Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đại Đường Nê Lê Ngục

Trăng sáng giữa trời chiếu xuống cây ngô đồng, in bóng vào cửa sổ khiến cành cây giống như sừng rồng. Có lẽ ngày xưa Thôi phán quan đã treo cổ trên chính cành cây này. Bóng cành cây trên cửa sổ lay động trong gió, trông như phía dưới có người treo cổ tự sát, thi thể đung đưa, lắc qua, lắc lại… Đây mới chỉ là khởi đầu khi cao tăng Huyền Trang đặt chân đến huyện Hoắc Ấp. Nơi đây đang có một âm mưu hết sức kỳ quái. Ma trong huyện nha không phải ma. Người vạch kế lại không phải người. Miếu phán quan trở thành đất hung tà. Chùa Hưng Đường như hang hổ hang sói.  *** Bộ sách 81 Án Tây Du gồm có: Đại Đường Nê Lê Ngục Tây Vực Liệt Vương Ký Đại Đường Phạm Thiên Ký Đại Đường Đôn Hoàng Biến *** #review KHÔNG SPOIL ~ 81 ÁN TÂY DU (Đại đường Nê Lê Ngục) người review Camellia Phoenix Tác giả: Trần Tiệm. Dịch giả: Losedow Thể loại: Trinh thám cổ đại TQ Đánh giá: Xuất sắc Sau bộ Trâm, bộ Liên Hoa Lâu và “Nữ ngỗ tác họa cốt”, Biển vẫn chờ để gặp được một bộ trinh thám cổ đại hay tương tự như vậy. Cứ đọc sách cũ hoài nên lâu lâu tự thưởng cho mình quyển sách mới tinh, thế là phát hiện một câu chuyện còn hay hơn cả Liên Hoa Lâu. Biển xếp “81 Án Tây Du – Đại Đường Nê Lê Ngục” là sách hay nhất đọc trong tháng 10/2018 và là một trong những quyển sách ưa thích nhất của mình. Bối cảnh câu chuyện diễn ra ở đời Đường phồn hoa thịnh thế, Lý Thế Dân đang cai trị, lấy niên hiệu là Trinh Quán – nghĩa là dẹp yên thiên hạ, mở rộng chính đạo. Nhà sư Huyền Trang đã một lần dâng biểu xin đi Tây Trúc thỉnh kinh nhưng vì biên cương còn loạn lạc nên nguyện vọng của ngài chưa được chuẩn tấu. Trước khi dấn thân vào chuyến vân du không biết khi nào trở lại, Huyền Trang muốn truy tìm tung tích nhị ca là Trần Tố, xuất gia chùa Tịnh Thổ ở Lạc Dương với pháp danh Trường Tiệp, đã giết sư phụ Huyền Thành rồi bỏ trốn, sau đó còn dùng lời lẽ yêu mị xúi giục Huyện lệnh Hoắc Ấp là Thôi Giác treo cổ tự vẫn. Manh mối đưa đến huyện Hoắc Ấp, tại đây Huyền Trang được nhờ chữa bệnh cho phu nhân của tân Huyện lệnh Quách Tể. Chưa ở lại nội trạch của Quách Tể được một ngày thì Huyền Trang đã mấy lần gặp nguy hiểm tính mạng, vì vậy quyết định cùng người hầu Ba La Diệp đến chùa Hưng Đường cách huyện Hoắc Ấp vài dặm đường để trú lại. Những sự kiện thần bí cứ liên tục xảy ra xung quanh khiến Huyền Trang không thể không nghĩ rằng mình đang vướng vào một âm mưu rất lớn nào đó... Trong phần 1 của “81 Án Tây Du”, những độc giả từng say mê “Tây Du Ký” sẽ được thấy một Huyền Trang rất mới mẻ khác biệt, dùng tư duy của một vị cao tăng nhiều năm nghiên cứu kinh luận để làm thám tử, thật là đặc sắc! Ngài luôn bình tĩnh (có lúc cười nhạt lạnh lùng), suy luận nhạy bén, ý chí sắt đá và can đảm có thừa, không hề giống nhân vật Đường Tăng yếu yếu đuối đuối cứ phải trông chờ sự bảo vệ và giải cứu của Tôn Ngộ Không. Tác giả Trần Tiệm cũng không tả nhân vật của mình anh tuấn tiêu sái mỹ mạo tuyệt luân như trong những truyện TQ khác, tuy vậy Huyền Trang vẫn được khắc họa rất rõ nét qua suy nghĩ của các nhân vật khác về ngài: “… vị hòa thượng trẻ tuổi thoạt nhìn ngu ngơ ngốc nghếch này có lòng dạ thâm trầm, ý chí kiên cường, ánh mắt nhạy bén, rất dễ khiến người khác thấy khó xử. Dường như ở trước mặt ngài, người nào cũng không thể che giấu điều gì, dường như hết thảy sự vụ trên đời đều hiển hiện rõ trong đôi mắt từ bi mà bình thản của ngài”. Còn nhiều đoạn tả hay hơn nữa nhưng Biển để dành cho các bạn tự đọc và thưởng thức. Vị mỹ nữ Lục La trong truyện khiến Biển nhiều lần nghĩ đến Tử Tây trong “Ngọc xuyến án”. Cùng là thiếu nữ mà hai người một trời một vực, cách biệt không tưởng. Tử Tây xuất thân bần hàn nhưng duyên dáng tinh tế, hiểu người hiểu chuyện, còn Lục La bất kỳ lời nào hành động nào cũng khiến Biển ê buốt cả răng, chỉ hận không thể bỏ qua những đoạn có nàng để đọc tiếp! Tuy hoàn cảnh và cuộc đời Lục La quả thật đáng thương nhưng Biển nghĩ nàng có thể lựa chọn một tâm thế hoàn toàn khác để quyết định số phận của mình. Dù sao thì “một gáo nước chứa ba ngàn phù du, trong hạt cát có thế giới vô tận”, giữ chấp niệm quá sâu thì kẻ đau khổ nhất vẫn là chính mình. Dù đọc truyện với một tấm lòng hết sức trong sáng vô tư nhưng Biển vẫn nhìn ra chút hint đam mỹ giữa Huyền Trang và Ba La Diệp: tên người hầu Thiên Trúc này nhiều lần bảo vệ che chở, thậm chí là cứu mạng Huyền Trang; còn vị cao tăng này lúc gặp nạn ngã lên người Ba La Diệp thì tay chạm đâu không chạm lại cứ phải chạm trúng điểm nhạy cảm (kaka). Nhưng nghiêm túc mà nói thì Biển nghĩ tác giả không cố tình đưa hint đam mỹ vào, chỉ viết như vậy để tăng thêm độ thú vị cho câu chuyện thôi. ____ Chi tiết cảm động nhất trong truyện là khi một nam nhân vai năm tấc rộng thân mười thước cao, là dũng tướng nơi sa trường giết giặc như rạ lại bằng lòng yêu thương một góa phụ, sau lại bằng lòng thả cho góa phụ đó - cũng là thê tử của mình - chạy trốn cùng tình lang. Đối với Biển, đoạn ấn tượng nhất trong truyện là: “Trời đất bao la, phu nhân của lão tử là lớn nhất! Kẻ nào dám tổn thương phu nhân của lão tử, dù có to lớn đến đâu lão tử cũng một đao chém thành hai đoạn!”. Vẫn biết đó chỉ là nhân vật trong sách, nam nhân như vậy không thể tồn tại ngoài thực tế, nhưng đôi lúc đọc được những chi tiết ngôn-tình-giả-tưởng như vậy thì vẫn có thể mỉm cười. Tuy biết không được xem nhẹ tài trí của người xưa nhưng những cơ quan mật đạo được miêu tả trong “81 Án Tây Du” quả thật hơi hoang đường: xây những “buồng thang máy” bằng gỗ chạy bằng sức gió + nước để lên xuống núi, hoặc lắp ròng rọc để di chuyển cả những công trình nặng hàng trăm tấn… Tuy nói là hơi hoang đường nhưng trong lúc đọc vẫn không thấy có điểm nào vô lý, chỉ thầm tán thưởng đầu óc của tác giả Trần Tiệm đã tưởng tượng ra và dùng bút lực trác tuyệt để diễn tả lại tất cả những khung cảnh hoành tráng đó. Truyện không có những đoạn khiến người đọc phải cười lăn lộn nhưng vẫn có thể cảm nhận sự hài hước ngấm ngầm, làm dịu đi những yếu tố đáng sợ. Đọc truyện mà Biển nhớ đến bộ phim hoạt hình 3D TQ từng xem là “Họa giang hồ chi bôi mạc đình” và “Họa giang hồ chi bất lương nhân”. Nay mới biết “Bất lương nhân” là một tổ chức tình báo – sát thủ do Lý Thế Dân sáng lập ra. Trong bộ Trâm từng có câu “Nhất thế Trường An”, trong quyển “81 Án Tây Du” này cũng nhiều lần miêu tả Trường An như một “kinh đô ánh sáng”. Biển thắc mắc không biết thành phố này hoa lệ cỡ nào mà được nhiều người ca ngợi nên đã tìm hiểu được chút thông tin sau: “Trong thời hoàng kim của mình, Trường An từng là thành phố lớn nhất và đông dân nhất thế giới. Dưới thời nhà Đường, kinh đô Trường An là thành phố đông dân nhất bấy giờ” (theo wikipedia). Đây là lần đầu Biển đọc truyện TQ chứa đựng rất nhiều điển tích lịch sử Trung Hoa mà không chán, đọc nhiều kiến thức Phật pháp mà không buồn ngủ, thậm chí còn hiểu biết thêm nhiều điều mới lạ. Từng câu từng chữ trong quyển sách dày này đều như châu như ngọc, xứng đáng nuốt vào bụng, thu vào tâm. Trong thời gian ngắn (khoảng 11 tiếng) liên tục đọc khá nhiều từ Hán-Việt khiến Biển hơi choáng váng, tuy nhiên vì thích sử dụng từ Hán-Việt nên đã cố gắng đọc và ghi chú lại. Quyển “81 Án Tây Du - Đại Đường Nê Lê Ngục” có thiết kế bìa rất đẹp, giấy sạch chữ rõ, đặc biệt KHÔNG CÓ một lỗi chính tả hay lỗi đánh máy nào. Tuy được biết dịch giả Losedow đã nổi danh trong giới dịch thuật nhưng Biển vẫn xin phép khen ngợi phần chuyển ngữ của bác ấy trong quyển sách này, đọc vô cùng mượt mà dễ hiểu, những đoạn giữ nguyên từ Hán-Việt thì tao nhã thi vị. Mọt sách đọc được quyển sách hoàn hảo cũng giống như người sành ăn được thưởng thức món ăn ngon lành tinh tế. Cuốn sách khổ lớn 542 trang này sẽ là một tuyệt phẩm đối với các bạn thích thể loại trinh thám cổ đại, riêng Biển thì đọc xong sẽ đem tặng. Cái gì mình yêu thích mà không sở hữu được thì sẽ càng thương nhớ nó nhiều hơn. (Sea, 18-10-2018) P.S.1: Truyện có đề cập đến cách cứu người chết đuối rất hay ho, không rõ có thể áp dụng ngoài thực tế không. *** LỜI DẪN 1 Đại Đường, năm Vũ Đức thứ tư, Ích Châu, chùa Không Tuệ. Vạt tăng bào của hòa thượng quét qua thềm đá phủ rêu xanh, thanh giới đao dài ba xích cọ lên nền đá xanh phát ra âm thanh chói tai. Ánh nắng rực rỡ, bên trong thiền phòng dường như vắng vẻ không người, chỉ có tiếng chim hót từ xa xa vọng lại. Giới đao là đao của tăng nhân, một trong những dụng cụ được mang theo bên người sau khi xuất gia. Theo giới luật chỉ cho phép dùng để cắt quần áo, không được dùng để sát sinh. Do sử dụng hạn chế, nên gọi là “giới đao”. Một xích bằng mười thốn, xấp xỉ 33,33 centimet. Tuy nhiên khi hòa thượng bước lên thềm đá, bên trong thiền phòng lại vang lên một tiếng thở dài già nua: “Trường Tiệp, tuy là gây chuyện giết người, mặc dầu cũng là mở tâm bồ đề, nhưng nếu giữ niệm sát nhân, con sẽ phải chịu đọa sinh vào cõi thấp.” Hòa thượng khẽ run lên, tay cầm giới đao, chậm rãi mở cửa bước vào. “Cuối cùng con vẫn nhất định phải xuống tay sao?” Lão tăng ngồi xếp bằng trên bồ đoàn, mỉm cười nhìn hắn. Nước trào qua khóe mắt, hòa thượng nâng giới đao trong tay lên, đờ đẫn nói: “Thanh đao này, đệ tử đã ngâm dưới suối sâu ba đêm, mặt đao bọc ba ngàn phù du, lại phơi nắng ba ngày, trên phủ thêm phật quang trăm thước. Nay đến để đưa tiễn sư phụ.” Lão tăng chỉ mỉm cười nhìn hắn, nét mặt tỏ rõ nỗi niềm thương tâm không kìm nén được: “Sau hôm nay, đối với lão nạp mà nói, không ngoài một cái chết mà thôi, công đức toàn vẹn, mọi ác nghiệp đều được tịnh trừ. Ba cõi giới trong trần đời thế tục cũng coi nhẹ như không, không để lọt vào trong mắt nữa. Nhưng con, sau hôm nay, thần phật chư thiên sẽ không còn ban phúc cho con, người đời và thân hữu sẽ không còn tán tụng con, thiên hạ Đại Đường này sẽ không còn nơi sống yên ổn cho con. Giới luật trong lòng con cũng theo đó mà sụp đổ, cả đời con sẽ phải ẩn nấp trong bóng tối, trốn tránh nội tâm của chính mình. Đường tu hành của con sẽ vĩnh viễn không thể viên mãn, sau khi chết bị đày xuống Nê Lê đại địa ngục A Tì, chịu ức vạn kiếp khổ, vô cùng vô tận… Những điều này con có thể chịu đựng được không?” Trong “Thập Bát Nê Lê kinh”, đại địa ngục A Tì là ngục thứ mười ba - Huyết Trì địa ngục là ngục nặng nhất. Đối chiếu với “Bát đại địa ngục/ Bát nhiệt địa ngục” thì đại địa ngục A Tì được xét là một khám lớn, phân tách thành mười sáu địa ngục nhỏ hơn, trực thuộc Vô gián địa ngục. A Tỳ nghĩa là không xen hở, không gián đoạn. Đây chỉ cho cảnh giới địa ngục đau khổ nhất, trong ấy tội nhân bị hành hạ liên tục. “Đệ tử…” Mồ hôi lạnh chảy ròng ròng trên trán, nhưng hòa thượng vẫn cắn răng nói: “Đệ tử dù chết chín lần cũng không hối hận.” “Chết là chuyện đơn giản nhất!” Lão tăng lắc đầu, thở dài một tiếng: “Có lẽ đây chính là đường tu hành của con! Tay không, cầm cán cuốc. Đi bộ, ngồi lưng trâu. Trên cầu người đi lại. Cầu trôi, nước chẳng trôi*. Ôi…!” Trích “Cảnh Đức truyền đăng lục - Quyển 27 - Đại sĩ Thiện Tuệ”. Toàn bộ bài thơ này, kỳ thực là điều hòa mâu thuẫn, hướng tới “Tính Không”, chỉ cần thuyết minh một chữ “không” thôi, cũng đã bao hàm toàn bộ vũ trụ vạn hữu rồi. Nghĩa là “không tức thị sắc, sắc tức thị không”. Hát xong bài kệ, lão tăng từ từ nhắm mắt lại, tựa như nhập định. Hòa thượng đột nhiên không cầm được nước mắt, quỳ rạp xuống khóc lớn, sau đó giới đao trong tay vung lên, máu bắn cao ba thước, đầu lão tăng đã rơi xuống đất. Giới đao rơi xuống đất kêu leng keng. Trong một khoảnh khắc này, trên mặt hòa thượng dính đầy máu tươi, lại thoáng lộ ra vẻ nanh ác. Hắn dùng vạt tăng bào bọc lấy đầu lão tăng, loạng choạng đứng dậy, lê từng bước rời khỏi thiền đường. Thiền đường cổ ngàn năm, bậc đá xanh trăm tuổi, xuất hiện một vệt máu tươi chạy dài… *** LỜI DẪN 2 Đại Đường, năm Vũ Đức thứ sáu, đạo Hà Đông, huyện Hoắc Ấp. Đạo là một đơn vị hành chính cổ dùng để phân chia địa giới, tương đương với tỉnh ngày nay. Huyện nha nằm ở phía đông thành, trước mặt là đường cái quan, lúc nào cũng đông đúc, huyên náo. Cửa nha môn dựng ở hướng nam, hai bên tường xây mở chéo theo hình chữ bát, trên tường dán đủ các loại thông cáo, theo thời gian dầm mưa dãi nắng, chất giấy cũng mục nát, nhòe mực nhìn không ra chữ, một cơn gió thổi qua, mảnh giấy nát bung ra khỏi mặt tường, bị gió cuốn bay đi mất. Hoắc Ấp là trọng trấn của Hà Đông, muốn một đường vượt sông Hoàng Hà, theo từ bến Bồ Châu đến Thái Nguyên, nhất định phải đi qua chốn này, nơi đây dân ngụ cư đông đúc, khách buôn tấp nập, huyện thành náo nhiệt vô cùng. Hoàng hôn hôm đó, trong dòng người đông vui tấp nập trên đường cái, một hòa thượng đi giày rơm, mặc sa y màu xám từ xa đi tới. Trong tay hòa thượng cầm một chiếc mõ bằng gỗ đàn hương đỏ, tay kia cầm dùi gỗ gõ mõ theo nhịp tụng, tiếng mõ phát ra nhàn nhã, xa xăm, rất không hài hòa với sự huyên náo trên phố lớn. Hòa thượng này đi đến bên ngoài bức tường kè theo hình chữ bát của huyện nha, liếc nhìn chiếc trống kêu oan kê trên bậc thềm, nhưng không tới gõ trống mà bỗng mỉm cười, có phần kỳ quái, vừa gõ mõ vừa cất bước đi lên bậc thềm. Trên công đường, huyện lệnh Hoắc Ấp - Thôi Giác, ngồi nghiêng người trên tấm thảm lông cừu nền đỏ thêu hoa, lật xem chỗ công văn đặt trên án kỷ. Bỗng dưng nghe thấy có tiếng ồn ào ngoài cửa, cùng tiếng gõ mõ đều đều bên tai. “Có chuyện gì thế?” Thôi Giác bực mình hỏi. Vị huyện lệnh này tuổi mới hai mươi tám, tướng mạo nho nhã, trên mặt thoáng ý cười cười nhàn nhạt. Dù mặc áo quan màu xanh, đội mũ cánh chuồn cũng không có vẻ uy nghiêm khí phách mà có phần phiêu dật, rất ra dáng danh sĩ thời Ngụy - Tấn. Ngoài cửa có một gã tư lại chạy vào báo: “Khởi bẩm đại nhân, bên ngoài nha môn có một gã hòa thượng muốn xông vào, nhất quyết đòi gặp ngài. Hạ quan nói đại nhân đang xử lý công vụ, sẽ vào báo lại sau, nhưng hắn lại gõ mõ rất to.” Danh từ cổ chỉ chức quan coi việc bắt giặc cướp. Sau chỉ chức quan nhỏ. Còn gọi là thư lại. Tư lại này còn chưa nói xong, trong tiếng mõ, một tiếng phật kệ vang lên: “Một bát cơm ngàn nhà, thân vượt vạn dặm xa. Chỉ vì chuyện sinh tử, xin độ pháp ngày qua.* Tri phủ đại nhân anh minh, bần tăng vượt vạn dặm xa xôi đến đây, cốt chỉ mong được gặp đại nhân để hóa duyên.” Bài thơ ca ngợi Đức Phật Thế Tôn, qua hình ảnh người khoác y áo đơn sơ, tay chỉ cầm một chiếc bát mộc, nhưng dáng vẻ lại thanh thoát, vân du tự tại đi hóa độ chúng sinh. Thôi Giác cười: “Vị hòa thượng này xem chừng cũng thú vị đây, mời vào!” Hòa thượng được sai dịch dẫn lối, vẻ mặt bình thản đi vào công đường, cũng không cần mời đã khoanh chân ngồi xuống đối diện với Thôi Giác. “Đại sư pháp hiệu xưng hô thế nào?” Thấy hòa thượng này ngông cuồng, Thôi Giác cũng không đứng lên, chỉ lạnh nhạt hỏi. “Pháp hiệu là gì?” Hòa thượng trợn mắt, lạnh lùng nói: “Lòng chỉ cầu một cơ duyên đối trước Phật, cần chi đến danh hiệu chốn trần gian nhơ nháp này đây.” “Ơ?” Lúc này Thiền tông còn chưa phát triển rộng rãi, Tịnh độ tông vẫn là tông phái tu chính ở Đại Đường, chưa có nhiều hòa thượng nói chuyện kiểu này. Thôi Giác cảm thấy rất mới lạ, mỉm cười hỏi tiếp: “Đại sư từ đâu đến? Định đi tới nơi đâu?” Tịnh độ tông là một pháp môn quyền khai của Phật giáo, do Cao tăng Trung Quốc Huệ Viên sáng lập. Mục đích của Tịnh độ tông là tu học nhằm được tái sinh tại Tây phương Cực lạc Tịnh độ của Phật A Di Đà. Thiền tông là tông phái Phật giáo Đại thừa, sinh ra trong khoảng thế kỉ thứ VI, thứ VII, khi Bồ Đề Đạt Ma đưa phép Thiền của đạo Phật vào Trung Quốc cùng với sự hấp thụ một phần nào đạo Lão. Thiền tông quan tâm đến kinh nghiệm chứng ngộ, đả phá mạnh nhất mọi nghi thức tôn giáo và mọi lý luận về giáo pháp. “Từ trong thai mẹ đến, đi tới bình bát của Phật.” Hòa thượng đáp. Thôi Giác ngán ngẩm: “Vậy… đại sư đến tìm hạ quan có chuyện gì? Cần hóa duyên gì đây?” “Thứ bần tăng cần hóa, chỉ đại nhân mới có. Nên mới vượt đường xa vạn dặm mà đến, chỉ có điều không biết đại nhân chịu cho hay không thôi.” Hòa thượng nói, có phần ngạo mạn. Thôi Giác khẽ cười: “Hạ quan có thứ gì mà người khác không có?” “Cái mạng này của đại nhân!” Hòa thượng vừa cười vừa nói, nét mặt cổ quái: “Cái đầu trên cổ, túi da ngoài thân.” Thôi Giác mặt biến sắc, ngồi thẳng lên, dùng bộ dáng âm trầm lặng lẽ quan sát, đánh giá vị hòa thượng đang mỉm cười như trêu ngươi người khác kia: “Đại sư hẳn đang đùa ta thì phải?” “Trên đường tới đây, sương gió đã mài rách của bần tăng ba tấm sa y, đất vàng cào nát của bần tăng chín đôi giày cỏ.” Hòa thượng chậm rãi nói: “Chỉ có chiếc mõ trong tay bần tăng càng mài càng sáng, có thể chiếu rõ tâm bần tăng. Có phải là thật hay không, bản thân bần tăng nhìn thấy rất rõ.” Thôi Giác cẩn thận quan sát cho kỹ, thấy hòa thượng này tuổi áng chừng khoảng ngoài ba mươi, da mặt sạm đen, thô ráp, lộ rõ vẻ phong sương, sa y mặc trên người vá chằng vá đụp, rách nát như tàu lá chuối gặp mưa rào. Đôi giày cỏ đi dưới chân đã thủng cả đế, gót chân trực tiếp giẫm trên mặt đất. Đôi bàn tay với khớp xương to dài, vết chai sạn dày cộp. Xem ra quả thật đã đi vạn dặm đường, không phải đến đây nói đùa với mình. “Cái mạng này của hạ quan tại sao lại khiến đại sư cảm thấy hứng thú?” Tâm tình Thôi Giác dần ổn định lại, trên mặt thậm chí còn mang ý cười. “Đại nhân sinh năm Khai Hoàng Tiền Tùy thứ mười bốn, ba tuổi có thể đọc hiểu sách “Luận Ngữ”, bảy tuổi có thể làm văn thơ, tuổi tròn nhược quán đã nổi danh khắp Tam Tấn, văn chương thi phú được xưng tụng đệ nhất Tiền Tùy, người đương thời khen là con của phượng hoàng, vì vậy đại nhân lấy Phượng Tử làm hiệu. Có điều đại nhân số mệnh trái ngang, đường làm quan không được như ý. Sau khi thành danh, còn chưa kịp thi triển tài năng đã gặp lúc Tùy Dạng Đế ba lần viễn chinh Cao Ly, thiên hạ rối ren, dân chúng lầm than, đành phải vào núi lánh nạn, lánh một mạch năm năm. Đại nhân có cảm thấy chua xót vì chí hướng cao xa khó có thể thực hiện hay không?” Thời xưa đàn ông hai mươi tuổi đều làm lễ đội mũ (quán), xem như thành niên, nhưng cơ thể còn chưa có tráng kiện, tương đối niên thiếu, nên xưng là “nhược”. Năm 595 TCN, thời kỳ sơ khai của nhà Tùy, dưới sự cai trị của Tùy Văn Đế - Dương Kiên - Niên hiệu: Khai Hoàng (581 - 600), Nhân Thọ (601 - 604). Lời nói của hòa thượng gây nên sóng gió ngập trời trong lòng Thôi Giác, vẻ mặt bình thản dần chuyển sắc, nhợt nhạt hẳn đi, một hồi lâu sau mới lẩm bẩm nói: “Quả thật đúng như đại sư nói.” Hòa thượng cũng không để ý, tiếp tục nói: “Năm năm sau, đương kim hoàng thượng* dời Thái Nguyên, nghe nói đến tài danh của đại nhân nên mời làm quân sư ở lại trấn phủ. Đại nhân vốn cho rằng có thể tiếp tục thăng quan, thực hiện hoài bão của mình, không ngờ năm sau hoàng thượng đã khởi binh phản Tùy. Sau đó hoàng thượng lập nên Đại Đường, nếu không ngoài dự liệu, đại nhân theo hoàng thượng tiến vào Trường An, đến nay dù thế nào cũng là trọng thần trong triều. Nhưng đại quân tiến đánh xuống phía nam, phải qua Hoắc Ấp, đại nhân lập được công lớn, công này lại thay đổi cả cuộc đời đại nhân. Hoàng thượng bị ngăn trở, Thôi đại nhân ngài hiến kế bao vây dụ địch, đánh tan quân Tùy của Tống Lão Sinh. Thế là hoàng thượng lệnh đại nhân làm huyện lệnh Hoắc Ấp, trấn giữ vùng yếu địa. Đại quân của Tống Kim Cương áp sát dưới thành, đại nhân chỉ có ba trăm dân quân mà dám đánh úp ban đêm. Tướng phòng thủ Hoắc Ấp là Tầm Tương định đầu hàng địch, đại nhân liền dẫn theo hai gia nhân chạy tới phủ của hắn hành thích. Hoắc Ấp bị phá, đại nhân dẫn bách tính toàn thành chạy vào núi Hoắc tị nạn, ngay cả một hạt lương thực cũng không để lại cho quân địch. Sau khi Lưu Vũ Chu, Tống Kim Cương bị diệt, đại nhân cai trị Hoắc Ấp, người người không nhặt của rơi, đêm đêm không cần đóng cửa, bách tính ai ai cũng an cư lạc nghiệp. Ta muốn hỏi đại nhân, công lớn như thế, vì sao hoàng thượng đã trị vì bao nhiêu năm mà ngài vẫn chỉ là một huyện lệnh?” Tống Kim Cương vốn là thủ lĩnh một đội nghĩa quân hơn vạn người ở Dị Châu (nay là Dị Huyện, Hà Bắc) sau quy hàng theo Lưu Vũ Chu (một thủ lĩnh quân phản Tùy) dấy binh đánh nhà Đường. Danh tướng nhà Tùy, trấn thủ Hoắc Ấp khi quân nhà Lý tiến đánh xuống phía nam. Vốn ỷ thành cao, muốn tính kế dài chờ nhà Lý cạn lương thực mới diệt, nhưng bị Lý Uyên lừa, giả đánh thua rồi chạy, quân Tùy mắc bẫy bị bao vây, nhà Lý cho đồn Tống Lão Sinh đã chết, quân Tùy vì thế mà đầu hàng, Lão Sinh để mất thành nên tự sát. Tức Đường Cao Tổ Lý Uyên, niên hiệu Vũ Đức. Nghe hòa thượng này nói tỉ mỉ những chuyện mình đã trải qua suốt nửa cuộc đời, Thôi Giác không khỏi ngây ra như phỗng, tay nắm chặt một cuộn công văn, đến độ đốt ngón tay chuyển sắc trắng bệch: “Xin đại sư chỉ điểm!” Hòa thượng đột nhiên quát lên: “Bản tâm như lửa địa ngục thiêu đốt, dục vọng không mời gọi cũng tự đó mà khởi sinh. Ba ngàn cõi giới đầy phiền não, tựu trung lại cũng chỉ là một hố lửa hung hiểm mà thôi! Ngài mặc dù tướng mạo thư sinh, nhưng mắt ngài lại bùng cháy dã tâm và dục vọng trần trụi không hề che giấu. Trên đời này, không có cái gọi là mục đích cuối cùng, ngài vĩnh viễn không biết tự thỏa mãn, không biết điểm dừng. Thân là kẻ ngồi ở ngôi cao, nếu không biết mục tiêu mà ngài đeo đuổi là gì, sao hoàng thượng dám tin dùng ngài đây?” Thôi Giác chấn động, nhất thời rơi vào trầm tư. “Ha ha, bần tăng sẽ chỉ cho ngài một con đường sáng.” Hòa thượng cười một tiếng quái dị: “Đại nhân chắc cũng biết, thế giới quỷ ma phương Tây tồn tại một cõi địa ngục Nê Lê?” “Địa ngục Nê Lê?” Thôi Giác thoáng lộ vẻ kinh ngạc. Hắn đã đọc qua kinh điển của các giáo, đương nhiên không cảm thấy xa lạ, vì thế gật đầu: “Theo cách nói của nhà Phật, địa ngục Nê Lê là một trong sáu đạo dục giới. Đạo Phật có ‘Thập Bát Nê Lê kinh’, nói con người sau khi chết, người làm nhiều việc thiện lên trời, người làm nhiều việc ác vào cõi Nê Lê. Nê Lê tổng cộng có mười tám tầng, tám nóng, tám lạnh, du tăng, cô độc. Có người gọi là Nê Lê, có người gọi là Nại Lạc Ca, cũng có người gọi nó là địa ngục.” Địa ngục, tiếng Hồ gọi là Nê Lê, tiếng Phạn gọi là Nại La Ca. “Nại Lạc” có nghĩa là người. “Ca” có nghĩa là ác. Người ác sinh ra ở nơi đó nên gọi nơi đó là Nại Lạc Ca. Do những con người ác đó lúc sinh thời đã gây ra những hành động cực kỳ tàn ác về thân, khẩu, ý cho nên phải tái sinh và tiếp tục ở cõi đó. Bởi vậy mới gọi là Nại Lạc Ca. Hòa thượng bấm ngón tay mỉm cười: “Cái danh Phượng Tử quả không phải ngoa truyền. Bần tăng nguyện đưa ngài tới Nê Lê một chuyến, đại nhân có chịu hay không?” Thôi Giác bàng hoàng kinh ngạc. “Có vua Nê Lê tên là Viêm Ma La muốn mở ngục Nê Lê ở Đông Thổ, quản lý luân hồi của Nê Lê, xét xử thiện ác của lục đạo, bây giờ còn thiếu một phán quan. Trí tuệ của đại nhân có thể coi là có một không hai ở Đông Thổ, đôi mắt có thể nhìn thấu lòng người, trăm họ ở Hoắc Ấp đồn rằng đại nhân tra xét thiện ác chưa từng sai lầm, tâm của mười vạn bách tính Hoắc Ấp xét ra vẫn còn thua, thua xa trái tim có bảy lỗ* của đại nhân đây. Nê Lê dơ bẩn, là nơi quy tập tội ác của nhân gian, vừa lúc có thể mượn nghiệp hỏa vô minh ngàn trượng của đại nhân để đè ép tà uế. Không biết ý đại nhân thế nào?” Ý chỉ người thông tuệ, có lương tâm thuần chất. Tương tự với Tỷ Can trong “Phong thần diễn nghĩa” sở hữu “thất khiếu linh lung tâm”. Hòa thượng cười nhạt, trong mắt rực lên tia sáng quái dị. “Bản quan… ta… “ Thôi Giác nghẹn lời, mồ hôi trên trán chảy xuống như mưa, lại không biết trả lời thế nào. “Uổng mang tài cao, tham vọng khó đạt. Nhân gian này đã không có duyên với đại nhân, ngục Nê Lê có lẽ là nơi để đại nhân thi triển khát vọng.” Hòa thượng cười ha hả: “Bần tăng dừng lời tại đây, duyên này có hóa hay không, đại nhân cứ tự mình suy nghĩ.” Dứt lời, hòa thượng cười to rồi rời khỏi huyện nha. Trời đã vào đêm, trong nha môn âm trầm u ám, chỉ còn tiếng mõ khoan thai xa dần. Đêm đó, huyện lệnh Hoắc Ấp Thôi Giác dùng một dải lụa trắng tự vẫn dưới gốc cây trước sân.   Mời các bạn đón đọc Đại Đường Nê Lê Ngục của tác giả Trần Tiệm & Losedow (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Ruồi - Hans Olav Lahlum
Tác phẩm trinh thám viết theo lối cổ điển này được xem như là một hiện tượng trong vài năm trở lại đây tại Na Uy. Nhưng đằng sau lớp vỏ trinh thám mật thất kinh điển là một câu chuyện có chiều sâu với các nhân vật được khắc họa đa chiều. Một đêm cuối năm 1968, thi thể của một người anh hùng chiến tranh được tìm thấy trong căn hộ chung cư của ông sau một tiếng súng nổ. Sau khi khoanh vùng đối tượng tình nghi, cảnh sát xác định hung thủ chỉ có thể là một trong những người hàng xóm ở cùng chung cư với nạn nhân. Từ đây, quá khứ của từng người được bóc tách dần dần, và tất cả đều cho thấy có mối liên hệ ít nhiều phức tạp với người quá cố. Ai là hung thủ? Động cơ gây án là gì? Những câu hỏi thường thấy sau vụ án mạng thứ nhất còn chưa được giải đáp thì một cái chết thứ hai xảy ra, cũng trong cùng chung cư, khiến tất cả mọi người rúng động… Trong câu chuyện, chúng ta lần đầu được làm quen với hình mẫu một cặp đôi thám tử điều tra khá thú vị. Thanh tra cảnh sát Kohljorn Kristiansen (biệt danh K2) trẻ tuổi và đầy nhiệt huyết là một người có khả năng quan sát rất tốt, nhưng óc suy luận của anh lại không được nhạy bén bằng. May mắn thay, mỗi khi anh rơi vào bế tắc thì lại nhận được sự giúp đỡ đắc lực từ Patricia Borchmann, một cô tiểu thư giàu có phải ngồi xe lăn sau một vụ tai nạn. Những gợi ý của Patricia giúp cho K2 giăi quyết được những khúc mắc của vụ án, nhưng ngược lại, việc phải gắn chặt với chiếc xe lăn khiến cô không thể trực tiếp đến quan sát hiện trường. Vì vậy, họ là một cặp đôi đầy thú vị, bổ khuyết cho nhau một cách hoàn hảo, dù không phải lúc nào cũng đồng tình với nhau. Một ưu điểm nữa của tác giả là khả năng tạo kịch tính. Đây là điều rất khó thực hiện với một câu chuyện được kể từ ngôi thứ nhất (góc nhìn của người phá án). Tuy nhiên, tác giả đã khéo léo để cho những suy luận sai lầm của K2 liên tục đánh lừa bạn đọc, khiến cho chúng ta bị bất ngờ hết lần này đến lần khác. Cảnh ấn tượng nhất trong truyện là đoạn đọc di chúc của người quá cố. Có cảm giác như đó là một sân khấu kịch bất đắc dĩ với những người hàng xóm buộc phải đóng vai người tử tế, nhưng rốt cuộc bản chất của họ vẫn lộ ra. Từ những cái liếc mắt, tiếng thở dài, cho đến vị trí ngồi của họ, tất cả đều là những chi tiết cực đắt và được gài cắm rất khôn khéo, đẩy xung đột lên đến đỉnh điểm khi bản chúc thư cuối cùng được công bố. Người ruồi là những con người không thể quên được quá khứ, nên dĩ nhiên tác phẩm này dành một dung lượng khá dài để ôn lại những ký ức vẫn còn nóng hổi về cuộc đại chiến thế giới thứ hai qua lời kể của những người hàng xóm. Đây là phần nội dung gây nhiều xúc động, đặc biệt là những tâm sự của vợ chồng người gác dan. Các bạn có thể thấy nó dài dòng không cần thiết, nhưng đừng hấp tấp bỏ qua nhé, nó chứa đựng một vài manh mối rất quan trọng của vụ án đấy. Tác giả khá tôn trọng luật công bằng của trinh thám suy luận cổ điển, nên bạn đọc có đầy đủ các dữ liệu để tìm ra hung thủ trước khi đọc những trang cuối. Vấn đề là bạn có đủ tinh ý hay không. Nói tóm lại, Người ruồi là một tác phẩm trinh thám lịch sử đáng đọc, đáng suy gẫm. Chúng ta hoàn toàn có thể bỏ qua những điểm còn chưa hoàn chỉnh của một tiểu thuyết đầu tay, và yên tâm về chất lượng của những cuốn tiếp theo trong series K2-Patricia này. *** Hans Olav Lahlum là một sử gia Na Uy, tác giả tội phạm, người chơi cờ vua và nhà tổ chức, và chính trị gia. Ông đã viết tiểu sử về Oscar Torp và Haakon Lie, và một cuốn sách lịch sử về tất cả các tổng thống của Hoa Kỳ.  Khi viết quyển tiểu thuyết trinh thám lịch sử này tôi đã vận dụng kiến thức và kinh nghiệm của một nhà sử học, và đã cố gắng hết sức chân thật trong ngữ cảnh liên quan đến các sự kiện vào năm 1968 và Thế chiến thứ Hai. Tuy nhiên, người viết quyển tiểu thuyết này dù sao cũng là nhà văn Hans Olav Lahlum, chứ không phải nhà sử học cùng tên vốn được biết đến nhiều hơn. Và tôi cũng sử dụng sự tự do nghệ thuật mà các tác giả vẫn thường xuyên sử dụng. Tên các địa điểm và những con phố là chính xác, nhưng hầu hết những tòa nhà được đề cập đều là sản phẩm của trí tưởng tượng. Do đó, độc giả đặc biệt quan tâm sẽ có thể tìm thấy cả hai con phố Krebs và Erling Skjalgsson, nhưng sẽ không có những số nhà hoặc tòa nhà được mô tả trong quyển tiểu thuyết này. Tương tự như vậy, không thể tìm thấy một đồn cảnh sát ở Salen với cùng địa hình xung quanh hoặc cùng một kiến trúc như đã được mô tả trong chương Chín. Một vài nhân vật phụ đã được lấy cảm hứng trực tiếp từ những nhân vật lịch sử. Còn lại, tất cả những nhân vật chính, bao gồm cả nạn nhân vụ án, ông Harald Olesen, hoàn toàn là sản phẩm tưởng tượng của tác giả và không dựa trên bất kỳ nhân vật lịch sử nào, dù là của năm 1968 hay trong Thế chiến thứ Hai. Và đối với một vài nhân vật phụ được lấy cảm hứng từ nhân vật lịch sử kia, phải nhấn mạnh rằng sự miêu tả văn chương không dựa trên bất kỳ liên quan nào với một cuộc điều tra hình sự. Vụ án Feldmann, vốn được đề cập ngắn gọn trong tiểu thuyết này, là một trường hợp pháp lý được bàn tán rộng rãi từ năm 1946 đến 1947, trong đó hai người cựu dẫn đường qua biên giới bị kết tội sát hại một cặp vợ chồng người Do Thái trong chiến tranh với lí do tự vệ. Việc này đã được sử dụng như cứ liệu lịch sử cho quyển tiểu thuyết này, nhưng không tương ứng với cốt truyện hay bất kỳ nhân vật nào. Tuy nhiên, một vài nhân vật được lấy cảm hứng hoàn toàn hoặc một phần từ những người mà tôi biết ngày hôm nay - kể cả bản thân tôi. Trưởng bộ phận tiểu thuyết của nhà xuất bản Cappelen Damm, Anne Tlotaker, đã là người cố vấn quan trọng nhất của tôi về cả nội dung và bút pháp của quyển tiểu thuyết này. Tôi cũng nhận được những phản hồi hữu ích từ nhà phụ trách xuất bản, Anders Heger và biên tập viên Marius Wulfsberg. Tôi cũng muốn gửi ngàn lời cảm ơn đến một nhóm những cố vấn cá nhân, những người đã đọc tất cả các phần của bản thảo và cho tôi những lời phê bình mang tính xây dựng về mặt nội dung và/hoặc ngôn ngữ. Nhóm này bao gồm em gái tôi Ida Lahlum, cùng những người bạn tốt của tôi: Ingrid Baukhol, Mina Finstad Berg, Ingrid Busterud, Anne Lise Fredlund, Kathrine Ncess Hald, Hilde Harbo, Kristin Hatledal, Bjarte Leer-Salvesen, Torstein Lerhol, Espen Lie, Ellisiv Reppen, Jane Iren Solbrekken-Nygard, Karen Thue, Arne Tjolsen và ICatrine Tjolsen. Ellisiv và Mina cũng xứng đáng được nhắc đến, đặc biệt do mối quan tâm liên tục của họ đến dự án này và sự giúp đỡ thiết thực của họ trong những lần sửa bản thảo cuối cùng. Chỉ có thời gian mới cho chúng ta biết liệu quyển tiểu thuyết trinh thám đầu tay này của tôi cũng sẽ là quyển cuối cùng hay nó sẽ khởi đầu của một chuỗi những tiểu thuyết trinh thám lịch sử. Tuy nhiên, tôi chỉ có thể hy vọng rằng Người Ruồi cũng sẽ hấp dẫn người đọc như nó đã từng lôi cuốn tác giả. Độc giả có bất kỳ bình luận hoặc câu hỏi nào cho tác giả chỉ cần gửi email đến địa chỉ [email protected] hoặc đăng chúng lên trang Facebook của tôi. Gjovik, 27 tháng 6 năm 2010 Hans Olav Lahlum Mời các bạn đón đọc Người Ruồi của tác giả Hans Olav Lahlum.
Bí Ẩn Quân Hậu Đen - Arturo Pérez-Reverte
Một bức tranh cổ với dòng chữ kỳ lạ ẩn sâu bên dưới lớp màu vẽ. Một ván cờ trải dài 5 thế kỷ cùng những âm mưu và lời tố cáo mã hoá trong những nước cờ.   Quis necavit equitem? - Ai đã giết hiệp sĩ?   Câu hỏi ám ảnh về số phận của người hiệp sĩ xa xưa nay đã sống dậy, không chỉ hé lộ một chuyện tình buồn của hơn 500 năm trước mà còn kéo theo những vụ ám sát tàn nhẫn đến lạnh sống lưng. Kẻ nào đang núp bóng quân hậu đen đưa ra những nước đi chết chóc nối tiếp ván cờ cổ năm nào - những nước đi đại diện cho những toan tính chết người ngoài đời thật?   “Một câu đố hóc búa đầy hấp dẫn - một ván cờ nằm trong một ván cờ ẩn trong một ván cờ khác - được dẫn dắt tới lời giải theo một con đường trúc trắc nhưng cuốn hút vô vàn.” - The Philadelphia Inquirer   “Đầy rẫy những nghịch lý và thách đố. Một bí ẩn mượt mà, công phu và tài tình đến điên rồ về cờ vua, cuộc sống và nghệ thuật.” - The New York Time Book Review *** Arturo Pérez-Reverte Gutiérrez là một nhà báo và nhà báo Tây Ban Nha. Ông làm việc như một phóng viên chiến tranh cho RTVE và là một phóng viên chiến tranh trong 21 năm. Mời các bạn đón đọc Bí Ẩn Quân Hậu Đen của tác giả Arturo Pérez-Reverte.
Tình Thế Hiểm Nghèo - Jonathan Kellerman
Lần nữa, chiều sâu tâm lý tội phạm và mặt trái đen tối của một thành phố hoa lệ đã góp phần tạo nên một tác phẩm xuất sắc của tác giả hàng đầu các sách bán chạy nhất của tờ New York Times - Jonathan Kellerman. Không ai có thể hiểu rõ về lĩnh vực rùng rợn này hơn là một văn sĩ, người "đã đưa các tiểu thuyết về bí ẩn tâm lý thành một hình thức nghệ thuật" (Theo Los Angeles Times Book Review). Và cũng không ai có thể chỉ đạo được một cuộc săn người nào đau đớn và hồi hộp hơn tiến sĩ Alex Delaware - Sherlock Holmes của tâm lý hiện đại. Một người phụ nữ trẻ tuổi ngà ngà hơi men đang tìm kiếm sự giúp đỡ trên con đường cao tốc vắng vẻ đã biến mất trong màn đêm tối đen như mực. Một giáo viên về hưu bị đâm đến chết giữa thanh thiên bạch nhật. Hai người phụ nữ bị giết chết sau giờ làm việc tại cửa hiệu làm đẹp trong một thị trấn nhỏ. Những hành động tàn nhẫn, biến thái và kỳ quặc này cùng vài điều khác nữa được liên kết lại với nhau chỉ duy nhất bằng cách thức kẻ sát nhân sử dụng các phương tiện di chuyển xa xỉ và sự thật đáng ngờ là hắn không hề có động cơ gây án. Như những câu chuyện trinh thám cực điểm, những tội ác này cần đến sự chú ý của thám tử Milo Turgis của Sở cảnh sát Los Angeles và cộng sự của ông trong những cuộc săn đuổi tội phạm - nhà tâm lý học Alex Delaware. Những chuyện bắt đầu từ vệt máu duy nhất trong một chiếc xe kín mui bị đánh cắp đã nhanh chóng bật mí theo hàng loạt các hướng kì lạ và bất ngờ, dẫn dắt Delaware và Turgis đi từ trung tâm của xã hội Los Angeles đến những góc cạnh điêu tàn của nó. Băng qua những con đường đầy những kẻ buôn bán đồ cũ và những đấu sĩ trong bộ quần áo phụ nữ, đến thành phố New York xa xôi, nơi cuộc điều tra đă làm tan chảy một vụ án vốn đóng băng đã lâu và vạch trần được một vụ án giết người kỳ lạ. Tên tội phạm tự thể hiện là một kẻ có thể nhanh chóng thay hình đổi dạng, thách thức mọi sự nhận dạng và để lại sau lưng những nhân chứng bàng hoàng cùng sự chết chóc. Còn Alex và Milo thì hào hứng đối đầu với bộ mặt thật của chứng cuồng sát. Những âm vang đầy mê hoặc, đầy quyến rũ và không chút nao núng mà chỉ có trong tiểu thuyết của Jonanthan Kellerman,Tình thế hiểm nghèođã thu hút sự chú tâm trọn vẹn ngay từ những tội ác hung hãn ban đầu cho đến kết thúc nghẹt thở của nó. *** Nhận định: "Một tác phẩm như chứa đầy chất kích thích." -People "Các tiểu thuyết của Jonathan Kellerman là một nỗi ám ảnh, một khi đã bắt đầu thì khó có thể dứt ra được." -Orlando Sentinel *** Tiểu thuyết gia Jonathan Kellerman sinh ngày 9-8-1949 tại Thành phố New York City, bang New York- Hoa Kỳ. Jonathan Kellerman xếp hạng nổi tiếng thứ 75314 trên thế giới và thứ 989 trong danh sách Tiểu thuyết gia nổi tiếng.  Jonathan Kellerman là một nhà tâm lý học người Mỹ, và tác giả đoạt giải Edgar và Anthony của nhiều tiểu thuyết hồi hộp bán chạy nhất. Tác phẩm của ông về tâm lý học bao gồm Savage Spawn: Những phản ánh về trẻ em bạo lực. Mời các bạn đón đọc Tình Thế Hiểm Nghèo của tác giả Jonathan Kellerman.
Tâm Nguyện Cuối Cùng - Lôi Mễ
Bản dịch mạng còn có tựa "Kẻ Tuẫn Tội", edit ThuTran. Theo dõi Tâm nguyện cuối cùng, người đọc vẫn nhận thấy một Lôi Mễ tỉ mỉ trong việc xây dựng cốt truyện với cấu trúc mê cung, truyện lồng truyện, bi kịch này nối liền lên bi kịch khác. Cô gái mất mẹ từ nhỏ cũng vào vụ án hai ba năm trước. Người cảnh sát già thời gian sống chỉ còn tính bằng ngày không có tâm nguyện nào hơn ngoài việc phá được vụ án hai ba năm trước bỏ ngỏ. Những sức ép cùng sự biến chất đến từ một bộ phận cảnh sát. Người đàn ông cô độc sống trong nhà tình thương bám víu vào nỗi đau quá khứ để tiếp tục sống những ngày cuối đời.... Vì vậy, dẫu sớm biết hung thủ là ai nhưng độc giả vẫn khó rời mắt khỏi trang sách bởi vẫn tầng tầng bí ẩn sau từng tình tiết. Và bởi tính đặc thù nghề nghiệp mà tác phẩm của Lôi Mễ không chỉ tỉ mỉ trong tình tiết mà còn tỉ mỉ trong tâm lý, cá tính nhân vật. Điều đó lần nữa được khẳng định ở Tâm nguyện cuối cùng với những lời thoại cùng sự phân tích nội tâm đi sâu vào ẩn khuất của nghề cảnh sát, tâm lý không những tội phạm còn của cảnh sát hay nạn nhân: “Điều khiến người ta ngạc nhiên là, Kỷ Càn Khôn không hề phản bác lại hắn. Sau khi suy nghĩ mấy giây, ông lại gật đầu ‘Mày nói đúng. Mày và tao, đều đáng chết’”. Nội dung, tình tiết của tác phẩm lớp lang, mạch lạc song lại không có nhiều đổi mới, thậm chí có phần dài dòng và có thể coi đây như một sự đuối sức của chính tác giả Lôi Mễ. Chất trinh thám tâm lý không “đậm đặc”, logic như Đề thi đẫm máu; chất hình sự bi thương lại chẳng thể với đến tầm Sông ngầm. Vẫn hình thức giết người liên hoàn quen thuộc nhưng vụ án không trọn vẹn của Lâm Quốc Đống vào hai mươi ba năm trước trong cuốn sách có quá nhiều “lỗ hổng”. Khác hoàn toàn với sự hoàn hảo không một kẽ hở từ thủ pháp gây án tới xóa dấu vết hiện trường trong năm đề thi được đánh dấu bằng máu tươi đỏ thẫm của Đề thi đẫm máu. Vẫn sự tha hóa, biến chất của một bộ phận cảnh sát song Tâm nguyện cuối cùng không đẩy sự tha hóa đó đến tận cùng như Sông ngầm. Và cái kết có phần quá viên mãn tựa cổ tích của cuốn tiểu thuyết: cái thiện chiến thắng hoàn toàn cái ác, không có hy sinh, đổ máu trong quá trình phá án chẳng đủ tạo nên sự ám ảnh như hy sinh đầy thầm lặng của bao bóng lưng người cảnh sát ở Sông ngầm. Ngoài ra, cách xây dựng nhân vật cũng mang quá nhiều “đặc trưng” đến từ dàn nhân vật nổi tiếng của Lôi Mễ trước đấy. Người đọc dễ dàng nhận ra bóng hình một Phương Mộc nhạy bén với vụ án nhưng cũng đầy đa cảm qua hình ảnh Ngụy Quýnh; một Hình Chí Sâm chí công vô tư qua Đỗ Thành hay kiểu nhân vật tội phạm có tâm lý vặn vẹo như Lâm Quốc Đống trong hình ảnh Giang Á, Tôn Phổ... Cuốn tiểu thuyết dài hơn 700 trang, nội dung phát triển với lối tự sự không mới, tình tiết nhiều phân đoạn dài dòng, cách xây dựng nhân vật đi vào lối mòn... Bởi thế, dẫu Tâm nguyện cuối cùng vẫn mang những nét hết sức đặc trưng vốn là điểm mạnh của Lôi Mễ như sự tỉ mỉ ở phát triển tình tiết, miêu tả tâm lý nhân vật – nhất là tội phạm và cảnh sát song cũng không thể phủ nhận, sự hụt hơi của ông ở tác phẩm này. *** Lôi Mễ là giảng viên một trường Đại học Cảnh sát của Trung Quốc. Do đặc thù nghề nghiệp, tác phẩm của anh rất chuyên nghiệp, cẩn mật, rất đáng để tìm đọc. Seri Tâm lý tội phạm khiến anh nổi danh như cồn, được độc giả đón nhận nồng nhiệt, các fan đều gọi anh là “thầy”. Hầu hết các nhà văn nổi tiếng thế giới thành danh ở thể loại trinh thám hình sự đều không xuất thân từ ngành công an. Lôi Mễ là một hiện tượng đặc biệt. Ở tuổi ngoài 30, anh là sĩ quan cảnh sát cấp phòng (sở), giảng dạy bộ môn Hình pháp học tại một trường cảnh sát trực thuộc Bộ Công an Trung Quốc. Lôi Mễ vào làng văn trinh thám hình sự hơi muộn so với nguyện vọng của mình. Ngay từ thuở nhỏ, anh đã tập tành viết sách nhưng phải đến năm 2006, anh mới xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên mang tên Độc giả thứ 7 và ngay sau đó là liên tiếp 3 tác phẩm: Đề thi đẫm máu, Cuồng vọng phi nhân tính và Sông ngầm. Dù số lượng chưa nhiều, chỉ với những tác phẩm trên, Lôi Mễ đã được xếp hạng trong số những nhà văn trinh thám hình sự nổi tiếng của Trung Quốc. Các tác phẩm trong Series Tâm lý tội phạm của Lôi Mễ: - Độc Giả Thứ 7 - Đề thi đẫm máu - Cuồng vọng phi nhân tính - Sông ngầm - Ánh sáng thành phố - Tâm Nguyện Cuối Cùng Mời các bạn đón đọc Tâm Nguyện Cuối Cùng của tác giả Lôi Mễ.