Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Người Sống Và Những Người Chết

Những người sống và những người chết (tiếng Nga: Живые и мёртвые) là tác phẩm đầu tiên trong bộ ba tiểu thuyết (Những người sống và những người chết, Người ta sinh ra không phải đã là lính, Mùa hè cuối cùng) về đề tài Chiến tranh Vệ quốc (1941 - 1945) của nhà văn Konstantin Simonov. Hai phần đầu tiên của cuốn tiểu thuyết được xuất bản vào các năm 1959 và 1962, phần thứ ba vào năm 1971. Tác phẩm được sáng tác theo hơi hướng sử thi, toàn bộ cốt truyện trải dài theo trình tự từ tháng 6 năm 1941 cho đến tháng 7 năm 1944. Theo các nhà phê bình văn học Soviet, đây là một trong những cuốn tiểu thuyết hay nhất về đề tài Chiến tranh Vệ quốc. *** 'Tôi có cảm giác chung với tiểu thuyết Liên xô thời kỳ chống phát xít, đó là mỗi khi đọc xong một cuốn sách, bỗng chợt thấy tất cả nhân vật trong đó, những anh dép, lép, nhép, nốp, lốp, xốp… như trở thành đồng đội của mình, hoặc đúng hơn, thấy mình trở thành một người trong số họ. Tôi đã theo anh phóng viên quân đội Xintxốp suốt những trận chiến đấu, phá vây, chia tay và gặp lại, tôi đã gặp Xerpilin, Tanhia, Dôlôtarép… Tôi cũng gặp những kẻ còn sống mà như đã chết, hèn nhát mạt hạng như gã Thượng úy Kruchikốp, sống bấu víu bằng cách tự lừa mình rằng còn có kẻ còn hèn nhát hơn mình, hoặc dối trá hơn mình, và mình sẽ vạch mặt kẻ đó. Lúc ấy mình sẽ là người hùng. Lúc ấy mình sẽ yên tâm tin rằng mình không hèn nhát. Cỗ máy chiến tranh xay nghiền những thanh niên, trung niên, phụ nữ và trẻ em trong ánh chớp số phận. Thật trớ trêu, những ánh chớp số phận ở đây, hóa ra lại là ánh lửa lóe lên khi mỗi viên đạn bay ra khỏi nòng súng. Sau đó là những người sống và những người chết. Dù kẻ bị nhắm bắn có trúng đạn hay không, anh ta cũng đã bị chiến tranh quẳng ngoéo đi xa khỏi con đường anh vẫn đi trước đó. Nếu anh trúng đạn, chết ngay, hoặc tử thương, đã đành đi một nhẽ, thế là chấm hết một đời. Nhưng nếu viên đạn chỉ làm anh bị thương đâu đó, cho anh một vết sẹo, hoặc biến anh trở thành tàn phế, anh có thể tiếp tục chiến đấu, hoặc dưỡng thương một thời gian rồi tiếp tục chiến đấu, hoặc thậm chí không bao giờ chiến đấu được nữa. Anh phải sống và đối mặt với một cuộc đời khác hẳn. Thậm chí ngay cả khi viên đạn đó tránh khỏi anh, biết đâu đấy, anh lại trở thành một Valentin Hauder, anh chàng trong Ba người bạn của Erich Maria Remarque, ngày ngày say khướt uống mừng mình thoát chết. Không chỉ là chiến tranh, vấn đề đặt ra còn là giữa một con người và một tờ giấy, người ta coi trọng cái nào hơn cái nào. Đến bao giờ người ta mới biết cách tin vào con người ? Tôi không muốn dành nhiều lời xưng tụng cho một tác phẩm để dụ dỗ người khác đến với nó. Chỉ biết rằng Simonov đã viết một cách đầy tiết chế, sự tiết chế của một người đã thực sự trải qua chiến tranh với tất cả sự khốc liệt của nó. Mỗi nhân vật thoáng qua dù chỉ một lần cũng khiến người đọc thấy được dù anh ta sẽ sống hoặc sẽ chết thế nào, anh ta cục cằn, thô lỗ, nóng nảy hay mơ mộng thế nào, và anh ta cũng là một mắt xích không thể thiếu trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Chừng nào một đất nước còn những con người như Malinin, Xintxốp, Xerpilin, Masa…, đất nước đó sẽ không bao giờ chấp nhận quỳ gối trước quân xâm lược' . *** Cạnh đường có hai chiếc xe tăng Đức đang đứng như hai cái đài kỷ niệm khiến Malinin không thể nào nhầm được: nòng đại bác của chiếc này chĩa vào chòi súng của chiếc kia. Đây chính là những chiếc xe tăng mà hôm qua, khi đi ngang qua đó, ông có kể lại rằng bọn lính xe tăng Đức đã phải dốc hết xăng ra cho bọn bộ binh. Nghĩa là họ đã đi trở lại được khoảng hai chục cây số. Dù sao chăng nữa, kể từ sáng hôm qua đến giờ, tiểu đoàn đã tiến được khá xa về phía trước... Nghĩ đoạn ông bèn hỏi Karaulốp xem Riáptrenkô đã chỉ định ai làm trung đội trưởng thay anh ta, và khi nghe anh ta trả lời đúng cái tên mà ông dự đoán: «Xintxốp», thì ông lại bực mình sực nhớ ra rằng thế là mình vẫn chưa kịp nói với Xintxốp về lá thư mình gửi lên phòng chính trị. Bây giờ, khi lại một lần nữa nghĩ tới lá thư này, ông vẫn không biết rằng tình trạng chậm trễ ấy không phải là do lỗi của đảng ủy sư đoàn như ông đã kết luận : đảng ủy sư đoàn chẳng liên quan gì đến việc này cả. Số là một đồng chí trợ lý của phòng chính trị tập đoàn quân sau khi đọc đến họ tên của Xintxốp thì chợt nhớ tới một tài liệu trước đây đã đi qua tay mình. Tài liệu đã qua tay anh đó chỉ vẻn vẹn là một tờ giấy xé từ quyển vở học sinh viết đầy một thứ chữ to tướng của con nhà lính : chiến sĩ hồng quân Dôlôtarép vượt khỏi vòng vây ở khu vực mặt trận của tập đoàn quân đã viết giấy lên phòng chính trị trình bày hoàn cảnh mà chính trị viên I. P. Xintxốp đã hy sinh và đề nghị rằng nếu có thể thì báo cho gia đình đồng chí Xintxốp biết. Đồng chí cán bộ phòng chinh trị ấy chưa có thời gian để làm một việc gì theo yêu cầu của lá thư này, nhưng anh cũng không nỡ đang tay xé nó đi, bới thế bây giờ nó đang nằm cùng trong một tập hồ sơ bên cạnh lá đơn của hạ sĩ Xintxốp xin được phục hồi đảng tịch. Mặc dầu trên tập hồ sơ ấy có ghi mấy chữ «để báo cáo», nhưng lúc đó chẳng có ai để mà báo cáo cả; trận tấn công đã bắt đầu và chính ủy trung đoàn Mácximốp, chủ nhiệm chính trị tập đoàn quân, đã ra hỏa tuyến hơn hai ngày nay rồi. — Thế nghĩa là đã có Xintxốp thay cậu rồi đấy hả? Được ! — sau giây lát lặng thinh, Malinin nói với Karaulốp như vậy. Ông nói tựa hồ như mình vẫn còn đang trong tiểu đoàn và tựa hồ như việc đó vẫn phải có sự đồng ý của ông thì mới được. — Vậy tiểu đoàn trưởng vẫn từ chối không chịu chuyển về hậu phương hả? — Đời nào ông ấy chịu! — Karaulốp nói với vẻ tán thành. — Máy bay nào thế nhỉ?—nghe có tiếng máy bay bắt đầu ầm ì trên bầu trời và cảm thấy chú bé ngồi đằng sau mình giật thót người, Malinin liền hỏi vậy. — Máy bay ta, — Karaulốp nói. Bốn phi dội máy bay ném bom của ta, mỗi phi đội chín chiếc nối đuôi nhau bay qua đầu đoàn thương binh, từ phía đông sang phía tây, thong thả rạch ngang bầu trời đông trắng đục. Chiếc xe trượt tuyết liền dừng lại và các chiếc đi sau cùng dừng lại, suýt nữa húc phải nhau. Cả chú bé đánh xe lẫn Karaulốp và Malinin đều nhìn lên trời với cùng một niềm sung sướng và biết ơn. — Sao, bay khuất rồi hả, không thấy nữa rồi hả?—Malinin hỏi, khi không còn nghe thấy ầm ì nữa và không đủ sức để chống tay nhỏm dậy dõi theo bóng máy bay. — Không, vẫn còn thấy, nhưng bây giờ thì gần như không thấy nữa, bay khuất rồi, — Karaulốp trông theo hút những chấm đen nhỏ bẻ đến tận chân trời và đáp lại như vậy. Tiểu đoàn Riáptrenkô đã tiến được mười cây số kể từ chiếc lán mà đêm qua Malinin đã ngất đi và cách xa cái nơi mà bây giờ đoàn xe trượt tuyết chở đầy thương binh loại nặng về hậu cứ là ba chục cây sồ, tiểu đoàn đang tiến về phía tây trong làn tuyết dày, mừng rỡ vì cuối cùng bão tuyết đã tan. Giờ đây sau khi chiếm được ga Vôxkrêxenxkôiê, những trung đoàn khác của Xerpilin ít bị tiêu hao trong trận đánh hôm qua, đang xông được lên phía trước và từ sáng đến giờ tiểu đoàn vẫn cứ tiến mãi mà không phải nổ một phát súng nào, chỉ thỉnh thoảng lại đụng phải những chiếc xe quân Đức bỏ lại trong tuyết và xác những tên lính bị chết cóng hoặc bị giết. Hiện tượng tiến quân mà không phải nổ súng này cố nhiên chỉ là tạm thời, bởi vì cả bên trái lẫn bên phải họ, tiếng gầm của đại bác vẫn liên tiếp theo gió vọng lại, còn ở ngay phía chân trời thì trong nửa giờ vừa qua đã lại thấy bập bùng khói lửa của những làng mạc bị đốt cháy. Xintxốp, Kômarốp và hai chiến sĩ tiểu liên nữa, — tất cả quân số còn lại của trung đội, — đang nối nhau đi theo sau con ngựa do Riáptrenkô cưỡi. Lẽ ra Riáptrenkô phải sang đội điều trị từ lâu để chữa vết thương, nhưng anh vẫn không chịu thua, vẫn cứ cưỡi ngựa bằng cách bỏ cái bàn chân tê cóng ra khỏi bàn đạp và buộc một chiếc gậy đầu cong do tay anh đẽo gọt lấy hôm qua vào phía sau yên để phòng khi phải xuống ngựa. — Hạ sĩ ơi, theo cậu thì liệu đơn vị mình có sắp được bổ sung thêm quân số không? Kômarốp tiền len ngang với Xintxốp rồi đi bên cạnh anh. — Tớ làm sao mà biết được? — Xintxốp nhún vai, nhưng anh nghĩ thầm trong bụng rằng trong lúc mình chưa dừng lại, chưa chạm trán với quân Đức ở một nơi nào đó, thì chưa làm gì có bổ sung được đâu: tuyết dày như thế này không thể chở quân số bổ sung bằng xe ôtô được, còn như đi bộ thì chẳng ai đuổi kịp được mình, nếu mình cứ đi liên miên không nghỉ như hôm nay. Kômarốp buồn bã thấy trung đội mình bị thương vong nhiều đến như vậy, anh bèn đến tìm một lời an ủi ở người tiểu đội trưởng bây giờ đã trở thành trung đội trưởng của mình, nhưng Xintxốp thì lại nghĩ thầm rằng nếu đêm hôm qua Kômarốp không đến cứu mình ở cạnh lán, không quạt lia lịa thẳng vào tên Đức đang nhảy vọt ra trong giây phút cuối cùng ấy thì anh đã đi đời nhà ma, và bây giờ đã không còn gì để suy nghĩ nữa, dù là chỉ suy nghĩ rằng hôm nay có đánh nhau không và liệu mình có được lành lặn trong trận đánh này không. Nhưng giờ đây anh không muốn dùng lời để nói về tất cả những điều đó, anh chỉ nói bằng mắt, bằng cách yên lặng nhìn vào mắt Kômarốp với lòng biết ơn. —Thế nào, theo ý cậu thì hôm nay cánh mình có đuổi kịp được bọn Đức không? — Kômarốp hỏi. Xintxốp bèn nhìn vào mặt anh ta và hiểu rằng bây giờ Kômarốp cũng đang có những cảm nghĩ giống hệt như mình, vừa muốn tiếp tục đuổi kịp quân Đức, lại vừa tiếc rẻ phải từ biệt giờ phút nghỉ ngơi lấy sức mới được hưởng sau trận chiến đấu hôm qua. — Có lẽ đuổi kịp đấy,—anh cố nén cái ý nghĩ ấy trong lòng, dấn bước đi lên, rồi đáp vậy, — bởi vì ta lại trông thấy khói kia rồi! Đằng kia, ở nơi tuyết phủ, nơi mà họ đang rảo bước tiến đến đám khói từ một xóm làng bị cháy vẫn bốc lên mỗi lúc một cao. Tiểu đoàn trưởng Riáptrenkô cưỡi ngựa đi đằng trước Xintxốp, có lúc người anh che khuất đám khói ấy, có lúc nó lại lộ ra, mỗi khi con ngựa bước lệch đường sang bên cạnh. — Kômarốp, Kômarốp ơi! — Gì thế? — Cho xin điếu thuốc! — Đang đi sao lại hút thuốc thế? — À thì tự nhiên thấy thèm... — Xintxốp không giải thích tại sao lại thèm. Nhưng anh thèm thuốc, bởi vì giờ đây khi nhìn vào đám khói ở đằng xa phía trước mặt, anh cố buộc mình phải quen với ý nghĩ gay cấn: mặc dù đã trải qua biết bao nhiêu chặng đường, nhưng phía trước vẫn còn cả một cuộc chiến tranh.. ... Mời các bạn đón đọc Những Người Sống Và Những Người Chết của tác giả Konstantin Simonov.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chàng Thiếu Niên - Fyodor Dostoyevsky
Là tiểu thuyết của bậc thầy văn học Nga và của cả thế giới: Dostoevski - tác giả của những tác phẩm lừng lẫy từng đi vào lòng độc giả yêu chuộng văn chương tại Việt Nam như Tội ác và trừng phạt, Anh em nhà Karamazov, Chàng ngốc, Lũ người quỷ ám…  Đây là quyển tiểu thuyết đầu tiên và duy nhất Dos. viết từ ngôi thứ nhất (nhân vật xưng tôi), cũng là quyển đầu tiên trong loạt tiểu thuyết mà Dos. viết về đề tài “cha và con”. Thế nhưng, điều đặc biệt nhất chính là tính thời sự của tác phẩm, dù đã được Dos. viết từ những năm 1875.  “Trước đây tôi đã để ý đến trẻ em, nhưng bây giờ tôi đặc biệt chú ý đến chúng. Từ lâu tôi đã đặt cho mình ý tưởng phải viết một cuốn tiểu thuyết về trẻ em - những đứa con ở nước Nga thời nay,”… Đó là lý do Dostoevsky cho ra đời tập tiểu thuyết Chàng thiếu niên này. Nhân vật chính của tập tiểu thuyết là một chàng thiếu niên sinh ngoài giã thú - Arkady Dolgoruky chịu nhiều đau khổ và bất hạnh bởi sự miệt thị của xã hội. Một câu chuyện hết sức chân thật về quá trình tự giáo dục đầy khó khăn, về những bí mật thầm kín trong cuộc đấu tranh với chính mình, nhờ thái độ tha thiết của chàng đối với cuộc sống và mọi người. Và nhờ thế mà Arkady trở thành nhân vật được bạn đọc yêu mến nhất trong số tất cả các nhân vật của Dostoevsky.  Tác phẩm của F.M. Dostoevsky thuộc vào hiện tượng văn hoá tinh thần đỉnh cao của loài nười. Theo nhận xét của M.Gorky, thì Tolstoi và Dostoevsky đã làm rung chuyển cả thế giới và khiến cho toàn bộ châu Âu phải hướng cái nhìn kinh ngạc sang nước Nga... ...Nhân vật chính là một cậu bé chịu nhiều đau khổ. Tức giận với ả thế giới, cậu bé tin rẳng đồng tiền có sức mạnh to lớn nhất trong xã hội , tiền bạc quyết định mọi vấn đề ... Từ những trang đầu tiên, bạn đọc đã chìm vào cái thế giới của những quan hệ xã hội tàn bạo. Trong ước mơ của cậu bé, số tài sản kiếm được sẽ đem lại cho kẻ tầm thường một sự vĩ đại và tự do vô tận, những đồng tiền điều khiển thế giới sẽ nâng cậu lên cao hơn... Cậu thiếu niên có sự khao khát tự khẳng định mình bằng bất cứ giá nào, vừa có mục đích cao cả thực hiện những hoạt động có ích trong sự liên hệ với các tư tưởng thời đại, tiếp cận các bộ phận ưu tú của xã hội... *** Fyodor Mikhailovich Dostoevsky (1821- 1881), sinh ngày 11.11.1821, là nhà văn nổi tiếng người Nga. Cùng với Gogol, L. Toystol, ông được xem là một trong ba văn hào vĩ đại của Nga thế kỉ 19. Dostoevsky sinh tại thành phố Moscow, là con trai thứ hai trong 7 người con của ông Mikhail, một bác sĩ quân y được biệt phái qua phục vụ tại Bệnh Viện Maryinski chuyên chữa trị các người nghèo. Ông Mikhail là một con người cứng rắn, thẳng thắn trong khi bà mẹ lại có bản tính trái ngược, bà ta rất thụ động, tử tế và rộng lượng. Các sự kiện của gia đình quý tộc xa xưa này với cha mẹ có một vùng đất và hơn một trăm nông nô, đã là hình ảnh của các nhân vật với các bản tính thái cực trong các cuốn tiểu thuyết của Dostoevsky sau này. Trong thời gian Fyodor đi học xa nhà, ông Mikhail đã bị giết chết do các nông nô trong vùng nổi loạn và hình ảnh giết người bất ngờ và tàn bạo này luôn luôn ám ảnh Fyodor Dostoevsky khiến cho các tác phẩm của ông thường dùng đề tài là các tội ác. Và vào cuối cuộc đời, cái chết của người cha đã là căn bản cho tác phẩm danh tiếng Anh Em Nhà Karamazov. Fyodor Dostoevsky rất yêu thích văn chương. Vào tuổi 25, Fyodor đã cầm bút, sáng tác ra cuốn tiểu thuyết đầu tiên với tên là Những kẻ bần hàn xuất bản vào năm 1846. Đây là một câu chuyện tình cảm mô tả một cách bóng bẩy các cảnh tàn phá của kiếp nghèo. Cuốn truyện này đã được các nhà phê bình khen ngợi, đặc biệt là Vissarion Belinsky, và nhà văn trẻ tuổi Dostoevsky được gọi là một "Gogol mới", tác phẩm của ông trở nên bán chạy nhất, bởi vì từ xưa tới nay chưa có một nhà văn người Nga nào cứu xét một cách kỹ càng sự phức tạp tâm lý của các cảm xúc bên trong tâm hồn con người. Fyodor Dostoevsky đã dùng tới phương pháp phân tích tâm lý để tìm hiểu các hoạt động rất tinh tế của tâm lý mọi người. Sau tác phẩm Những kẻ bần hàn , Fyodor Dostoevsky sáng tác ra cuốn Con người kép đề cập tới sự phân đôi cá tính và đây là căn bản dùng cho nhân vật Raskolnikov của đại tác phẩm Tội Ác và Trừng Phạt. Qua tác phẩm này, Fyodor Dostoevsky được toàn thế giới công nhận là một trong các Đại Văn Hào của nước Nga, được xem là người sáng lập hay là người báo trước cho chủ nghĩa hiện sinh thế kỷ 20. Tác phẩm tiêu biểu: Những kẻ bần hàn (1846) Con người kép (1846) Đêm trắng (1848) Ghi chép từ Ngôi nhà chết (1862) Những kẻ tủi nhục (1861) Con bạc (1867) Hồi Ký Viết Dưới Hầm (1864) Tội ác và trừng phạt (1866) Gã Khờ (1868) Lũ người quỷ ám (1872) Anh em nhà Karamazov (1880) Là Bóng Hay Là Hình Chàng Thiếu Niên *** Không chịu thêm được nữa, tôi ngồi ghi lại câu chuyện những bước đi đầu tiên của tôi trên đường đời, trong khi hoàn toàn có thể bỏ qua chuyện đó. Có một điều tôi biết chắc chắn: tôi sẽ không bao giờ còn ngồi viết tiểu sự tự thuật về mình, dù tôi có sống đến một trăm tuổi đi chăng nữa. Phải tự ái đến mức tệ hại, mới có thể viết về mình mà không xấu hổ. Tôi chỉ tự tha thứ cho mình, rằng tôi viết không phải để ấy lòng bạn đọc, như tất cả các nhà văn. Nếu tôi đột nhiên nghĩ ra cái chuyện ghi chép tất cả những gì xảy ra với tôi từ năm ngoái, thì đó chỉ là do nhu cầu bên trong: mọi việc xảy ra khiến tôi kinh ngạc vô cùng. Tôi chỉ ghi lại các sự kiện, bằng mọi cách cố tránh trò tu từ văn chương. Nhà văn viết ba mươi năm và cuối cùng hoàn toàn không biết ông ta viết văn ngần ấy năm để làm gì. Tôi không phải là văn sĩ, không muốn làm văn sĩ, và tôi cho rằng bày tỏ nội tâm của mình, miêu tả cho hay các cảm xúc của mình rồi đem ra chợ văn chương là một việc làm bất nhã, đê tiện. Tuy nhiên, tôi bực bội với dự cảm, rằng hình như không thể bỏ qua hoàn toàn việc miêu tả cảm xúc và các ý nghĩ (có lẽ kể cả các ý nghĩ đê tiện); mọi trò tô điểm bằng văn chương thật đáng ghét, dù có khi buộc phải làm như thế vì không còn cách nào khác. Các ý nghĩ thì có thể rất đê tiện, bởi lẽ cái mà mình trân trọng rất có thể chẳng có giá trị gì đối với người khác. Nhưng thôi, không bàn chuyện đó. Nhưng phải có lời nói đầu. Không có lời nói đầu, không được. Dù rằng không có gì khôn ngoan hơn là hãy bắt tay vào công việc, có lẽ việc gì cũng vậy. ... Mời các bạn đón đọc Chàng Thiếu Niên của tác giả Fyodor Dostoyevsky.
Canh Khuya - Suzanne Brockmann
Brittany Evans ghét bị trễ. Nhưng bãi đỗ xe giống như cái nhọt ở mông, thêm nữa cô còn tốn quá nhiều thời gian băn khoăn nên mặc gì - cứ như việc đó quan trọng lắm ý. Ra khỏi cánh cửa phòng thay quần áo, cô quan sát đám người lác đác đứng quanh quầy xúc xích cạnh sân bóng chày trường đại học. Và anh ta ở đó. Đứng dưới phần mái nhô ra, tránh cơn mưa nhỏ, theo dõi các cầu thủ trên sân bóng. Dựa vào tường quay lưng lại phía cô. Ít nhất thì cô nghĩ đó là anh ta. Họ chưa gặp nhau bao giờ - hoặc không nhiều hơn hai phút rưỡi. Brittany, đây là Wes Skelly quân- hàm- gì- đó. Wes, đây là Britt, chị Melody Jones. Xin chào, rất vui được làm quen, tôi phải đi đây. Người đàn ông có- thể- là- Wes- Skeylly đó liếc nhìn đồng hồ, liếc ra cổng chính của sân vận động. Tóc anh ta dài hơn và sáng màu hơn cô nhớ - dĩ nhiên, khó mà nhớ được nhiều từ cuộc gặp mặt chỉ diễn ra trong hai phút rưỡi. Cô nhìn thấy mặt anh ta rõ hơn khi anh ta khẽ ngoảnh lại. Đó là…một khuôn mặt. Không đẹp trai đến sững sờ như chồng của Mel, Harlan "Cowboy" Jones. Nhưng cũng không đến nỗi như ác quỷ Frankenstein. *** Suzanne Brockmann (sinh năm 1960, bút danh khác: Anne Brock) là một trong những nữ tác giả hàng đầu tại Hoa Kỳ hiện nay. Bà đã đạt được rất nhiều giải thưởng, trong đó có hai giải RITA, giải cống hiến của Romantic Times và được xem là tác giả viết tiểu thuyết lãng mạn được yêu thích nhất tại Mỹ… Hơn 51 tác phẩm của bà đã được xuất bản và rất nhiều trong số chúng được xếp vào hàng best - seller của USA Today và New York Times. Bà được xem như một trong các tác giả có tầm ảnh hưởng lớn trong giới viết tiểu thuyết lãng mạn và là một thành viên hoạt động tích cực vì sự bình đẳng dân chủ. Suzanne Brockmann cũng đã ra mắt một bộ phim mà bà sản xuất cùng chồng của mình: The perfect wedding. Một số tác phẩm của Suzanne Brockmann: Born to darkness; Beginnings and Ends; Headed for trouble; Shane's last stand; Thiên thần của anh... *** "Anh nghĩ sao nếu em nói em đang định nghỉ học một năm?" Brittany hỏi. Wes ngẩng đầu lên khỏi máy tính, xoay người trên ghế sang nhìn cô. Cô đang đứng bên cửa phòng ngủ, dựa người vào khung cửa. Anh cân nhắc lại từ ngữ trước khi trả lời cô. "Anh đoán anh sẽ phải hỏi tại sao em lại định như vậy. Và anh hi vọng đó không phải là vì anh." "Không phải," cô nói. "Thật không?" anh hỏi. Thật không dễ khi phải sống và làm việc tại hai thành phố khác nhau, nhưng không đến mức không chịu được. "Nếu dạo này anh phàn nàn nhiều quá thì cứ bảo anh câm lại, bé cưng. Chuyện này sẽ không phải là mãi mãi, bên cạnh đó, chúng ta còn phải lo cho Andy." Andy cần Britt bên cạnh hơn lúc nào hết. Dani đã trở lại trường, nhưng phiên tòa xử Dustin Melero đang đến gần. Không có gì bảo đảm, những vụ cưỡng bức luôn diễn ra theo kiểu "anh nói, cô ta nói," nhưng 4 cô gái đã bước ra, cùng với câu chuyện giống hệt Dani. Cùng với nhau, họ quyết tống tên khốn kiếp đó vào tù. Yeah, có khi Dustin lại ở cùng phòng giam với John Cagle, tên bám đuôi điên khùng của Amber. Amber đã hoàn thiện lại hệ thống an ninh, Wes và Britt cũng lắp thêm hệ thống báo động vào cả hai căn hộ của họ. ... Mơi các bạn đón đọc Canh Khuya của tác giả Suzanne Brockmann.
Bão Lặng - Francoise Sagan
Sau hào hứng hơi vô sỉ của cuốn Người đàn bà đánh phấn, và tính phi đạo đức rõ ràng của các nhân vật, tác giả buộc phải, và tác giả cũng muốn thay đổi phong cách và tất cả. Thời đại của chúng ta ít có chỗ bíu cho mơ mộng, tác giả không ẩn mình trong một tháp ngà hố??c trong một nông thôn hẻo lánh để thả mình vào cảm hứng trữ tình đã bắt đầu thiết hụt trong tác giả, vì vậy phải dứt khoát thay đổi thời đại. Do đó câu chuyện phải là sôi sục, nếu không thì nhạt nhẽo, cốt truyện phải diễn ra vào năm 1830 và nó phải có phong cách thời đại, Vì thế tác phẩm Bão Lặng ra đời. *** Françoise Sagan – tên thật là Françoise Quoirez – là nhà văn, nhà biên kịch người Pháp. Sagan đã được nhà văn François Mauriac ca ngợi là "một tiểu quái quyến rũ" trên trang nhất của tờ báo Le Figaro, Sagan nổi tiếng về các tác phẩm với những chủ đề cực lãng mạn liên quan đến các nhân vật tư sản giàu có và bị vỡ mộng. Tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Sagan là quyển tiểu thuyết đầu tiên của bà - Bonjour Tristesse (Buồn ơi, chào mi) (1954) - được viết khi bà còn là một thanh thiếu niên. Sagan sinh tại Cajarc, Lot, trong một gia đình khá giả, là con của Pierre và Marie Quoirez. Sagan là con út trong số 4 anh chị em (Suzanne (1924), Jacques (1927) và Maurice (chết non). Trong thời Chiến tranh thế giới thứ hai gia đình bà sống ở vùng Dauphiné, rồi Vercors. Cụ nội của Sagan là một người Nga xuất xứ từ Sankt-Peterburg. Khi là học sinh trung học, Sagan đã thích đọc các tác phẩm của các nhà văn Jean Cocteau, Arthur Rimbaud, Marcel Proust, Stendhal, Flaubert, William Faulkner, Ernest Hemingway, Albert Camus, Francis Scott Fitzgerald, André Malraux và Jean-Paul Sartre; sau đó đã làm bạn với Sartre (Sagan thường ăn điểm tâm buổi sáng với Sartre ở tiệm Closerie des Lilas). Năm 1951, sau khi thi trượt bằng tú tài, Sagan đã dành một mùa hè học vội để thi lại và đã đậu. Sau đó Sagan ghi danh xin học Đại học Sorbonne, nhưng năm 1953 đã bị trượt Chứng chỉ dự bị đại học. Bút hiệu "Sagan" được lấy từ nhân vật "Princesse de Sagan" trong quyển À la recherche du temps perdu (Đi tìm thời gian đã mất) của Marcel Proust. Quyển tiểu thuyết đầu tay Bonjour Tristesse của Sagan được xuất bản năm 1954, khi bà mới 18 tuổi, nói về cuộc sống của một cô gái tên Cécile 17 tuổi ham vui cùng mối quan hệ với người bạn trai và người cha playboy ngoại tình của cô, đã lập tức có tiếng vang quốc tế. Các nhân vật của Sagan - đã trở thành một chút biểu tượng cho những thanh thiếu niên bị vỡ mộng - theo một cách nào đó đều tương tự như các nhân vật của nhà văn Mỹ JD Salinger. Trong suốt sự nghiệp văn học kéo dài đến năm 1998, Sagan viết hàng chục tác phẩm, trong đó nhiều truyện đã được quay thành phim. Bà duy trì một văn phong chân phương của lối tiểu thuyết tâm lý Pháp, ngay cả khi phong trào tiểu thuyết mới đang thịnh hành. Những lời đối thoại giữa các nhân vật của bà thường được coi là có hàm chứa sắc thái chủ nghĩa hiện sinh. Ngoài các tiểu thuyết, kịch, và một cuốn tự truyện, bà cũng đã viết lời bài hát và kịch bản phim. Trong thập niên 1960, Sagan đã dành nhiều thời gian để viết kịch; tuy nhiên - mặc dù phần đối thoại giữa các nhân vật kịch được khen là xuất sắc - nhưng kịch của bà không được thành công nhiều. Sau đó, bà đã tập trung vào sự nghiệp viết tiểu thuyết. *** Mùa hè năm 1835 ở Charante thực sự là một mùa hè sôi động nhất mặc dù tôi luôn ở trong một tâm trạng giận dữ điên cuồng. Những vị khách trẻ trung tài hoa, các nhạc sĩ, nhà văn, những phụ nữ trẻ đẹp đi đi về về tới vài chục lần giữa Paris và Angoulême, mỗi lần họ ở lại vài ngày với Flora và chàng thi sĩ trẻ của cô. Họ là những người hết sức vô tư, sống theo phong cách thoải mái, không già nua khô hạnh như chúng tôi. Gildas và Flora thực sự hạnh phúc - không phải riêng tôi mà tất cả mọi người đều nhận ra điều ấy. Chúng tôi, những vị khách bản địa luôn được mời tới trong những dịp ấy và lấy làm thú vị khi tiếp xúc với những con người đầy tri thức và dí dỏm sắc sảo, được tham dự những cuộc nói chuyện đầy kiến thức cao siêu của họ... Tôi thực sự xấu hổ vì những gì mình vừa viết. Tôi cảm thấy cay đắng và bất công. Nói cho cùng thì bạn bè của Gildas và Flora là những người Paris, họ vô tư, thư thái và sống quả quyết hơn chúng tôi. Họ sống thân thiện, sôi động và nhiệt tình. Dưới sự đánh giá khách quan của họ thì tất cả những gì vốn là niềm tự hào của Aquitaine rốt cuộc chỉ là sự khổ hạnh đáng buồn, niềm tin mù quáng của hầu hết những người phụ nữ cuồng tín nơi đây đối với xứ đạo của họ sẽ khiến người ta phát hiện ra rằng ở họ không bao giờ có một dấu hiệu nào của cuộc sống đồi bại. Trong số khách khứa của Flora, những người đàn ông không bao giờ xuất hiện hai lần với cùng một người phụ nữ. Song những mối quan hệ đó diễn ra một cách kín đáo, không bao giờ gây ra một điều tiếng gì. Với họ, việc thay đổi bạn tình liên tục là một việc hết sức bình thường. Không ai tỏ ra thắc mắc, ngạc nhiên về việc người ta có thể lại bắt đầu một mối quan hệ dan díu mới ngay lập tức sau khi vừa cắt đứt mối quan hệ cũ. Là trung tâm của những cuộc vui của cách sống đơn giản và có vẻ hạnh phúc ấy, Flora và Gildas dường như là hiện thân của niềm hạnh phúc. Điều này thì không chỉ chúng tôi nhận ra không chỉ chính tôi, một kẻ chìm sâu trong niềm tuyệt vọng trước hạnh phúc của họ, nhận ra mà cả những người bạn Paris của họ - những người mà không dè dặt giấu giếm sự ngưỡng mộ đối với mối quan hệ rực rỡ và chung thủy đó. ... Mời các bạn đón đọc Bão Lặng của tác giả Francoise Sagan.
Oan Nghiệt - Nguyễn Văn Thịnh
Hoàng Yến không hiểu được nàng đang sống trong thực hay hư. Mới đây thôi nàng còn là cô chủ được mọi người kính trọng và mơ ước. Nàng là người điều hành thông minh, tháo vát, người quản lý tận tụy trung thành một cơ ngơi lớn đang trên đà phát triển và cái cơ ngơi ấy sẽ là gia sản cho con trai nàng là người thừa kế đương nhiên. Thế mà giờ đây cả hai mẹ con nàng đều bơ vơ không nơi nương tựa, phải sống tránh né mọi người, không dám mở mặt nhìn ai ngay cả với cha mẹ ruột của mình. Cả một chuỗi tháng năm u ám của quá khứ nặng nề hiện lên che khuất hướng tương lai. Trước mặt nàng là cả một không gian mù mờ ảm đạm… Hoàng Yến nghỉ ở khách sạn này đã hơn một ngày rồi. Nàng chưa biết sẽ đi đâu, về đâu. Quá khứ đã như một tấm cửa thép lạnh lùng khép chặt. Với nàng thật là đơn giản, cuộc sống này càng sớm kết thúc thì càng mau được giải thoát thôi. Nhưng còn đứa con nàng? Nó chẳng tội tình gì… Đứa con nào chẳng mong có mẹ. Nhưng đứa trước không được thành người, để ai oán cho nó, chẳng lẽ nàng không có lỗi? Đến thằng Tý Ty này, đã thành người, nó không thể xa nàng được nữa. Nhưng mẹ con sẽ sống thế nào? Nàng không thể để đứa bé phải tủi hổ khi biết về mẹ nó. Nàng đã mang tội với đấng sinh thành, giờ lại thêm tội nữa với con! Mai là Mồng Một Tết. Hôm nay là ngày cuối năm. Hôm qua nhìn thấy Quyền hối hả về quê ăn Tết, Hoàng Oanh quay về thành phố lại với những trận cười cuộc vui nhàm chán. Nàng đã không thể nhìn lại mẹ cha và bạn bè xưa cũ. Nàng cũng không thể tìm đến với Hoàng Oanh để cả hai mẹ con cùng chui đầu vào thòng lọng. Nhưng biết đi đâu? Nàng hoàn toàn bế tắc. Nàng ra bàn, có để sẵn cuốn tập và cây viết. Nàng tách một tờ giấy đôi ở giữa, cúi đầu ngồi viết. Mấy lần nàng viết được dăm chữ vài dòng lại bỏ đấy ra ngồi với con rồi nằm vật trên giường ôm thằng bé vào lòng và nàng thiếp đi… ... Mời các bạn đón đọc Oan Nghiệt của tác giả Nguyễn Văn Thịnh.