Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vụ Án Viên Nhộng Xanh

Vụ án viên nhộng xanh là một trong các tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng nhất của John Dickson Carr. Trong tác phẩm, Marcus Chesney – chủ sở hữu những nhà kính trồng đào tại Sodbury Cross – đã bị đầu độc chết trong một màn trình diễn do chính mình sắp đặt. Khi ấy, Marcus đang dùng một loạt bẫy tâm lí để chứng minh lập luận: nhân chứng không thể kể lại chính xác những điều đã xảy ra ngay trước mắt mình. Và tệ thay, ông đã đúng. Tất cả các nhân chứng đều mục kích vụ sát nhân nhưng dường như họ đều đang đeo một cặp kính đen, mọi thứ đều bị che phủ và lừa mị. Thấy vậy nhưng không hẳn là vậy, nghe thế nhưng chưa chắc là thế. Nhân chứng bị bưng tai bịt mắt bằng các bẫy gài liên hoàn dù cho họ vẫn mở mắt lắng tai. Qua Vụ án viên nhộng xanh, John Dickson Carr không chỉ dẫn dắt người đọc vào ma trận của những lời khai không trùng khớp mà còn nêu bật được một lập luận mới mẻ về giá trị của các nhân chứng trong làng văn trinh thám. *** Câu chuyện bắt đầu, theo trí nhớ của người đàn ông, trong một căn nhà ở thành phố cổ Pompeii. Anh ta không bao giờ quên được buổi chiều yên tĩnh, nóng bức đó, khi những giọng nói tiếng Anh phá vỡ sự tĩnh mịch của “Con Đường Hầm Mộ”. Vạt trúc đào nở hoa đỏ rực trong khu vườn đổ nát, và cô gái mặc váy trắng đứng im lìm giữa nhóm người đeo kính râm, trông như thể bị bao quanh bởi những chiếc mặt nạ. Người đàn ông nhìn thấy quang cảnh trên đã đến Napoli công tác được một tuần. Công việc anh ta cần làm ở Napoli không hề liên quan đến chuyện này. Nhưng công việc đó chiếm hầu hết thời gian của anh, và mãi đến buổi chiều thứ hai, ngày 19 tháng Chín, anh mới thư thả được đôi chút. Tối ấy người đàn ông này dự định sẽ đến Rome, và rồi bay qua Paris và về đến London. Chiều hôm đó anh đang ngắm cảnh trong tâm trạng thảnh thơi, và đối với anh quá khứ luôn có sức hút mãnh liệt không hề thua kém hiện tại. Đó là nguyên nhân tại sao, vào lúc yên tĩnh nhất trong ngày, dưới sự êm ả của ánh mặt trời rực rỡ, anh lại nhận ra mình đang đi trên Con Đường Hầm Mộ. Con Đường Hầm Mộ nằm bên ngoài những bức tường của thành Pompeii. Nó bắt đầu từ cổng Herculaneum và thoải xuống một ngọn đồi thấp, trông giống một cái máng xối lát gạch rộng với vỉa hè ở hai bên. Những cây bách mọc khắp chỗ và khiến con đường chết chóc này dường như có thêm phần sinh khí. Đây là nơi xây cất những hầm mộ của quý tộc La Mã, những bệ thờ thấp hai bên đường chưa đến mức hóa thành phế tích. Nghe tiếng chân mình vang vọng, người đàn ông mơ hồ có cảm giác mình như lạc vào một vùng đất bị quên lãng. Ánh nắng chói chang, nóng nực chiếu xuống những viên đá lát đường đã mòn võng vì bị không biết bao nhiêu bánh xe ngựa nghiến xuống, từ đám cỏ trồi lên từ các kẽ nứt, những con thằn lằn nâu nhỏ xíu phóng qua trước mắt anh ta nhanh như vệt ảnh tối màu. Phía trước anh ta, đằng sau những lăng mộ là ngọn núi Vesuvius mang màu xanh xỉn trong màn sương từ đất bốc lên vì thời tiết oi nồng, nhưng không quá gây ấn tượng với anh ta vì nó còn cách đây chừng năm, sáu dặm. Người đàn ông thấy ấm áp và hơi ngầy ngật buồn ngủ. Những con đường dài với những cửa tiệm chỉ còn trơ lại bốn bức tường này, những khoảnh sân hoa lệ điểm xuyết những hàng cột chống đây đó kia, tất cả đều tác động đáng ngại đến trí tưởng tượng của anh ta. Anh ta đã lang thang hơn một tiếng đồng hồ; và từ khi đặt chân vào thành phố cổ này, anh ta chưa hề thấy bóng dáng của bất cứ sinh vật sống nào, ngoại trừ một nhóm người bí ẩn đi cùng hướng dẫn viên thình lình xuất hiện ở cuối đường Vận Mệnh rồi biến mất một cách đầy ma quái giữa những tiếng rào rạo của đám đá nhỏ. Con Đường Hầm Mộ dần đưa anh đi tới cuối thành phố. Đang cân nhắc xem nên ngừng cuộc thăm thú và trở về, hay quay gót tiếp tục khám phá thêm, đột nhiên anh ta trông thấy một căn nhà nằm giữa những ngôi mộ. Ngôi nhà đó khá lớn, đúng kiểu trang viên ngoại ô biệt lập những quý tộc La Mã hay xây dựng hồi thành phố còn phồn thịnh. Anh ta bước lên bậc thềm và vào nhà. Khoảnh sân nhỏ trong nhà tối tăm và bốc mùi ẩm ướt, lại không được giữ gìn tốt như những ngôi nhà tôn tạo anh đã nhìn thấy. Nhưng phía bên kia khoảnh sân là khu vườn cảnh có những hàng cột đá trang trí bao quanh, tắm trong ánh mặt trời rực rỡ. Khu vườn khá um tùm, mọc đầy trúc đào nở hoa đỏ rực và xung quanh phế tích đài phun nước là những cây tùng châu Á. Đột nhiên anh nghe có tiếng sột soạt trên đám cỏ mọc cao, và những giọng nói tiếng Anh. Cạnh đài phun nước, một cô gái mặc đồ trắng đang đứng quay mặt về phía anh ta. Và anh ta thấy cô ấy không chỉ đẹp mà còn có nét thông minh lanh lợi. Mái tóc nâu sẫm được rẽ đôi và vén ra sau tai, tạo thành những lọn xoăn nhỏ buông lơi qua gáy. Cô có khuôn mặt trái xoan, đôi môi nhỏ, căng mọng, và đôi mắt to thể hiện nét giễu cợt bất chấp gương mặt đang nghiêm nghị. Đôi mắt cô mang sắc xám, với mí mắt hơi dày và mang nét suy tư. Tư thế tạo dáng của cô rất đơn giản, chỉ vu vơ xòe vạt váy. Nhưng rõ ràng cô gái đang rất căng thẳng, chỉ cần nhìn vòng cung lông mày của cô là biết. Đối diện với cô gái là một chàng trai trẻ tóc đen mặc bộ vét vải nỉ xám, đang cầm chiếc máy quay và dán mắt vào ống ngắm. Chiếc máy quay bắt đầu kêu xè xè và phát ra tiếng lách cách nho nhỏ. Với má tì vào một bên máy, chàng trai trẻ nói với cô gái qua khóe miệng. “Này, em làm gì đi chứ!” Anh chàng thúc giục. “Mỉm cười, cúi đầu hay châm thuốc hoặc gì cũng được, nhưng hãy làm gì đó! Nếu em chỉ đứng yên đấy thì có khác gì chụp ảnh đâu.” “Nhưng, George, em biết làm gì bây giờ?” “Anh vừa nói với em còn gì. Mỉm cười hay cúi đầu hoặc… ” Rõ ràng cô gái đang bị ảnh hưởng bởi Hội chứng Tự ý thức, điều mà mọi người thường mắc phải khi họ biết rõ máy quay sẽ ghi lại bất cứ chuyển động nào trên cơ thể mình. Lúc đầu khuôn mặt cô có vẻ cực kì lo lắng, sau đó cô xoay xở để mỉm cười với vẻ hối lỗi. Cô nhấc chiếc túi xách màu trắng của mình lên và ve vẩy nó trong không khí. Sau đó cô ngó quanh tìm cơ hội lảng đi, và cuối cùng quyết định nhìn thẳng về hướng chiếc máy quay rồi cười lớn. “Chúng ta đang sử dụng hết phim rồi,” chàng trai rên lên, cứ như một nhà sản xuất phim. Người quan sát đứng ở cửa ra vào, cách nhóm người trong khu vườn khoảng hơn chục bước chân, bỗng nhiên tin chắc rằng cô gái này đang ở trong tình trạng căng thẳng đầu óc nguy hiểm, rằng cô ấy chỉ giả vờ khỏe mạnh; và rằng chiếc máy quay phim nhỏ đứng yên một chỗ không ngừng kêu lách cách đang bắt đầu ảnh hưởng đến cô, tựa như cơn ác mộng kinh hoàng có một con mắt cứ nhìn mình chằm chằm. “Sao, em có thể làm gì được?” “Đi dạo xung quanh, hoặc làm gì đó chẳng hạn. Di chuyển qua đó, đến bên phải. Anh muốn quay được những cây cột trụ đằng sau em.” Một thành viên khác trong nhóm, người đã đứng chống nạnh quan sát mọi chuyện nãy giờ, bật ra một tiếng khịt mũi. Đó là một người đàn ông nhỏ bé có vẻ lanh lợi và chiếc kính đen đang đeo giúp che đậy sự thật rằng ông già hơn rất nhiều so với bộ quần áo nghỉ mát đang mặc trên người. Bạn có thể thấy được điều đó qua làn da nhăn nheo chảy xệ dọc quai hàm, và qua đuôi tóc lốm đốm bạc dưới vành mũ cói sụp xuống trên đầu ông. “Hời hợt!” ông ta nói với vẻ khinh miệt. “Đó là thứ cậu đang cố làm: một kẻ hời hợt. Cậu muốn quay những cây cột sau lưng con bé, hả? Cậu không muốn có hình ảnh của Marjorie. Cậu thậm chí cũng không muốn có hình ảnh ngôi nhà cổ ở Pompeii. Thứ cậu muốn chỉ là hình ảnh Marjorie trước một căn nhà Pompeii, để chứng tỏ mình từng ở đó. Tôi cho rằng điều đó thật kinh tởm.” “Như vậy thì có gì sai?” Một giọng nói vang như sấm phát ra. Giọng nói đó là của một người đàn ông cao lớn và vạm vỡ có bộ râu hoe đỏ, người đứng đối diện cặp đôi đang bị mắng. “Thì hời hợt chứ sao,” người đàn ông đội mũ cói nói. “Em hoàn toàn không đồng ý với anh,” người đàn ông vạm vỡ đáp lời. “Và em cũng chẳng hiểu nổi thái độ của anh, Marcus. Cứ mỗi lần chúng ta đến được nơi nào đó có vài cảnh đẹp, anh lại muốn tránh xa chúng ra (nếu em hiểu đúng) chỉ bởi vì đó là địa điểm tham quan. Vậy chúng ta chỉ được tìm hiểu về địa ngục thôi chắc,” ông ta gầm lên giữa khu vườn, “hay là anh thích đến nơi không có mấy địa điểm ngắm cảnh hơn? Anh phản đối việc hàng ngàn người tìm đến chỉ để nhìn thấy những quang cảnh đó. Nhưng có bao giờ anh nghĩ rằng, nếu hàng ngàn người đến đây chỉ để nhìn tận mắt một địa điểm hàng nghìn năm lịch sử, thì có thể là do nó có thứ gì đó đáng xem không?” “Ăn nói cho cẩn thận,” người đàn ông đội mũ cói nói. “Và dừng ngay trò la hét đi. Cậu không hiểu, và sẽ không bao giờ hiểu được. Chẳng hạn như, cậu đã thấy được gì? Hoặc là, cậu có biết bây giờ chúng ta đang ở đâu không?” “Dễ ợt,” người kia nói. “Anh bạn trẻ, chỗ này là chỗ nào?” Người đàn ông vạm vỡ quay sang hỏi chàng thanh niên trẻ đang cầm máy quay phim. Người này đã miễn cưỡng dừng việc chụp hình cô gái lại, bây giờ cô ấy đang cười to một cách thoải mái. Anh ta cất máy quay vào chiếc túi đeo vai, sau đó rút từ trong túi áo ra một cuốn sách hướng dẫn du lịch và cần mẫn lật qua lật lại các trang. Sau đó anh ta hắng giọng. “Số ba mươi bốn, hai sao. Trang viên của Arrius Diomedes,” anh ta đọc với vẻ xúc động sâu sắc. “Ngôi nhà có tên gọi đó bởi vì…” “Vớ vẩn,” người đàn ông vạm vỡ lên tiếng. “Chúng ta vừa tham quan cái nhà đó mười phút trước. Chỗ họ tìm thấy mấy bộ xương ấy.” “Những bộ xương nào?” Cô gái phản đối. “Chúng ta có thấy bộ xương nào đâu, bác sĩ Joe.” Sau cặp kính râm tối màu, khuôn mặt của người đàn ông vạm vỡ dường như đang bốc hỏa. “Tôi không nói chúng ta đã nhìn thấy những bộ xương,” ông ta đáp, điều chỉnh lại chiếc mũ bằng vải tuýt trên đầu. “Tôi chỉ nói đó là nơi người ta tìm thấy mấy bộ xương. Chỗ ngay dưới đường ấy, cô không nhớ à? Tro nóng từ núi lửa nhốt những người nô lệ ở trong, sau đó các nhà khảo cổ tìm thấy họ, la liệt khắp sàn nhà như những bộ ki trên sân bowling. Ngôi nhà có những cây cột sơn màu xanh lá cây đó.” Người đàn ông già nhỏ con, lanh lợi đội mũ cói khoanh tay lại. Trong một thoáng, khuôn mặt ông ta thoáng lên vẻ ác ý rõ ràng. “Có thể thú vị với cậu, Joe, nhưng họ thì không.” “Không cái gì?” bác sĩ Joe gặng hỏi. “Không hứng thú với căn nhà xanh lá bạc màu. Hết lần này đến lần khác tôi đã chứng minh cho luận điểm của mình,” người đàn ông nhỏ con tiếp tục nói, “rằng những con người bình thường, như cậu – hay cậu ta, hoặc con bé – hoàn toàn không thể thuật lại chính xác những điều đã nhìn hay nghe được. Cậu không quan sát. Chính xác hơn là cậu không thể quan sát. Nhỉ, giáo sư?” Ông ta quay đầu lại và liếc nhìn về phía sau. Nhóm này còn hai người đàn ông khác nữa, và họ đang đứng ngay trong bóng râm của những mái hiên, đằng sau hàng cột bao quanh khu vườn. Người quan sát hầu như không ý thức được sự tồn tại của họ; anh không nhìn được họ rõ như những người đang đứng dưới ánh sáng mặt trời kia. Anh chỉ nhận thấy một người trạc trung niên, còn người kia trẻ. Họ đang dùng kính lúp nghiên cứu một khối đá hay mảnh dung nham nào đó, có vẻ như họ đã nhặt được nó từ hàng lan can nối những cây cột. Cả hai đều đang đeo kính râm đen. “Đừng quan tâm đến trang viên của Arrius Diomedes nữa,” một giọng nói vang lên từ bên trong lan can. “Căn nhà này là của ai thế?” “Giờ cháu đang tìm đây,” người thanh niên trẻ với máy quay phim và cuốn sách hướng dẫn du lịch tìm kiếm một cách nhiệt tình. “Hồi nãy cháu lật sai trang. Đây là số ba chín, đúng không? Đúng vậy. Đây rồi. Số ba mươi chín, ba sao. Nhà của kẻ đầu độc Aulus Lepidus.” Xung quanh bỗng nhiên trở nên cực kì yên lặng. Cho đến lúc này, đám người trông có vẻ giống một gia đình – hoặc – một nhóm bạn, với những thành viên lớn tuổi nóng tính có chút bực bội bởi ảnh hưởng của thời tiết hoặc sự mệt mỏi của chuyến đi. Nếu đây là một gia đình, theo thái độ mà họ nói chuyện với nhau, có thể suy ra rằng bác sĩ Joe và người đàn ông nhỏ con đội mũ cói (tên là Marcus) là hai anh em. Cô gái được gọi là Marjorie cũng có thể có quan hệ họ hàng với hai người đó. Không ngạc nhiên lắm. Tuy nhiên, khi những từ ngữ trong cuốn sổ hướng dẫn du lịch được đọc lớn lên, rõ ràng không khí giữa họ bỗng trở nên lạnh lẽo và u ám hơn cái sân này rất nhiều. Chỉ có chàng trai trẻ cầm cuốn sách là không ý thức được điều đó. Mọi người còn lại thì đều quay đầu nhìn quanh; và sau đó hướng về cùng một chỗ. Bốn cặp mắt kính đen nhìn thẳng về hướng cô gái, mặc dù cô đứng ngay chính giữa mọi người. Ánh sáng mặt trời lia trên bề mặt những cặp kính, khiến chúng có vẻ tối tăm và hung hãn như những chiếc mặt nạ. Bác sĩ Joe khó khăn lên tiếng: “Nhà của ai cơ?” “Kẻ đầu độc,” chàng trai trẻ nói. “Bằng hình thanh kiếm và cây liễu lột vỏ (‘lepidus’ nghĩa là ‘tước vỏ’ ‘làm bóng’, nghĩa củ là ‘dí dỏm’ hoặc là ‘dễ chịu’) nằm trên vỉa hè lát đá ghép mảnh, Mommsen đã xác định trang viên này thuộc quyền sở hữu của…” “Biết rồi, nhưng mà ông ta đã làm gì?” “… người, theo Varro, đã giết năm thành viên của gia đình mình bằng cách cố ý bỏ thuốc độc vào món súp nấm,” chàng trai trẻ tiếp tục. Anh ta ngẩng đầu nhìn xung quanh với vẻ hứng thú, như thể mong được thấy các thi thể vẫn đang nằm ở đâu đó. “Ngay tại đây, điều này hay ho đây!” Cậu ta nói thêm. “Cháu nghĩ thời đó việc đầu độc hàng loạt diễn ra khá dễ dàng.” Và sau đó, người thanh niên đột nhiên biết rằng có điều gì đó không đúng đang xảy ra; lông tơ sau gáy anh ta dường như dựng đứng hết cả lên. Anh ta gập cuốn sách lại và nhẹ giọng hỏi. “Có vẻ như,” anh ta buột miệng nói. “Có vẻ như, cháu đã nói điều gì đó không phải sao?” “Dĩ nhiên là không,” Marjorie trả lời với vẻ điềm tĩnh tuyệt vời. “Ngoài ra, sở thích của bác Marcus là nghiên cứu về các tội ác. Đúng không ạ?” “Đúng vậy,” bác Marcus gật đầu. Ông quay sang nói với chàng trai trẻ. “Nói cho tôi biết, cậu… gì nhỉ, tôi cứ quên tên cậu hoài?” “Bác biết rõ tên anh ấy mà,” Marjorie la lên. Nhìn vào sự kính trọng thái quá mà chàng thanh niên dành cho Marcus, người quan sát có thể nhận ra Marcus không chỉ là bác của Marjorie, ông ấy hành động như cha mẹ của cô vậy. “Harding, thưa bác. George Harding,” chàng trai trả lời. “A, đúng rồi. Giờ thì, cậu Harding, nói cho tôi biết, cậu từng nghe đến một nơi gọi là Sodbury Cross, gần Bath bao giờ chưa?” “Không, thưa bác. Sao bác lại hỏi thế?” “Chúng tôi đến từ nơi đó,” Marcus nói. Ông ta thoăn thoắt bước đi và ngồi xuống mép đài phun nước với tư thế như thể đang chuẩn bị đọc một bài diễn văn dài. Ông bỏ cả mũ và kính mát xuống rồi đặt chúng nằm thăng bằng trên đầu gối mình. Việc tháo bỏ phụ kiện che mặt giúp người quan sát nhận ra Marcus có một mái tóc xám thẳng trông như bướu lạc đà, có lẽ sáu mươi năm chải đầu cũng không thể khuất phục được mái tóc đó. Đôi mắt xanh của ông rất sáng sủa, thông minh và ác ý. Thỉnh thoảng, ông ta lại dùng tay chà xát làn da nhăn nheo ở quai hàm mình. “Giờ, cậu Harding,” ông tiếp tục, “chúng ta hãy đối mặt với sự thật này. Tôi giả sử như mối quan hệ giữa cậu và Marjorie không chỉ là loại tán tỉnh bất chợt trên tàu. Tôi giả sử là cả hai đứa đều nghiêm túc, hoặc hai đứa đều nghĩ là mình nghiêm túc.” Có một sự thay đổi khác nữa lại diễn ra trong nhóm người. Sự thay đổi đó cũng ảnh hưởng đến hai người đàn ông đứng cạnh những cây cột bao quanh khu vườn. Một trong số họ (người quan sát nhận thấy) là một người đàn ông trung niên có vẻ ngoài vui vẻ với chiếc đầu hói và có đội mũ phớt. Mắt ông cũng bị kính râm che mất, nhưng khuôn mặt ông thì tròn đầy và hồng hào ưa nhìn. Ông hắng giọng. “Tôi nghĩ,” ông ấy nói, “nếu mọi người thứ lỗi, tôi sẽ đi xuống phía sau và… ” Người đứng cạnh ông ta, một chàng trai trẻ tuổi có khuôn mặt không mấy ưa nhìn, quay đi và bắt đầu tế nhị lờ đi nghiên cứu nội thất ngôi nhà. Marcus nhìn hai người bọn họ. “Vớ vẩn,” ông quả quyết nói. “Có thể các anh không phải là thành viên của gia đình này, cả hai người. Nhưng hai người đều biết những gì chúng tôi biết, vậy nên cứ ở yên đó. Và dừng ngay kiểu tế nhị quái quỷ đó đi.” Cô gái khẽ hỏi. “Bác Marcus, bác có nghĩ đây là chỗ để nói chuyện đó ra?” “Có, cháu yêu.” “Hoàn toàn chính xác,” bác sĩ Joe mạnh mẽ đồng ý. Ông đưa ra một cái nhìn lạnh lùng, nghiêm túc và tỏ vẻ quan trọng. “Lần đầu tiên trong đời, Marcus – đã hoàn toàn đúng.” George Harding tỏ vẻ dũng cảm một cách lạnh lùng, nghiêm túc. “Thưa bác, cháu chỉ có thể đảm bảo rằng…” chàng trai nói với vẻ mạnh mẽ. “Ừ, biết rồi, tôi biết hết mà.” Marcus nói. “Và làm ơn đừng có làm khuôn mặt đáng xấu hổ như vậy. Chẳng có gì bất thường hết. Mọi người đều cưới nhau đấy thôi, và họ đều biết phải làm gì khi kết hôn, và tôi tin tưởng cả hai đứa. Giờ thì, cuộc hôn nhân này có diễn ra hay không hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của tôi.” “Và của tôi nữa,” bác sĩ Joe cứng rắn nói. “Đương nhiên rồi,” Marcus lên tiếng với vẻ hơi bực mình. “Và em trai tôi, dĩ nhiên. Chúng tôi mới biết cậu được một tháng hoặc cỡ đó, chỉ trong chuyến du lịch này. Ngay khi cậu bắt đầu hẹn hò với cháu gái tôi, tôi đã lập tức gửi điện tín cho luật sư để hỏi về tất cả các thông tin của cậu. Chà, cậu có vẻ cũng được. Thành tích học tập tốt, và tôi cũng không phàn nàn gì về việc cậu là trẻ mồ côi và không có gia sản…” George Harding bắt đầu giải thích gì đó, nhưng Marcus ngắt lời anh chàng. “Rồi, rồi. Tôi biết toàn bộ cái quy trình sản xuất hóa chất của cậu, thứ có thể tạo ra cả một gia tài hay đại loại thế. Nếu cả hai đứa quyết định sống dựa vào nó thì hai đứa nên biết rằng tôi sẽ không đời nào đầu tư vào đó lấy một cắc đâu. Tôi cũng không mấy quan tâm đến cái gọi là ‘quy trình mới’, tôi ghét cay ghét đắng các quy trình mới, đặc biệt là trong ngành hóa học. Chúng tôn vinh bộ não của những kẻ ngốc và khiến tôi phát ngấy vì sự non nớt. Nhưng có lẽ cậu sẽ vẫn thu được gì đó. Nếu làm việc nghiêm túc và chăm chỉ, cậu sẽ kiếm đủ sống, và có lẽ sẽ kiếm được thêm một chút từ Marjorie. Cậu đã hiểu chưa?” George lại bắt đầu giải thích gì đó nữa. Lần này thì chính Marjorie là người ngắt lời anh ta. Khuôn mặt cô hơi hồng lên, nhưng đôi mắt của Marjorie rất thẳng thắn và cho thấy sự điềm tĩnh tuyệt vời. “Anh chỉ nên trả lời ‘vâng’ thôi,” cô khuyên. “Đó là tất cả những gì anh được phép nói.” Người đàn ông hói đầu đội mũ phớt đang đứng dựa khuỷu tay vào lan can và hơi cau mày khi lắng nghe cuộc trò chuyện, giờ đây bỗng vẫy tay như thể cố thu hút sự chú ý của giáo viên trong lớp học. “Chỉ một chút thôi, Marcus,” ông ta ngắt lời. “Anh đã yêu cầu Wilbur và tôi có mặt trong cuộc trò chuyện này, mặc dù chúng tôi không phải thành viên gia đình. Vậy nên hãy để tôi nói điều này. Có cần thiết phải thẩm vấn chàng trai kia như thể cậu ta là…” Marcus nhìn ông ấy. “Tôi ước,” Marcus nói, “một số người sẽ loại bỏ được quan niệm ngớ ngẩn rằng bất cứ dạng câu hỏi nào cũng đều là ‘thẩm vấn’ cả. Hình như mọi tiểu thuyết gia đều có quan điểm như vậy. Kể cả anh nữa, giáo sư, dường như chính anh cũng thế. Điều đó khiến tôi bực mình đấy. Tôi chỉ đang kiểm tra cậu Harding mà thôi. Chuyện đó không rõ ràng à?” “Đúng ạ,” George nói. “Ồ, thế thì tốt,” vị giáo sư hòa nhã. Marcus dịch người ngồi cách xa chiếc đài phun nước nhất có thể để không bị ngã nhào vào đó. Biểu cảm trên khuôn mặt ông trông hòa dịu hơn nhiều. “Bởi vì cậu đã hiểu hết điều đó,” ông tiếp tục nói với giọng hơi khác hồi nãy, “bước tiếp theo là cậu cần biết về gia đình chúng tôi. Marjorie đã kể gì cho cậu nghe chưa? Tôi nghĩ là chưa. Nếu cậu nghĩ chúng tôi là những thành viên giàu có nhàn rỗi thích dạo bộ, những người quen với việc nghỉ mát suốt ba tháng tại thời điểm này trong năm, thì ném chúng ra khỏi đầu ngay cho tôi. Đúng là tôi giàu có thật, nhưng tôi không rảnh rỗi và cũng hiếm khi nào đi tản bộ. Những người khác cũng vậy, tôi biết rõ điều đó. Tôi làm việc, và mặc dù tôi xem bản thân mình là một học giả chứ không phải doanh nhân, tôi cũng không phải một người kinh doanh tồi. Em trai tôi là một bác sĩ đa khoa làm việc ở Sodbury Cross. Nó cũng làm việc, bất chấp tính cách lười biếng của mình. Tôi cũng biết rõ điều đó. Nó không phải một bác sĩ giỏi, nhưng mọi người đều thích nó.” Khuôn mặt dưới cặp kính đen của bác sĩ Joe dường như đang bốc hỏa.   Mời các bạn đón đọc Vụ Án Viên Nhộng Xanh của tác giả John Dickson Carr.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tên Của Trò Chơi Là Bắt Cóc
"Tên của trò chơi là bắt cóc” – Tuyệt phẩm đến từ cây bút trinh thám quyền năng nhất xứ sở Mặt trời mọc - HIGASHINO KEIGO.  “Tôi nghĩ từ khi sinh ra tôi đã được định sẵn làm kẻ xấu rồi.” – Sakuma khẽ rít một hơi thuốc. “Trên đời làm gì có chuyện dễ ăn như thế? “ – Juri cười nhạt – “Một con quái vật vốn không được sinh ra , nó là được tạo thành.” --- Sakuma Shunsuke là một kẻ hiếu thắng, không biết từ đâu cũng chẳng biết do ai ảnh hưởng, từ nhỏ đến lớn, từ chuyện học hành, thi cử đến tình yêu, sự nghiệp, Sakuma luôn coi mọi thứ xung quanh là trò chơi thắng thua. Mặc kệ chuyện có khiến người khác tổn thương hay không, càng chẳng hề quan tâm đến hậu quả hay trách nhiệm gì gì đó, tất cả những gì Sakuma cần là chiến thắng, hết. Có lẽ cũng chính vì thế mà anh ta chưa từng thua cuộc, dù là trước bất kỳ ai. Thế mà, trong một dự án quảng cáo mà Sakuma dồn mọi tâm huyết, anh ta lại bị một kẻ tên Katsuragi Katsutoshi chê bai kém cỏi, sau đó thẳng tay sa thải?! Lần đầu tiên nếm qua mùi vị của kẻ bại trận, cộng với men say sẵn có trong người, Sakuma đã tìm đến nhà Katsuragi trong vô thức, để rồi tình cờ bắt gặp Juri – con gái của Katsuragi - đang cố gắng trốn ra khỏi nhà. Có lẽ chính số phận đã đưa hai kẻ cực kỳ thông minh nhưng lại đang lâm vào bước cùng ấy gặp được nhau. Chuyện gì sẽ xảy ra khi hai bộ não xảo quyệt hạ quyết tâm cùng nhau toan tính cho một kế hoạch điên rồ? Sẽ ra sao khi cảnh sát, con tin, tiền chuộc… tất cả sẽ chỉ là những con tốt thí trong một trò chơi với quy mô không tưởng này? Trò chơi được xoay vần dưới bàn tay của hai kẻ tự mãn, mọi thứ diễn ra đúng như những gì trong kế hoạch. Và khi trò chơi chính thức hạ màn, xin thông báo phần thắng sẽ thuộc về… Khoan đã, hình như cục diện đã bị thay đổi, có điều gì đó không ổn thì phải… Đợi một chút, chuyện quái gì đang xảy ra vậy? Một cuộc đấu trí giữa những “kẻ điên” với trí thông minh tuyệt đỉnh. Một vở kịch xuất sắc với những diễn viên đại tài được ẩn giấu sau lớp mặt nạ. Một màn so tài giữa những kẻ sẵn sàng hy sinh cả mạng sống để trở thành người thắng cuộc. Vẫn là giọng văn cùng khả năng logic đã đi vào huyền thoại của Higashino Keigo, “Tên của trò chơi là Bắt cóc” sẽ đưa bạn vào một câu chuyện với những nút thắt không ngờ và khó đoán đến tận những giây phút cuối cùng! *** Spoil: ( spoil này là phần spoil được công bố trên mạng và bìa sách nhá. Còn chi tiết trong truyện thì ko spoil đâu) Một tác phẩm khá là im hơi lặng tiếng nếu so sánh với các tác phẩm của tác giả Keigo Higashino đã từng được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, câu chuyện về một vụ bắt cóc được tác giả giới thiệu lần đầu tiên vào năm 2002 và đến năm 2017, đã lần đầu tiên được mua bản quyền và dịch ra tiếng Anh. Có thể nói, “ The name of the game is a kidnapping” - tạm dịch là Tên của trò chơi là một vụ bắt cóc - là một tác phẩm không mấy nổi bật so với các anh chị em đình đám và nhận được nhiều giải thưởng, nhưng đây lại là một tác phẩm khá khác lạ và thành công trong việc đánh lừa độc giả một cách ngoạn mục. Câu chuyện bắt đầu với sự thất bại của một nhân viên chuyên nghiệp cấp cao chuyên ngành quảng cáo, anh ấy là một trong những cánh tay đắc lực của công ty, một quân cờ quan trọng và chủ lực trong mọi dự án và là một người khá cầu toàn. Shunsuke Sakuma thất bại không phải bởi vì anh yếu kém, mà là do xui xẻo nên dự án lớn anh rắp tâm theo bao lâu, bổng nhiên bị vỡ kế hoạch và bản thân anh là kẻ bị đá ra khỏi cuộc chơi. Không cam lòng, Shunsuke Sakuma quyết tâm giành lại những gì đã mất và cách nào đó muốn khiến cho Katsutoshi Katsuragi - đối tác lớn và quan trọng của công ty đồng thời là người đã một chân đá bay anh ra khỏi dự án anh vẫn ấp ủ hối hận. Cơ duyên tình cờ, Shunsuke Sakuma gặp gỡ Juri Katsuragi, con gái của Katsutoshi Katsuragi và đã cùng cô dựng lên một vụ bắt cóc tống tiền.  Đối với Shunsuke Sakuma, vụ bắt cóc không phải là một cách để anh với lấy số tiền chuộc khổng lồ, nó căn bản chỉ là trò chơi của một kẻ có tham vọng, có lòng tự trọng quá cao và hơn nữa là một cái đầu nhạy bén của kẻ phạm tội. Như mọi tác phẩm trước, câu chuyện lần này cũng bắt đầu với những tình tiết khá chậm. Tuy văn phong và tình tiết khá chặt chẽ, nhưng không quá mới mẻ và bất ngờ. Khi đọc cũng tự hỏi lòng, vì sao lần này tác giả lại chọn một đề tài tầm thường đến như vậy. Nhưng hoá ra, tất cả ba phần tư diễn biến ban đầu, chỉ là bắt đầu cho điều kinh ngạc phía sau. Nói chung, một tác phẩm không phụ sự kỳ vọng của độc giả, nhưng cũng không vượt được cái bóng quá lớn của những tác phẩm anh em. Điều đặc biệt trong tác phẩm này là có một sự hài hước nhẹ nhàng, một nét lãng mạn ngôn tình nhẹ điểm xuyết và kèm theo là những giây phút hồi hộp và kịch tính hơn những tác phẩm tội phạm đã được xuất bản. Một cú lật khá hay và diễn biến còn bỏ ngỏ sau khi tất cả bí ẩn đều được giải đáp vẫn để lại một chút tiếc nuối, đúng với phong cách của Keigo Higashino. Điểm trừ của tác phẩm: Thoạt tiên đọc thông tin thì thấy lạ, vì ai có theo dõi các sách bản tiếng anh thì sẽ biết rõ chỉ có Minotaur trước giờ mua bản quyền các tác phẩm của Higashino Keigo sensei. Thế nhưng lần này là một nxb hoàn toàn xa lạ - Vertical đột nhiên nhảy ra mua bản quyền một quyển khá là kín tiếng. Gian hàng của Vertical vô cùng phong phú, họ có rất nhiều tác phẩm phiên dịch từ tiếng Nhật ra tiếng Anh, và phần lớn những tác phẩm đó chính là... truyện tranh. Nếu ai đã đọc quen văn phong phiên dịch của dịch giả Alexander Smith ( dịch giả của Minotaur Books) thì dịch giả Jan Mitsuko Cash đã góp phần.... phá hỏng một tác phẩm thú vị. Đánh giá: 7/10 Người viết: Mèo Nơ *** Có vẻ cái tên Higashino Keigo không ít fan ở Việt Nam đâu nhỉ. Trả lời câu hỏi Sự cứu rỗi của thánh nữ có hay hay không? Câu trả lời là có hay. Có vẻ Nhã Nam vẫn là nhà chọn sách tốt trong rất nhiều các tác phẩm của Keigo. Sẽ chỉ nói về Thánh nữ chứ không so sánh nó với tác phẩm nào của Keigo. Cà phê, lại là cà phê. Mình nhớ trong Sự thật về Bebe Donge của Simenon thì người vợ cũng đã đầu độc chồng trong ly cà phê. Sự cứu rỗi của thánh nữ cũng liên quan đến cà phê. Thế nên các quý ông quý bà thích uống cà phê cẩn thận nha, có thể bị độc chết bất cứ lúc nào. Mashiba Yoshiaka, người chồng bị độc chết trên sàn nhà, thạch tín còn sót lại trong cốc cà phê lênh láng bên cạnh. Mọi nghi vấn được tập trung vào hai đối tượng: người vợ Ayane và cô người tình bí mật Hiromi. Vấn đề là cả hai người đều có chứng cớ ngoại phạm vững chắc. Bài toán đặt ra là làm thế nào để hạ độc Yoshitaka và đầu độc bằng cách nào? Vì trong thời điểm xảy ra vụ án không ai có khả năng tiếp cận nạn nhân. Thật ra, trong Sự cứu rỗi của thánh nữ, hung thủ có thể thấy ngay từ đầu. Vấn đề là nguyên nhân và cách thức gây án. Một bài toán vô cùng khó và có những cái không thể ngờ tới. Vẫn là những người phụ nữ. Nếu bạn nào ít nhiều đọc Keigo chắc hẳn sẽ rất ấn tượng với những người phụ nữ trong tác phẩm của ông. Họ thường đẹp và rất nguy hiểm. Sự cứu rỗi của thánh nữ cũng không ngoại lệ. Cô ấy đẹp, thu hút nhưng luôn treo cái chết trên đầu bạn. Thật sự rất nể người phụ nữ này luôn. Làm sao cô ấy có thể kiên trì sống và chịu đựng, chấp nhận cuộc sống với tình yêu và sự thù hận, treo cái chết lơ lửng từng ngày như vậy. Sự cứu rỗi của thánh nữ nằm trong series “Thám tử Galileo” Yukawa. Đọc đến nửa thì vị thám tử này mới nhập cuộc nhưng vô cùng thú vị. Có lẽ bài toán càng hóc búa thì càng thu hút vị thám tử này. Mặc dù khó tin, có thể là “đáp án ảo” chỉ “có thể chỉ xảy ra về mặt lý thuyết nhưng không hề tồn tại trong hiện thực” nhưng chứng minh đáp án đó là ảo lại cho ra một kết quả hết sức kinh ngạc của một sự thật chua xót. Và tất nhiên tác giả cũng có lồng ghép một số kiến thức rất thú vị vào trong vụ án vì thám tử Galileo là giáo sư dạy vật lý ở trường đại học mà. Cứ tưởng đâu đây là vụ án “hoàn hảo”, biết mười mươi mà không đủ bằng chứng để buộc tội gây “ức chế”, nhưng may quá, vẫn còn ánh sáng cuối đường hầm mặc dù sự thật là đau xót. Có một câu hỏi: Đàn ông quan niệm như nào về lập gia đình? Phải chăng họ lập gia đình chỉ vì cần người sinh con? Họ không cần tình yêu? Nếu không sinh được con thì người phụ nữ chẳng qua chỉ là vật trang trí trong ngôi nhà không hơn không kém? Tác phẩm: Phía Sau Nghi Can X Bạch Dạ Hành Bí mật của Naoko Thánh Giá Rỗng Điều Kỳ Diệu Của Tiệm Tạp Hóa Namiya Hoa Mộng Ảo Ngôi Nhà Của Người Cá Say Ngủ Trước Khi Nhắm Mắt Sự Cứu Rỗi Của Thánh Nữ Tên của trò chơi là bắt cóc Ác Ý Ảo Dạ Ma Nữ Của Laplace Phương Trình Hạ Chí Cáp Treo Tình Yêu Trứng Chim Cúc Cu Này Thuộc Về Ai Thư ... Mời các bạn đón đọc Tên Của Trò Chơi Là Bắt Cóc của tác giả  Higashino Keigo.
Ảo Dạ
“Chúng ta không còn lựa chọn nào khác, chỉ có thể đi trên con đường ở trong bóng tối. Dẫu cho bốn phía xung quanh sáng rực như ban ngày, cũng chỉ là ánh sáng không chân thực mà thôi.” Để thoát một khoản nợ, Masaya đã lợi dụng trận động đất kinh hoàng để giết chết ông cậu rồi dàn dựng thành một vụ tai nạn. Nhưng tất cả không qua được mắt Mifuyu, cô gái bí ẩn nhà hàng xóm. Mang theo bí mật của Masaya, Mifuyu cùng anh lên Tokyo, bỏ lại sau lưng một Kyoto hoang tàn sau cơn địa chấn. Song ở nơi đô hội là một chuỗi bi kịch nối tiếp nhau, nơi bóng đen của tội ác trong quá khứ như vũng dầu loang, vĩnh viễn không bao giờ xóa sạch, ngày một lan rộng. Bí ẩn nối liền bí ẩn, mọi người tiếp cận Mifuyu đều gặp chuyện không may, những ai chạm đến quá khứ của cô đều mất tích. Rốt cuộc, cô gái bí ẩn luôn sát cánh bên Masaya trong bóng đêm tăm tối là ai? *** Sơn Lương Review: Đó là một tối thứ 7 hiếm hoi mà mình biết rằng sẽ có chủ nhật trọn vẹn vào hôm sau, nên mình bèn đọc nốt 100 trang cuối của Ảo dạ. Kết thúc lúc 12h48, và dĩ nhiên mình không thể ngủ ngay sau đó. Giữa đêm mình ngồi nhớ lại tất cả những gì đã được biết về Shinkai Mifuyu về những chuyện cô đã làm, và mình thoáng rùng mình khi nhìn lại bìa sách một lần nữa. Cho đến khi ngủ, mình mơ thấy Shinkai Mifuyu tìm cách hại mình, vì mình đã trót biết quá nhiều. Cũng đúng, vì như thói quen lâu nay, mình không bao giờ đọc lời giới thiệu ở bìa 4, sợ bị đóng khung suy nghĩ trước khi đọc. Tối ấy sau khi kết thúc quyển sách, mình mới đọc bìa 4 và thấy cái ý “mọi người tiếp cận Mifuyu đều gặp chuyện không may, những ai chạm đến quá khứ của cô đều mất tích” trong lời dẫn. Vậy là mình đã lỡ “động đến” cô gái bí ẩn luôn trong bóng đêm, mà lòng dạ, thủ đoạn thì ngút trời mất rồi. Thật khó để review sách của Keigo Higashino mà không nói nhiều về nội dung, nên các bạn cân nhắc trước khi đọc tiếp nhé. Ảo dạ được xem là tác phẩm sinh đôi với Bạch dạ hành nhưng ngoài việc có một cặp nhân vật và người nữ nhiều thủ đoạn để đạt được cái mình muốn, thì có nhiều khác biệt. Dù Mifuyu chọn đứng trong bóng tối nhưng Keigo Higashino không giấu tham vọng, các âm mưu và thủ đoạn của cô với độc giả, trái lại dành rất nhiều đất để Mifuyu nêu lên “tuyên ngôn” của mình. Thông qua điều tra viên Kato, Higashino sensei cũng nhiều lần hệ thống lại quá trình, khiến câu chuyện dễ nắm bắt. Hệ thống các nhân vật cũng không quá nhiều, đến nỗi khó nhớ như Bạch dạ hành. Như nhiều câu chuyện khác, Higashino sensei luôn làm như vô tình để các nhân vật nhắc đến một giai đoạn đáng chú ý nào đó, như một cách ngầm thông tin với người đọc bối cảnh của câu chuyện. Với Bạch dạ hành là thời điểm máy tính cá nhân bắt đầu phổ biến, với Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya là kỳ thế vận hội sắp diễn ra, còn Ảo dạ là thời điểm bong bóng kinh tế bị vỡ và nhân loại chuẩn bị bước vào thiên niên kỷ mới cùng nỗi sợ sự cố Y2K. Câu chuyện bắt đầu bằng một bi kịch - một trận động đất kinh hoàng, khiến Masaya phải giết người và từ đó gắn đời mình với Mifuyu, người đã chứng kiến khoảnh khắc anh ra tay sát nhân. Mifuyu sẽ dẫn dắt Masaya cùng xây dựng kế hoạch tương lai mà cô đã vạch ra, sống “theo cách sinh tồn của riêng mình”. "Chúng ta chỉ có thể đi trên con đường ở trong bóng tối. Dẫu cho bốn phía xung quanh sáng rực như ban ngày, cũng chỉ là ánh sáng không chân thực mà thôi". Và từ đó hai người bắt đầu một mối quan hệ mà "khi một người đau khổ, người còn lại sẽ có thể ở phía sau đưa tay giúp đỡ" và “chỉ ở trong bóng đêm mới bộc lộ bản tính với người còn lại". Hay chỉ là Masaya tin thế. Không như câu chuyện cộng sinh kỳ lại của “tôm pháo-cá bống trắng” trong Bạch dạ hành, mà ở đó Ryoji coi mình là tôm pháo, có nhiệm vụ bảo vệ cá bống trắng Yukiho đến chết, mối quan hệ của Masaya và Mifuyu là kẻ thao túng và kẻ phục tùng. Nếu Ryoji xem việc bảo vệ Yuhiko là mục tiêu duy nhất của đời mình, thì Masaya tình nguyện làm “một tên đồng bọn trung thành” không phải vì muốn bảo vệ lớp mặt nạ của Mifuyu, mà “chỉ vì yêu, vì ‘hạnh phúc của hai người’ mà cô luôn nhắc đến, ngoài ra không có lý do nào khác.” Tất cả chỉ đổi đến đắng cay và cay đắng nhất là gen’ya - ảo dạ, những đêm tưởng là hạnh phúc trần đời nhưng hóa ra chỉ là hư ảo. Và giống như nhiều quyển khác của Keigo, mỗi nhân vật đã xuất hiện thì chắc chắn sẽ có vai trò. Luôn sẽ có người làm nhiệu vụ connecting the dot - kết nối các điểm rời rạc với nhau để vén màn bí ẩn. Trong Ảo dạ, không chỉ điều tra viên Kato, là anh chàng Soga mà còn cả chính Masaya, người đã thề trung thành với Mifuyu và tin tưởng có thể cùng Mifuyu có được hạnh phúc, làm công việc đi tìm sự thật đằng sau những bí ẩn đó. Mình ghét Masaya quá nhu nhược nhưng nghĩ lại rằng có phải vì Mifuyu quá đáng sợ? Masaya đáng thương hơn là trách vì bị nắm điểm yếu từ đầu và đã thực lòng mong có thể cùng Mifuyu đắp xây hạnh phúc. Nhân vật Shinkai Mifuyu được xây dựng tận cùng tàn ác, lạnh lùng, mưu mô, thường xuyên làm người đối diện “không rét mà run”. Mifuyu "tuyệt đối không mềm lòng với bất cứ ai. Mặc cho người khác gặp phải bất hạnh thế nào, cô ta hoàn toàn không quan tâm". Cách xây dựng nhân vật quả thật để lại nhiều ấn tượng. Đến mức mình có lúc nghĩ giả thử có gặp một Shinkai Mifuyu trong đời thực, mình sẽ bị bùa mê đến mức nào và gục ngã trước cô ta ra sao? Nhưng điều mình cho rằng còn thiếu là lý do Mifuyu lại hành xử như vậy, dù đã có khát khao từ trước nhưng chẳng lẽ chỉ vì đeo đuổi tham vọng mà tán tận lương tâm đến vậy ư? *** Có vẻ cái tên Higashino Keigo không ít fan ở Việt Nam đâu nhỉ. Higashino Keigo là một tác giả người Nhật Bản được biết tới rộng rãi qua các tiểu thuyết trinh thám của ông. Ông từng là Chủ tịch thứ 13 của Hội nhà văn Trinh thám Nhật Bản từ năm 2009 tới năm 2013. Ông đã thắng giải Edogawa Rampo lần thứ 31 vào năm 1985 cho tiểu thuyết Hōkago. Tác phẩm: Phía Sau Nghi Can X Bạch Dạ Hành Bí mật của Naoko Thánh Giá Rỗng Điều Kỳ Diệu Của Tiệm Tạp Hóa Namiya Hoa Mộng Ảo Ngôi Nhà Của Người Cá Say Ngủ Trước Khi Nhắm Mắt Sự Cứu Rỗi Của Thánh Nữ Tên của trò chơi là bắt cóc Ác Ý Ảo Dạ Ma Nữ Của Laplace Phương Trình Hạ Chí Cáp Treo Tình Yêu Trứng Chim Cúc Cu Này Thuộc Về Ai Thư ... *** Trong nhà xưởng tối tăm, bóng các máy móc đổ thành một hàng dài. Cảnh tượng ấy khiến Masaya liên tưởng đến nghĩa địa về đêm. Có điều, nấm mồ mà cha anh sắp nằm xuống chẳng được bề thế như thế. Bóng những cỗ máy trông như những người hầu trung thành đã mất chủ. Có lẽ chúng cũng có cùng tâm trạng với Masaya, im lìm đón đợi đêm nay. Masaya đưa chén rượu đầy lên miệng. Chỗ sứt trên miệng chén chạm vào môi. Uống cạn, anh thở hắt ra. Bên cạnh chìa ra một chai rượu, rót vào cái chén không của anh. “Sau này việc gì cũng sẽ khó khăn, nhưng cháu đừng nản lòng, phấn chấn lên.” Ông cậu Toshirou của anh nói. Bộ râu che kín cằm của ông ta đã lốm đốm muối tiêu. Mặt ông ta đỏ bừng, hơi thở phả ra mùi cà chua thối. “Cũng làm phiền cậu nhiều rồi ạ.” Masaya nói đãi bôi. “Chuyện này có đáng gì đâu. Cậu đang lo sau này không biết cháu sẽ làm thế nào. Nhưng cháu có nghề trong tay, chắc là không lo tìm việc. Nghe nói có nhà máy bên Nishinomiya đã tuyển cháu rồi à?” “Công việc thời vụ thôi ạ.” “Việc thời vụ cũng được. thời buổi này có bát cơm ăn là khá lắm rồi.” Toshirou khẽ vỗ lên vai Masaya. Masaya thấy không thoải mái khi ông ta chạm vào mình như vậy, nhưng vẫn cười lấy lòng. Trước ban thờ vẫn còn người khác đang uống rượu, đó là ba người có quan hệ thân thiết nhất với ông Yukio, bố Masaya: ông chủ công ty xây dựng, tay buôn sắt thép phế liệu và ông chủ siêu thị. Bọn họ đều thích đánh bài, thường xuyên tụ tập tại nhà Masaya. Hồi việc làm ăn còn thuận lợi, năm người từng cùng đi du lịch Busan. Đêm nay canh trước linh sàng, chỉ có ba người này và vài người họ hàng. Masaya không báo cho quá nhiều người nên vắng vẻ là lẽ đương nhiên, nhưng anh cho rằng kể cả có thông báo hết thì cũng chẳng khác nhau mấy. Đám khách hàng thì khỏi cần phải nói, các đồng nghiệp không có khả năng đến, kể cả những người họ hàng cũng chỉ thắp nhang xong là vội vã ra về, chừng như sợ rằng ở lâu Masaya sẽ mở miệng đòi tiền. Trong đám người thân, chỉ có mình cậu anh ở lại. Còn nguyên nhân ông ta không ra về, trong lòng Masaya hiểu rất rõ. Ông chủ công ty xây dựng đã rót hết chỗ rượu trong chai rượu cuối cùng của nhóm bọn họ, chỉ còn mỗi chai mà Toshirou ôm trong lòng như của báu kia thôi. Ông chủ công ty xây dựng vừa chậm rãi nhấm nháp chén rượu chỉ còn một phần ba, vừa đưa mắt nhìn Toshirou. Toshirou ngồi phịch xuống cạnh bếp lò, vừa nhai mực khô, vừa uống rượu một mình. “Bọn chú phải về đây.” Tay buôn sắt thép phế liệu nói trước. Chén của ông ta đã hết từ lâu. “Đúng vậy.” Hai người còn lại cũng từ từ dợm đứng lên. “Masaya, vậy bọn chú về đây.” Chủ công ty xây dựng nói. “Hôm nay các chú bận rộn như vậy mà vẫn dành thời gian đến đây, cháu vô cùng cảm ơn.” Masaya đứng dậy cúi đầu đáp tạ. “Mặc dù không giúp được việc gì to tát, nhưng nếu có việc gì trong khả năng của bọn chú thì cháu cứ nói, bọn chú nhất định sẽ giúp.” “Đúng đấy, trước đây bọn chú cũng được ông cụ nhà cháu đỡ đần nhiều mà.” Tay buôn sắt thép phế liệu đứng bên cạnh nói. Ông chủ siêu thị lặng lẽ gật đầu. “Các chú nói vậy làm cháu thấy yên tâm hơn nhiều rồi. Đến lúc ấy xin nhờ các chú quan tâm giúp.” Masaya lại cúi đầu tỏ ý cảm ơn. Ba người đàn ông đứng tuổi cũng gật đầu đáp lễ. Sau khi họ ra về, Masaya khóa cửa rồi trở vào nhà. Trong căn nhà nối liền với công xưởng, chỉ có một gian phòng kiểu Nhật rộng chừng sáu chiếu và một gian bếp chật hẹp, trên tầng hai còn hai căn phòng kiểu Nhật liền kề nhau. Ba năm trước, khi bà Sadako mẹ anh chưa qua đời vì bệnh, Masaya còn không có phòng riêng. Trong căn phòng kiểu Nhật đặt ban thờ, Toshirou vẫn đang uống rượu. Mực khô hình như đã hết, ông ta đang vươn tay ra chỗ đậu phộng mà ba người kia để lại. Masaya bắt đầu thu dọn đồ đạc bừa bãi, lúc này Toshirou đột nhiên cất tiếng, giọng rất khó nghe: “Nói thì rõ là hay.” “Dạ?” “Lão già Maeda ấy. Bảo cái gì mà có việc gì trong khả năng bọn chú thì cháu cứ nói, bọn chú sẽ giúp. Đúng là nghĩ một đằng nói một nẻo.” “Chẳng qua là lời khách sáo thôi mà cậu. Bọn họ cũng đang rất kẹt.” “Thế thì chẳng phải đâu. Cứ như lão Maeda ấy, làm mấy vụ lặt vặt, nhưng kiếm được không ít món hời nho nhỏ. Cậu cảm thấy lý ra lão ta đã giúp được bố cháu một tay.” “Bố cháu đâu có muốn dựa dẫm vào những người này.” Toshirou nghe vậy liền lạnh lùng “hừ” một tiếng, nhệch miệng ra nói: “Sao lại thế chứ, cháu không nghe nói gì à?” Những lời này của Toshirou làm Masaya đang xếp dọn đĩa phải dừng lại. “Lúc trong tay không có tiền trả khoản vay mua máy móc, điều đầu tiên anh Yukio nghĩ đến chính là thương lượng với ba người đó. Nhưng mà, bọn họ chẳng hiểu nghe được tin tức ở đâu, tất cả đều đóng cửa không tiếp. Lúc bấy giờ, chỉ cần có người đưa một triệu yên, chắc tình hình đã khác hẳn rồi.” “Cậu à, chuyện này cậu nghe ai nói vậy?” “Bố cháu chứ ai. Anh ấy từng tức giận nói, đám người đó lúc mình làm ăn được thì cười tít mắt quây xung quanh, hễ mình làm ăn sa sút là đổi thái độ ngay.” Masaya gật đầu, lại bắt đầu dọn dẹp. Đây là lần đầu tiên anh được nghe chuyện này, nhưng cũng không ngạc nhiên. Anh vốn dĩ đã không tin tưởng ba người kia, người mẹ đã khuất của anh cũng ghét bọn họ. Câu cửa miệng của mẹ anh là: “Đi với ai cũng thế, người trả tiền bao giờ cũng là bố mày.” “Cậu đói rồi.” Toshirou lầm bầm. Một lít rượu đã uống hết, đậu phộng trong đĩa cũng đã hết, Masaya bỏ cái đĩa không vào khay. “Còn gì ăn được không?” “Có bánh bao thôi.” “Bánh bao hả?” Masaya liếc mắt nhìn Toshirou đang nhíu mày, sau đó bưng cái khay đựng bát đĩa bẩn vào bếp, thả vào bồn nước. Bồn nước lập tức đầy ứ lên. “Masaya, cậu hỏi cháu chút chuyện khác nữa.” Sau lưng anh vang lên tiếng nói. Masaya ngoảnh đầu lại nhìn, thấy Toshirou đã đứng ở cửa bếp từ lúc nào. “Đã nói chuyện với bên công ty bảo hiểm chưa?” Cuối cùng đã đề cập đến chủ đề chính rồi. Masaya thầm nghĩ, nhưng vẻ mặt vẫn tỉnh bơ như không, chỉ lắc đầu: “Vẫn chưa ạ.” Anh cắm điện ấm đun nước, đổ nước nóng bên trong ra, bắt đầu rửa bát đĩa. Căn nhà của gia đình Mizuhara xây từ bốn mươi năm trước, không có vòi nước nóng lạnh. “Cháu đã liên lạc với họ chưa?” “Bận việc nọ việc kia, vẫn chưa lo được ạ. Lúc này nếu người bên công ty bảo hiểm mà đến, lại còn phiền phức ấy chứ.” “Có lẽ vậy, nhưng vẫn nên xử lý cho sớm thì hơn. Thủ tục chậm trễ, tiền bồi thường cũng chậm theo.” Masaya không dừng tay, chỉ im lặng gật đầu. Anh ta hiểu rõ dụng ý của ông Toshirou. “Có hợp đồng bảo hiểm không?” Toshirou hỏi. Masaya dừng tay một thoáng, nhưng ngay sau đó lại bắt đầu cọ rửa chiếc đĩa. “Có ạ.” “Cho cậu xem được không?” “Ừm... để chốc nữa cháu lấy.” “Cậu muốn xác nhận vài chuyện. Những thứ này để mai rửa cũng được, giờ cháu lấy ngay ra cho cậu xem đi. Không thì bảo cậu để ở đâu, cậu tự đi lấy.” Masaya thở dài, buông miếng bọt biển đầy xà phòng xuống. Trong góc căn phòng kiểu Nhật có một tủ trà nhỏ. Đó là đồ mua từ thời bố mẹ anh mới kết hôn, niên đại cũng tương đối xa rồi. Bên trong ngăn kéo nhỏ dưới cùng có một tập hồ sơ màu xanh lam, trong đó cẩn thận lưu giữ các tài liệu hợp đồng như bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm hỏa hoạn và bảo hiểm xe cộ. Mẹ Masaya rất giỏi những công việc cần đến sự cẩn trọng chu đáo thế này. Masaya có cảm giác, sau khi mẹ qua đời, công xưởng mới bắt đầu xuất hiện những sơ suất trong kinh doanh, mặc dù trước đây chỉ cần mẹ có ý kiến gì với công việc là bố anh sẽ lại nổi giận đùng đùng, bảo rằng đàn bà không nên chõ miệng vào chuyện làm ăn. “30 triệu yên à, quả nhiên.” Ngón tay Toshirou kẹp điếu thuốc lá đã châm lửa, liếc nhìn tập hồ sơ. Ông ta có vẻ không vừa ý, có lẽ vì số tiền ít hơn so với dự tính. “Nghe nói đây là bảo hiểm bị yêu cầu tham gia lúc vay tiền ngân hàng.” Masaya nói. “Hồi mở rộng quy mô công xưởng ấy hả?” “Vâng.” Đó là năm 1986, đúng lúc cả nước Nhật đều đang sôi lên sùng sục. Toshirou gật đầu, khép tập hồ sơ lại. Ông ta ngước lên phả ra mấy vòng khói thuốc, đoạn nói với Masaya: “Số nợ còn lại là bao nhiêu?” Trong một khoảnh khắc, con ngươi đục ngầu của ông ta như sáng lóe lên. “Chừng khoảng... 20 triệu.” Tuần trước, họ đã trao đổi với chủ nợ. Lúc đó, Masaya cũng có mặt. “Vậy thì, kể cả trả hết tiền nợ, cũng vẫn còn lại 10 triệu yên.” “Coi như là vậy, nhưng không rõ tình hình thực tế ra sao, cũng không biết tiền bảo hiểm có được chi trả toàn bộ hay không nữa.” “Chắc chắn là sẽ chi trả, có phải là chết kiểu lạ thường gì đâu.” Masaya trầm mặc. Anh muốn nói, không phải chết kiểu lạ thường thì là cái gì nữa? “Masaya à, chắc cháu cũng có nghe nói...” Toshirou cho tay vào túi áo. Masaya cũng đoán được ông ta sẽ lấy ra thứ gì. Không ngoài dự liệu, ông Toshirou móc ra một phong bì màu vàng nâu, rồi rút từ trong đó một tờ giấy gấp gọn gàng, mở ra trước mặt Masaya. “Trước khi mẹ cháu qua đời... chuyện xảy ra ba bốn năm trước rồi... nói là cần một khoản tiền lớn, đã đến hỏi cậu, cậu bèn gom góp cho chị ấy bốn triệu yên. về sau kinh tế sa sút, cậu cũng không tiện thúc giục chị ruột mình trả tiền, vì vậy cứ dây dưa mãi đến hôm nay, nhưng mà, việc làm ăn của cậu cũng không ổn rồi.” Toshirou bán buôn kính mắt và đồng hồ ở vùng Kobe và Amagasaki, giao sỉ cho các cửa hàng bán lẻ trong thành phố, cả ngày từ sáng đến tối lái chiếc xe chở hàng nhỏ đi khắp chốn, nhờ bán nhiều mà tăng thu nhập. Sau khi nền kinh tế bong bóng sụp đổ, thu nhập của ông ta sụt giảm rõ rệt, những cửa hàng bán lẻ kia không thể tiếp tục nhập hàng nữa. Nhưng nguyên nhân Toshirou thiếu vốn để quay vòng không chỉ có vậy. Masaya nhớ hồi trước mẹ anh từng nói, cậu Toshirou chơi cổ phiếu kiếm được khá nhiều tiền, sau khi ăn quen bén mùi, bèn không muốn cố gắng làm việc nữa. “Cậu thật tình không muốn nói những chuyện này.” Toshirou khổ sở chau mày, gãi đầu nói, “Cậu cũng đi vay tiền, hơn nữa còn vay nặng lãi. Nếu mãi không trả, không biết bọn họ sẽ xử lý cậu thế nào, nói thực lòng, cậu cũng khó xử lắm.” “Vâng, cháu hiểu.” Masaya gật đầu, “Sau khi thanh toán hết nợ nần ở chỗ khác, cháu sẽ trả tiền cho cậu.” “Vậy sao? Cháu nói vậy là cậu được cứu rồi.” Toshirou cười nhe cả hàm răng vàng, “Đối phương không phải người bình thường đâu, bọn họ cũng biết là cậu vay tiền cho nhà cháu rồi. Thế nên nếu cậu không trả tiền được, bọn họ sẽ bắt cậu giao giấy nợ ra, cuối cùng lại còn gây phiền phức thêm cho cháu nữa. Bấy lâu nay, cậu vẫn khó xử lắm.” “Chắc chắn cháu sẽ trả cho cậu.” Masaya nhắc lại. “Ừm... tốt quá rồi. Nói ra vào thời điểm thế này, thật tình cậu ngại lắm.” Toshirou trưng ra bộ mặt áy náy, ngón tay kẹp điếu thuốc, hai tay đan vào nhau tỏ ý xin lỗi. Uống nốt ít bia còn sót lại, Toshirou bảo buồn ngủ, rồi đi lên tầng hai. Ngày trước ông ta thường đến đây, đã biết rõ chăn nệm dùng cho khách để ở trong tủ âm tường nào. Không ngờ lại nói mẹ đi cầu xin ông ta, vay một khoản tiền lớn! Bố Masaya có kể lại câu chuyện vay tiền này. Bố mẹ anh nghe Toshirou xúi giục, mua cổ phiếu đầu cơ, không, nói một cách chuẩn xác là bị cuốn vào vụ đầu cơ do Toshirou thao túng. Toshirou nói để ông ta ứng tiền ra trước, bảo ông Yukio viết giấy nợ, hình như còn nói giấy nợ chẳng có ý nghĩa gì to tát, chẳng qua chỉ là hình thức thôi. Ông Yukio có nằm mơ cũng không ngờ lại bị em vợ lừa gạt. Đã đến nước này, ngay cả việc Toshirou có thực sự mua cổ phiếu đầu cơ hay không cũng rất đáng nghi. Masaya chuyển hướng sang chỗ chiếc quan tài rẻ nhất mà nhà tang lễ giới thiệu, khoanh chân ngồi xuống. Gương mặt bố anh trong di ảnh toát lên vẻ trống rỗng. Có thể hình dung, vẻ mặt của ông trước khi chết cũng y như vậy: mất hết tất cả, tuyệt vọng, không còn niềm tin với tương lai. Masaya đứng dậy, mở cánh cửa kính thông sang công xưởng. Không khí lạnh lẽo nhanh chóng bao bọc lấy thân thể, anh rùng mình, đi dép lê vào. Nền nhà xi măng lạnh buốt như băng, mùi dầu máy và bụi bặm xộc vào mũi nồng nặc. Anh không thích thứ mùi này, nhưng từ nhỏ đã ngửi quen rồi. Anh ngửa đầu nhìn lên trần nhà. Xà nhà cốt thép vắt ngang từ trái qua phải. Mặc dù ánh sáng lờ mờ, không nhìn rõ được, nhưng anh có thể vẽ lại trong óc hình dạng của những chỗ gỉ sét và tróc sơn trên xà nhà. Trong đó có một chỗ rất giống bản đồ Nhật Bản. Tối ngày hôm kia, Masaya về nhà, phát hiện ra bên dưới chỗ tróc sơn hình dạng như bản đồ nước Nhật ấy có một sợi thừng buông thõng, bố anh treo lơ lửng ở đó. Mời các bạn đón đọc Sự Cứu Rỗi Của Thánh Nữ của tác giả Higashino Keigo.
Sự Hiểm Ác Xinh Đẹp - Rebecca James
Sau một tấn thảm kịch khủng khiếp đã xô đẩy cả một gia đình từng rất hoàn hảo rơi vào vực thẳm tuyệt vọng, Katherine - một cô gái 17 tuổi, chuyển đến một thành phố khác sinh sống, bắt đầu tại một ngôi trường mới, khởi đầu một cuộc sống mới, hầu mong xóa hết ký ức cũ. Cô đã sống những ngày lặng lẽ ẩn dật cho đến khi gặp Alice - một hotgirl xinh đẹp, quảng giao và rất nổi tiếng trong trường. Alice đã khéo léo đưa Kath ra khỏi bóng tối bằng sự quan tâm nồng nhiệt, sự khích lệ đúng lúc và nhiệt tình sống lúc nào cũng căng tràn. Kath đã kết thân với Alice, và khi tình bạn trở nên khắng khít, cô bàng hoàng khám phá ra một bộ mặt thật của Alice: ích kỷ, tàn bạo, thủ đoạn…Đặc biệt, Alice không thích mình bị coi như một kẻ vứt đi… Tình bạn không còn là cứu cánh của Kath mà đã trở thành một thứ chết người…Cô đã vùng vẫy để ra khỏi cái bẫy của chính mình, và phải trả một giá đắt cho hạnh phúc. Truyện viết lôi cuốn, dành cho bạn đọc trẻ. Tác phẩm này được nhà văn Cecelia Ahern (tác giả của P/s, I love you, Cảm ơn ký ức, Món quà bí ẩn…) khen tặng: “Cực kỳ hấp dẫn”. *** Sự Hiểm Ác Xinh Đẹp sẽ không chỉ được xuất bản mà còn trở thành một hiện tượng xuất bản kỳ lạ và đã châm ngòi cho một cuộc chiến tranh giành bản quyền trên khắp toàn cầu. Tuần trước, C&W mang bản thảo cuốn tiểu thuyết đến hội chợ sách Frankfurt và lập tức nhận được hàng loạt đề nghị mua bản quyền từ rất nhiều nhà xuất bản trên toàn thế giới, trong đó có cả những hãng từng từ chối cô James. Dù đại diện của C&W chưa từng gặp trực tiếp Rebecca James, nhưng cuốn sách của cô sẽ được dịch sang ít nhất 30 thứ tiếng, và các nhà xuất bản sẽ đặt hàng cô viết thêm hàng loạt tiểu thuyết "giật gân tâm lý" tương tự. Nhà xuất bản Bantam Books (Mỹ) quyết tâm đến mức đã trả tới 600.000 USD mua bản quyền cuốn Sự Hiểm Ác Xinh Đẹp và cuốn sách thứ hai mà tác giả James sắp hoàn thành có tên Cooper Bartholomew is dead (Cooper Barthomew đã chết). Tại Ðức, Nhà xuất bản Rowohlt Verlag đã đánh bại sáu đối thủ khác khi bỏ ra 378.000 USD để mua bản quyền Sự Hiểm Ác Xinh Đẹp. Nhà xuất bản lớn như Faber & Faber của Anh và Allen & Unwin của Úc cũng đã mua với mức giá không tiết lộ. Tình hình tương tự cũng diễn ra ở nhiều nước khác như Ý, Anh, Hà Lan... Thậm chí một nhà xuất bản Romania đã tham gia cuộc đấu giá mua bản quyền Sự Hiểm Ác Xinh Đẹp dù chưa đọc một dòng nào trong bản thảo cuốn sách. Với bối cảnh ở Sydney, Úc, cuốn sách kể về tình bạn đầy sóng gió giữa cô gái trẻ cô độc Katherine - có chị bị giết hại dã man - với Alice, một cô gái ăn chơi, rất quyến rũ nhưng tính cách vô cùng đáng sợ. Với đề tài gai góc, giới chuyên gia đánh giá cuốn sách có sức hút lớn đối với cả người lớn và thanh thiếu niên. Một nhà xuất bản đã so sánh Sự Hiểm Ác Xinh Đẹp với loạt tiểu thuyết Twilight (Chạng vạng) cực kỳ ăn khách của tác giả nữ người Mỹ Stephenie Meyer. "Sự Hiểm Ác Xinh Đẹp khiến tôi bị mê hoặc theo cái cách mà không một cuốn sách nào làm được trong nhiều năm qua" - bà Julia Heydon-Wells, giám đốc xuất bản Hãng Faber, nhận xét. Bà Kate Miciak, giám đốc biên tập Hãng Bantam Books, cũng ca ngợi hết lời: "Bạn chỉ cần đọc đoạn mở đầu là lập tức bị cuốn hút với giọng văn mạnh mẽ và không thể nào rời cuốn sách". *** Rebecca James là một nhà văn của tiểu thuyết dành cho người lớn trẻ tuổi người Australia. Từ một nhà thiết kế nhà bếp thất bại, Rebecca James, nữ văn sĩ người Úc, đang trên đường trở thành một J.K. Rowling - tác giả Harry Potter - mới với cuốn tiểu thuyết đầu tay Sự Hiểm Ác Xinh Đẹp. Rebecca James là một nhà thiết kế nhà bếp ở Armidale, Úc, 39 tuổi. Ngoài công việc, niềm đam mê chính của cô là viết truyện và cô mới hoàn thành cuốn sách đầu tay Sự Hiểm Ác Xinh Đẹp, một dạng tiểu thuyết hành động giật gân. Cô đã gửi bản thảo cuốn tiểu thuyết cho rất nhiều nhà xuất bản ở Úc và một số ở Mỹ, nhưng chỉ nhận được những bức thư từ chối lạnh lùng. Tuy nhiên, cuộc đời của bà mẹ có bốn người con của một gia đình đang trong tình trạng phá sản vì suy thoái kinh tế đã thay đổi hoàn toàn khi cô gửi bản thảo Sự Hiểm Ác Xinh Đẹp cho hãng văn học Anh Conville & Walsh (C&W). Dù phải đến năm 2010 cuốn Sự Hiểm Ác Xinh Đẹp mới ra mắt độc giả, nhưng tác giả James đã thật sự thành công bởi các nhà xuất bản lớn trên thế giới đã chấp nhận trả những cái giá rất đắt để mua bản quyền cuốn sách vào thời điểm khủng hoảng tài chính toàn cầu. Mới tháng trước, các hiệp hội tác giả ở Anh đã lên tiếng cảnh báo các nhà xuất bản đang lấy cớ khủng hoảng tài chính để cắt giảm tiền bản quyền và nhuận bút. Sau Sự Hiểm Ác Xinh Đẹp, Rebecca James dự kiến dành cả phần đời còn lại của mình để viết tiểu thuyết. Mời các bạn đón đọc Sự Hiểm Ác Xinh Đẹp của tác giả Rebecca James.
Vụ Án Erwin
Vụ án Erwin (tựa nguyên bản Schlumpf Erwin Mord, sau đó là Wachtmeister Studer) là tác phẩm trinh thám đầu tiên của Friedrich Glauser. Nó cũng là một cột mốc đầu tiên của thể loại trinh thám hình sự phê phán xã hội. Thương gia Witschi bị bắn chết trong khu rừng ở rìa làng Gerzenstein ở Thụy Sĩ. Ông bị cướp tất cả tiền bạc mang theo người. Vào ngày hôm sau, người trong quán rượu “Bären” nhìn thấy Schlumpf Erwin, một anh chàng đã có tiền án trộm cắp, có rất nhiều tiền mang theo người. Schlumpf bỏ chạy trước khi cảnh sát đến tìm anh ta ở phòng trọ, nhưng rồi lại bị hạ sĩ Studer bắt được và đưa về trại tạm giam. Tại đây, Schlumpf toan treo cổ tự tử nhưng không thành vì Studer đã kịp thời cứu anh ta trong giây phút cuối cùng.   Trực giác cho Studer biết rằng anh chàng Schlumpf này vô tội. Nhưng khi về làng Gerzenstein để điều tra thì càng lúc vụ việc lại càng rối rắm hơn. Schlumpf lại yêu chính cô con gái của nạn nhân bị bắn chết. Người anh của cô và bà vợ của Witschi dường như giấu giếm điều gì đó. Không những thế mà cả ông già Ellenberger, ông chủ lao động của Schlumpf, ông trưởng làng, người thầy giáo làng, tất cả mọi người đều có dính líu như thế nào đó vào vụ việc này. Ai dường như cũng che giấu điều gì đó và đều muốn lái công cuộc điều tra của Studer đi theo một chiều hướng nhất định. Đây là một quyển tiểu thuyết trinh thám khiến cho độc giả phải cùng suy luận, đoán xem ai là thủ phạm. Người đọc bị lôi cuốn theo những dấu vết sai lầm, được mớm cho những chỉ dẫn nào đó, ngạc nhiên vì những bước ngoặc mới trong cuộc điều tra, và thế là lại phải quay lại từ đầu. Căng thẳng, thú vị vâng, buồn cười xuất phát từ công việc điều tra của Studer, chứ không phải từ máu me, bạo lực hay rùng rợn như những tiểu thuyết hình sự hiện đại. Tuy vậy, tác phẩm vẫn có một kết cuộc khó lòng đoán trước, nhưng hợp lý và nhất quán. “Vụ án Erwin” lôi cuốn người đọc cũng từ các tương phản trong nông thôn Thụy Sĩ những năm 30 của thế kỷ trước. Friedrich Glauser đã mang ít nhiều nét hiện thực của xã hội thời đó vào trong quyển tiểu thuyết, mô tả một ngôi làng với những người dân của nó, với nhiều mối quan hệ rối rắm phức tạp, những xung đột ngấm ngầm cũng như những số phận con người mà người ta không muốn hé lộ ra cho người ngoài biết. Không những là một quyển tiểu thuyết trinh thám đầy thú vị và nhiều bất ngờ, đây còn là một bức tranh hài hòa về tập tục và lối sống ở nông thôn Thụy Sĩ. Một quyển tiểu thuyết hình sự hay, với giọng văn miêu tả nổi bật, mang nhiều nét duyên dáng cũng như buồn cười bên cạnh câu hỏi gây đau đầu hầu như suốt cả tác phảm: Ai là thủ phạm? Ngay từ lúc mới ra đời, Vụ án Erwin đã nhận được nhiều lời khen ngợi. Ví dụ như nhật báo “Der Bund” vào ngày 10 tháng 12 năm 1936 đã viết rằng “Quyển tiểu thuyết này nổi bật lên trên mức trung bình của ‘văn học trinh thám’ quen thuộc, và không chỉ đơn giản là một vụ bí ẩn có sức lôi cuốn đến nghẹt thở theo một mô hình gương mẫu. Glauser còn nâng truyện của ông lên đến một mức nghệ thuật, mà người viết nhiều tác phẩm Edgar Wallace sẽ mãi mãi không sánh kịp và cả một Conan Doyle cũng chỉ ngang bằng trong những khoảnh khắc hiếm hoi. Là một bậc thầy trong phân tích, Glauser thêm vào đó còn là một nhà thơ có nhiều tình cảm nồng ấm và có tài quan sát tuyệt vời.” Vụ án Erwin đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và đã được chuyển thể phim ngay từ năm 1939. *** MỘT NGƯỜI  KHÔNG CÒN MUỐN SỐNG NỮA Người cai tù có cái cằm ba ngấn và cái mũi đỏ lầu bầu điều gì đó nghe giống như “lúc nào cũng gấp rút”, – vì Studer lôi ông ta ra khỏi bữa ăn trưa. Nhưng ít ra thì Studer cũng là một hạ sĩ điều tra của Cảnh sát Tiểu bang Bern, vì vậy không thể cứ xua đuổi ông ấy đi như xua tà đuổi ma được. Thế là cai tù Liechti đứng dậy, đổ đầy rượu vang đỏ vào ly uống nước, uống một hơi cạn cả ly, cầm lấy xâu chìa khóa và cùng đi đến chỗ tù nhân Schlumpf, người mà ông hạ sĩ vừa mới bàn giao cách đây chưa tới một giờ đồng hồ. Lối đi… Những lối đi dài tối tăm… Những bức tường thật dày. Lâu đài Thun dường như đã được xây cho sự vĩnh cửu. Cái giá lạnh của mùa đông ở khắp nơi. Thật khó tưởng tượng được, rằng ở ngoài kia đang có một ngày tháng Năm ấm áp ở trên hồ nước, rằng người ta đang đi dạo, thanh thản, rằng có những người khác đang nằm đong đưa trong những chiếc thuyền trên mặt nước, và phơi nắng để có được một làn da nâu. Cửa phòng giam mở ra. Studer dừng lại ở ngưỡng cửa một khoảnh khắc. Hai thanh sắt ngang, hai thanh sắt dọc băng ngang qua cái cửa sổ nằm ở trên cao. Có thể nhìn thấy mái của một ngôi nhà – với những viên gạch ngói đen, cũ kỹ – và bầu trời bay phấp phới ở trên như một mảnh vải xanh sáng chói mắt. Có một người bị treo lủng lẳng ở trên thanh sắt phía dưới! Chiếc thắt lưng da được cột chặt và tạo thành một nút thắt. Một thân thể tối tăm nổi bật trên bức tường được quét vôi trắng. Đôi chân nằm yên trên giường, vặn vẹo một cách khác thường. Và cái khóa thắt lưng sáng óng ánh ở sau gáy người bị treo cổ, vì có một tia nắng mặt trời chiếu vào nó từ ở trên cao. “Trời ơi!”, Studer kêu lên, lao tới trước, nhảy lên giường – người cai tù kinh ngạc trước sự nhanh nhẹn của người đàn ông đã lớn tuổi – ôm chặt lấy thân hình đó bằng cánh tay phải, trong khi bàn tay trái tháo cái nút thắt ra. Studer văng tục, vì bị gãy mất một cái móng tay. Rồi ông bước xuống giường và nhẹ nhàng đặt cái thân thể bất động đó xuống. “Nếu như các anh không quá lạc hậu đến như thế này”, Studer nói, “và ít nhất là gắn lưới trước cửa sổ, thì những việc như thế này đã không xảy ra. – Này! Bây giờ thì hãy chạy đi, Liechti, và gọi bác sĩ lại đây!” “Vâng, vâng”, người cai tù sợ sệt nói và khập khiễng đi ra. Đầu tiên, ông hạ sĩ điều tra tiến hành hô hấp nhân tạo. Việc đó giống như một phản xạ. Một cái gì đó xuất phát từ thời mà ông còn học khóa cấp cứu. Và mãi năm phút sau Studer mới sực nhớ ra, đặt tai lên ngực của con người đang nằm đó và lắng nghe xem tim có còn đập không. Có, nó còn đập. Chậm. Nghe giống như tiếng tích tắc của một cái đồng hồ mà người ta đã quên lên dây cót; Studer tiếp tục bơm với hai cánh tay của người đang nằm. Chạy ngang qua ở dưới cổ, từ tai này qua đến tai kia, là một cái vạch đỏ. “Schlumpf à!”, Studer nói nhỏ. Ông lấy cái khăn tay ra khỏi túi, lau trán mình trước, rồi lau qua gương mặt của anh chàng đó. Một gương mặt còn non nớt, trẻ, có hai nếp nhăn to trên sống mũi. Bướng bỉnh. Và trắng nhợt. Đó chính là Schlumpf Erwin, người mà hôm nay người ta đã bắt giữ trong một cái làng ở vùng Oberaargau. Schlumpf Erwin, bị cáo buộc giết chết Witschi Wendelin, một thương gia và người đi bán dạo ở Gerzenstein. Ngẫu nhiên mà người ta đã đến đúng lúc! Trước đây một giờ đồng hồ, người ta đã giao tên Schlumpf đúng theo quy định cho nhà giam, người cai tù với cái cằm ba ngấn đã ký tên – người ta có thể thong dong lên tàu hỏa trở về Bern và quên đi toàn bộ sự việc. Đó không phải là lần đầu tiên người ta bắt người, cũng sẽ không phải là lần cuối cùng. Tại sao người ta lại linh cảm là phải tới thăm Schlumpf Erwin thêm một lần nữa? Ngẫu nhiên? Có thể… Ngẫu nhiên là gì?… Không thể chối cãi được là người ta đứng đối diện đầy cảm thông với số phận của Schlumpf Erwin. Nói cho đúng hơn, người ta đã yêu mến Schlumpf Erwin… Tại sao?… Trong phòng giam, Studer dùng tay vuốt gáy vài lần. Tại sao? Vì người ta không có con trai? Vì người bị bắt cứ quả quyết là mình vô tội trên suốt cả chuyến đi? Không. Tất cả họ đều vô tội. Nhưng những lời quả quyết của Schlumpf Erwin nghe có vẻ thành thật. Mặc dù… Mặc dù trường hợp này thật ra thì đã rõ hoàn toàn. Người ta tìm thấy thương gia kiêm người bán dạo Wendelin Witschi vào sáng ngày thứ Tư với vết đạn bắn ở phía sau tai phải, nằm sấp, trong một khu rừng ở gần Gerzenstein. Túi của nạn nhân trống rỗng… Vợ của người bị giết quả quyết rằng chồng bà có mang theo trên người ba trăm franc Thụy Sĩ. Thế rồi vào tối thứ Tư, Schlumpf đổi một tờ một trăm franc trong quán trọ “Bären”… Vào sáng ngày thứ Năm, cảnh sát muốn bắt anh ta, nhưng Schlumpf đã chạy trốn. Vì vậy mà ông đại úy cảnh sát đã tới gặp hạ sĩ Studer trong phòng làm việc của ông này vào chiều tối ngày thứ Năm: “Studer này, anh phải đi ra ngoài hít thở không khí trong lành. Sáng sớm ngày mai, anh đi bắt tên Schlumpf Erwin nhé. Sẽ tốt cho sức khỏe của anh thôi. Anh béo lên đấy…” Đúng là như vậy, rất đáng tiếc… Tất nhiên, ở những vụ bắt giữ như thế này thì thường người ta gửi binh nhì đi. Nhưng lần này thì ông hạ sĩ điều tra phải đi… Cũng là ngẫu nhiên?… Số mệnh?… Đủ rồi, người ta vướng vào anh chàng Schlumpf, và người ta đã yêu mến anh chàng này. Một sự thật! Người ta phải chấp nhận sự thật, ngay cả khi chúng chỉ liên quan đến cảm xúc. Tên Schlump! Chắc chắn không phải là một người có giá trị cao! Ở Sở Cảnh sát Tiểu bang, người ta quá quen thuộc với hắn. Một đứa con ngoài giá thú. Chính quyền hầu như phải liên tục làm việc với hắn. Hồ sơ trong Sở An sinh Xã hội chắc chắn phải nặng ít nhất là một ký rưỡi. Lý lịch? Mời bạn đón đọc Vụ Án Erwin của tác giả Friedrich Glauser & Phan Ba (dịch).