tiền bạc. Tầng 3: Thời gian của bạn Thứ tài sản này thậm chí còn khó nắm bắt hơn cả vấn đề tài chính. Mỗi người đều có hai mươi bốn giờ mỗi ngày. Vấn đề ở đây là họ có bao nhiêu thời gian rảnh để tùy ý sử dụng. Vợ/chồng, người thân, sếp, đồng nghiệp, khách hàng – tất cả đều tiêu tốn của bạn một khoảng thời gian nào đấy. Trên tất cả, có những thói quen hàng ngày, trách nhiệm, sở thích và có lẽ là một niềm đam mê bí mật nào đấy sẽ khiến bạn phải đầu tư thời gian. Nhưng liệu bạn có thể tìm thấy thời gian dành cho bản thân, bắt kịp bản thân, suy nghĩ và chẳng làm gì cả ở nơi nào? Một lần nữa, bạn hãy tạo ra trật tự và sự đơn giản cho nó. Khi làm như vậy, bạn đã tiến thêm một bước đến gần hơn với bản chất con người mình. Tầng 4: Sức khỏe của bạn Cơ thể bạn chính là tài sản riêng tư nhất của bạn. Thông thường, chúng ta chỉ quan tâm đến nó khi nó không hoạt động bình thường. Khi bị bệnh, ta có khuynh hướng bỏ qua mọi mối bận tâm trong cuộc sống. Con đường đơn giản hóa sẽ mang đến cho bạn cách thức để tránh tình trạng ấy bằng việc phòng tránh bệnh tật lâu dài. Nó sẽ giúp bạn đạt được sự hài hòa giữa tâm trí và thể chất. Và việc này cũng có liên quan đến đời sống tình dục của bạn. Tầng 5: Các mối quan hệ của bạn Có thể mạng lưới xã hội chính là nguyên nhân khiến cuộc sống của bạn trở nên phức tạp. Các vấn đề cá nhân, sự tranh chấp và lòng đố kỵ là những hệ quả tai hại đi kèm. Thậm chí những mối quan hệ thân thiết cùng những mối ràng buộc xã hội cũng có thể trở nên phức tạp, nhất là khi bạn buộc phải hy sinh nhu cầu của mình để làm hài lòng người khác. Con đường đơn giản hóa sẽ giúp bạn làm chủ các mối quan hệ của mình. Nó sẽ giải phóng bạn để bạn có được những mối liên hệ làm giàu thêm cho mình và tiến về phía trước. Nó làm cho mối quan hệ giữa bạn với cha mẹ hoặc các thành viên khác trong gia đình trở nên nhẹ nhàng hơn. Thậm chí, nó còn giúp bạn có tầm nhìn xa hơn quãng đời mình đã sống. Tầng 6: Đời sống lứa đôi của bạn Vai trò to lớn mà chúng ta đặt cho tình yêu dựa trên niềm tin rằng ta tiến gần về phía bản thân nhất trong mối quan hệ với người bạn đời của mình. Người bạn đời ấy không nhất thiết phải là chồng/vợ, mà có thể là một người bạn thân thiết trong cuộc sống. Những người có niềm tin tôn giáo mạnh mẽ có thể tìm được mối quan hệ này với Đấng bề trên. Đối với những người sống một mình thì đó có thể là bà con, bạn bè hoặc các mối quan hệ quan trọng khác. Con đường đơn giản hóa đặt dấu chấm hết cho niềm tin vô căn cứ rằng thành công trong sự nghiệp phải liên quan đến sự căng thẳng trong hôn nhân hay đời sống lứa đôi của mỗi người. Tầng 7: Bản thân bạn Đỉnh cao của kim tự tháp đơn giản hóa là một căn phòng rất độc đáo. Phía trên lối vào chính là quan điểm về sự viên mãn, hạnh phúc cũng như mục đích sống của bạn. Căn phòng ấy tràn ngập sự đơn giản tuyệt đối. Điều đáng nói là nó không hề trống rỗng mà được lấp đầy bằng những nét tính cách riêng của bạn. Ở đây, bạn sẽ hiểu hơn về chính mình. Và khi rời khỏi căn phòng đó, bạn sẽ được nếm trải một sự thay đổi tuyệt vời. Mời các bạn đón đọc Bí Quyết Đơn Giản Hóa Cuộc Sống của tác giả Werner Tiki Kustenmacher & Lothar J. Seiwert.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ứng Dụng Bản Đồ Tư Duy Trong Học Tập
Chắc hẳn bạn đã không còn xa lạ gì với thuật ngữ “bản đồ tư duy” (mindmap). Ngày nay, chỉ cần bước vào một hiệu sách bất kỳ, chúng ta cũng sẽ tìm được vô số những cuốn sách hướng dẫn về kỹ thuật ghi chép cực kỳ thông minh này. Nhưng bạn đã thực sự học được những gì từ vô vàn các cuốn sách đó?  Một trong những vấn đề lớn mà các sách về bản đồ tư duy thường gặp phải là không đi sâu vào chi tiết. Những cuốn sách luôn nói rằng chúng ta có thể vận dụng bản đồ tư duy theo rất nhiều cách, nhưng lại không nói chúng ta biết phải vận dụng như thế nào. Ngay cả khi họ đưa ra hướng dẫn, những chỉ dẫn cũng rất chung chung, chưa đủ để người học tiện áp dụng vào những tình huống thực tế cũng như trong công việc học tập hàng ngày. Bạn và tôi, chúng ta buộc phải tự tìm con đường chinh phục "bản đồ tư duy" cho riêng mình. Chính vì thế, cuốn sách "Ứng dụng bản đồ tư duy trong học tập" được thực hiện để trang bị cho bạn những chỉ dẫn cụ thể và chi tiết nhất để bạn có thể dễ dàng ứng dụng trong học tập và thi cử. Không chỉ thế, cuốn sách còn cung cấp những phương án tiếp cận và sử dụng bản đồ tư duy hiệu quả theo sở thích, nhu cầu và mục tiêu của riêng cá nhân bạn. Hãy tự tin đọc và áp dụng ngay các bí quyết được trình bày trong cuốn sách nhỏ gọn nhưng rất thực tế này, và bạn sẽ thấy kết quả học tập của mình tiến bộ từng ngày! *** Suốt hàng thập kỷ qua, bản đồ tư duy là một trong số ít những công cụ “vạn năng” mà bạn có thể sử dụng hiệu quả trong mọi lĩnh vực của đời sống thường nhật, đặc biệt trong học tập. Rồi bạn sẽ thấy, bất kể sở thích của bạn là gì, nhu cầu của bạn ra sao và mục tiêu của bạn thế nào, bản đồ tư duy đều có thể hỗ trợ bạn học tập tốt hơn với ít thời gian và ít vất vả hơn. Thuật ngữ “bản đồ tư duy” chắc hẳn không còn xa lạ với chúng ta. Ngày nay, chỉ cần bước ra hiệu sách, bạn sẽ tìm được vô số những cuốn sách hướng dẫn về kỹ thuật ghi chép cực kỳ thông minh này. Nhưng bạn học được thực sự bao nhiêu từ vô vàn cuốn sách đó? Cuốn sách Ứng dụng bản đồ tư duy trong học tập ra đời với mục đích cốt lõi là trang bị cho bạn những chỉ dẫn, hướng dẫn cụ thể cũng như chi tiết nhất bạn có thể dễ dàng ứng dụng trong học tập và thi cử. Đồng thời cung cấp cho bạn những phương án tiếp cận và sử dụng bản đồ tư duy hiệu quả theo sở thích, nhu cầu và mục tiêu của riêng bạn, vì chúng ta đều hiểu rằng, mỗi người là một cá nhân khác biệt và độc đáo. Hãy áp dụng những gì bạn đọc được từ cuốn sách này vào học tập. Bạn sẽ thấy thật dễ dàng vì mọi điều đã được hướng dẫn hết sức chi tiết và tỉ mỉ rồi! Và hãy bắt đầu ngay bây giờ. Càng bắt đầu sớm bao nhiêu, bạn càng nhanh chóng sử dụng thành thạo bản đồ tư duy bấy nhiêu, và kết quả là, thành tích học tập của bạn sẽ càng tăng nhanh. Bạn và tôi, chúng ta hãy cùng tìm con đường chinh phục “bản đồ tư duy” cho riêng mình. *** Bản đồ tư duy là gì? B ản đồ tư duy là kỹ thuật ghi chép sử dụng từ khóa, ý tưởng, màu sắc, hình ảnh,... để thể hiện trong một sơ đồ. Bản đồ tư duy được trình bày với từ khóa của ý tưởng chính đặt tại trung tâm và các chủ đề phụ tỏa ra xung quanh. Chủ đề phụ bao gồm những ý tưởng tương đương nhau, các ý tưởng này lại phân nhánh thành những chủ đề nhỏ hơn và nhỏ hơn nữa đến bất cứ mức nào tùy vào mạch suy nghĩ của bạn. Bản đồ tư duy không phải một khái niệm mới. Trên thực tế, kỹ thuật ghi chép này đã xuất hiện cả ngàn năm trước và được những bậc thầy như Leonardo da Vinci hay Picasso sử dụng. Đến những năm 1960 và 1970, Tony Buzan đã hệ thống hóa và giới thiệu kỹ thuật này khắp thế giới. Tony Buzan bắt đầu làm việc với kỹ thuật ghi chép thông minh này khi ông nghiên cứu về tâm lý học, thần kinh học, ngôn ngữ tư duy, ngữ nghĩa học, khả năng nhận thức và khoa học cơ bản. Ông mau chóng nhận ra rằng não bộ của con người có hiệu suất mạnh hơn máy tính cả triệu lần nhưng chúng ta lại chưa có chỉ dẫn đầy đủ nào để tận dụng khả năng của nó. Ông được công nhận như một trong những chuyên gia giáo dục đầy tài năng sau khi xuất bản nhiều đầu sách về chủ đề liên quan tới bộ não con người, khả năng sáng tạo và phương pháp học tập thông minh. 2. Tại sao bản đồ tư duy lại hiệu quả? Thấu hiểu giới hạn bộ não của bạn Chúng ta thường tự nhận định bản thân là người thuận não trái hay não phải, nhưng sự thực, chúng ta sử dụng cả hai bán cầu não cho nhiều mục đích khác nhau. Chẳng hạn như, khi gặp những công việc đòi hỏi khả năng ngôn ngữ và tư duy logic, bạn sẽ tự động vận dụng cả hai bán cầu não. Tuy nhiên, bán cầu não phải, trung khu phụ trách diễn giải ý nghĩa màu sắc, hình ảnh, nhận thức và trí tưởng tượng liên quan nhiều tới khả năng sáng tạo hơn. Vì khuynh hướng tự nhiên của bộ não là hoạt động bán cầu này mạnh hơn bán cầu kia, nên chúng ta thường phải vật lộn trong việc phối hợp cả hai bán cầu não. Hơn nữa, bộ não chúng ta cần tác động nào đó mới có thể đưa thông tin từ khu vực trí nhớ ngắn hạn/tạm thời sang khu vực trí nhớ dài hạn/vĩnh viễn. Vì thế, nếu không chú trọng tới nội dung ghi nhớ, bộ não của chúng ta sẽ “hủy” thông tin đó để dành chỗ cho những tin tức mới. Biểu đồ dưới đây thể hiện tốc độ não bộ lãng quên của nhà tâm lý học Hermann Ebbinghaus, chúng ta sẽ thấy tốc độ não loại bỏ tin tức nhanh như thế nào khi chúng ta không chuyển được thông tin đó vào bộ nhớ dài hạn. a Cứ thế, chỉ sau gần một năm, lượng thông tin chúng ta ghi nhớ được gần như bằng không. Não bộ của chúng ta không được thiết kế để lưu trữ tất cả thông tin chúng ta được cung cấp. Hạn chế này không nên là lý do cản trở năng lực học tập và xử lý kiến thức của bạn. Chúng ta hoàn toàn có thể rèn luyện để thúc đẩy khả năng hoạt động của não, và bạn chỉ cần sử dụng đúng công cụ mà thôi. Các chỉ dẫn khoa học Khi não bạn tạo ra một ý nghĩ, ý nghĩ đó sẽ hình thành một đường kết nối các tế bào thần kinh tựa như một lòng sông. Chúng ta đều biết, khi nước chảy ngập, con sông sẽ không bị tù đọng, khô cạn, thậm chí biến mất. Đường dẫn tế bào thần kinh của bạn cũng vậy. Có vô vàn những hội thảo khoa học tuyên bố rằng, nếu bạn lặp đi lặp lại một thông tin đủ nhiều, thông tin đó sẽ nằm trong bộ nhớ dài hạn. Theo lẽ đó, nếu bạn ứng dụng bản đồ tư duy thường xuyên, bạn sẽ bắt đầu tạo được nhiều kết nối chưa từng xuất hiện trong não bộ và tăng cường năng lực tư duy của bạn lên rất nhiều. Thực tế, nếu trải dài toàn bộ số kết nối mà bộ não con người có thể tạo được, độ dài có thể xấp xỉ năm mét. Nhưng não không phải một đường thẳng, những ý nghĩ của chúng ta tự do chảy trôi không theo nguyên tắc nào và thường trở nên lộn xộn. Bên cạnh đó, ý nghĩ của chúng ta có xu hướng xuất hiện dưới dạng hình ảnh. Chính vì thế, bản đồ tư duy được tạo ra để mô phỏng những dòng suy nghĩ chảy trôi tự do trong não bạn, từ đó giúp bạn ghi nhớ lâu hơn. Bản đồ tư duy có thể được trình bày bằng ít hay nhiều màu sắc và được cấu tạo theo cách thức hỗ trợ bạn khai thác ý tưởng và suy nghĩ. Não bộ sẽ dễ dàng nhận dạng những hình ảnh này và cần ít hoạt động để xử lý hơn. Các nhà khoa học đã chứng minh được rằng, dù hai bán cầu não của con người hoạt động thống nhất với nhau nhưng lại được tổ chức khác nhau. Nhiều bộ não thiên về sử dụng và bồi dưỡng bán cầu này hơn bán cầu kia; dù vậy, điều tốt nhất bạn nên làm là luyện rèn toàn bộ não. Mời các bạn đón đọc Ứng Dụng Bản Đồ Tư Duy Trong Học Tập của tác giả 1980 Books.
Thói Quen Làm Nên Sáng Tạo
Cảm hứng là có thật, nhưng nó chỉ đến khi ta làm việc. - Pablo Picasso Pablo Picasso là một trong những họa sĩ vĩ đại nhất thế kỉ XX với nhiều tác phẩm đắt giá. Theo các nhà thống kê, ông có tới 26.075 tác phẩm được trưng bày, xuất hiện trước công chúng (chưa tính tới những tác phẩm chưa được tìm thấy hoặc công bố). Thử thực hiện một phép tính đơn giản, Picasso sống đến 91 tuổi, vị chi là 33.403 ngày. Nếu so sánh với số tác phẩm được công chúng biết tới ở trên thì trung bình mỗi ngày ông lại sáng tạo thêm được một tác phẩm mới, tính từ khi ông 20 tuổi cho đến tận lúc qua đời. Nói một cách đơn giản thì Picasso đã sáng tạo không ngừng nghỉ mỗi ngày, trong liên tục 71 năm. Picasso chính là ví dụ sinh động cho thấy khả năng sáng tạo vô hạn của con người, cùng nỗ lực không ngừng để vượt qua giới hạn của bản thân. Bạn có biết ngọn nguồn của mọi sự sáng tạo đều nằm trong chính con người chúng ta, nó vẫn ở yên đó chờ được chúng ta thức tỉnh? Trong cuốn sách Thói quen làm nên sáng tạo, tác giả Twyla Tharp, một biên đạo múa tài năng bậc nhất nước Mỹ, đã cho chúng ta thấy tiềm lực phi thường của con người trong việc đánh thức khả năng sáng tạo. Thông qua những câu chuyện làm nghề, quan điểm triết học sâu sắc và hiểu biết rút ra từ cuộc sống hằng ngày, bà đã chứng minh được rằng sáng tạo không phải là năng lực do Chúa trời ban tặng mà nó là cốt tủy được hình thành từ sự kỷ luật, gian khổ rèn luyện để hình thành những thói quen làm nên sáng tạo. Hãy đọc sách để thấy thành công luôn bắt đầu từ những điều nhỏ nhặt nhất và sáng tạo chỉ đến khi được đầu tư công sức và thời gian theo đúng nghĩa. Trân trọng giới thiệu đến bạn cuốn sách vô cùng hữu ích này!   ** Twyla Tharp, một trong những biên đạo múa vĩ đại nhất nước Mỹ, bắt đầu sự nghiệp từ năm 1965 và đến nay, bà đã dàn dựng hơn 130 vở múa cho vũ đoàn của mình, cũng như cho Vũ đoàn Ba lê Joffrey, Vũ đoàn Ba lê New York, Vũ đoàn Ba lê Opera Paris, Vũ đoàn Ba lê Hoàng gia London và Nhà hát Ba lê Mỹ. Sử dụng âm nhạc của tất cả tác giả từ Bach, Beethoven và Mozart đến Jelly Roll Morton, Frank Sinatra và Bruce Springteen, bà là người tiên phong trong việc kết hợp múa hiện đại và ba lê với âm nhạc đại chúng. Trong lĩnh vực điện ảnh, bà từng cộng tác với Milos Forman trong phim Hair, Ragtime và Amadeus. Trong lĩnh vực truyền hình, bà chỉ đạo chương trình Baryshnikov by Tharp từng giành được hai giải Emmy. Trên sân khấu Broadway, bà đã đạo diễn phiên bản nhà hát của vở Singin’ in the Rainvà đến năm 2003, bà giành giải Tony cho vở Movin’ Out, tác phẩm bà tự tay dàn dựng, đạo diễn và biên đạo trên nền các bài hát của Billy Joel. Bà cũng từng nhận giải thưởng MacArthur Fellowship. Năm 1993, bà được kết nạp vào Viện Nghệ thuật và Khoa học Mỹ. Năm 1997, bà trở thành thành viên danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Bà đã nhận được 18 học vị tiến sĩ danh dự. Bà sống và làm việc ở thành phố New York. Mark Reiter đã cộng tác để cho ra đời 12 cuốn sách, tính cả Thói quen làm nên sáng tạo. Ông cũng là đại diện cho các tác giả tại Bronxville, New York. *** Tôi bước vào một căn phòng trắng Tôi bước vào một phòng tập nhảy nằm ở trung tâm Manhattan. Đó là căn phòng trắng rộng lớn. Tôi mặc một chiếc áo nỉ cùng cái quần jeans bạc phếch và đi đôi giày thể thao Nike. Bao quanh bốn bức tường là những tấm gương cao gần hai mét rưỡi. Một chiếc đài nằm trong góc. Sàn nhà sạch trơn, không vương tì vết, nếu không tính hàng nghìn vệt miết cùng dấu chân còn lưu lại sau những buổi tập của các vũ công. Ngoài mấy tấm gương, chiếc đài, những vệt miết và tôi, căn phòng hoàn toàn trống trải. Năm tuần nữa, tôi sẽ bay tới Los Angeles cùng một nhóm sáu vũ công để tham gia sô diễn kéo dài tám đêm liên tiếp trước 1.200 khán giả mỗi tối. Đó là nhóm nhảy của tôi. Tôi là một biên đạo múa. Tôi đã có trong tay một nửa chương trình – một vở ba lê kéo dài 50 phút cho toàn bộ sáu vũ công trên nền bản xô-nát số 9 của Beethoven dành cho đàn piano, bản “Hammerklavier”. Tôi đã sáng tác tiết mục này từ hơn một năm trước và đã dành mấy tuần vừa qua để luyện tập với cả nhóm. Nửa còn lại của chương trình vẫn còn là một ẩn số. Tôi không biết mình sẽ sử dụng bản nhạc nào. Tôi không biết mình sẽ làm việc với vũ công nào. Tôi còn chưa có ý tưởng về trang phục, thiết kế ánh sáng, hay nhạc công. Tôi cũng chưa nắm được thông tin về thời lượng của tiết mục, dù nó phải đủ dài để lấp đầy nửa còn lại của chương trình và mang đến cho khán giả thứ họ xứng đáng được nhận. Thời lượng của tiết mục sẽ quyết định khoảng thời gian tập luyện mà tôi cần. Thời gian này bao gồm việc liên lạc với vũ công, lên thời gian biểu tại phòng tập và khởi động quá trình luyện tập – tất cả đều dựa trên sự sáng tạo của tôi ở căn phòng trắng trống trơn này trong vài tuần tới. Các vũ công mong mỏi tôi sẽ thành công vì vũ đạo của tôi chính là sinh kế của họ. Các đại diện ở Los Angeles cũng kỳ vọng điều tương tự vì họ đã bán ra rất nhiều vé cùng lời hứa hẹn rằng khán giả sẽ được chứng kiến điều mới lạ và lý thú từ bàn tay tôi. Chủ rạp cũng mong như thế; vì nếu tôi không tới, rạp hát của ông ấy sẽ trống trơn suốt cả tuần. Như vậy là có rất nhiều người, bao gồm cả những người tôi còn chưa gặp bao giờ, đang gửi gắm niềm tin vào khả năng sáng tạo của tôi. Nhưng ngay lúc này, tôi không hề nghĩ tới những chuyện ấy. Tôi đứng trong một căn phòng với nghĩa vụ phải sáng tác ra tiết mục múa thật đặc sắc. Các vũ công sẽ có mặt ở đây chỉ trong vài phút nữa. Chúng tôi sẽ phải làm gì? Đối với một số người, căn phòng trống biểu trưng cho thứ gì đó sâu sắc, huyền bí và đáng sợ: Nhiệm vụ khởi đầu từ hai bàn tay trắng và nỗ lực để kiến tạo nên cái gì đó trọn vẹn, đẹp đẽ và viên mãn. Nó cũng không khác gì việc một nhà văn mở ra một trang soạn thảo trắng trên máy tính của mình; hay một họa sĩ đối mặt với tấm toan trống trơn; một nghệ sĩ điêu khắc trân mắt nhìn một tảng đá thô; một nhạc sĩ ngồi trước cây đàn piano, ngón tay bâng quơ lướt trên những phím đàn. Một số người cảm thấy khoảnh khắc này – khoảnh khắc trước khi sự sáng tạo khởi phát – quá đỗi đau đớn tới độ họ không tài nào đối mặt nổi với nó. Họ đứng dậy và rời bỏ chiếc máy tính, tấm toan, cây đàn; họ đánh một giấc, đi mua sắm, nấu bữa trưa hoặc làm đủ mọi việc lặt vặt trong nhà. Họ trì hoãn. Trong hình thái cực đoan nhất, nỗi kinh hoàng ấy khiến con người ta tê liệt hoàn toàn. Khoảng không trống vắng có lẽ chỉ tầm thường vậy thôi. Nhưng tôi đã đối mặt với nó trong suốt cuộc đời làm nghệ thuật. Đó là công việc của tôi. Đó cũng là sự nghiệp của tôi. Nói tóm lại: Việc lấp đầy khoảng không trống trơn đó đã giúp tôi tạo dựng được tên tuổi cho mình. Tôi là một vũ công kiêm biên đạo múa. Trong 35 năm qua, tôi đã sáng tác 130 vở múa và ba lê. Một số vở tốt, số khác lại dở tệ. Tôi đã làm việc với các vũ công ở hầu hết mọi không gian và môi trường mà các bạn có thể tưởng tượng ra. Tôi đã tập dượt trên đồng cỏ. Tôi đã kinh qua hàng trăm phòng tập, một số phòng rất xa hoa bởi chính sự mộc mạc chân phương và rộng lớn của nó; nhiều phòng thì bẩn thỉu, đầy sỏi sạn rác rưởi, chuột chạy rầm rập quanh bốn chân tường. Tôi đã làm việc tám tháng trời tại một phim trường ở Prague, biên đạo các bài múa và chỉ đạo các cảnh opera cho bộ phim Amadeus (tạm dịch: Sự đố kỵ của thiên tài) của Milos Forman. Tôi đã tổ chức dàn dựng các cảnh quay dùng ngựa trong Công viên Trung tâm của thành phố New York cho phim Hair (tạm dịch: Mái tóc). Tôi đã làm việc với các vũ công đến từ các nhà hát ở London, Paris, Stockholm, Sydney và Berlin. Tôi đã điều hành công ty của riêng mình suốt ba thập kỷ. Tôi đã sáng tác và đạo diễn một sô diễn rất thành công ở Broadway. Tôi đã làm việc chăm chỉ trong nhiều năm và không ngừng sáng tạo đến mức tới thời điểm này, tôi không chỉ thấy thách thức và lo lắng, mà còn có cảm giác bình yên và hứa hẹn khi đứng trước một căn phòng trắng trống trải. Nó đã trở thành mái nhà của tôi. Sau rất nhiều năm, tôi đã học được rằng sáng tạo là một công việc toàn thời gian với những mô thức thường nhật của riêng nó. Đó là lý do tại sao các nhà văn, chẳng hạn, thích thiết lập các nền nếp cho chính mình. Những người làm việc năng suất nhất bắt đầu công việc từ sáng sớm, khi không gian yên ắng, chuông điện thoại chưa reo và tâm trí họ đang tĩnh tại, tỉnh táo, chưa bị vẩn đục vì lời ra tiếng vào của mọi người. Có thể họ sẽ đặt cho mình một mục tiêu – viết 1.500 chữ, hoặc ngồi trước bàn làm việc cho tới trưa – nhưng bí mật thực sự nằm ở chỗ họ làm việc đó hằng ngày. Nói cách khác, họ có kỷ luật. Theo thời gian, khi nền nếp thường nhật dần biến thành bản năng thứ hai, kỷ luật cũng thay hình đổi dạng thành thói quen. Thực tế này đúng với mọi cá nhân hoạt động sáng tạo, dù đó là một họa sĩ bước tới trước giá vẽ vào mỗi sáng, hay một nhà nghiên cứu y khoa đến phòng thí nghiệm hằng ngày. Nền nếp cũng đóng vai trò ngang ngửa như tia chớp cảm hứng lóe lên trong quá trình sáng tạo, thậm chí còn lớn hơn. Và ai cũng có thể tự thiết lập nền nếp. Sáng tạo không chỉ là đặc sản của riêng các nghệ sĩ. Nó cũng cần thiết với các doanh nhân đang tìm kiếm những phương thức mới để hoàn tất thương vụ; nó là liều thuốc hữu hiệu cho các kỹ sư đang cố gắng giải quyết vấn đề; nó là yếu tố giúp các bậc cha mẹ muốn con cái mình nhìn nhận thế giới theo nhiều phương diện khác nhau. Trong bốn thập kỷ vừa qua, ngày nào tôi cũng bận bịu với một cuộc rượt đuổi sáng tạo đủ hình đủ dạng, trong cả công việc lẫn đời sống cá nhân. Tôi đã trăn trở rất nhiều về vấn đề thế nào là sáng tạo và làm thế nào để sáng tạo hiệu quả. Tôi cũng học được từ những kinh nghiệm đau thương, qua những lần sáng tạo theo cách tồi tệ nhất. Tôi sẽ tiết lộ cho các bạn cả hai điều nói trên. Và tôi sẽ đưa ra bài tập thách thức một số giả định về sáng tạo của bạn – để buộc các bạn cố gắng thêm, mạnh mẽ lên, bền bỉ hơn. Nói cho cùng, bạn luôn tập giãn cơ trước khi chạy bộ, khởi động trước khi tập thể hình, tập luyện trước khi chơi. Các hoạt động trí não cũng tương tự như vậy. Tôi sẽ nhấn mạnh luận điểm cho rằng khả năng sáng tạo được bồi đắp từ nền nếp và thói quen. Hãy tập làm quen với nó. Trong cuốn sách này, bạn sẽ thấy sự mâu thuẫn mang tính triết học liên tục xuất hiện. Đó là cuộc tranh cãi bất tận, có từ thời kỳ Lãng mạn,1 giữa hai đức tin cho rằng mọi hoạt động sáng tạo đều xuất phát từ (a) một tác động ngẫu nhiên cao siêu, vô phương biện giải của cảm hứng, một nụ hôn Chúa Trời đặt lên trán bạn, cho phép bạn trao tặng Cây sáo thần cho thế giới này, hoặc (b) lao động chăm chỉ. 1 Ý chỉ giai đoạn sau năm 1789, sau khi Cách mạng tư sản Pháp đánh đổ chế độ phong kiến (Mọi chú thích trong tác phẩm đều là của người dịch). Nếu ý tứ còn chưa đủ rõ ràng, tôi xin nói tôi thiên về hướng lao động chăm chỉ. Đó là lý do tại sao cuốn sách này có tựa đề Thói quen làm nên sáng tạo. Sáng tạo là một thói quen, và sự sáng tạo đỉnh cao là kết quả của những thói quen lao động tích cực. Nói tóm lại là thế. Bộ phim Amadeus (và vở kịch của Peter Shaffer, nền tảng của bộ phim) đã kịch tính hóa và lãng mạn hóa căn nguyên siêu phàm của các thiên tài sáng tạo. Antonio Salieri, trong vai nhà soạn nhạc tài năng chuyên nghề viết mướn, bị trời đày phải sống cùng thời với Mozart, người có tài năng thiên bẩm cùng tính tình vô tổ chức, luôn sáng tác như thể có bàn tay của Chúa Trời chạm vào. Salieri nhận thức rõ tầm vóc thiên tư của Mozart, và vô cùng đau khổ vì nghĩ Chúa đã chọn một kẻ khốn nạn làm nơi ký thác sức sáng tạo thần thánh của Người.   Mời các bạn đón đọc Thói Quen Làm Nên Sáng Tạo của tác giả Twyla Tharp.
Thay Đổi 1% Cách Làm Việc - Đạt Được 99% Thành Công
Có thể đối với bạn đọc, những nội dung trình bày trong cuốn sách này là những điều hiển nhiên, hay chỉ là những việc mà chúng ta luôn cho là nhỏ nhặt, nhưng có một điều đáng ngạc nhiên là hiếm ai có thể thực hiện được tất cả. Thậm chí không quá khi nhận định rằng, số người không thực hiện được nằm ở mức 99%. Hãy nhớ rằng con đường ngắn nhất để trở thành “người thành đạt” là thay vì chăm chú làm những việc to tát, phô trương, thì chỉ cần ngày qua ngày tích lũy những việc làm tuy nhỏ nhặt nhưng hữu ích, được trình bày trong cuốn sách này là đủ. Những việc làm tuy nhỏ nhặt nhưng hữu ích gồm: Tập thói quen nói câu cửa miệng “Hãy cho tôi ba phút” Quy tắc 1/8 cuộc họp Thực hiện truyền đạt điều muốn nói trong thang máy Không để người nhận thư phải kéo chuột xuống dưới Hãy đi bộ tại chính giữa văn phòng Điểm mấu chốt khiến người khác “làm việc giúp bạn” Thêm vào lý do khiến bạn có phản hồi tích cực dành cho người khác Và còn nhiều nữa... *** Những bối cảnh có thể bắt gặp ở bất cứ đâu Bối cảnh 1: Cuộc nói chuyện giữa lãnh đạo và nhân viên Nhân viên: “Trưởng phòng, bây giờ tôi có thể trao đổi một chút được không ạ?” Trưởng phòng: “Xin lỗi, bây giờ tôi đang rất bận… Lát nữa cậu đến được không?” Nhân viên: “À, vâng ạ…” ---- Một tiếng sau ---- Nhân viên: “Trưởng phòng… Ơ? Trưởng phòng ra ngoài rồi à? Khi nào thì anh ấy quay lại công ty?” Trợ lý: “Hôm nay trưởng phòng về thẳng nhà. Sáng mai anh ấy sẽ đi công tác châu Âu một tuần, sau đó nghỉ phép luôn… Anh có vấn đề gì ạ? Tôi đã được trưởng phòng ủy quyền rồi.” Nhân viên: “Thực sự tôi rất muốn được nói chuyện trực tiếp với trưởng phòng, hai phút thôi cũng được.” Trợ lý: “Vậy thì phiền anh hai tuần nữa.” Bối cảnh 2: Tại một cuộc họp Cuộc họp kéo dài đằng đẵng nhưng vẫn không có dấu hiệu kết thúc. Cho dù có tới hơn 20 thành viên tham gia cuộc họp, nhưng chỉ có duy nhất một người phát biểu từ đầu chí cuối. Cũng có lúc cả hội trường rơi vào im lặng, nhưng người cất tiếng phá vỡ sự im lặng đó vẫn là nhân vật đã nói suốt từ đầu cuộc họp tới giờ. Nói cách khác, nhân vật đó chẳng khác gì “Người có quyền lực cao nhất” tại cuộc họp này. Cuộc họp dự kiến kéo dài một giờ đồng hồ, cuối cùng lại vượt quá. Thỉnh thoảng lại có người liếc mắt nhìn đồng hồ đeo tay, như thể mong chờ “Người có quyền lực cao nhất” kết thúc cuộc họp. Cũng có người ghi chép lại nội dung cuộc họp bằng laptop mà họ mang theo, cũng có người lại soạn thảo tài liệu khác không liên quan gì tới cuộc họp. Sau hai giờ đồng hồ, cuối cùng cuộc họp cũng kết thúc. “Không biết cuối cùng thì quyết định cái gì nhỉ?”, “Thao thao bất tuyệt…”, “Ai đó làm ơn dừng anh ta lại đi!”… Hẳn là trong đầu những người tham gia cuộc họp đang hiện ra những lời than thở như vậy. Điều đáng ngạc nhiên là trong tâm trí “Người có quyền lực cao nhất” đó cũng hiện lên những lời thoại giống hệt như vậy, rằng “Ai đó làm ơn dừng tôi lại!”, “Tại sao chẳng có ai phát biểu bất cứ điều gì vậy?” Người Nhật luôn “quá nghiêm túc”? Cá nhân tôi cho rằng phàm là những người làm việc tại các tổ chức, dù lớn hay nhỏ, cũng thường chứng kiến hoặc trải nghiệm cảnh tượng giống như trên. Những tình huống như vậy chắc chắn đang cướp đi rất nhiều thứ của chúng ta. Từ thời gian, tiền bạc, cơ hội để làm công việc khác, cho đến cơ hội để tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm. Thực sự vô cùng lãng phí. Vậy thì, vì nguyên cớ gì mà tình trạng lãng phí này lại đang xảy ra ở khắp nơi? Cá nhân tôi cho rằng, nguyên nhân xuất phát từ mặt trái của việc quá tôn trọng lễ nghĩa, quá chú trọng tới phương diện biểu hiện cảm xúc – thứ vốn là biểu tượng cho nét đẹp và đạo đức mang tính truyền thống của Nhật Bản. Ở bối cảnh thứ nhất, do nhân viên thấy trưởng phòng có vẻ rất bận rộn nên đã tuân thủ lễ tiết và nói rằng “Bây giờ tôi có thể trao đổi một chút được không ạ?” Nhưng chính vì thế, điều mà anh ấy nhận được là lời nhắn quay lại vào hai tuần sau. Trong bối cảnh thứ hai, vì mong muốn mọi người thảo luận và đưa ra ý kiến, nên “Người có quyền lực cao nhất” đã tổ chức cuộc họp. Nhưng cuối cùng, 20 con người tham gia cuộc họp lại tỏ vẻ ngại ngùng, không dám phát biểu ý kiến. Hệ quả là “Người có quyền lực cao nhất” đó đã lãng phí hai tiếng đồng hồ của 20 con người. Nói một cách đơn giản, đó là vì người Nhật “nghiêm túc tới mức nghiêm trọng”. Chính vào lúc này, “nghiêm túc” lại mang một nghĩa xấu. Gần đây, trong giới tâm lý thể thao học, rất nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra giả thuyết “Chữ U ngược” (tham khảo biểu đồ ở dưới). Thông qua biểu đồ, chúng ta có thể thấy khi quá nghiêm túc, hiệu suất của chúng ta sẽ không thể nâng cao được do phải đối mặt với những áp lực, căng thẳng kéo dài. Để thể hiện tối ưu khả năng của mình, đương nhiên chúng ta vẫn cần tới sự “nghiêm túc” (vốn rất quan trọng), nhưng bên cạnh đó, cũng cần thêm vào một chút tỉ mẩn và suy nghĩ thấu đáo. Có người đã nói một câu khiến tôi rất ấn tượng: “Trong tiếng Nhật, chữ ‘nghiêm túc’ và ‘khốn khổ’ chỉ khác nhau có một chữ cái.1” Thực ra, câu nói ấy không phải là để giễu cợt việc quá “nghiêm túc”, mà nó muốn truyền tải thông điệp rằng, khi bạn “nghiêm túc” một cách sai lầm, kết quả bạn nhận được chỉ là sự “khốn khổ”, dù rằng bạn thực lòng muốn mang lại thành quả tốt đẹp. Có những việc kể từ khoảnh khắc này, bất cứ ai cũng có thể thực hiện được Cuốn sách này sẽ giới thiệu tới bạn đọc những gợi ý góp phần thúc đẩy công việc tiến triển hiệu quả nhất có thể, đạt được những mục tiêu đã đặt ra. Tôi cho rằng cho dù không cần tới năng lực đặc biệt, không cần tới quá trình đào tạo dai dẳng và khổ cực, chỉ cần chịu khó đào sâu nghiên cứu một cách có chọn lọc, bất cứ ai cũng có được chìa khóa dẫn tới thành công. Có thể đối với bạn đọc, nội dung trình bày trong cuốn sách này là những điều hiển nhiên, hay chỉ là những việc mà chúng ta luôn cho là nhỏ nhặt, nhưng có một điều đáng ngạc nhiên là hiếm có ai lại có thể thực hiện được tất cả. Có lẽ cũng không quá khi nhận định rằng, số người không thực hiện được toàn bộ nằm ở mức 99%. Tuy nhiên, nếu thử nhìn nhận những người đã và đang cố gắng thực hiện tất cả những nội dung đó, họ đã có những bước tiến vượt bậc so với chúng ta ra sao, tôi tin là đa số họ đã trở thành “những người thành đạt”, “những người làm được việc”. Cá nhân tôi luôn tâm niệm rằng, con đường ngắn nhất để trở thành “người thành đạt” là thay vì chăm chú làm những việc to tát, phô trương, thì chỉ cần ngày qua ngày tích lũy những việc làm tuy nhỏ nhặt nhưng hữu ích được trình bày trong cuốn sách này là đủ. Dù vậy, có một bức tường duy nhất mà chúng ta phải vượt qua. Đó là phải thay đổi lối suy nghĩ đối với “sự nghiêm túc” mà từ trước đến nay chúng ta vẫn luôn coi trọng. Điều tôi muốn gửi gắm tới bạn đọc, đó chính là hãy thay đổi 1% cách thức làm việc – lối mòn mà trước nay chúng ta vẫn bị cuốn vào. Cuốn sách này được trình bày thành tám chương. Về cơ bản, tôi nghĩ độc giả sẽ đọc theo thứ tự từ đầu tới cuối, nhưng bạn cũng có thể bắt đầu từ những phần mà bạn cảm thấy hứng thú hoặc tò mò, điều đó cũng không ảnh hưởng tới nội dung mà tôi muốn truyền tải. Sau khi đọc xong cuốn sách, tôi hy vọng bạn có thể ngay lập tức thử thực hiện những gợi ý được trình bày trong đây. Chắc chắn bạn sẽ nhận ra rằng, thì ra công việc lại có thể tiến triển thuận lợi một cách bất ngờ và nhanh chóng đến vậy. -Eitaro Kono Mời các bạn đón đọc Thay Đổi 1% Cách Làm Việc - Đạt Được 99% Thành Công của tác giả Eitaro Kono.
Tư Duy Đa Chiều
Bạn có thể sử dụng cuốn sách này cả ở nhà và ở trường học. Tại trường, quá trình giảng dạy thường tập trung vào tư duy chiều dọc (vertical thinking) truyền thống. Loại tư duy này hiệu quả nhưng không hoàn chỉnh. Nó cần được bổ sung những phẩm chất giúp sản sinh giải pháp của tư duy sáng tạo. Quá trình này đã được thực hiện ở một vài trường, sự sáng tạo bắt đầu xuất hiện nhưng vẫn hết sức mơ hồ. Không có một quy trình kỹ lưỡng và thực tiễn nào để tạo ra tư duy sáng tạo. Cuốn sách này sẽ thảo luận về tư duy đa chiều, quá trình sử dụng nó để tạo ra sự sáng tạo và tái cấu trúc cách nhìn nhận sự vật. Tư duy đa chiều là kỹ năng có thể học, thực hành và sử dụng, tương tự như kỹ năng toán học vậy. Cuốn sách này có thể hữu dụng với các giáo viên – những người đang tìm kiếm các phương pháp thực tế để giảng dạy kiểu tư duy đang ngày càng trở nên quan trọng này. Cuốn sách sẽ chỉ ra những cơ hội chính thống để thực hành tư duy đa chiều, đồng thời giải thích cách thức vận hành của các quá trình liên quan. Giáo viên có thể sử dụng cuốn sách này để rèn luyện bản thân hoặc tốt hơn là sử dụng làm nền tảng cho những bài tập trên lớp của mình. Vì việc giới thiệu rộng rãi tư duy đa chiều trong trường học không thể diễn ra trong tương lai gần, nên các bậc phụ huynh không nên quá mong chờ vào điều đó. Phụ huynh có thể lựa chọn bổ sung những chỉ dẫn về tư duy đa chiều cho trẻ tại nhà, bên cạnh các bài học trên lớp. Cần nhấn mạnh rằng hai lối tư duy này không đối lập nhau. Cả hai đều cần thiết. Tư duy chiều dọc cực kỳ hữu ích, tuy nhiên cũng cần bổ sung sự sáng tạo và hạn chế tính cứng nhắc của nó. Dù sớm hay muộn thì việc học tư duy đa chiều cũng sẽ diễn ra ở trường, nhưng cho đến lúc đó, việc học tại nhà là rất cần thiết. Bạn không nên đọc qua cuốn sách này một mạch mà nên đọc chậm rãi trong nhiều tháng, thậm chí nhiều năm. Vì lý do này, nhiều nguyên tắc được lặp lại xuyên suốt cuốn sách để củng cố chủ đề chính. Khi sử dụng cuốn sách này, bạn cần nhớ rằng việc thực hành còn quan trọng hơn rất nhiều so với việc chỉ hiểu bản chất của quá trình tư duy đa chiều. *** Tư duy đa chiều có liên quan chặt chẽ tới cách nhìn nhận, sự sáng tạo và tính hài hước. Bốn quá trình này đều có cùng một nền tảng. Nhưng trong khi chúng ta không thể thay đổi nhiều cách nhìn nhận, sự sáng tạo và tính hài hước thì tư duy đa chiều là một quá trình chủ động. Luôn tồn tại một cách thức sử dụng tâm trí để tư duy logic – nhưng đó là một cách khác với cách chúng ta thường làm. Văn hóa có liên quan tới những ý tưởng đang dần ổn định. Giáo dục liên quan đến việc truyền đạt các ý tưởng đó. Cả hai đều liên quan đến việc cải thiện các ý tưởng bằng cách cập nhật chúng. Cách duy nhất để thay đổi các quan niệm là thông qua mâu thuẫn và mâu thuẫn vận hành theo hai cách. Cách thứ nhất, có một cuộc đụng độ trực diện giữa những ý tưởng đối lập. Trong hai ý tưởng, sẽ có một ý tưởng thực tế hơn ý tưởng còn lại và phải thay đổi. Cách thứ hai, tồn tại sự mâu thuẫn giữa thông tin mới và ý tưởng cũ, kết quả là ý tưởng cũ sẽ bị thay đổi. Đây là cách làm của khoa học, lĩnh vực luôn tìm cách tạo ra những thông tin mới để phá vỡ những ý tưởng cũ và kiến tạo những ý tưởng mới. Tuy nhiên, cách làm thứ hai không chỉ là phương pháp khoa học mà còn là cách mà con người thu nhận kiến thức. Giáo dục dựa trên giả định an toàn rằng người học chỉ phải thu thập ngày càng nhiều thông tin, những thông tin này sẽ tự sắp xếp thành những ý tưởng hữu ích. Chúng ta đã phát triển các công cụ xử lý thông tin, ví dụ toán học để mở rộng thông tin, tư duy logic để tinh lọc thông tin. Phương pháp thay đổi ý tưởng bằng mâu thuẫn phát huy hiệu quả khi thông tin có thể được đánh giá khách quan. Nhưng phương pháp này vô hiệu khi thông tin mới chỉ được đánh giá dựa trên các ý tưởng cũ. Thay vì bị thay đổi, ý tưởng cũ sẽ được củng cố và trở nên cứng nhắc hơn bao giờ hết. Cách hiệu quả nhất để thay đổi ý tưởng cũ không đến từ bên ngoài – thông qua mâu thuẫn, mà đến từ bên trong – thông qua việc tái sắp xếp cách nhìn nhận những thông tin sẵn có. Cách nhìn là mấu chốt duy nhất để thay đổi các ý tưởng trong một tình huống tưởng tượng – khi thông tin không thể được đánh giá khách quan. Thậm chí khi thông tin có thể được đánh giá khách quan, hành động tái sắp xếp cách nhìn nhận thông tin cũng tạo nên một cú nhảy vọt. Điều giáo dục quan tâm không chỉ là việc thu thập thông tin mà còn là cách tốt nhất để sử dụng những thông tin đã thu thập. Khi các ý tưởng làm chủ thông tin thay vì phụ thuộc vào chúng, sự tiến bộ diễn ra rất nhanh chóng. Tuy nhiên chúng ta vẫn chưa phát triển các công cụ hữu ích để xử lý vấn đề cách nhìn nhận. Chúng ta chỉ thu thập thông tin và hy vọng đến một bước nào đó cách nhìn sẽ thay đổi. Tư duy đa chiều chính là một công cụ giúp thay đổi cách nhìn nhận. Cách nhìn nhận, sự sáng tạo và tính hài hước rất khó nắm bắt vì tâm trí làm việc cực kỳ hiệu quả. Tâm trí vận hành để tạo ra những mô hình từ môi trường bên ngoài. Một khi các mô hình đã hình thành, chúng ta có thể nhận ra chúng, phản ứng trước chúng và sử dụng chúng. Khi các mô hình được sử dụng, chúng trở nên vững chắc hơn bao giờ hết. Hệ thống hóa các mô hình là một cách rất hiệu quả để xử lý thông tin. Sau khi được thiết lập, các mô hình này sẽ hình thành một hệ thống mã hóa. Lợi ích của hệ thống mã hóa là thay vì phải thu thập tất cả thông tin, một người chỉ cần thu thập đủ thông tin để nhận diện mô hình mã hóa, điều này tương tự như tìm một cuốn sách thuộc một chủ đề nhất định trong thư viện bằng mã số sách. Tâm trí được ví như một chiếc máy tính chuyên xử lý thông tin. Tuy nhiên, nó không phải là một chiếc máy tính thông thường mà là một môi trường đặc biệt cho phép thông tin tự sắp xếp vào các mô hình. Hệ thống ký ức tự sắp xếp, tự tối đa hóa này rất giỏi trong việc tạo ra các mô hình – đó chính là sự hiệu quả của tâm trí. Nhưng bên cạnh sự hữu ích tuyệt vời đó, hệ thống mô hình hóa vẫn có những hạn chế nhất định. Khi được hệ thống hóa, các mô hình dễ dàng kết hợp hay bổ sung cho nhau nhưng rất khó để tái cấu trúc vì chúng điều khiển sự chú ý. Cách nhìn nhận và tính hài hước đều cần quá trình tái cấu trúc mô hình. Sự sáng tạo cũng liên quan đến quá trình tái cấu trúc nhưng đặt trọng tâm lớn vào việc thoát ra khỏi những mô hình giới hạn. Tư duy đa chiều tập trung vào việc tái cấu trúc, thoát ly khỏi mô hình cũ và gợi mở các mô hình mới. Tư duy đa chiều có mối liên hệ chặt chẽ với sự sáng tạo. Trong khi sáng tạo nhấn mạnh vào kết quả thì tư duy đa chiều lại mô tả một quá trình. Chúng ta thường cảm thấy sự bí ẩn khi nói về tài năng và sự vô hình khi nói về sáng tạo, thường là khi nhắc đến sự sáng tạo trong các lĩnh vực nghệ thuật như cảm thụ thẩm mỹ, đồng cảm và năng khiếu biểu đạt. Nhưng sự sáng tạo bên ngoài lĩnh vực này không phải như vậy. Sáng tạo ngày càng được xem là một thành tố quan trọng cho sự thay đổi và phát triển. Nó dần được đánh giá cao hơn cả kiến thức và kỹ thuật vì cả hai yếu tố này ngày càng dễ đạt được. Để có thể sử dụng sự sáng tạo, chúng ta phải loại bỏ suy nghĩ thần bí về nó và coi nó như một cách thức sử dụng tâm trí – một cách xử lý thông tin. Tư duy đa chiều sẽ thảo luận về chủ đề này. Tư duy đa chiều liên quan đến việc phát triển những ý tưởng mới. Thật kỳ cục khi nghĩ rằng các ý tưởng mới liên quan đến các sáng chế kỹ thuật. Sáng chế kỹ thuật chỉ là một phần nhỏ. Ý tưởng mới là các thay đổi hay tiến bộ từ khoa học tới nghệ thuật, từ chính trị đến hạnh phúc con người. Tư duy đa chiều cũng liên quan đến việc phá vỡ nhà tù của các ý tưởng cũ kỹ. Nó tạo ra sự thay đổi trong thái độ và cách tiếp cận, từ đó dẫn đến việc nhìn những sự vật quen thuộc theo một cách khác. Giải phóng khỏi các ý tưởng cũ và kích thích các ý tưởng mới là hai mặt song song của tư duy đa chiều. Tư duy đa chiều rất khác tư duy chiều dọc – kiểu tư duy truyền thống. Trong tư duy chiều dọc, chúng ta di chuyển từng bước và mỗi bước đều phải có cơ sở lý giải. Khác biệt giữa hai cách tư duy này rất rõ ràng. Ví dụ, trong tư duy đa chiều, chúng ta không chỉ đơn thuần sử dụng thông tin mà còn thu nhận những hiệu ứng từ việc sử dụng chúng. Trong tư duy đa chiều, chúng ta có thể phải sai ở một vài giai đoạn để đạt được một kết quả đúng; trong tư duy chiều dọc (logic hay toán học) điều này là bất khả thi. Trong tư duy đa chiều, chúng ta có thể chủ động tìm kiếm những thông tin không liên quan; còn trong tư duy chiều dọc, chúng ta chỉ tìm kiếm những gì có liên quan. Tư duy đa chiều không thay thế cho tư duy chiều dọc. Cả hai đều cần thiết và bổ sung cho nhau. Tư duy đa chiều giúp nảy sinh ý tưởng, tư duy chiều dọc mang tính chọn lọc. Với tư duy chiều dọc, chúng ta đi đến kết luận thông qua một chuỗi những bước đi có cơ sở. Vì tính hợp lý của những bước đó, chúng ta rất chắc chắn về tính chính xác của kết luận. Nhưng dù quy trình đó có chính xác đến đâu thì xuất phát điểm vẫn là lựa chọn cảm tính các khái niệm căn bản – hành động lựa chọn này thường có khuynh hướng phân chia rõ rệt và phân cực cao độ. Sau đó, tư duy chiều dọc sẽ làm việc dựa trên những khái niệm được tạo ra từ đây. Tư duy đa chiều cần thiết để xử lý các lựa chọn cảm tính nằm ngoài tầm với của tư duy chiều dọc. Tư duy đa chiều cũng kiềm chế sự kiêu ngạo của các kết luận cứng nhắc, dù nó được hình thành một cách vững chắc thế nào chăng nữa. Tư duy đa chiều nâng cao hiệu quả của tư duy chiều dọc. Tư duy chiều dọc phát triển những ý tưởng được tạo ra bởi tư duy đa chiều. Bạn không thể khoan nhiều lỗ ở nhiều vị trí khác nhau bằng cách khoan sâu hơn một cái lỗ. Tư duy chiều dọc được sử dụng để khoan một cái lỗ sâu hơn. Tư duy đa chiều được sử dụng để khoan một cái lỗ ở vị trí khác. Thói quen chỉ đặt trọng tâm vào tư duy chiều dọc khiến cho việc giảng dạy tư duy đa chiều càng trở nên cần thiết. Chỉ sử dụng tư duy chiều dọc không những là chưa đầy đủ mà còn là mối nguy hiểm. Cũng như tư duy logic, tư duy đa chiều là một cách thức sử dụng tâm trí. Nó là thói quen và thái độ của tâm trí. Có những kỹ thuật cụ thể có thể được sử dụng riêng cho từng loại tư duy. Cuốn sách này đặt trọng tâm nhất định vào một vài kỹ thuật không phải vì chúng là một phần quan trọng của tư duy đa chiều mà vì chúng có tính thực tế. Thiện chí và lý thuyết không đủ để phát triển kỹ năng tư duy đa chiều. Chúng ta cần một môi trường thực tế và cần những kỹ thuật hữu hình để thực hành. Từ việc hiểu và sử dụng thành thạo các kỹ thuật, tư duy đa chiều sẽ phát triển thành một thái độ của tâm trí. Chúng ta nên luyện tập cách sử dụng các kỹ thuật này. Tư duy đa chiều không phải là hệ thống ma thuật mới. Không thiếu ví dụ về những người sử dụng tư duy đa chiều để đạt được thành quả. Có những người có khuynh hướng tư duy đa chiều một cách tự nhiên. Mục đích của cuốn sách này là cho bạn thấy rằng tư duy đa chiều là một phần rất căn bản của tư duy và ai cũng có thể phát triển kỹ năng này. Thay vì chỉ hy vọng có được cách nhìn nhận mới và sự sáng tạo, chúng ta có thể sử dụng tư duy đa chiều một cách chủ động và thực tế. TÓM TẮT Mục đích của tư duy là thu thập thông tin và sử dụng chúng tốt nhất có thể. Do đặc thù cơ chế vận hành của tâm trí trong việc tạo ra những mô hình khái niệm cố định, chúng ta không thể sử dụng những thông tin mới tốt nhất trừ khi sở hữu các phương tiện tái lập và cập nhật những mô hình cũ. Lối tư duy truyền thống dạy chúng ta cách tinh lọc các mô hình và xác lập giá trị của chúng. Nhưng chúng ta sẽ không thể tận dụng tối đa thông tin sẵn có nếu không biết cách tạo ra các mô hình mới và thoát khỏi sự kìm kẹp của những mô hình cũ. Tư duy chiều dọc liên quan đến việc cung cấp hay phát triển các mô hình khái niệm. Tư duy đa chiều thì liên quan đến việc tái cấu trúc những mô hình như vậy (cách nhìn nhận) và kích thích tạo ra những mô hình mới (sáng tạo). Tư duy đa chiều và tư duy chiều dọc bổ sung cho nhau. Cả hai kỹ năng tư duy này đều cần thiết nhưng hiện nay, giáo dục chỉ nhấn mạnh vào tư duy chiều dọc. Sự cần thiết của tư duy đa chiều được phát triển từ những giới hạn trong cách vận hành của tâm trí với vai trò của một hệ thống ký ức tự tối đa hóa. Mời các bạn đón đọc Tư Duy Đa Chiều của tác giả Edward De Bono.