Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đông Lai Bác Nghị (Dương Tấn Tươi)

Nếu không có tài dàn xếp của bao sự ngẫu nhiên thì đâu có quyển Đông-Lai bác nghị nầy!

Đầu tiên, một vị túc nho của chốn Thần kinh, lúc tản cư vào Sài-thành, ngẫu nhiên đến trú ngụ cạnh phòng khám bịnh của chúng tôi. Đó là việc hệ trọng: vì đối với chúng tôi, bực đại nhân ấy là một người thầy đáng kính, mặc dầu Cụ vẫn có nhã ý tự xem mình là bạn vong niên; vì đối với quyển sách này, bực lão thành ấy mới thật là người cha tinh thần, mặc dù Cụ ấy vẫn một mực chối từ không nhìn nhận.

Vả lại, vì muốn giữ vẹn cốt cách của nhà ẩn dật, Cụ yêu cầu chúng tôi đừng nêu danh Cụ vào trong sách! Thật đáng phục thay đức tính khiêm tốn của bực nho phong, mà cũng khổ cho chúng tôi vì phải dài dòng nhắc lại tiểu sử của bổn dịch mà chỉ được phép dùng một chữ « Cụ » vỏn vẹn để kể cho tròn câu chuyện!

Thì cũng bởi vai tuồng quan trọng của vị túc nho ấy trong khi phiên dịch cho nên chúng tôi xin độc giả niệm tình tha thứ khi thấy chúng tôi lắm lời nói về thân thế của một người đương cầu xin đời đừng nhắc đến tên.

Sanh trưởng trong một thế gia của chốn đế đô, cha làm Thượng thơ bộ Lễ, thì khi vào sân Trình, Cụ chiếm bằng cử nhân, việc ấy, theo chúng tôi, cũng chưa đáng kể. Đáng nể là khi rời cửa Khổng để theo tân học, chỉ trong mấy năm Cụ theo kịp các bạn đồng niên nơi lớp tú tài « Tây »! Rồi sang Pháp để trau giồi học mới, rồi xông pha nơi bể hoạn, rồi cuối cùng nối được chức của cha, thì với sức học đó, với thông minh đó, âu cũng là một việc có thể đoán trước được. Tìm mua: Đông Lai Bác Nghị TiKi Lazada Shopee

Ngày nay, đã chứng kiến bao cuộc bể dâu, Cụ chỉ còn giữ lại một ham muốn là tận hưởng chữ « nhàn » trong thời hưu trí. Muốn được thế, Cụ ẩn mình trong đám rừng người để thưởng thức một câu thơ đẹp với chén trà ngon hoặc cùng vài ba tri kỷ luận bàn về văn học. Cụ nhứt quyết chủ trương: « Lịch sử và địa dư đặt nước nhà vào giữa hai nguồn văn hóa, muốn trở nên một công dân đất Việt, chúng ta phải thâu thập cả đôi. Âu Tây giúp ta kỹ thuật, Á Đông cho ta nghệ thuật làm người ».

Để chứng minh lời nói, Cụ nhắc lại một gay cấn vừa xảy ra trong trường quốc tế, rồi chỉ rõ giải pháp của người xưa khi gặp cảnh ngộ tương tợ để bắt buộc kẻ đối thoại phải nhìn nhận: « Thiếu Hán học là một sự thiệt thòi rất lớn ».

Sẵn có quan niệm ấy nên Cụ nhận lời ngay khi chúng tôi ngỏ ý cầu học. Lối dạy của Cụ thật là đặc biệt. thường ngày Cụ dùng tiếng Việt để giảng bài, nhưng khi gặp áng văn quá bóng-bảy hay huyền-diệu thì Cụ dùng cả tiếng Pháp để diễn-tả tư-tưởng, mượn triết-học Đức để so-sánh, đem học-thuyết Hy-Lạp để chứng minh, cốt-yếu là giúp học trò hiểu cho thấu đáo, tận-tường. Khi gặp tư-tưởng thanh-cao hoặc áng văn bất-hủ, chúng tôi lật đật ghi rồi chép lại trong giờ nhàn rỗi để trình lên cho Cụ xem-xét. Cụ dò từng câu, đối-chiếu từng chữ để phê-bình. Nhờ Cụ tiến dẫn, chúng tôi mới « nuốt hận » chép thơ của Tư-mã Thiên, sụt sùi thảo tờ biểu xuất-sư của Gia-Cát, băn khoăn đứng trên lầu Nhạc-Dương với Trọng-Yêm, ngạo nghễ biên thơ từ-chức cùng Tạ-Phùng-Đắc.

*

Ngẫu-nhiên khéo sắp cho chúng tôi gặp được một bực thầy đáng kính, thì cũng nhờ ngẫu-nhiên chúng tôi lại gặp quyển sách đáng yêu.

Kẻ vừa nhập đạo thường không tiếc lời ca-tụng tôn-giáo mới của mình. Chúng tôi nào có tránh được thường tình đó trong khi hầu chuyện với ông Trương-Quan, một nhân vật mà giới mại bản Huê-kiều và làng « thanh sắc » bổn xứ vẫn còn nhớ tiếng. Nghe chúng tôi ca tụng nhân tánh của nền văn-hóa Trung-Hoa, Trương-quân đột-ngột hỏi: « Như thế chắc bác-sĩ đã đọc quyển Đông-Lai bác nghị rồi? » Chúng tôi phải thẹn thùng nhìn nhận: « Chẳng những chưa được đọc mà như phần đông người Việt-Nam, chúng tôi chưa từng nghe đến tên! »

Vì bác-sĩ khen ngợi văn học cổ Trung-Hoa, trí tôi vùng nhớ lại câu chuyện hai mươi năm về trước khi còn thơ ngây cặp sách vào trường để ăn mày chữ. Trong những giờ các bạn được nghỉ ngơi hoặc nô đùa chạy giỡn thì chúng tôi bị ông bác ngồi kèm bên cạnh ép buộc đọc một vài trang Đông-Lai bác nghị. Đó là lời phê-bình về hành vi và hạnh kiểm của các nhân vật đời Đông-Chu. Câu văn huyền diệu, lập luận chặt chẽ, tâm lý sâu sắc là ba đặc điểm của tác phẩm bất hủ đó. Nhưng đối với bộ óc non nớt của đứa trẻ lên mười thì làm sao thưởng thức nổi vẻ đẹp của câu văn hay và sự điêu-luyện của bài luận khéo? Vậy mà, ông bác vẫn bắt buộc chúng tôi « ê » « a » đọc cho xong vì: « nơi trường, thầy dạy cháu làm văn; nơi đây, bác dạy cháu làm người ». Lời của bác thật là chí lý! Thời-đại Đông-Chu là khoảng đen tối nhứt của lịch-sử Trung-Hoa, vì lúc ấy, xã hội đương vươn mình thay đổi lốt, nên gây ra bao sự xáo trộn lớn lao. Bực thánh phải chung đụng với sát nhân, hiền triết phải ăn ở cùng gian tà, rồi tranh đấu chống chọi nhau nẩy sanh ra trăm ngàn việc, hay dở đều có. Tất cả hai mặt - tốt và xấu, thanh với tục - của con người đều phô bày. Nếu gặp một nhà phê-bình có cặp mắt tinh đời, có bộ óc sáng suốt, lại thông tâm lý, hiểu chánh trị, khảo sát thời kỳ ấy thì chắc chắn sẽ để lại cho đời một tác phẩm vô cùng hữu ích. Lữ Đông-Lai có đủ điều kiện ấy cho nên quyển Bác-nghị là một chiếc thuyền đã cắm sào ở ngoài dòng thời gian… Khi đọc quyển Đông-Lai, chúng ta có cảm giác đương nghe một tay thợ chuyên môn giải thích về các bộ phận trọng yếu của guồng « máy lòng » rồi chỉ cho chúng ta thấy các nguyên do thường làm cho động cơ ấy chạy. Cũng bởi « động cơ » và nguyên do ấy không thay đổi cho nên lời của Đông-Lai luận về một thời vẫn có thể giúp ích cho người trong muôn thuở. Vì lẽ đó, lúc trẻ, chúng tôi oán trách ông bác bao nhiêu, thì ngày nay, đã tránh được nhiều kinh nghiệm chua cay, chúng tôi lại cám ơn ông bác bấy nhiêu!

Đáp lời yêu cầu, ông Trương-Quan phải nhờ người về tận Thượng-hải mua giùm cho chúng tôi một bổn.

Của báu cầm tay, chúng tôi đến nhờ Cụ dẫn giải giùm điều thắc mắc: « Tại sao một tác phẩm giá trị dường kia, mà từ xưa, trong xứ ta chưa từng nói đến? »

Cụ giảng: « Những sách Trung-Hoa được phiên dịch và truyền bá ở Việt-Nam phần nhiều vì ba cớ: Một là bởi có nhiều người bị bắt buộc phải đọc đến, cho nên bàn tới cũng nhiều, dịch ra không ít, đó là những sách có tên trong chương trình thi cử. Hai là các thứ sách quyến rủ người vì cốt chuyện, ấy là lịch sử tiểu thuyết tức là truyện. Còn về loại thứ ba là vận văn, vì đọc lên nghe êm tai, lại dễ nhớ, nên có nhiều người ưa thích.

« Đông-Lai bác nghị không đứng vào ba hạng đó. Vì là văn phê bình nên đòi hỏi ở độc giả một trí phán đoán mà người đời ít hay dùng đến. Và là văn nghị luận nên khô khan mà bắt buộc người đọc phải suy xét mới thưởng thức. Không có vần, thiếu cốt chuyện hấp dẫn, lại không được ghi vào chương trình thi cử, như vậy ít người biết đến thì cũng là một chuyện không lạ. Nói thế không phải bảo sách ấy không có độc giả! Ngoài số thí sinh hiếu kỳ nên tìm Đông-Lai đọc trước khi vào đình thí, phần đông, các người mê thích sách đó toàn là những kẻ đã đỗ đạt, ra làm quan, ưa dùng quyển Bác-nghị để kiểm điểm hành động trong lúc chăn dân hay khi xử thế. Rồi đến lúc chiều tà bóng xế, khi đã mỏi mệt thì trí muốn yên nghỉ hơn là dịch sách? Vả lại đối với các bực tiền bối ấy, dịch hay viết sách là một sự ngoài tưởng tượng. Đối với họ, học là hành nghĩa là đem ra áp dụng, để làm tròn bổn phận của mình, chớ không dám học để truyền cho ai cả. »

*

Rồi theo lệ thường, Cụ giải thích, chúng tôi ghi chép. Cả thảy được tám mươi bốn bài.

Mỗi bài là một sự ngạc nhiên. Trong văn chương Trung-Hoa, chúng ta thường bực mình vì gặp lời nhiều hơn ý. Với Lữ Đông-Lai, câu văn đẹp đẽ vẫn đi kèm với tư tưởng cao thâm. Lắm bài không đầy gang tấc mà chất chứa ý dài muôn vạn dặm. Càng suy xét, càng thấy sâu rộng. Về mặt tâm lý thực nghiệm và chánh trị thực hành, chưa chắc có quyển sách nào trong văn chương Âu-Mỹ sánh kịp Đông-Lai bác nghị. Ấy là chưa bàn đến lý luận, phần cốt yếu của sách. Mở đầu cho mỗi bài, tác giả nêu ra một tư tưởng căn-bản, nhiều khi không dính-líu với cốt chuyện đem ra phê-bình.

Độc-giả còn tưởng nhà văn lạc đề, thì chỉ vài câu, đã móc dính đầu-đề với ý-niệm căn-bản. Rồi dùng câu chuyện đem phê-bình để chú-thích tư-tưởng chánh ghi trên đầu bài.

Trước với sau, đầu với đuôi đều ăn khớp, các bộ-phận liên-lạc cùng nhau một cách tế-nhị làm cho độc-giả tưởng là đương nghe nhà toán-học khéo chứng-minh một định-lý của hình-học.

*

Rồi một hôm, mấy người bạn tình-cờ đến viếng giữa giờ giảng dạy của cụ, đó là ngẫu nhiên thứ ba.

Cũng như chúng tôi, các bạn đều bị câu văn trong-sáng và lập-luận huyền-diệu của Đông Lai hấp-dẫn nên mới khuyên chúng tôi cho xuất-bản. Từ-chối là sự dĩ-nhiên, vì bổn-tâm của chúng tôi là chỉ học cho mình… Lý-luận của các bạn thật cũng chặt-chẽ: « Hiện nay, quốc-văn đương nghèo… học-sanh thiếu món ăn tinh-thần, v.v…. Trong lúc các tiểu-thuyết khiêu-dâm chường mặt trên báo và trong hàng sách thì ôm giữ cho mình một tác-phẩm có giá-trị là một việc… ích kỷ, một tội to đối với nền học-vấn ».

Không phương chối-cãi, đành phải nghe theo. Từ đây mới gặp bao nỗi khó …

*

Trước hết, nếu cho in vỏn-vẹn tám mươi bài nghị-luận của Đông-Lai mà chẳng có những đoạn Xuân-Thu, Tả-Truyện thì làm sao độc-giả lãnh-hội được? Vả lại, lắm khi, vì bắt-bẻ một câu hoặc một chữ của Tả-Truyện mà Đông-Lai viết thành bài « bác-nghị ». Vậy dịch Xuân-Thu và Tả-Truyện song-song theo « bác-nghị » là một sự tối-cần. Cũng là một điều quá khó.

Các bạn chắc đều biết Xuân-Thu là một trong năm quyển kinh của Đức Khổng-tử. Đó là bộ sử nước Lỗ do Ngài sửa-định, chép từ đời Lỗ Ẩn-công cho đến Lỗ Ai-công gồm có 240 năm (từ 721 tới 481 trước tây lịch).

Với quan-niệm hiện-tại về sử học khi chúng ta trịnh-trọng lật quyển Xuân-Thu thì sẽ vô-cùng ngạc-nhiên hay thất-vọng. Vì đó chỉ là một mớ sử liệu chép rời-rạc, dường như gặp chuyện thì ghi, không màng đến sự liên-lạc hay tương-quan. Lại có nhiều việc quan-trọng mà không chép. Khi chép thì quá vắn-tắt gần như đơn-sơ. Thí-dụ: bà Khương-thị vì thương con không đồng nên gây ra cuộc xung-đột giữa Trịnh Trang-công và em là Cung Thúc-Đoạn thì nào là quỷ-kế của anh, nào là tham-vọng của em, nào là lời bàn của bá-quan rồi đến trận đánh, với cuộc vây thành phá lũy, cho đến khi cùng đường Thúc-Đoạn chạy vào xứ Yển. Trịnh Trang-công giam mẹ, thật là bao nhiêu gây cấn mà trong Xuân-Thu chỉ có một câu: « Mùa hạ, tháng năm, Trịnh-bá thắng Đoạn tại Yển ». Có lúc còn vắn tắt hơn, như « Tề cứu Hình » hoặc « Địch đánh Vệ ».

Vậy thì chân giá trị của bộ Xuân-Thu ở đâu mà vẫn được xem là quyển kinh để « định công luận, đoán án cho muôn đời »? Tại sao chính Đức Phu-Tử cũng yêu cầu người đời « biết cho ta » hay « buộc tội cho ta » thì nên do bộ Xuân-Thu? Như vậy, bực thánh và dư luận cổ kim đã lầm chăng? Hoặc giả, vì quan niệm về sử học của xưa với nay quá khác nhau mới có điều chinh lịch đó?

Nếu thật thế thì tại sao một học giả của thời đại nầy, cụ Nguyễn-Văn-Tố, một người mà chưa ai dám ngờ vực về sức học uyên thâm, cũng chưa ai dám nghi đến sự thận trọng của ngòi bút, đã viết: « Muốn thưởng thức cái hay của bộ Xuân-Thu, phải nhận thấy hương nồng của triết lý, thơm ngát của luân lý, mùi vị của chánh trị ở trong kinh đó. »

Làm sao những câu văn vắn-tắt sơ sài kia lại chứa được bao nhiêu mùi, hương và vị?

Chỉ vì Đức Phu-Tử khéo dùng một phương pháp kín đáo: quên TÊN và VIỆC.

Sự quên hữu ý, sự cố tâm quên có nghĩa là chê bai, là khiển trách.

Như trong thí dụ trên, không chép tên Trịnh Trang-công chỉ gọi Trịnh-bá là chê lỗi chẳng biết dạy em.

Như Thúc-Tôn Kiểu-Như, đại phu nước Lỗ chuyên chế mạng lịnh qua rước vợ ở nước Tề thì Xuân-Thu chép: « Vợ Kiểu-Như tên Phụ-Hỉ ở Tề về. »

Như vua của nước Châu, tên Thiệt, chức là công, thường gọi là Châu-công, vì sợ loạn nên bỏ xứ trốn qua Tào, sau cùng qua triều Lỗ, Xuân-Thu chỉ chép: « Thiệt đến ».

Còn vua nước Kỷ, tước là bá, khi qua triều Lỗ lại dùng lễ của man di, Xuân-Thu chỉ biên: « Kỷ đến triều ».

Chẳng những thiếu là chê, có khi thừa cũng là khiển trách, như thêm tên tộc của các vị vua có lỗi. Muốn chỉ trích vua Vệ dùng kế tiểu nhơn để chiếm nước Hình thì Xuân-Thu ghi: « Mùa xuân, tháng giêng, ngày bính ngọ, Vệ-hầu tên Hủy diệt Hình. »

Khi muốn tỏ sự hư hèn của Tống Chiêu công thì chép: « Mùa đông, tháng mười một, người Tống giết vua tên là Chử-cữu. »

Nhưng phần nhiều khi Xuân-Thu thêm tức là khen, nếu ghi cả chức tước.

Muốn nêu tấm lòng trung của hai bề tôi nước Tống - công tử Ấn và Đãng Ý-Chư - Xuân-Thu chép: « Người Tống giết quan đại tư mã. Quan đại tư thành trốn qua Lỗ ».

Như câu: « Mùa thu, tháng tám, ngày giáp ngọ, tên Vạn của Tống giết vua tên Tiệp và quan đại-phu Cừu Mục » là dụng-ý phạt Nam-Cung Trường-Vạn, một kẻ thí chúa, lại chê vua Tống vì tánh ham đùa-bỡn với bề tôi, phải mua lấy cái chết thảm-khốc, còn khen quan đại-phu tuy yếu-đuối mà dám cầm hốt đánh một tên võ phu, coi thường cái chết.

Chỉ thêm bớt vài chữ, Đức Phu-tử đã tỏ sự khen chê, ban điều thưởng phạt. Mà khen với chê, thưởng và phạt, khi đã trưng nhiều lượt, sẽ tỏ bày một luân-lý và một đường chánh-trị. Cả hai là sản-phẩm của quan niệm về cuộc đời, về vũ-trụ tức là triết-lý.

Phương-pháp kín đáo ấy chẳng những bày tỏ được mấy nguồn văn hoá mà còn gây một ảnh-hưởng, một hiệu lực phi thường: được một tiếng khen của Xuân-Thu là hưởng giọt mưa Xuân đầm-ấm, bị một câu trách là chịu ngọn nắng Thu gay gắt. Thật là kết quả mỹ-mãn, nhờ bởi tay thợ thánh khéo dùng một khí cụ thô sơ. Và cũng vì thế, sự phiên dịch Xuân-Thu chất chứa bao nhiêu nỗi khó: phải cân nhắc từng chữ, phải theo đúng nghĩa mà còn lo-sợ thừa lời.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đông Lai Bác Nghị PDF của tác giả Dương Tấn Tươi nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Bạn Thực Sự Có Tài! - Tina Seelig
Khả năng sáng tạo không phải một loại tài năng thiên bẩm chỉ dành cho một số người đặc biệt, nó là một kỹ năng bất cứ ai cũng có thể học hỏi. Dựa trên nền tảng đó, tác giả - một chuyên gia huấn luyện và cũng là một giáo sư của Đại học Stanford sẽ giúp độc giả hiểu đúng hơn về sự sáng tạo. Cùng với việc làm rõ bản chất của sáng tạo, bà còn cung cấp cho độc giả nhiều ví dụ cực kỳ thú vị về những ý tưởng đột phát ở khắp mọi nơi, trong đó có những công ty nổi tiếng như Google, Pixar, Facebook, IDEO… Ngoài ra, dựa trên rất nhiều bài tập và tình huống thực tế thú vị trong quá trình bà làm việc ở Stanford, Tina Seelig đã giới thiệu với chúng ta trong cuốn sách này nhiều công cụ và phương pháp để nâng cao khả năng sáng tạo. *** KHIÊU KHÍCH. Chỉ một từ đó thôi... khiêu khích. Cho tới gần đây, các sinh viên tương lai của trường All Soul thuộc Đại học Oxford vẫn phải thực hiện “bài thi một từ”. Bài Luận, đúng như cái tên của nó, là thứ mà sinh viên dự đoán được nhưng vẫn rất lo sợ. Các sinh viên sẽ mở đề thi cùng lúc để nhận được một từ duy nhất. Đó có thể là “Ngây thơ” hoặc “Phép lạ” hoặc “Nước” hoặc “Khiêu khích”. Thử thách cho sinh viên là viết một bài luận trong ba giờ về chỉ một từ đó thôi. Không có câu trả lời đúng nào cho bài thi này. Tuy nhiên, cách trả lời của từng sinh viên sẽ thể hiện bề sâu kiến thức và khả năng nảy sinh những liên tưởng sáng tạo của họ. Thời báo NewYork Times trích lời một giáo sư của Đại học Oxford: “Việc biết được đó là từ nào gây hứng thú đến nỗi hàng năm, ngay cả người không phải là thí sinh cũng tụ tập bên ngoài trường, chờ đợi để nghe ngóng tin tức.”1 Thử thách này củng cố sự thật rằng mọi thứ – dù là một từ đơn lẻ – đều mang lại cơ hội tận dụng những gì bạn biết để phát huy trí tưởng tượng.   Mời các bạn đón đọc Bạn Thực Sự Có Tài! của tác giả Tina Seelig.
Nhìn Lên Những Chòm Sao - Trần Thời
Ở các nước có ngành khoa học không gian tiến bộ trên thế giới thì bộ môn Thiên Văn học được đưa vào chính khóa trong các trường phổ thông. Môn học này có sức lôi cuốn các em học sinh một cách đặc biệt, vì sự hấp dẫn của nó. Ở đây, các em còn được thực hành quan sát ở những kính thiên văn hiện đại cùng với những mô hình y như thật để dễ hình dung. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu về tuổi thọ của loài người trên thế giới, thì các nhà Thiên Văn học thường có tuổi thọ cao hơn nhiều so với các ngành khoa học khác. Kết luận đó có lẽ cũng hoàn toàn thuyết phục, bởi vì, hình như một khi con người đêm đêm nhìn lên bầu trời đầy sao, thấy vũ trụ mênh mông vô tận, lòng người bình thản lại, không còn háo thắng đua tranh. Con người cảm nhận được sự nhỏ nhoi của mình, do đó gạt bỏ những mối ưu tư và sống lâu hơn. Có một nhà hiền triết đã nói rằng, con người sở dĩ văn minh được là vì họ đã biết ngước nhìn lên bầu trời thăm thẳm.  Trong phạm vi hạn hẹp của quyển sách nhỏ này, chúng tôi chỉ đề cập đến sự hiện diện của các chòm sao trên bầu trời. Hầu qua đó, chúng ta sẽ được tự trang bị thêm cho kiến thức cuộc sống một hiểu biết sơ đẳng nhất về vũ trụ. Chắc chắn nó sẽ giúp ích ít nhiều cho các bạn trẻ thích tìm hiểu, thám hiểm... Càng tìm tòi, chúng ta sẽ càng thấy say mê. Nào, bây giờ mời các bạn hãy mở sách ra. Chúng ta cùng xem nhé! Trần Thời *** Xưa kia, lâu lắm rồi, con người đã nhìn lên bầu trời và tìm hiểu nó. trước hết, các nhà nghiên cứu nhận biết được ánh sáng, màu sắc của từng ngôi sao. Càng về sau này, khoa học càng tiến bộ, người ta còn đo được trọng lượng và sự chuyển động của nó trong không gian nữa. Và để dễ nhớ, các nhà thiên văn đã tập hợp từng nhóm sao lại để phân chia thành từng chòm. Mỗi chòm sao có hình tượng và sự tích khác nhau. Các hình tượng và sự tích ấy được các nhà thiên văn dựa trên cơ sở các truyền thuyết, truyện cổ hay các truyện thần thoại hy Lạp và La Mã. Ở phương Đông thì có lối nhận diện sao khác hẳn phương tây, ngay cả tên gọi cũng khác. Ở trong sách này, chúng tôi chỉ giới thiệu những tên gọi Đông phương mang tính chất tham khảo. Chủ yếu, chúng tôi chỉ cung cấp cho các bạn những tên gọi chung đã được thống nhất trên toàn thế giới. Những vì sao sáng rõ thì đều có tên riêng của nó, thường là tên ảrập và được đặt tên theo thứ tự bằng mẫu tự hy Lạp. thí dụ: α Scorpii (αbò Cạp) là ngôi sao sáng nhất trong chòm bÒ CẠP và β Cygni (βthiên nga) là ngôi sao sáng nhất trong chòm thIÊnnGA   Mời các bạn đón đọc Nhìn Lên Những Chòm Sao của tác giả Trần Thời.
Bức Xúc Không Làm Ta Vô Can - Đặng Hoàng Giang
"Từ chỗ vô danh cách đây bảy, tám năm, bây giờ, nếu gõ "bức xúc" vào Google, ta sẽ được 29 triệu kết quả, gấp gần 10 lần "Ngọc Trinh" một con số ấn tượng cho một làn da xấu xí như vậy." Đây là một trong rất nhiều các quan sát thú vị, kèm theo các giải mãi hóm hỉnh, không kém phần chua xót song cũng rất giàu nhân văn trong tuyển tập BỨC XÚC KHÔNG LÀM TA VÔ CAN của tiến sĩ Đặng Hoàng Giang. 26 bài viết là 26 câu chuyện từ quen thuộc như thịt chó, ấn đền Trần, phẫu thuật thẩm mỹ, từ thiện câu like...đến ngỡ như vĩ mô xa xôi nhưng lại ảnh hưởng mật thiết đến cuộc sống từng cá nhân như sự tàn phá của kinh tế thị trường, lí do khiến quốc gia thất bại, du lịch đại trà, hay các vấn đề văn hóa không bao giờ hết nóng như sính ngoại, truyền hình thực tế...Không chỉ phân tích khách quan và bình luận sắc sảo, tác giả còn đề xuất nhiều giài pháp bất ngờ và đầy trách nhiệm, khiến các bài viết, trước khi được tập hợp lại trong tuyển tập này, đã nhận được hàng trăm nghìn lượt xem và rất nhiều chia sẻ từ đông đảo cư dân mạng. "Một góc nhìn thằng thắn và tỉnh táo, xoáy vào những vấn đề bằng những con dao mổ sắc cạnh của tri thức... Từ lâu, những cây viết của nước ta vẫn dùng dao gọt hoa quả có lưỡi lượn sóng để mổ xẻ các vấn đề. Chúng ta thiếu những con dao mổ lạnh, nằm trong những bàn tay ấm." *** “Bi thương ngược dòng chảy thành sông” là tên một tiểu thuyết Trung Quốc của tác giả Quách Kính Minh mà nhà báo Đinh Đức Hoàng có nhắc đến trong lời bạt cuốn sách Bức xúc không làm ta vô can, rằng nếu Đặng Hoàng Giang tham khảo anh từ lúc đặt tên, có lẽ anh sẽ góp ý một cái tên lâm li hơn, để… sách bán chạy hơn, như tựa đề cuốn sách mà anh đã nhắc đến. Một cách gợi chuyện hóm hỉnh mà thật chứ chả đùa, bởi dường như ở thời đại nào cũng vậy, lỗ tai con người ưa cái sáo rỗng dễ nghe, khiến cho nền văn học có xu hướng “chỉ nói cái gì thiên hạ thích nghe nhất là sự giả dối” như lời ông vua phóng sự đất Bắc – Vũ Trọng Phụng. Chỉ riêng việc bàn về cái tên thôi đã khiến độc giả biết được nội dung “Bức xúc không làm ta vô can” không vui vẻ gì. Mà cụ thể, đây là một cuốn sách chính luận, phê bình xã hội, có khen nhưng đa phần là chê, gợi góc tối ở nhiều vấn đề nhức nhối trong xã hội Việt Nam ngày nay. *** Tiến sĩ Đặng Hoàng Giang là chuyên gia phát triển, nhà hoạt động xã hội và tác giả chính luận. Các hoạt động nghiên cứu và vận động chính sách của anh nhằm nâng cao chất lượng quản trị quốc gia, minh bạch, và tiếng nói của người dân. Anh nỗ lực mở rộng không gian xã hội dân sự, truyền bá tri thức, khuyến khích tư duy phản biện và xây dựng văn hóa tranh luận. Các bình luận xã hội của anh xuất phát từ các hiện tượng văn hóa, xã hội đương đại để chỉ ra những vấn đề liên quan đến bình đẳng, công lý và tương quan quyền lực trong xã hội. *** Descartes, triết gia Pháp thế kỷ 17, nổi tiếng với lời khẳng định: “Tôi tư duy do đó tôi tồn tại”. Đương nhiên tư duy và suy nghĩ đơn thuần là hai việc khác nhau. Trong một ngày chúng ta thật sự tư duy, động não, suy nghĩ tập trung bao nhiêu giờ hay thậm chí bao nhiêu  phút?  Cái  gì  kích  thích  chúng  ta  tư  duy?  Đó  có  thể  là  một cuốn  sách,  như   Bức xúc không làm ta vô can  -  tuyển  tập  các  bài viết của tác giả Đặng Hoàng Giang - chẳng hạn. Các bài trong cuốn sách được chia thành ba chương. Chương I có chủ đề về quan hệ giữa cá nhân và đám đông trong xã hội hiện đại. Chương II bàn về một số vấn đề phát triển như môi trường, công lý và phân biệt giàu nghèo. Các bài trong Chương III bàn tới một số hiện tượng xã hội và trào lưu văn hóa đương đại. Với lăng kính đa chiều, tư duy tự do phản biện, cách tiếp cận vững chắc của một nhà chuyên môn, tác giả đã mổ xẻ xuyên qua các lớp lang văn hóa, xã hội, đời thường mà hầu hết tất cả chúng ta đều biết để tìm đến thực  chất,  ý  nghĩa  đích  thực  của  hiện  tượng.  Đây  thật  sự  là  tác phẩm của một nhà phê bình xã hội (như chúng ta hiểu về cụm từ “nhà phê bình nghệ thuật” , “nhà phê bình văn học” ) mà hiện nay Việt Nam còn thiếu. Và khi xã hội đang trong vòng xoáy của một sự  chuyển  dịch  dồn  dập,  lộn  xộn  như  tại  Việt  Nam  thì  rất  cần những cá nhân có công cụ sắc bén để giúp giải mã những trào lưu xã  hội  và  hiện  tượng  văn  hóa  đang  xuất  hiện  hằng  ngày  quanh chúng ta. Tôi đặc biệt tâm đắc với lựa chọn chủ đề của Chương I về tâm lý đám đông, một chủ đề đến nay vẫn chưa được mổ xẻ kịp thời và đủ sâu và trúng tại Việt Nam. Tuy nhiên tác giả không chỉ dừng lại ở sự quan sát tỉnh táo và diễn giải lạnh lùng của một nhà khoa học thuần túy. Các bài trong tuyển tập còn toát ra lòng nhân ái của một người dấn thân với số phận mọi người và mỗi người, đặc biệt những tầng lớp, những con người kém may mắn, thua thiệt trong xã hội. Tôi không hoàn toàn chia sẻ quan điểm và phân tích của tác giả Đặng Hoàng Giang đối với mọi đề tài trong cuốn sách. Nếu như tôi hoàn toàn đồng tình với quan điểm trong bài  Ngó Mỹ, dòm Nhật, hóng Do Thái: lựa chọn nào cho ta? , bài Văn hóa không phải là lý do khiến quốc gia thất bại,  hay bài  Những người khốn khổ ở Tiên Lãng chẳng  hạn,  thì  trái  lại  tôi  khó  thông  với  lời  nhắn  nhủ  “để  công chúng  là  người  quyết  định  cuối  cùng  số  phận  của  các  sản  phẩm văn hóa và nghệ thuật” trong bài  Sự trỗi dậy của tư duy phong kiến và bảo thủ. Vì theo cách tiếp cận của tác giả trong nhiều bài khác, số đông “công chúng” có thể bị chi phối, định hướng bởi những tổ chức đặt lợi ích thương mại lên trên hết, khai thác sự thèm khát hào  nhoáng,  danh  vọng  của  một  bộ  phận  đáng  kể  trong  công chúng, từ đó không thật sự làm chủ lựa chọn của mình. Phải chăng độc giả cuốn sách này chỉ bó hẹp trong giới học thuật và  hoạt  động  xã  hội  chuyên  nghiệp?  Tôi  không  nghĩ  như  vậy  và kêu gọi mọi người, bất kể già trẻ, nam nữ, dù thuộc tầng lớp hoặc nghề nghiệp nào, cũng hãy đến với cuốn sách. Không hề khô khan, không hề nhàm chán, cuốn sách kết hợp một cách sống động và hấp dẫn hơi thở của cuộc sống với tia sáng của học thuật. Và tôi hết sức thích thú với cách tác giả lồng ghép khéo léo sự hóm hỉnh và châm biếm sắc sảo nhưng tinh tế(1) vào việc phê bình xã hội của mình, khiến tác phẩm đến được với nhiều độc giả hơn. TÔN NỮ  THỊ  NINH. Mời các bạn đón đọc Bức Xúc Không Làm Ta Vô Can của tác giả Đặng Hoàng Giang.
Kỹ Năng Đi Trước Đam Mê - Cal Newport
Kỹ năng đi trước đam mê của Cal Newport đã lột trần sự thật, niềm tin từ trước đến nay rằng chúng ta cần theo đuổi đam mê của mình. Đó là sau một thời gian làm việc mọi người đều cảm thấy yêu thích công việc đó. Tác giả cho rằng, niềm tin về việc theo đuổi đam mê sẽ khiến họ sinh ra cảm giác lo lắng, nghĩ nhiều và hiện tượng nhảy việc liên miên phát sinh từ đây. Sau khi đưa ra dẫn chứng để phủ nhận niềm tin vào đam mê của nhiều bạn trẻ, Newport bắt đầu hành trình khám phá thực tế về cảm nhận sau khi làm việc không phải đam mê của mình. Kết quả thu được là tất cả đều yêu thích công việc của họ đang làm dù ban đầu thì không.   Dành thời gian tiếp xúc với những người nông dân trên trang trại, các nhà đầu tư mạo hiểm, người viết kịch bản, lập trình viên máy tính hành nghề tự do và những người cho biết mình tìm thấy cảm giác mãn nguyện từ công việc, tác giả phát hiện ra những chiến lược họ đã áp dụng, cạm bẫy họ đã né tránh trong quá trình phát triển sự nghiệp hấp dẫn của mình. Theo tác giả, việc đi tìm một nghề nghiệp phù hợp với một đam mê tồn tại sẵn từ trước là không quan trọng. Đam mê đến sau khi bạn chăm chỉ làm việc để trở nên xuất sắc trong những việc có ích, chứ đam mê không đến trước. Nói cách khác, cách bạn làm việc quan trọng hơn nhiều so với công việc bạn làm. Trong cuốn sách, tác giả đưa ra các dẫn chứng thực tế, quen thuộc khiến bạn đọc dễ hiểu hơn. Đó là việc lấy các nhân vật nổi tiếng như Steve Jobs đến những người đời thường: nhà khảo cổ học kiếm được bộn tiền từ chương trình nghe chừng rất "vô vị", nhà viết kịch bản vô danh trở thành người sản xuất các chương trình hàng đầu tại Hollywood, hay một sinh viên mới ra trường và con đường trở thành chủ một nông trại lớn nhất tiểu bang... Qua các câu chuyện thực tế đó, tác giả minh chứng được một điều rằng: "Tư duy thợ lành nghề mới là thứ giúp chúng ta hái ra tiền chứ không phải đam mê đơn thuần".  Có thể khẳng định, nội dung trong cuốn sách này đi ngược lại so với hầu hết sách khác cùng chủ đề. Thay vì cách suy nghĩ tìm việc đúng thì tác giả cho rằng nên làm đúng việc. Đó là tư duy thợ lành nghề, hãy làm hết sức mình bạn sẽ trở nên hạnh phúc với công việc của mình. Nếu bạn cảm thấy bế tắc trong công việc cần phải nỗ lực học hỏi nhiều hơn, không phải suy nghĩ tiêu cực là bỏ việc. Chúng ta cần làm việc hết sức mình để trở thành người giỏi nhất trong công việc đó. Khi đó, bạn sẽ tìm thấy được niềm đam mê trong công việc, hạnh phúc của cuộc sống. Kỹ năng đi trước đam mê sẽ như một cú đả phá rất mạnh vào cách nghĩ của nhiều người là "đi theo tiếng gọi của đam mê". Cuốn sách khiến bạn ngộ ra rằng không phải cứ đi theo đam mê một cách đơn thuần là bạn sẽ thành công. *** Niềm đam mê của một thầy tu “Hãy theo đuổi đam mê là một lời khuyên nguy hiểm” Thomas nhận ra điều này tại một trong những nơi mà bạn khó tin nhất. Lúc đó anh đang đi bộ trên con đường mòn qua cánh rừng sồi phía nam núi Tremper. Con đường này là một trong những con đường băng qua địa phận rộng 93 héc-ta của Tu viện Zen Moutain ẩn mình dưới dãy núi Catskill từ những năm 1980. Thomas đã đi được nửa chặng đường của qua trình hai năm tu tập tại tu viện để trở thành một thầy tu. Một năm trước anh đến đó vì công việc mơ ước mà anh đã ấp ủ nhiều năm. Anh dồn mọi đam mê tâm huyết vào việc tập thiền tại vùng núi Catskill hẻo lánh này và hi vọng rằng mình sẽ tìm được hạnh phúc. Nhưng khi Thomas đúng dưới gốc cây sồi vào chiều hôm ấy, anh bật khóc và những mộng tưởng bắt đầu sụp đổ . “Tôi luôn tự hỏi, cuộc sống này có ý nghĩa gì?” Thomas nói khi lần đầu tôi gặp anh ấy tại một quán cà phê ở Cambrige, Massachusetts. Lúc đó, đã nhiều năm trôi qua kể từ khi Thoamas nhận ra được vấn đề ở Catskill, nhưng anh vẫn nhớ rõ con đường dẫn đến nhận thức đó, và anh hào hứng kể về nó như thể nếu kể lại thì quá khứ phức tạp của anh sẽ được trừ tà vậy. Sau khi có được bằng cử nhân triết học và thần học, sau đó là bằng thạc sĩ chuyên ngành tôn giáo so sánh, Thomas quyết định rằng việc tập Thiền Phật giáo chính la bí quyết để có được một cuộc sống ý nghĩa. “Có một điểm giao nhau rất lớn giữa triết học mà tôi đang học và Phật giáo khiến tôi nghĩ rằng ‘Mình sẽ đi thực hành về Phật giáo một cách trực tiếp để trả lời các câu hỏi lớn này,’ “anh ấy bộc bạch. Tuy nhiên, sau khi tốt nghiệp, Thomas lại cần tiền, vì vậy anh phải làm rất nhiều công việc khác nhau. Chẳng hạn như anh đi dạy tiếng Anh tại Gumi, một thành phố công nghiệp tại trung tâm Hàn Quốc. Đối với nhiều người, cuộc sống ở vùng Đông Á có vẻ lãng mạn, tuy nhiên đối với Thomas, sự hấp dẫn này ngày càng giảm sút. “Mỗi tối thứ Sáu, sau giờ làm việc, những người đàn ông tập trung tại các xe bán hàng ngoài đường có cắm lều để uống rượu soju (một loại rượu làm từ gạo) cho đến khuya. Vào những đêm mùa đông, hơi bốc lên từ những cái lều, từ những người đàn ông uống rượu. Và điều tôi nhớ nhất chính là sáng hôm sau, đường phố đầy những bãi nôn mửa đã khô.” Cuộc tìm kiếm của Thomas cũng truyền cảm hứng cho anh đi xuyên Trung Quốc, vào Tây Tạng, dành thời gian ở Nam Phi cùng nhiều cuộc hành trình khác, trước khi kết thúc tại Luân Đôn, nơi anh làm công việc nhập dữ liệu khá tẻ nhạt. Suốt khoảng thời gian này, Thomas nuôi dưỡng niềm tin rằng Phật giáo chính là chìa khóa mở cánh cửa hạnh phúc. Theo thời gian, ước mơ này của anh phát triển thành ý tưởng trở thành một tu sĩ. “Tôi đã xây dựng một ảo tưởng tuyệt vời về việc tập Thiền và cuộc sống tại tu viện,“anh bộc bạch. “Mộng tưởng này đến - để hiện thực hóa ước mơ của tôi.“Tất cả các công việc khác hoàn toàn không thể so sánh được với mộng tưởng này. Anh dồn hết tâm huyết theo đuổi đam mê đó. Thomas bắt đầu biết đến Tu viện Zen Mountain khi đang ở Luân Đôn, và anh lập tức bị hấp dẫn bởi nét nghiêm trang của nó. “Những người ở đó tập Thiền rất nghiêm túc và thành tâm,“anh nhớ lại. Niềm đam mê mách bảo anh rằng Tu viện Zen Mountain chính là nơi anh thuộc về. Thomas mất chín tháng để hoàn thành thủ tục gia nhập. Sau khi được chấp nhận đến sống và luyện tập tại thiền viện, anh đáp chuyến bay xuống sân bay Kennedy rồi bắt xe buýt đi vào vùng ngoại ô của Catskill. Chuyến đi dài ba giờ đồng hồ. Rời khỏi thành phố, xe buýt bắt đầu đi ngang qua nhiều thị trấn cổ quái, với phong cảnh “mỗi lúc một trở nên đẹp hơn.“Cuối cùng xe buýt cũng đến được chân núi Tremper, rồi nó dừng lại cho Thomas xuống. Từ trạm xe buýt, anh đi bộ dọc theo con đường dẫn tới lối vào tu viện, nơi được canh giữ bởi cánh cổng bằng sắt đang mở cho những người mới đến. Vào trong khuôn viên, Thomas đến tòa nhà chính, một nhà thờ bốn tầng được xây dựng bằng đá xanh và gỗ sồi địa phương. "Cứ như thể núi non đã hiến thân mình làm thành nơi dành cho việc luyện tập tâm linh"là cách mà các tu sĩ ở thiền viện miêu tả nó trong văn học chính thống của họ. Đẩy cánh cửa sồi bước vào, Thomas được một tu sĩ chào đón. Rất khó khăn để diễn tả cảm xúc lúc ấy, Thomas giải thích với tôi như sau, "Giống như bạn đang rất đói, và bạn biết rằng mình sẽ có một bữa ăn thịnh soạn." Cuộc sống làm thầy tu của Thomas bắt đầu khá suôn sẻ. Anh sống trong một căn nhà gỗ nhỏ được dựng trong cánh rừng phía sau tòa nhà chính. Trong lần đến thăm một thầy tu lâu năm, người đã từng sống trong căn nhà tương tự hơn 15 năm, Thomas đã hỏi ông ấy có bao giờ cảm thấy mệt mỏi khi đi bộ từ nơi ở đến tòa nhà chính hay không. Vị thầy tu điềm nhiên trả lời: "Tôi chỉ mới bắt đầu học thôi." Một ngày tại Tu viện ZenMountain có thể bắt đầu sớm từ 4g30 sáng, tùy thuộc vào thời điểm trong năm. Vẫngiữ sự tĩnh lặng, các thầy tu đón chào buổi sáng bằng 40 - 80 phút ngồi thiền trên các tấm thảm được xếp với "độ chính xác hình học"tại hội trường chính. Khung cảnh bên ngoài các cửa sổ theo phong cách Gothic phía trước hội trường tuyệt đẹp, nhưng những tấm thảm quá thấp nên các thiền sư không thế nhìn thấy. Phía cuối căn phòng có hai người giám sát thỉnh thoảng đi xung quanh các tấm thảm. Thomas tay cầm một cây gậy mà họ luôn mang theo bên người để dùng vào mục đích này." Sau bữa cũng trong chính hội trường đó, tất cả mọi người được phân công nhiệm vụ. Nhiệm vụ của Thomas bao gồm dọn dẹp nhà vệ sinh và đào mương, ngoài ra anh cũng được giao phần xử lý các thiết kế đồ họa cho tạp chí của tu viện. Một ngày tiếp diễn gồm nhiều buổi thiền hơn, những cuộc phỏng vấn với các thiền sư cấp cao, và thường là các bài giảng dài dòng, khó hiểu. Các tu sĩ có một khoảng thời gian nghỉ ngơi trước bữa tối. Thomas thường tranh thủ thời gian này để đốt lò sưởi trong căn nhà gỗ của mình, chuẩn bị cho những đêm lạnh lẽo ở Catskill. Các rắc rối của Thomas bắt nguồn từ công án. Một công án, theo truyền thống của phái Thiền, là một câu đố chữ, thường được trình bày thông qua một câu chuyện hay một câu hỏi. Mục đích của nó là thách đố lại cách suy nghĩ logic, do đó buộc bạn phải sử dụng trực giác để diễn giải thực tế. Khi giải thích các khái niệm này cho tôi, Thomas đưa ra một ví dụ mà anh đã gặp: "Hãy chỉ cho tôi một cây bất động trong cơn gió lớn." "Tôi thậm chí còn không biết câu trả lời cho câu hỏi này đại loại như thế nào nữa,"tôi phản đối. "Trong một buổi phỏng vấn,"Thomas nói rõ, "anh phải trả lời ngay lập tức, không suy nghĩ. Nếu ngừng lại, họ sẽ tống anh ra khỏi phòng; cuộc phỏng vấn kết thúc." "Vậy thì tôi chắc chắn là bị đá ra ngoài rồi." "Đây là câu trả lời đã giúptôi vượt qua công án,"anh ấy nói. "Tôi đứng như  một cái cây và vẫy tay một chút như thể đang trong một cơn gí lớn. Đúng không? Vấn đề ở đây là một khái niệm anh không thế năm bằng lời. Một trong những rào cản lớn đầu tiên mà các học viên trẻ phải đối mặt tập Thiền chính là công án Mu: Vượt qua được công án này là vượt cánh cổng đầu tiên trong "tám cổng"của Thiền Phật Giáo. Nếu chưa đạt được cột mốc này, bạn vẫn chưa được xem là học viên chính thức của thiền viện. Thomas có vẻ ngần ngại giải thích về công án này tôi. Tôi đã từng gặp phải vấn đề này khi làm một cuộc nghiên cứu về phái Thiền: Bởi vì những câu đố thường đi ngược lại logic, bất kỳ nỗ lực giải thích nào cho người ngoài đều trở nên tầm thường. Chính vì vậy, tôi không ép Thomas nói chi tiết về vấn đề này mà đi tra thông tin Google. Đây là một diễn giải mà tôi tìm được: Một khách hành hương hỏi Đại Thiền sư Châu: "Loài chó có Phật tính không? "Triệu Châu trả lời, "Mu." Mu theo tiếng Trung có nghĩa là "không."Theo như lời giải thích mà tôi tìm được, Triệu Châu không trả lời câu hỏi của khách hành hương mà đẩy lại cho người hỏi. Sau hàng tháng trời căng thẳng, Thomas mới chật vật vượt qua được công án này. "Tôi suy nghĩ liên tục về công án đó, "anh ấy kể với tôi. "Tôi mang nó vào giấc ngủ, để nó chiếm hữu cơ thể mình." Rồi anh cũng giải được nó. "Một ngày, lúc đi dạo trong rừng, trong một khoảnh khắc khi tôi nhìn vào những chiếc lá, 'tôi' biến mất.Chúng ta đều trải qua những chuyện như vậy nhưng không quan tâm. Còn tôi đã có sự chuẩn bị cho trải nghiệm này. Tôi nhận ra, 'Đây chính là toàn bộ công án.' "Thomasđã có được cái nhìn về sự hợp nhất của tự nhiên vốn hình thành nên cốt lõi sựhiểu biết về thế giới của Phật giáo. Chính sự thống nhất này đã đưa ra câu trảlời cho công án. Vô cùng hào hứng, tại buổi phỏng vấn tiếp theo với tu sĩ cấp cao, Thomas đã làm một cử chỉ - "một cử chỉ đơn giản mà bạn vẫn làm thường ngày"- điều này cho thấy rõ ràng rằng anh ấy hiểu được lời giải công án một cách trực giác. Anh ấy đã vượt qua được cánh cổng thứ nhất: trở thành học viên chính thức của Thiền tông. Không lâu sau khi vượt qua công án Mu, Thomas nhận ra niềm đam mê của mình. Anh đang đi bộ trong chính khu rừng mà anh giải được công án. Với sự thấu hiểu sâu sắc sau khi vượt qua Mu, anh bắt đầu hiểu được những bài giảng khó hiểu của các thầy tu cấp cao. "Khi đi bộ trên con đường mòn, tôi nhận ra các bài giảng đều nói về những điều tương tự như công án Mu,"Thomas nói. Nói một cách khác, chính là đây. Đây chính là những gì mà cuộc sống của một Thiền sư có được: cái nhìn ngày càng sâu sắc về vấn đề cốt lõi. Thomas đã đạt đến đỉnh cao của niềm đam mê - anh đã có thể tự hào nhận mình là một học viên Thiền tông - vậy mà anh ấy vẫn không có được sự bình an và hạnh phúc mà anh từng mơ mộng. "Thực tế thì chẳng có gì thay đổi cả. Tôi vẫn là con người cũ, vẫn có những nỗi lo lắng tương tự. Tôi nhận ra điều này vào một buổi chiều Chủ nhật, và tôi bật khóc." Thomas đã theo đuổi niềm đam mê tại Tu viện Zen Mountain, đã tin tưởng như nhiều người khác rằng chìa khóa đến với hạnh phúc là xác định niềm đam mê và theo đuổi nó với tất cả sự can đảm và nhiệt huyết. Nhưng cũng như những gì Thomas trải qua vào buổi chiều Chủ nhật trong khu rừng sồi, niềm tin này là một sự ngộ nhận đáng sợ. Hoàn thành ước mơ trở thành một Thiền sư thật sự không làm cho cuộc sống của anh trở nên tuyệt vời. Thomas phát hiện ra rằng, con đường dẫn tới hạnh phúc - ít nhất là liên quan đến công việc bạn làm để kiếm sống - là một thứ phức tạp hơn rất nhiều so với việc trả lời một câu hỏi kinh điển, "Tôi nên làm gì với cuộc sống của mình?" Mời các bạn đón đọc Kỹ Năng Đi Trước Đam Mê của tác giả Cal Newport.