Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Rỗng

Người rỗng là tác phẩm đỉnh cao của John Dickson Carr trong thể loại “mật thất án mạng”. Xuyên suốt truyện là bí ẩn của hai vụ giết người: một vụ xảy ra trong căn phòng khóa kín, nạn nhân chỉ có thể mấp máy vài từ đứt đoạn; một vụ diễn ra trên con phố vắng, có nhân chứng ở hai đầu. Trong cả hai vụ, kẻ thủ ác đều biến mất không dấu vết. Nhân chứng nhìn thấy hắn, rồi để hắn thoát đi như một màn ma thuật. Kẻ thủ ác là ai? Có chăng hắn là người rỗng dưới vỏ bọc hữu hình để rồi sau khi giết người lại biến mất vào không khí? Độc giả như bị đặt vào mê lộ của sự bất khả, và rồi những suy luận của các nhà điều tra cũng đều dần dần đi vào ngõ cụt. Án chồng án, quá khứ vươn dài xoắn xít vào thực tại khiến người đọc rối trí, nút thắt này chưa gỡ xong đã bị Carr buộc vào một nút thắt khác khó gỡ hơn. Chính những điểm gút liên hoàn được buộc và gỡ một cách xảo diệu, bất ngờ như vậy đã tạo nên sức hút cho Người rỗng, giúp tác phẩm đứng vững trong hàng ngũ những tiểu thuyết trinh thám hay nhất mọi thời đại. *** NGƯỜI RỖNG – JOHN DICKSON CARR Thấy cuốn này được tâng bốc đến tận trời cao nên mình cũng thử sức đọc xem sao. Kết quả là, mình khá đồng ý với đa số các review mình đã đọc. Mình không phải là người giỏi lần theo các manh mối và suy luận để tìm ra lời giải cho các vụ án trong truyện nên mình cũng không cố gắng nhọc công làm việc đó, đỡ mệt bao nhiêu. May đấy, vì thủ thuật gây án trong phòng kín mà tiến sĩ Fell trình bày đúng là làm mình lóa mắt. Ấn tượng đầu tiên của mình chính là thủ phạm làm mình liên tưởng đến “Những chiếc răng cọp” của Maurice LeBlanc (cuốn Arsene Lupin đầu tiên mình đọc). Còn lại vềthủ thuật thì quá là phức tạp và mặc dù được giải thích kĩ càng nhưng đầu mình vẫn không thực sự tiêu hóa hết toàn bộ vấn đề. Một điều nữa mà mình cũng đồng ý với các review là cách thức hành động của thủ phạm gần như diễn ra dựa trên các sự kiện tình cờ, không được tính toán trước, ngược lại hoàn toàn với dụng ý ban đầu của thủ phạm. Lẽ dĩ nhiên, điều này cũng thể hiện phần nào trí thông minh và cách giải quyết vấn đề rất nhanh nhạy của thủ phạm, lợi dụng mọi sự ngẫu nhiên xảy ra ngay tại thời điểm đó để thực hiện tiếp những việc tiếp theo theo đúng kế hoạch.   Cái hay của truyện, ngoài cách gây án của hung thủ làm mình sững sờ ra, còn nằm ở việc nhận định và giả thuyết sai lầm. Chính lỗi vô cùng lớn như thế này đã khiến cảnh sát điều tra và tiến sĩ Fell rơi vào ngõ cụt. Vậy kết luận rút ra từ đây là, giả thuyết chỉ là giả thuyết thôi, không nên quá coi trọng nó và mặc định nó nhất định phải như thế. Đến khi tiến sĩ Fell lật lại hoàn toàn những giả thuyết mà tác giả cố định vào đầu người đọc ngay từ đầu, mình mới òa ra, bây giờ mọi chuyện mới sáng tỏ và hợp lý. Các nhân vật thì mình không thực sự thích ai cả. Ấn tượng của mình với các nhân vật trong truyện đều có gì đó rất xấu xa, trừ mấy người điều tra phá án thôi, còn lại ai cũng có vẻ ích kỉ và to mồm, nói nhiều nhưng làm ít, ai cũng thấy có vẻ nói dối – chỉ là mình không đủ nhạy bén để nhận ra họ nói dối cái gì thôi. Thực ra đến cả thanh tra Hadley và tiến sĩ Fell cũng đôi lúc làm mình buồn cười. Họ cũng to mồm không kém các nghi phạm. Từ đầu truyện khi diễn ra cuộc thẩm vấn, mình thấy các nhân vật – cả nghi phạm lẫn người điều tra – đều mất bình tĩnh. Họ quát lên, rồi họ tức giận, ai cũng nói rất to! Có thể đây là một sự hài hước vô ý của tác giả chăng? Một nhân vật mình không thích nhất là người không có vai trò gì trong quá trình điều tra cả, đó là vợ của Rampole là cô Dorothy. Cô này nhiều chuyện và tọc mạch quá, toàn đưa ra những giả thuyết này nọ phi thực tế, hầu như chỉ dựa vào quan điểm và sở thích cá nhân của cô, mà cô đưa ra những ý kiến đó chỉ thông qua mỗi lời kể của chồng. May mắn là Dorothy chỉ xuất hiện có hai lần, mau miệng thật đấy nhưng làm mình khó chịu quá. Mặc dù cuốn này ngắn nhưng mình vẫn đọc chậm hơn tốc độ bình thường của mình vì có những đoạn mình phải đọc đi đọc lại và thỉnh thoảng mình không tập trung được, vì cứ mỗi trang là lại có thêm chi tiết mới, và thám tử phải rà soát lại từ đầu kết hợp với những gì mới phát hiện. Nhưng bù lại, đọc phần phá án lại làm mình rất thỏa mãn, kèm theo một phần bài giảng của tiến sĩ Fell về các loại án mạng phòng kín nữa, vô cùng bổ ích. Điểm: 4/5  (Cảm ơn đã đọc đến đây. Mọi người ủng hộ góc booktube siêu nhỏ của mình nhá – thanks ạ) Hương Spy *** NGƯỜI RỖNG – JOHN DICKSON CARR Đối với trinh thám cổ điển mình ít khi đọc (đặc biệt là tác phẩm Âu-Mỹ) vì không quen với văn phong tác giả. Vì thế Người rỗng là một thách thức với mình từ những trang đầu tiên. Mình đã mất 6 ngày để đọc xong. Phải nói là không quá khi bìa sách phí sau ghi Người rỗng tác phẩm đỉnh cao của John Dickson Carr. Những sự việc tác giả đưa vào khiến cho người đọc lẫn nhân vật hiểu lầm và sau đó lí giải thật tuyệt vời. Hình tượng thám tử-tiến sĩ Fell lẫn những người bạn của ông khiến mình cảm thấy gần gũi vì Carr không ưu ái cho ai cả, mỗi nhân vật đều được nêu suy nghĩ về vụ án, ai cũng có đất diễn cả. Và không người bạn nào của Fell làm nền cho ông. Về phần mạch truyện thì diễn ra chầm chậm, sau đó nhanh từ từ về sau. Truyện cũng có những điểm gây cấn. Tuy nhiên, nó cũng có phần giống những trinh thám cổ điển như Đảo ngục môn, Án mạng trên sông Nile,… ở chỗ giải quyết vấn đề sau khi thám tử phá án xong xuôi, nó diễn ra rất nhanh và kết thúc ngay sau đó chỉ với 1 sự lựa chọn của hung thủ và tòng phạm. Về điểm này mình hơi hụt hẫn nhưng nhìn chung mình rất khâm phục bác Carr vì đã lừa và khiến mình rối não. Mức độ yêu thích: 5/5 Neko Sayuri *** NGƯỜI RỖNG Book review: “Người Rỗng” Tác giả: John Dickson Carr Thể loại: Trinh thám cổ điển, giết người trong phòng kín Đánh giá: 9/10 Mình là người rất thích đọc các tác phẩm trinh thám lấy đề tài mật thất, giết người trong phòng kín, vì mình thích tìm hiểu về những vụ án tưởng chừng như bất khả, nhưng hóa ra luôn có một lời giải thích hợp lý. Vì thế, khi biết cuốn “Người Rỗng” của John Dickson Carr – nhà văn trinh thám Mỹ nổi tiếng, được mệnh danh là “ông hoàng mật thất” – được xuất bản là mình mua đọc ngay. Công nhận là hay lồng lộn, hay ghê gớm luôn các bạn ạ.   “Người Rỗng” là cuốn tiểu thuyết về hai vụ giết người. Một vụ là cái chết kỳ bí của giáo sư Charles Grimaud – một người không bao giờ tin vào ma quỷ hay thế giới tâm linh. Trước ngày vụ án xảy ra, Pierre Fley – một nhà ảo thuật gia – đã xuất hiện tại quán rượu mà giáo sư Grimaud thường tụ họp với bạn bè của mình và buông ra một lời đe dọa. Vài ngày sau đó, giáo sư Grimaud có hẹn gặp một người đàn ông cao lớn, bí ẩn trong chiếc áo khoác đen và đeo mặt nạ Guy Fawkes màu hồng như thịt, để rồi giáo sư được phát hiện đang thoi thóp trong căn phòng khóa kín cửa, chỉ có thể mấp máy vài từ đứt đoạn, người lạ đó đã biến đâu mất. Nền tuyết trắng không hề có dấu chân ai cả. Cửa sổ quá bé để một người trưởng thành chui ra được. Căn phòng cũng không có cánh cửa bí mật nào thông ra bên ngoài. Như thể hung thủ đã tan biến vào không khí vậy. Vào cùng đêm giáo sư Grimaud bị bắn, và sau đó qua đời, Pierre Fley cũng bị bắn ở một con phố vắng bởi chính khẩu súng đã giết giáo sư Grimaud. Có nhân chứng đứng ở hai đầu đường nhưng đều không thấy được chuyện gì xảy ra, hay hung thủ là ai. Như thể kẻ thủ ác là một người rỗng dưới vỏ bọc hữu hình, hiện ra gây án để rồi sau đó lại biến mất vào không khí. Và Pierre Fley – người trước đó đã đe dọa giáo sư Grimaud, là kẻ dường như có động cơ giết giáo sư nhiều nhất – cũng chết trong cùng một đêm, hai vụ án chỉ cách nhau vài phút. Vậy rốt cuộc hung thủ thực sự là ai? Có phải là một trong những nhân chứng của hai vụ án hay không? Bên cạnh bí ẩn về “người rỗng” gây án và sự khó giải thích nổi của hai vụ giết người mà việc tìm hiểu xem chuyện gì thực sự đã xảy ra dường như là bất khả, điều mà mình thích nhất ở cuốn tiểu thuyết này, có lẽ chính là những suy luận của tiến sĩ Fell – một trong những hình tượng thám tử “không chuyên” mà John Dickson Carr sáng tạo nên. Chỉ bằng cách quan sát tỉ mỉ những gì còn lại ở hiện trường trong căn phòng kín, cùng việc lắng nghe lời khai của nhân chứng và cả những từ ngữ đứt đoạn mà nạn nhân Grimaud mấp máy trước khi bị đưa đi chăm sóc y tế, mà tiến sĩ Fell đã có thể dần dần khám phá và phác họa nên cuộc sống trước kia của nạn nhân Grimaud, và tự mình đưa ra những suy luận khả dĩ có thể đưa ra một hướng điều tra cho những người có chuyên môn điều tra phá án. Lẽ dĩ nhiên, với một cuốn tiểu thuyết giết người trong phòng kín nổi tiếng dường này, thuộc hàng ngũ những tiểu thuyết trinh thám hay nhất mọi thời đại, thì mọi thứ không như những gì chúng ta và cả tiến sĩ Fell luôn hình dung. Nếu bạn chỉ suy luận đơn giản, chỉ suy nghĩ theo cách thông thường, thì sẽ không bao giờ có thể phát hiện ra được sự thật, cùng “màn ảo thuật” gây kinh ngạc đã đánh lừa rất nhiều người. Và quan trọng hơn nữa, là làm sao chúng ta có thể, từ những lời khai của nhân chứng luôn nói thật, suy luận ra được điều gì đã thực sự xảy ra, và nhìn ra chân tướng của toàn bộ vụ việc. Đoạn kết khi tiến sĩ Fell bóc trần sự thật đã thực sự làm mình ngỡ ngàng, vì mình không bao giờ có thể tưởng tượng được mọi chuyện lại là như thế. Có một chút may mắn giúp hung thủ thực hiện được một phần kế hoạch của mình – cái chút may mắn đã thay đổi và xoay vần toàn bộ cách lẽ ra chúng ta phải suy luận. Phần còn lại là một chuỗi ứng biến có, đã lên kế hoạch sẵn cũng có, để đánh lừa các nhân chứng và xoay chuyển bản chất thật của cả hai vụ án. Nói chung là cá nhân mình không thể nào ngờ được lời giải đáp lại là như thế, và mình cũng không thể nào biết được làm cách nào tác giả John Dickson Carr lại có thể nghĩ ra được một câu chuyện như vậy luôn ???? Giờ mình chuẩn bị đặt mua tiếp hai cuốn khác của John Dickson Carr là “Vụ án viên nhộng xanh” và “Chiếc bản lề cong” để ở nhà đọc trong dịp Tết đây ^^ Hy vọng là cũng sẽ hay như cuốn “Người Rỗng” này ???? P.S.: Chụp cái hình sẵn khoe luôn kệ sách mới hí hí hí ????))) Nguyễn Việt Ái Nhi *** NGƯỜI RỖNG – JOHN DICKSON CARR Giáo sư Grimaud trong một buổi tối khi đang nói chuyện với đám bạn thì một kẻ lạ mặt xưng tên là Fley đến thách thức đe doạ. Không lâu sau đó một người khách lạ che mặt đến viếng thăm nhà Grimaud trong phòng làm việc khoá kín. Một tiếng súng nổ vang, mọi người ùa vào phát hiện Grimaud hấp hối nhưng hung thủ biến mất như có phép xuyên thấu. Fley đươc cho là nghi phạm nhưng sau đó mọi người phát hiện hắn bị bắn chết trên phố vắng đầy tuyết trước mặt 3 nhân chứng mà không ai thấy hung thủ. Tiến sĩ Fell sẽ giải đáp 2 tội ác bất khả thi như thế nào…”Người rỗng” hay có tên khác “3 cỗ quan tài” là tác phẩm nổi tiếng nhất của Carr, một cột mốc quan trọng của thể loại trinh thám mật thất. Đây là một vụ án phức tạp với nhiều tình tiết rối rắm xoắn lại với nhau khiến người đọc phải cẩn thận theo dõi. Được cái tác giả khéo léo trong cách dẫn dắt và đan cài các tình tiết bí ẩn bất ngờ khiến người đọc tò mò và không bị nhàm chán. Chân tướng vụ án có thể mượn câu nói của Sherlock Holmes “khi ta loại trừ được các khả năng khác thì khả năng duy nhất còn lại dù phi lý đến đâu thì chính là sự thực”. Dĩ nhiên giải đáp của Fell có chi tiết trùng hợp một cách khó tin khiến bạn đọc sẽ phải ngẩn người kiểu “sao có thể như vậy được?” nhưng thì công nhận đó là cách giải đáp hợp lý nhất và kết nối được các chi tiết khó hiểu lại với nhau. Thủ pháp thì các bạn đọc trinh thám Conan hay Kindaichi sẽ thấy quen thuộc vì cuốn này đã viết gần 90 năm và motif kinh điển này đã được không ít hậu bối quen thuộc học tập biến tấu. Gần cuối tác giả có phần “mật thất giảng nghĩa” nổi tiếng thống kê các kiểu mật thất và biến tấu. Các bạn có thể tham khảo kĩ để mấy cuốn sau của Carr có thể suy đoán được tốt hơn. Nhưng cảnh báo mấy bạn quen kiểu đơn giản dễ vào của trinh thám Tung Của hay kiểu nhanh dồn dập của hiện đại Tây thì nên cân nhắc thận trọng. Dù vậy vẫn khuyến khích các bạn không nên bỏ qua cuốn kinh điển về suy luận mật thất này. P.S Đọc thể loại mật thất hơi mệt não nên sẽ đổi vị một cuốn nhẹ nhàng đã rồi quay về Carr sau. Chấm cá nhân 8/10. Nam Do *** Ta có thể dùng rất nhiều từ ngữ li kì để mô tả vụ sát hại giáo sư Grimaud, cũng như vụ án mạng ở phố Cagliostro sau đó vốn cũng phi thường không kém – quý độc giả sẽ sớm hiểu lí do vì sao thôi. Những người bạn của tiến sĩ Fell yêu thích các vụ án bất khả thi sẽ không thể tìm thấy trong sổ tay vụ án của ông một bí ẩn nào khó hiểu và kinh hoàng hơn thế này. Bởi, để gây ra hai vụ án này, hung thủ không những phải vô hình, mà còn phải nhẹ hơn không khí. Chứng cứ cho thấy hắn hạ sát nạn nhân đầu tiên và biến vào không khí theo đúng nghĩa đen. Chứng cứ cũng cho thấy hắn giết nạn nhân thứ hai ngay giữa một con phố vắng, có nhân chứng ở cả hai đầu. Vậy mà không một ai nhìn thấy hắn, và cũng không có dấu chân nào xuất hiện trên tuyết cả. Lẽ dĩ nhiên, chánh thanh tra cấp cao Hadley không bao giờ tin vào ma thuật. Và ông hoàn toàn đúng – trừ khi quý độc giả tin vào loại phép thuật sẽ từ từ được giải thích trong cuốn sách này vào thời điểm thích hợp. Nhưng có vài người bắt đầu phân vân không biết nhân vật bí ẩn rình rập trong suốt vụ án này có phải là một kẻ vô hình thật sự hay không. Họ bắt đầu tự hỏi nếu bỏ đi cái mũ, tấm áo choàng đen, và chiếc mặt nạ trẻ em, thì liệu có thật là không có gì bên trong không, như người đàn ông trong tác phẩm nổi tiếng của nhà văn H. G. Wells vậy. Nhưng dù có phải thế hay không thì kẻ giết người bí ẩn của chúng ta cũng đã đủ ghê rợn rồi. Đoạn văn mở đầu có dùng cụm từ “chứng cứ cho thấy”. Nhưng chúng ta phải rất cẩn thận với những chứng cứ không do mắt thấy tai nghe. Và để tránh những hiểu lầm không cần thiết, trong vụ án này quý độc giả phải được thông báo ngay từ đầu về những chứng cứ mà quý độc giả có thể tin tưởng tuyệt đối. Điều này có nghĩa là ta phải giả định rằng có người nào đó nói thật – nếu không thì làm gì còn bí ẩn nào nữa, và do đó, cũng chẳng có chuyện gì để kể. Vì thế hẳn phải giả định rằng anh Stuart Mills ở nhà của giáo sư Grimaud đã kể lại toàn bộ sự việc chính xác như những gì anh ta đã chứng kiến trong mỗi vụ án mà không nói dối, không bỏ sót, hay thêm thắt bất kì chi tiết nào. Và cũng phải giả định rằng ba nhân chứng độc lập trong vụ án ở phố Cagliostro (ông Short, ông Blackwin và cảnh sát Withers) đã nói đúng sự thật. Trong trường hợp này, cũng cần phải trình bày một trong những sự kiện dẫn đến hai vụ án trên một cách kĩ càng hơn thay vì để các nhân vật hồi tưởng lại sau này. Sự kiện này chính là điểm then chốt, là bước ngoặt, là thách thức. Và nó sẽ được thuật lại dưới đây theo đúng những gì có trong ghi chép của tiến sĩ Fell, với đầy đủ các chi tiết thiết yếu mà Stuart Mills đã khai với tiến sĩ Fell và chánh thanh tra cấp cao Hadley. Sự kiện này xảy ra vào đêm thứ tư, ngày sáu tháng Hai, ba ngày trước vụ án mạng, ở phòng khách phía sau của quán rượu Warwick trên phố Museum. Tiến sĩ Charles Vernet Grimaud đã sống ở nước Anh được gần 30 năm, và nói thứ tiếng Anh chuẩn giọng Anh. Mặc dù ông hành xử cộc lốc trong lúc hứng khởi, và có thói quen đội chiếc mũ quả dưa chóp vuông lỗi mốt và thắt chiếc ca vát dây màu đen, nhưng trông ông còn giống người Anh hơn cả bạn bè của mình. Không ai biết nhiều về quá khứ của ông. Dù đủ tiền sống mà không cần làm lụng, ông vẫn làm việc vì thích được “bận rộn” và cũng có thu nhập khá. Giáo sư Grimaud từng là một giáo viên, cũng như một giảng viên đại học, và một nhà văn nổi tiếng. Nhưng dạo này ông không làm gì mấy mà chỉ đảm nhiệm một chức vụ không lương gì đó ở Bảo tàng Anh. Đổi lại ông được tiếp cận cái mà ông gọi là “những bản thảo phép thuật cấp thấp”. “Phép thuật cấp thấp” là sở thích đem lại rất nhiều hứng thú cho ông: bất kì thứ ma quỷ siêu nhiên kì lạ nào, từ ma cà rồng cho tới lễ Đen thờ quỷ Satan, đều khiến ông gật gù và cười khúc khích như trẻ con – và chính nó cũng đã đem lại cho ông một viên đạn xuyên qua phổi. Nói chung, Grimaud là một người thông minh, với ánh mắt lúc nào cũng lấp lánh sự tinh quái. Ông nói nhanh nhưng với thái dộ cộc cằn và giọng nói ồm ồm cứ như gồng từ cuống họng lên, và ông có cái điệu cười khùng khục không hở răng. Ông có vóc dáng trung bình, nhưng lại có khuôn ngực tráng kiện và thể chất vạm vỡ. Mọi người ở quanh khu Museum đều quen với bộ râu đen được cạo ngắn đến mức nhìn như đang bạc dần, gọng kính đồi mồi, cùng dáng đi cương nghị mỗi khi ông rảo bước trên đường và giơ mũ chào hay giương ô lên ra hiệu cho họ môt cách vội vã. Ông sống trong một căn nhà cũ vững chãi ở phía tây quảng trường Russell cùng cô con gái Rosette, bà quản gia Dumont, thư kí Stuart Mills, và cựu giáo viên ốm yếu Drayman, một kẻ ăn bám được ông thuê để trông coi sách vở. Nhưng cánh hẩu thực sự của ông thì lại tụ tập ở một cái hội do chính họ lập nên ở quán rượu Warwick trên phố Museum. Họ gặp nhau bốn hay năm tối một tuần – một kiểu họp kín không chính thức – trong một căn phòng biệt lập phía sau quán được dành riêng cho mục đích này. Thực ra đây không phải là phòng riêng của họ, nhưng không có mấy người ngoài từ quầy bar đi lạc được vào đó, mà có vào cũng không được chào đón. Những thành viên thường trực của hội là một chuyên gia kể chuyện ma nhỏ con, đầu hói và kiểu cách tên là Pettis, anh chàng nhà báo Mangan và ông nghệ sĩ Burnaby. Nhưng chính giáo sư Grimaud mới là tiến sĩ Johnson của cả hội – đây là điều không thể bàn cãi. Ông cầm trịch mọi thứ. Gần như mọi tối trong năm (trừ thứ bảy và chủ nhật – những ngày ông dành riêng cho công việc), ông đều được Stuart Mills hộ tống tới quán Warwick. Ông luôn ngồi trên chiếc ghế bành ưa thích của mình trước ngọn lửa nóng rực, với một cốc rượu rum pha nước nóng trên tay, và hò hét diễn xướng theo phong cách mà ông ưa thích. Cuộc nói chuyện, Mills kể, thường rất tuyệt vời, mặc dù không một ai có thể tranh luận được với giáo sư Grimaud, ngoại trừ Pettis và Burnaby. Mặc cho vẻ ngoài nhã nhặn, ông là người rất nóng tính. Không ai bảo ai, mọi người đều hài lòng với việc ngồi yên lắng nghe kho kiến thức của ông về phép phù thủy và những trò phù phép bịp bợm mà kẻ gian trá sử dụng để lừa bịp kẻ cả tin, về tình yêu như trẻ con của ông với bí ẩn và kịch tính: nhiều khi ông kể chuyện về phù thủy thời trung cổ, để rồi vào phút chót lại đột ngột giải thích hiện tượng bí ẩn ấy theo đúng phong cách truyện trinh thám. Những tối như thế thật thú vị và luôn phảng phất phong vị của các quán trọ miền thôn dã, dù họ đang ngồi ấm áp trong một quán rượu dưới ánh đèn dầu của khu Bloomsbury. Những tối thật thú vị, cho tới buổi tối ngày mùng sáu tháng Hai, khi điềm báo của nỗi kinh hoàng ập tới đột ngột như cơn gió thổi toang cánh cửa.   Mời các bạn đón đọc Người Rỗng của tác giả John Dickson Carr.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cửa Mật - Christine Kerdellant & Éric Meyer
Bọn tin tặc đang âm mưu phát tán một loại virus gây bệnh cho mạng internet toàn cầu. Virus này sản sinh trong ổ cứng một backdoor – cửa mật, giúp chúng kiểm soát và khống chế từ rất xa tất cả các máy tính nối mạng. Các nhà máy hạt nhân, ngân hàng, hãng hàng không, công ty dược phẩm, hệ thống cung cấp nước sạch…, toàn bộ các trung tâm đầu não của thế giới phương Tây đều nằm trong tầm ngắm của chúng. Bọn khủng bố có thể tùy thích đánh bom các công xưởng, đầu độc người dân, chiếm đoạt tài sản cá nhân cũng như sản xuất dược phẩm giả hiệu. Nỗi kinh hoàng lớn của thế kỷ XXI – cuộc mưu hại về tin học – đang lan rộng trên toàn thế giới… Chỉ có một người có thể đóng lại các backdoor mà đích thân ông đã dự kiến trong các phần mềm được sáng tạo theo yêu cầu của CIA: đó là Dan Barrett, người sáng lập Controlware, doanh nhân Mỹ lừng lẫy nhất hành tinh này. Nhưng than ôi, Barett vừa bị bọn khủng bố ám sát. Emma Shannon, người tình cũ của Dan, với sự trợ giúp của một chuyên gia tin học và một nhà văn am hiểu về lịch sử nước Pháp, đã lao vào cuộc tìm kiếm phương thuốc giải độc, tức chiếc chìa khóa tin học duy nhất có thể giúp thế giới thoát khỏi thảm họa này. Nhưng chiếc chìa khóa ấy hiện cất giấu ở đâu? Trong mê cung đường hầm của lâu đài Versailles tráng lệ ở nước Pháp? Hay trong công thức toán học kỳ bí chứng minh sự hiện hữu của Thượng đế? Làm sao ngăn chặn kẻ thù ảo giấu mặt đằng sau CỬA MẬT? *** Trước khi nhấn phím “Enter”[1] Owen Makresh nhíu mày tưởng nhớ đến người anh ruột Karim chết trong vụ World Trade Center[2] sụp đổ dữ dội ngày 11 tháng 9 năm 2001. Sáu năm sau, tính theo từng ngày, đây là giờ phút hắn sắp trở thành người hùng như Karim. Hắn quay người về phía Dmitri và nụ cười của hắn biến thành cái nhếch mép gượng gạo. Cả hai đứa hắn cùng đến thành phố Tallinn ở Estonie ngay sáng nay theo chuyến bay từ Jakarta có quá cảnh ở Moscou. Chúng đi xe bus từ phi trường về trung tâm thủ đô nước Estonie này rồi cuốc bộ đến quán bar nằm ở cuối con đường lát đá tảng trong khu phố trung cổ. Tổ chức đã cung cấp cho chúng những tấm hộ chiếu giả và một thẻ từ dùng để mở hai cánh cửa gỗ của bar Noku. Không phải bất cứ ai cũng có thể vào quán rượu này đâu, chỉ khách quen mới có tấm thẻ ra vào. Noku có nghĩa là “văn hóa trẻ”, lại cũng có nghĩa “con cu” trong tiếng lóng xứ này. — Mày có biết mấy giờ ngày mai tụi nó đến không? - Dimitri hỏi khẽ khi bước qua cửa. — Biết làm quái gì, - Owen đáp trả. - Ở giai đoạn 1 này, tao với mày là khá đông rồi đó. Vào giờ này cái câu lạc bộ tư gần như vắng tanh. Bình thường thôi, chiều thứ ba mà. Vài thanh niên Nga ngồi tựa quầy bar nhấm nháp từng ngụm Saku, một loại bia địa phương. Nhạc rock theo kiểu các nước Baltes[3] lấn át tiếng nói chuyện. Cuối phòng, các hốc tường là nơi đặt nhiều PC[4] mốt mới nhất, màn hình phẳng nhấp nháy trong bóng tối. Tất cả mấy máy tính này đều nối mạng Internet. Từ nơi này người ta có thể kết nối với bất cứ nơi nào trên thế giới, với lưu lượng cung cấp rất cao. Owen nhìn đồng hồ: 17 giờ 43. Hắn ra dấu, chỉ cho Dmitri bước đến hốc tường cuối phòng. Ở hốc bên cạnh, một gã thiếu niên, chắc là người Nga nếu đoán theo những con chữ hiện to trên màn hình, đang tải về những hình ảnh khiêu dâm rồi ghép vào đoạn băng quảng cáo cho cuốn phim sắp tới của George Lucas[5]. Bên cạnh chàng ta là một phụ nữ trẻ đầu cạo trọc, áo veste da, đang thiết kế trang chủ một mạng web. Owen kịp nhìn cái tên hiện ra: American Expresss với ba chữ “S”. Hẳn là một web giả mạo từ trang mạng thật của American Express. Đây là kỹ thuật – thường được gọi là phishing – quá quen thuộc với bọn tin tặc từ tám hay chín năm nay nhưng vẫn luôn tỏ ra hữu hiệu. Chỉ cần tạo ra một web giống hệt cái web chính thức của một công ty lớn, nhưng chỉ khác một chi tiết nhỏ, ví dụ như dư một chữ. Rồi những người khách hàng lơ đãng tưởng mình đang vào trang chủ của ngân hàng quen thuộc của mình thì tự ý đưa ra địa chỉ rồi mật khẩu của mình… ... Mời các bạn đón đọc Cửa Mật của hai tác giả Christine Kerdellant & Éric Meyer.
Luật Giang Hồ - Jeffrey Archer
Câu chuyện xảy ra vào năm 1993. Ðịa điểm là Washington DC. Tổng thống Hoa Kỳ, Clinton thay thế George Bush. Ở London, Margaret Thatcher đã bị mất chức bởi đảng của chính bà. Ở Moscow, Gorbachev bị lật đổ bởi những thế lực mà ông không thể kìm chế. Những đối thủ trong chiến tranh vùng Vịnh, người sống sót duy nhất là Saddam Hussein. Và Saddam đang mưu tính một cuộc trả thù khiến Hoa Kỳ không còn có thể làm gì khác hơn là trả đũa. Với sự thông đồng của một trùm mafia, một tay làm giấy tờ giả giỏi nhất thế giới và một trong những phụ tá đặc biệt của Tổng thống Clinton, Saddam sắp đặt kế hoạch: âm thầm đánh tráo bản gốc Tuyên ngôn Ðộc Lập của Hoa Kỳ tại viện Bảo tàng lịch sử bằng một bản giả và dự định thiêu huỷ bản gốc tại Baghdad vào ngày Quốc khánh Mỹ, 4 tháng 7, với sự chứng kiến của các cơ quan truyền thông quốc tế. Mục đích là hạ nhục dân tộc Hoa Kỳ. Trong lúc âm mưu được tiến hành, chính phủ Hoa Kỳ không hề hay biết. Một nhân vật hoàn toàn không thích hợp vô tình bị lôi cuốn vào tấn kịch này: Scott Bradley, một giáo sư trẻ tuổi của trường Ðại học Luật Yale. được CIA giao một nhiệm vụ đơn giản là khám phá lý do một nữ nhân viên Mossad xinh đẹp được cài vào Ban lợi ích của Iraq trong toà Ðại sứ Jordan ở Paris, và bất ngờ khởi sự lần ra manh mối của âm mưu phi thường này. Một nhân viên Mossad và một giáo sư Yale có thể ngăn chặn được Saddam Hussein trước ngày Ðộc lập hay không? Câu hỏi này xin để Jeffrey Archer trả lời quý bạn đọc. Một điều kỳ thú khác: cho đến nay, trong toàn bộ tác phẩm của Jeffrey Archer bao gồm 11 cuốn tiểu thuyết, 5 tập truyện ngắn, 3 vở kịch và 2 hồi ký về nhà tù, đã có 9 cuốn tiểu thuyết và 3 tập truyện ngắn được xuất bản tại Việt Nam, tất cả đều được nhiệt liệt đón tiếp, nhất là cuốn “Hai Số Phận” đã được xuất bản, và cuốn cuối cùng “Song of Fortune” vừa mới được ấn hành trong năm 2003 và chắc chắn cũng sẽ được ra mắt ở nước ta trong nay mai. Jeffrey Archer sinh năm 1940 và theo học tại trường trung học Wellington ở Sommerset, rồi trường đại học Brasenose ở Oxford. Ông đã bắt đầu sự nghiệp văn chương từ năm 1974 với tác phẩm “Không Hơn Một Xu, Không Kém Một Xu”. Ông đã từng được đắc cử vào Hạ nghị viện Anh năm 1969, từ tháng 9 năm 1985 đến tháng 10 năm 1986 là Phó Chủ tịch đảng Bảo thủ. Ông có gia đình với hai người con. Ngày 30 tháng 01 năm 2004. BỒ GIANG N.N.T. *** Jeffrey Archer (sinh ngày 15/04/1940) là nhà văn người Anh và cũng là một chính trị gia. Ông từng là một thành viên Quốc hội (1969-1974), và Phó Chủ tịch Đảng Bảo thủ (1985-1986). Jeffrey Archer sáng tác cuốn tiều thuyết Hai số phận (có tên gốc tiếng Anh là Kane and Abel) vào năm 1979. Tựa đề “Kane and Abel” dựa theo câu chuyện của anh em Cain và Abel trong Kinh Thánh Cựu Ước. Tác phẩm được xuất bản tại Vương quốc Anh vào năm 1979 và tại Hoa Kỳ vào tháng 2 năm 1980 và cuốn sách đã được phổ biến trên toàn thế giới. Sách đạt danh hiệu sách bán chạy nhất theo danh sách của từ New York Times và năm 1985 nó được đưa lên chương trình truyền hình miniseries của CBS cũng với tên là Kane & Abel. *** Trong lúc chiếc xe cảnh sát dẫn đầu từ từ di chuyển ra khỏi lề đường, giàn đỡ máy quay phim của đạo diễn bắt đầu chạy thụt lùi cùng một tốc độ theo đường ray của nó. Những đám đông đứng sau phía rào cản bắt đầu hoan hô và vẫy tay. Nếu họ đang quay một cuốn phim thực thì đạo diễn đã lên tiếng bảo “Cắt” sau hai mươi giây bởi vì viên sĩ quan phối hợp ngu ngốc vẫn còn đứng giữa đường, tay chống nạnh, rõ ràng anh ta không phải là vai chính trong cuốn phim. Cavalli không để ý tới viên sĩ quan trong lúc y chú tâm vào con đường trước mặt. Y gọi điện thoại cho Andy, mà y biết vẫn còn ngồi trên ghế dài ở đường 7, đọc tờ Washington Post. — Đầu này không có việc gì nhiều, thưa sếp. Chỉ ở dưới cùng một đoạn đường dốc là hơi hoạt động một chút. Mọi việc phía ông suôn sẻ chứ, ông đang trễ đấy? — Vâng, tôi biết. Nhưng chúng tôi sẽ đến chỗ anh trong vòng sáu mươi giây, – Cavalli nói trong lúc viên đạo diễn tới cuối đường ray riêng và đưa một ngón tay cái lên không để ra hiệu cho những chiếc xe hơi giờ đây có thể tăng tốc độ lên bốn mươi cây số giờ. Johnny nhảy ra khỏi giàn đỡ máy và bước chân chậm trở lại đại lộ Pennsylvania để có thể chuẩn bị cho việc quay phim lần hai. Cavalli tắt máy điện thoại và hít vào một hơi thở sâu, trong lúc đoàn xe hộ tống qua đường 9; y chăm chú nhìn đài tưởng niệm FDR[30] được đặt trên một bãi cỏ phía trước lối vào Viện Bảo tàng. Chiếc xe hơi thứ nhất quẹo vào đường 7, chỉ còn lại một nửa khối nhà trước khi họ tới đoạn đường dẫn vào bục lên xuống hàng. Những chiếc mô tô dẫn đầu tăng tốc độ và khi đối diện với Andy đang đứng trên lề đường, chúng quẹo phải và chạy xuống đoạn đường dốc. Phần còn lại của đoàn xe hạ tống tạo thành một hàng dọc, đối diện ngay với cổng giao hàng, trong lúc chiếc thứ ba chạy xuống đoạn dốc tới tận bục giao hàng. ... Mời các bạn đón đọc Luật giang hồ của tác giả Jeffrey Archer.
Ảo Thuật Văn Chương - Alexandra Marinina
Đầu năm 1993, A. Marinina cho nữ thám tử Nastia Kamenskaya xuất hiện trong cuốn Hoàn cảnh đưa đẩy, tiếp đó trong Chơi trên sân lạ và Giấc mơ bị đánh cắp. Từ năm 1995, bà cho in trong tủ sách phổ biến “Mèo đen” của Nhà xuất bản EKSMO hai cuốn Serafim sáu cánh và Kẻ sát nhân miễn cưỡng. Thành công khiến nhà xuất bản này phải chạy đua với các đối thủ, tăng nhuận bút gấp bội để giữ được nhà văn ăn khách cho mình và mở ra cả một tủ sách riêng A. Marinina - nữ chúa truyện trinh thám. Từ đấy, với hàng loạt đầu sách Lò xo cho bẫy chuột, Hôm qua tôi đã chết, Đánh tráo đối tượng, Mặt nạ của người khác, Bộ mặt sáng sủa của thần chết, Ảo giác của tội lỗi, Khi thần thánh bật cười... hành trình điều tra phá án của Nastia Kamenskaya cơ hồ bất tận. Mỗi năm hai cuốn - đó là tốc độ sáng tác mà A. Marinina duy trì được trong nhiều năm, xây dựng nên hình tượng một nữ thám tử hoàn toàn chính diện: cực kỳ thông minh, can đảm và tinh tế. Truyện trinh thám của A. Marinina bắt đầu được đưa lên màn ảnh từ năm 1999. Đến nay đã có 12 quyển sách của bà được dựng thành phim. A. Marinina ký hợp đồng với nhà xuất bản nước ngoài năm 1997, từ đó sách của bà được dịch in bằng 20 thứ tiếng. Ở Việt Nam, các tác phẩm của tác giả được giới thiệu: Ảo thuật văn chương (Vũ Đình Phòng dịch, Nxb Thanh Niên, 2000), Giấc mơ bị đánh cắp (Nguyễn Văn Thảo dịch, Nxb Công An Nhân Dân, 2004)... *** Alexandra Marinina được gọi là Nữ hoàng trinh thám Nga. Ảo thuật văn chương là một trong những lác phẩm hay nhất của bà, mô tả hàng loạt vụ án li kì và bi thảm diễn ra xung quanh một tài năng văn chương bị buộc phải phục vụ cho lòng tham của một chủ xuất bản vô nhân đạo.  Nữ thám tử Nastia Kamenskaya - nhân vật xuyên suốt trong những tác phẩm của A. Marinina - được người Nga yêu mến không thua Hercule Poirot của nữ hoàng truyện trinh thám Anh Agatha Christie. Alexandra Marinina là bút hiệu của Marina Alexieva (cũng như “Kamenskaya” và “Nastia Kamenskaya” là hai thương hiệu đã được tác giả đăng ký độc quyền từ năm 2003). Sinh năm 1957 tại Lvov, sống ở Leningrad đến năm 1971 chuyển về Matxcơva, từ một cô học trò lớp chuyên Anh, Marina tốt nghiệp khoa luật Đại học Quốc gia Lomonosov, trở thành cán bộ nghiên cứu khoa học của Viện Hàn lâm thuộc Bộ Nội vụ Liên Xô. Nghiệp vụ khoa học hình sự giúp bà được bổ nhiệm phó trưởng ban nghiên cứu khoa học của Đại học Luật - Bộ Nội vụ Liên bang Nga. Đang đeo lon trung tá, năm 1998 bà xin giải ngũ để chuyên sáng tác. *** Colia đang say tình yêu, sau một thời gian dài sống cô đơn. Anh cảm thấy vô cùng sung sướng và muốn mọi người xung quanh cũng hạnh phúc như mình. Sau khi biết kết qủa thẩm định các mẫu đất, Colia phấn khởi, ngồi vào xe lao thẳng đến khu biệt thự “Mộng Mơ”. Anh chưa báo tin vui này cho Naxtia, vì biết tối nay chị đi ăn khách sạn với vợ chồng cậu em. Trong biên bản xét nghiệm có ghi rõ, chất đất trong phong bì số “1” (lấy được trên sàn nhà Trercaxov, dưới tấm thảm) có thành phần hoá học rất gần với chất đất trong phong bì số “3” (lấy tại ngôi nhà xây gần đây nhất trong khu biệt thự “Mộng Mơ”).   Lúc này đã hơn chín giờ tối, vậy mà Colia thấy Xoloviov đón tiếp anh với vẻ mừng rỡ, khác hẳn hôm anh đến đây lần trước. Hôm đó ông ta cau có làm anh rất bực. Vẫn như lần trước, Xoloviov khẳng định ban ngày hôm đó ông không nhận thấy có người lạ nào lảng vảng bên ngoài. - Tôi rất ít khi nhìn ra ngoài cửa sổ, - ông ta thú nhận giọng uể oải, khiến Colia thấy rõ ông ta không hào hứng tiếp chuyện mình. Rồi đột nhiên Xoloviov nói. - Tôi muốn nhờ anh một việc, được không ? - Việc gì ? - Theo tôi đoán, chắc anh đã có thẩm vấn cô Naxtia Camenxcaia. - Đúng thế, - Colia dè dặt đáp. - Tôi muốn nhờ anh giúp tôi bắt liên lạc với cô ấy. Tôi có số điện thoại nhà riêng của cô ấy, nhưng tôi gọi bao nhiêu lần mà không thấy ai nhấc máy. Số điện thoại nơi cô ấy làm việc tôi lại không có. Anh có thể cho tôi biết số điện thoại đó được không ? - Theo tôi đoán thì hai vợ chồng cô ta hiện đang đi nghỉ hè, hẳn thế thì mới không có ai nhấc máy trả lời ông. Còn số điện thoại nơi cô ấy làm việc, tôi không thể cho ông được, bởi tôi chưa biết cô ấy có muốn cho ông biết không. Tôi không có quyền can thiệp vào việc riêng của người khác. - Vậy anh giúp tôi, anh chịu khó liên lạc với cô ấy và nhắn hộ là tôi rất cần gặp. - Có chuyện gì vậy  ? - Chuyện riêng tư thôi. Xưa kia tôi rất thân với cô ấy, và lúc này tôi rất cần sự chia sẻ của một người bạn... Sáng hôm sau, mới đầu giờ, Colia đã chạy vào phòng làm việc của Naxtia, giận dữ nói luôn: - Sao cô không cho Xoloviov biết cô đã thay số điện thoại nhà riêng ? - Nhưng tại sao tôi lại phải cho ông ta biết  ? - Vì ông ta mê cô. Gọi cô không biết bao nhiêu lần mà không thấy ai nhấc máy. Lúc đề nghị tôi giúp ông ta bắt liên lạc với cô, tôi thấy mắt ông ta rơm rớm... - Anh tưởng tượng thì có, Colia. Anh phóng đại lên đấy thôi. Và bản thân ông ta cũng phóng đại. Ngồi một mình cô đơn, tưởng tượng ra đủ thứ. - Nhưng cô không cố tình làm cho ông ta mê cô đấy chứ ? - Không ! Hoàn toàn không. - Nhưng dù sao cô cũng gọi điện cho ông ta, kẻo ông ta lại nghĩ không hay về tôi. - Nhưng tối qua anh đến ông ta làm gì  ? - Quên tôi chưa nói với cô: bên chuyên môn họ đã thẩm định xong hai mẫu đất, kết quả mẫu đất chúng ta lấy được trong căn hộ của Trercaxov đúng là từ khu biệt thự “Mộng Mơ”. Không chỉ chất xi măng mà cả chất đất cũng giống hệt nhau. ... Mời các bạn đón đọc Ảo Thuật Văn Chương của tác giả Alexandra Marinina.
Người Con Trai - Jo Nesbo
Sonny Lofthus là một tù nhân, một con nghiện ma túy. Ít ai biết trước cậu từng là một sinh viên ưu tú, một tay đấu vật đầy hứa hẹn, có người cha là một cảnh sát gương mẫu. Simon Kefas là một tay cảnh sát hết thời, mắc chứng nghiện cờ bạc. Khi còn trẻ ông bắt đầu sự nghiệp với hai người bạn thân và lập nên nhóm tam hùng lừng lẫy. Hai con người, hai hành trình đi tìm công lý riêng biệt nhưng cuối cùng lại giao nhau tại một điểm. Càng tiếng gần đến sự thật, Sonny và Simon càng cảm nhận rõ hơn một thế lực bóng tối đã bao trùm lấy toàn bộ cuộc đời họ ngay từ những ngày đầu tiên… Người con trai đánh dấu sự trở lại mới mẻ của Jo Nesbø, với kết cấu dày đặc những hệ thống tội phạm, hệ thống điều tra được lồng ghép chặt chẽ trong từng diễn biến, từng hành động của các nhân vật thông minh, đa sắc màu. Một lần nữa Jo Nesbø cho thấy ông thực sự là ông hoàng trong thể loại trinh thám Bắc Âu đang gây sóng gió khắp nơi trên thế giới. *** Jo Nesbo sinh năm 1960, là tác giả viết tiểu thuyết dành cho thiếu nhi và cho cả người lớn thành công nhất tại Na uy. Ông là một nhà văn, nhưng ông cũng là một nhà kinh tế học và ông đã làm việc như là một môi giới chứng khoán và nhà báo. Là một tác giả, ông đã viết cuốn sách 16 và tiểu thuyết ngắn. cuốn sách 9 của ông có một loạt về cảnh sát Harry Hole và 3 trong số họ là một loạt các cuốn sách của trẻ em. Ông đã giành được nhiều giải thưởng cho các thành tựu của ông là một nhà văn.. *** Rover cứ dán mắt nhìn sàn bê tông sơn trắng trong gian xà lim mười một mét vuông. Gã cắn xuống cái răng cửa bọc vàng hơi dài ở hàm dưới. Gã đã đến chỗ nặng nề nhất trong lời xưng tội. Âm thanh duy nhất trong xà lim là tiếng móng tay gã cào cào hình xăm Đức Mẹ trên cẳng tay. Cậu thanh niên ngồi xếp bằng trên giường đối diện vẫn im lặng từ lúc Rover vào. Cậu ta chỉ gật đầu và mỉm cười an nhiên như Đức Phật, cái nhìn dồn vào một điểm trên trán Rover. Người ta gọi cậu ta là Sonny và nói hồi còn trẻ cậu ta đã sát hại hai mạng người, cha cậu ta là một cảnh sát tha hóa và Sonny có đôi tay chữa bệnh. Khó mà chắc cậu ta có lắng nghe hay không, đôi mắt xanh lá và gần hết khuôn mặt cậu ta khuất sau mái tóc rối dài, nhưng chuyện đó hề gì. Rover chỉ muốn được tha tội và Sonny ban phúc lành để ngày mai bước ra khỏi Nhà tù An ninh Tối đa Staten gã cảm thấy mình là một con người đã hoàn toàn được thanh tẩy. Chẳng phải Rover ngoan đạo nhưng cũng chẳng hại gì khi gã có ý sửa đổi, thực bụng muốn hoàn lương. Rover hít một hơi thật sâu. “Tôi nghĩ cô ta là người Belarus. Minsk là ở Belarus, phải không nào?” Rover liếc nhanh lên, nhưng cậu thanh niên không đáp. “Nestor đặt biệt danh cô ta là Minsk,” Rover nói. “Hắn lệnh cho tôi bắn cô ta.” Lợi ích thấy rõ của việc thú tội với kẻ đầu óc phê thuốc là chẳng còn cái tên hay sự kiện nào bám lại trong cậu ta; y như mình tự nói với mình. Có lẽ điều này giải thích vì sao phạm nhân ở Staten thích anh chàng này hơn cha tuyên úy hay bác sĩ tâm lý. “Nestor nhốt cô ta cùng tám đứa con gái nữa trong một cái chuồng ở tận Enerhaugen. Người Đông Âu và châu Á. Trẻ. Thiếu nữ. Ít ra thì tôi cũng hy vọng chúng cỡ tuổi đó. Nhưng Minsk thì lớn tuổi hơn. Mạnh hơn. Cô ta trốn thoát. Chạy đến tận công viên Toyen rồi chó của Nestor mới đuổi kịp. Giống chó lớn tai cụp Argentina - biết tôi đang nói gì không?” Mắt cậu thanh niên không hề máy động, nhưng cậu ta đưa tay lên. Sờ chòm râu. Mấy ngón tay bắt đầu thong thả chải. Cánh tay áo sơ mi cáu bẩn, rộng thùng thình tuột xuống để lộ những vảy vết thương và dấu kim tiêm. Rover nói tiếp. ... Mời các bạn đón đọc Người Con Trai của tác giả Jo Nesbo.