Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vụ Án Viên Nhộng Xanh

Vụ án viên nhộng xanh là một trong các tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng nhất của John Dickson Carr. Trong tác phẩm, Marcus Chesney – chủ sở hữu những nhà kính trồng đào tại Sodbury Cross – đã bị đầu độc chết trong một màn trình diễn do chính mình sắp đặt. Khi ấy, Marcus đang dùng một loạt bẫy tâm lí để chứng minh lập luận: nhân chứng không thể kể lại chính xác những điều đã xảy ra ngay trước mắt mình. Và tệ thay, ông đã đúng. Tất cả các nhân chứng đều mục kích vụ sát nhân nhưng dường như họ đều đang đeo một cặp kính đen, mọi thứ đều bị che phủ và lừa mị. Thấy vậy nhưng không hẳn là vậy, nghe thế nhưng chưa chắc là thế. Nhân chứng bị bưng tai bịt mắt bằng các bẫy gài liên hoàn dù cho họ vẫn mở mắt lắng tai. Qua Vụ án viên nhộng xanh, John Dickson Carr không chỉ dẫn dắt người đọc vào ma trận của những lời khai không trùng khớp mà còn nêu bật được một lập luận mới mẻ về giá trị của các nhân chứng trong làng văn trinh thám. *** Câu chuyện bắt đầu, theo trí nhớ của người đàn ông, trong một căn nhà ở thành phố cổ Pompeii. Anh ta không bao giờ quên được buổi chiều yên tĩnh, nóng bức đó, khi những giọng nói tiếng Anh phá vỡ sự tĩnh mịch của “Con Đường Hầm Mộ”. Vạt trúc đào nở hoa đỏ rực trong khu vườn đổ nát, và cô gái mặc váy trắng đứng im lìm giữa nhóm người đeo kính râm, trông như thể bị bao quanh bởi những chiếc mặt nạ. Người đàn ông nhìn thấy quang cảnh trên đã đến Napoli công tác được một tuần. Công việc anh ta cần làm ở Napoli không hề liên quan đến chuyện này. Nhưng công việc đó chiếm hầu hết thời gian của anh, và mãi đến buổi chiều thứ hai, ngày 19 tháng Chín, anh mới thư thả được đôi chút. Tối ấy người đàn ông này dự định sẽ đến Rome, và rồi bay qua Paris và về đến London. Chiều hôm đó anh đang ngắm cảnh trong tâm trạng thảnh thơi, và đối với anh quá khứ luôn có sức hút mãnh liệt không hề thua kém hiện tại. Đó là nguyên nhân tại sao, vào lúc yên tĩnh nhất trong ngày, dưới sự êm ả của ánh mặt trời rực rỡ, anh lại nhận ra mình đang đi trên Con Đường Hầm Mộ. Con Đường Hầm Mộ nằm bên ngoài những bức tường của thành Pompeii. Nó bắt đầu từ cổng Herculaneum và thoải xuống một ngọn đồi thấp, trông giống một cái máng xối lát gạch rộng với vỉa hè ở hai bên. Những cây bách mọc khắp chỗ và khiến con đường chết chóc này dường như có thêm phần sinh khí. Đây là nơi xây cất những hầm mộ của quý tộc La Mã, những bệ thờ thấp hai bên đường chưa đến mức hóa thành phế tích. Nghe tiếng chân mình vang vọng, người đàn ông mơ hồ có cảm giác mình như lạc vào một vùng đất bị quên lãng. Ánh nắng chói chang, nóng nực chiếu xuống những viên đá lát đường đã mòn võng vì bị không biết bao nhiêu bánh xe ngựa nghiến xuống, từ đám cỏ trồi lên từ các kẽ nứt, những con thằn lằn nâu nhỏ xíu phóng qua trước mắt anh ta nhanh như vệt ảnh tối màu. Phía trước anh ta, đằng sau những lăng mộ là ngọn núi Vesuvius mang màu xanh xỉn trong màn sương từ đất bốc lên vì thời tiết oi nồng, nhưng không quá gây ấn tượng với anh ta vì nó còn cách đây chừng năm, sáu dặm. Người đàn ông thấy ấm áp và hơi ngầy ngật buồn ngủ. Những con đường dài với những cửa tiệm chỉ còn trơ lại bốn bức tường này, những khoảnh sân hoa lệ điểm xuyết những hàng cột chống đây đó kia, tất cả đều tác động đáng ngại đến trí tưởng tượng của anh ta. Anh ta đã lang thang hơn một tiếng đồng hồ; và từ khi đặt chân vào thành phố cổ này, anh ta chưa hề thấy bóng dáng của bất cứ sinh vật sống nào, ngoại trừ một nhóm người bí ẩn đi cùng hướng dẫn viên thình lình xuất hiện ở cuối đường Vận Mệnh rồi biến mất một cách đầy ma quái giữa những tiếng rào rạo của đám đá nhỏ. Con Đường Hầm Mộ dần đưa anh đi tới cuối thành phố. Đang cân nhắc xem nên ngừng cuộc thăm thú và trở về, hay quay gót tiếp tục khám phá thêm, đột nhiên anh ta trông thấy một căn nhà nằm giữa những ngôi mộ. Ngôi nhà đó khá lớn, đúng kiểu trang viên ngoại ô biệt lập những quý tộc La Mã hay xây dựng hồi thành phố còn phồn thịnh. Anh ta bước lên bậc thềm và vào nhà. Khoảnh sân nhỏ trong nhà tối tăm và bốc mùi ẩm ướt, lại không được giữ gìn tốt như những ngôi nhà tôn tạo anh đã nhìn thấy. Nhưng phía bên kia khoảnh sân là khu vườn cảnh có những hàng cột đá trang trí bao quanh, tắm trong ánh mặt trời rực rỡ. Khu vườn khá um tùm, mọc đầy trúc đào nở hoa đỏ rực và xung quanh phế tích đài phun nước là những cây tùng châu Á. Đột nhiên anh nghe có tiếng sột soạt trên đám cỏ mọc cao, và những giọng nói tiếng Anh. Cạnh đài phun nước, một cô gái mặc đồ trắng đang đứng quay mặt về phía anh ta. Và anh ta thấy cô ấy không chỉ đẹp mà còn có nét thông minh lanh lợi. Mái tóc nâu sẫm được rẽ đôi và vén ra sau tai, tạo thành những lọn xoăn nhỏ buông lơi qua gáy. Cô có khuôn mặt trái xoan, đôi môi nhỏ, căng mọng, và đôi mắt to thể hiện nét giễu cợt bất chấp gương mặt đang nghiêm nghị. Đôi mắt cô mang sắc xám, với mí mắt hơi dày và mang nét suy tư. Tư thế tạo dáng của cô rất đơn giản, chỉ vu vơ xòe vạt váy. Nhưng rõ ràng cô gái đang rất căng thẳng, chỉ cần nhìn vòng cung lông mày của cô là biết. Đối diện với cô gái là một chàng trai trẻ tóc đen mặc bộ vét vải nỉ xám, đang cầm chiếc máy quay và dán mắt vào ống ngắm. Chiếc máy quay bắt đầu kêu xè xè và phát ra tiếng lách cách nho nhỏ. Với má tì vào một bên máy, chàng trai trẻ nói với cô gái qua khóe miệng. “Này, em làm gì đi chứ!” Anh chàng thúc giục. “Mỉm cười, cúi đầu hay châm thuốc hoặc gì cũng được, nhưng hãy làm gì đó! Nếu em chỉ đứng yên đấy thì có khác gì chụp ảnh đâu.” “Nhưng, George, em biết làm gì bây giờ?” “Anh vừa nói với em còn gì. Mỉm cười hay cúi đầu hoặc… ” Rõ ràng cô gái đang bị ảnh hưởng bởi Hội chứng Tự ý thức, điều mà mọi người thường mắc phải khi họ biết rõ máy quay sẽ ghi lại bất cứ chuyển động nào trên cơ thể mình. Lúc đầu khuôn mặt cô có vẻ cực kì lo lắng, sau đó cô xoay xở để mỉm cười với vẻ hối lỗi. Cô nhấc chiếc túi xách màu trắng của mình lên và ve vẩy nó trong không khí. Sau đó cô ngó quanh tìm cơ hội lảng đi, và cuối cùng quyết định nhìn thẳng về hướng chiếc máy quay rồi cười lớn. “Chúng ta đang sử dụng hết phim rồi,” chàng trai rên lên, cứ như một nhà sản xuất phim. Người quan sát đứng ở cửa ra vào, cách nhóm người trong khu vườn khoảng hơn chục bước chân, bỗng nhiên tin chắc rằng cô gái này đang ở trong tình trạng căng thẳng đầu óc nguy hiểm, rằng cô ấy chỉ giả vờ khỏe mạnh; và rằng chiếc máy quay phim nhỏ đứng yên một chỗ không ngừng kêu lách cách đang bắt đầu ảnh hưởng đến cô, tựa như cơn ác mộng kinh hoàng có một con mắt cứ nhìn mình chằm chằm. “Sao, em có thể làm gì được?” “Đi dạo xung quanh, hoặc làm gì đó chẳng hạn. Di chuyển qua đó, đến bên phải. Anh muốn quay được những cây cột trụ đằng sau em.” Một thành viên khác trong nhóm, người đã đứng chống nạnh quan sát mọi chuyện nãy giờ, bật ra một tiếng khịt mũi. Đó là một người đàn ông nhỏ bé có vẻ lanh lợi và chiếc kính đen đang đeo giúp che đậy sự thật rằng ông già hơn rất nhiều so với bộ quần áo nghỉ mát đang mặc trên người. Bạn có thể thấy được điều đó qua làn da nhăn nheo chảy xệ dọc quai hàm, và qua đuôi tóc lốm đốm bạc dưới vành mũ cói sụp xuống trên đầu ông. “Hời hợt!” ông ta nói với vẻ khinh miệt. “Đó là thứ cậu đang cố làm: một kẻ hời hợt. Cậu muốn quay những cây cột sau lưng con bé, hả? Cậu không muốn có hình ảnh của Marjorie. Cậu thậm chí cũng không muốn có hình ảnh ngôi nhà cổ ở Pompeii. Thứ cậu muốn chỉ là hình ảnh Marjorie trước một căn nhà Pompeii, để chứng tỏ mình từng ở đó. Tôi cho rằng điều đó thật kinh tởm.” “Như vậy thì có gì sai?” Một giọng nói vang như sấm phát ra. Giọng nói đó là của một người đàn ông cao lớn và vạm vỡ có bộ râu hoe đỏ, người đứng đối diện cặp đôi đang bị mắng. “Thì hời hợt chứ sao,” người đàn ông đội mũ cói nói. “Em hoàn toàn không đồng ý với anh,” người đàn ông vạm vỡ đáp lời. “Và em cũng chẳng hiểu nổi thái độ của anh, Marcus. Cứ mỗi lần chúng ta đến được nơi nào đó có vài cảnh đẹp, anh lại muốn tránh xa chúng ra (nếu em hiểu đúng) chỉ bởi vì đó là địa điểm tham quan. Vậy chúng ta chỉ được tìm hiểu về địa ngục thôi chắc,” ông ta gầm lên giữa khu vườn, “hay là anh thích đến nơi không có mấy địa điểm ngắm cảnh hơn? Anh phản đối việc hàng ngàn người tìm đến chỉ để nhìn thấy những quang cảnh đó. Nhưng có bao giờ anh nghĩ rằng, nếu hàng ngàn người đến đây chỉ để nhìn tận mắt một địa điểm hàng nghìn năm lịch sử, thì có thể là do nó có thứ gì đó đáng xem không?” “Ăn nói cho cẩn thận,” người đàn ông đội mũ cói nói. “Và dừng ngay trò la hét đi. Cậu không hiểu, và sẽ không bao giờ hiểu được. Chẳng hạn như, cậu đã thấy được gì? Hoặc là, cậu có biết bây giờ chúng ta đang ở đâu không?” “Dễ ợt,” người kia nói. “Anh bạn trẻ, chỗ này là chỗ nào?” Người đàn ông vạm vỡ quay sang hỏi chàng thanh niên trẻ đang cầm máy quay phim. Người này đã miễn cưỡng dừng việc chụp hình cô gái lại, bây giờ cô ấy đang cười to một cách thoải mái. Anh ta cất máy quay vào chiếc túi đeo vai, sau đó rút từ trong túi áo ra một cuốn sách hướng dẫn du lịch và cần mẫn lật qua lật lại các trang. Sau đó anh ta hắng giọng. “Số ba mươi bốn, hai sao. Trang viên của Arrius Diomedes,” anh ta đọc với vẻ xúc động sâu sắc. “Ngôi nhà có tên gọi đó bởi vì…” “Vớ vẩn,” người đàn ông vạm vỡ lên tiếng. “Chúng ta vừa tham quan cái nhà đó mười phút trước. Chỗ họ tìm thấy mấy bộ xương ấy.” “Những bộ xương nào?” Cô gái phản đối. “Chúng ta có thấy bộ xương nào đâu, bác sĩ Joe.” Sau cặp kính râm tối màu, khuôn mặt của người đàn ông vạm vỡ dường như đang bốc hỏa. “Tôi không nói chúng ta đã nhìn thấy những bộ xương,” ông ta đáp, điều chỉnh lại chiếc mũ bằng vải tuýt trên đầu. “Tôi chỉ nói đó là nơi người ta tìm thấy mấy bộ xương. Chỗ ngay dưới đường ấy, cô không nhớ à? Tro nóng từ núi lửa nhốt những người nô lệ ở trong, sau đó các nhà khảo cổ tìm thấy họ, la liệt khắp sàn nhà như những bộ ki trên sân bowling. Ngôi nhà có những cây cột sơn màu xanh lá cây đó.” Người đàn ông già nhỏ con, lanh lợi đội mũ cói khoanh tay lại. Trong một thoáng, khuôn mặt ông ta thoáng lên vẻ ác ý rõ ràng. “Có thể thú vị với cậu, Joe, nhưng họ thì không.” “Không cái gì?” bác sĩ Joe gặng hỏi. “Không hứng thú với căn nhà xanh lá bạc màu. Hết lần này đến lần khác tôi đã chứng minh cho luận điểm của mình,” người đàn ông nhỏ con tiếp tục nói, “rằng những con người bình thường, như cậu – hay cậu ta, hoặc con bé – hoàn toàn không thể thuật lại chính xác những điều đã nhìn hay nghe được. Cậu không quan sát. Chính xác hơn là cậu không thể quan sát. Nhỉ, giáo sư?” Ông ta quay đầu lại và liếc nhìn về phía sau. Nhóm này còn hai người đàn ông khác nữa, và họ đang đứng ngay trong bóng râm của những mái hiên, đằng sau hàng cột bao quanh khu vườn. Người quan sát hầu như không ý thức được sự tồn tại của họ; anh không nhìn được họ rõ như những người đang đứng dưới ánh sáng mặt trời kia. Anh chỉ nhận thấy một người trạc trung niên, còn người kia trẻ. Họ đang dùng kính lúp nghiên cứu một khối đá hay mảnh dung nham nào đó, có vẻ như họ đã nhặt được nó từ hàng lan can nối những cây cột. Cả hai đều đang đeo kính râm đen. “Đừng quan tâm đến trang viên của Arrius Diomedes nữa,” một giọng nói vang lên từ bên trong lan can. “Căn nhà này là của ai thế?” “Giờ cháu đang tìm đây,” người thanh niên trẻ với máy quay phim và cuốn sách hướng dẫn du lịch tìm kiếm một cách nhiệt tình. “Hồi nãy cháu lật sai trang. Đây là số ba chín, đúng không? Đúng vậy. Đây rồi. Số ba mươi chín, ba sao. Nhà của kẻ đầu độc Aulus Lepidus.” Xung quanh bỗng nhiên trở nên cực kì yên lặng. Cho đến lúc này, đám người trông có vẻ giống một gia đình – hoặc – một nhóm bạn, với những thành viên lớn tuổi nóng tính có chút bực bội bởi ảnh hưởng của thời tiết hoặc sự mệt mỏi của chuyến đi. Nếu đây là một gia đình, theo thái độ mà họ nói chuyện với nhau, có thể suy ra rằng bác sĩ Joe và người đàn ông nhỏ con đội mũ cói (tên là Marcus) là hai anh em. Cô gái được gọi là Marjorie cũng có thể có quan hệ họ hàng với hai người đó. Không ngạc nhiên lắm. Tuy nhiên, khi những từ ngữ trong cuốn sổ hướng dẫn du lịch được đọc lớn lên, rõ ràng không khí giữa họ bỗng trở nên lạnh lẽo và u ám hơn cái sân này rất nhiều. Chỉ có chàng trai trẻ cầm cuốn sách là không ý thức được điều đó. Mọi người còn lại thì đều quay đầu nhìn quanh; và sau đó hướng về cùng một chỗ. Bốn cặp mắt kính đen nhìn thẳng về hướng cô gái, mặc dù cô đứng ngay chính giữa mọi người. Ánh sáng mặt trời lia trên bề mặt những cặp kính, khiến chúng có vẻ tối tăm và hung hãn như những chiếc mặt nạ. Bác sĩ Joe khó khăn lên tiếng: “Nhà của ai cơ?” “Kẻ đầu độc,” chàng trai trẻ nói. “Bằng hình thanh kiếm và cây liễu lột vỏ (‘lepidus’ nghĩa là ‘tước vỏ’ ‘làm bóng’, nghĩa củ là ‘dí dỏm’ hoặc là ‘dễ chịu’) nằm trên vỉa hè lát đá ghép mảnh, Mommsen đã xác định trang viên này thuộc quyền sở hữu của…” “Biết rồi, nhưng mà ông ta đã làm gì?” “… người, theo Varro, đã giết năm thành viên của gia đình mình bằng cách cố ý bỏ thuốc độc vào món súp nấm,” chàng trai trẻ tiếp tục. Anh ta ngẩng đầu nhìn xung quanh với vẻ hứng thú, như thể mong được thấy các thi thể vẫn đang nằm ở đâu đó. “Ngay tại đây, điều này hay ho đây!” Cậu ta nói thêm. “Cháu nghĩ thời đó việc đầu độc hàng loạt diễn ra khá dễ dàng.” Và sau đó, người thanh niên đột nhiên biết rằng có điều gì đó không đúng đang xảy ra; lông tơ sau gáy anh ta dường như dựng đứng hết cả lên. Anh ta gập cuốn sách lại và nhẹ giọng hỏi. “Có vẻ như,” anh ta buột miệng nói. “Có vẻ như, cháu đã nói điều gì đó không phải sao?” “Dĩ nhiên là không,” Marjorie trả lời với vẻ điềm tĩnh tuyệt vời. “Ngoài ra, sở thích của bác Marcus là nghiên cứu về các tội ác. Đúng không ạ?” “Đúng vậy,” bác Marcus gật đầu. Ông quay sang nói với chàng trai trẻ. “Nói cho tôi biết, cậu… gì nhỉ, tôi cứ quên tên cậu hoài?” “Bác biết rõ tên anh ấy mà,” Marjorie la lên. Nhìn vào sự kính trọng thái quá mà chàng thanh niên dành cho Marcus, người quan sát có thể nhận ra Marcus không chỉ là bác của Marjorie, ông ấy hành động như cha mẹ của cô vậy. “Harding, thưa bác. George Harding,” chàng trai trả lời. “A, đúng rồi. Giờ thì, cậu Harding, nói cho tôi biết, cậu từng nghe đến một nơi gọi là Sodbury Cross, gần Bath bao giờ chưa?” “Không, thưa bác. Sao bác lại hỏi thế?” “Chúng tôi đến từ nơi đó,” Marcus nói. Ông ta thoăn thoắt bước đi và ngồi xuống mép đài phun nước với tư thế như thể đang chuẩn bị đọc một bài diễn văn dài. Ông bỏ cả mũ và kính mát xuống rồi đặt chúng nằm thăng bằng trên đầu gối mình. Việc tháo bỏ phụ kiện che mặt giúp người quan sát nhận ra Marcus có một mái tóc xám thẳng trông như bướu lạc đà, có lẽ sáu mươi năm chải đầu cũng không thể khuất phục được mái tóc đó. Đôi mắt xanh của ông rất sáng sủa, thông minh và ác ý. Thỉnh thoảng, ông ta lại dùng tay chà xát làn da nhăn nheo ở quai hàm mình. “Giờ, cậu Harding,” ông tiếp tục, “chúng ta hãy đối mặt với sự thật này. Tôi giả sử như mối quan hệ giữa cậu và Marjorie không chỉ là loại tán tỉnh bất chợt trên tàu. Tôi giả sử là cả hai đứa đều nghiêm túc, hoặc hai đứa đều nghĩ là mình nghiêm túc.” Có một sự thay đổi khác nữa lại diễn ra trong nhóm người. Sự thay đổi đó cũng ảnh hưởng đến hai người đàn ông đứng cạnh những cây cột bao quanh khu vườn. Một trong số họ (người quan sát nhận thấy) là một người đàn ông trung niên có vẻ ngoài vui vẻ với chiếc đầu hói và có đội mũ phớt. Mắt ông cũng bị kính râm che mất, nhưng khuôn mặt ông thì tròn đầy và hồng hào ưa nhìn. Ông hắng giọng. “Tôi nghĩ,” ông ấy nói, “nếu mọi người thứ lỗi, tôi sẽ đi xuống phía sau và… ” Người đứng cạnh ông ta, một chàng trai trẻ tuổi có khuôn mặt không mấy ưa nhìn, quay đi và bắt đầu tế nhị lờ đi nghiên cứu nội thất ngôi nhà. Marcus nhìn hai người bọn họ. “Vớ vẩn,” ông quả quyết nói. “Có thể các anh không phải là thành viên của gia đình này, cả hai người. Nhưng hai người đều biết những gì chúng tôi biết, vậy nên cứ ở yên đó. Và dừng ngay kiểu tế nhị quái quỷ đó đi.” Cô gái khẽ hỏi. “Bác Marcus, bác có nghĩ đây là chỗ để nói chuyện đó ra?” “Có, cháu yêu.” “Hoàn toàn chính xác,” bác sĩ Joe mạnh mẽ đồng ý. Ông đưa ra một cái nhìn lạnh lùng, nghiêm túc và tỏ vẻ quan trọng. “Lần đầu tiên trong đời, Marcus – đã hoàn toàn đúng.” George Harding tỏ vẻ dũng cảm một cách lạnh lùng, nghiêm túc. “Thưa bác, cháu chỉ có thể đảm bảo rằng…” chàng trai nói với vẻ mạnh mẽ. “Ừ, biết rồi, tôi biết hết mà.” Marcus nói. “Và làm ơn đừng có làm khuôn mặt đáng xấu hổ như vậy. Chẳng có gì bất thường hết. Mọi người đều cưới nhau đấy thôi, và họ đều biết phải làm gì khi kết hôn, và tôi tin tưởng cả hai đứa. Giờ thì, cuộc hôn nhân này có diễn ra hay không hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của tôi.” “Và của tôi nữa,” bác sĩ Joe cứng rắn nói. “Đương nhiên rồi,” Marcus lên tiếng với vẻ hơi bực mình. “Và em trai tôi, dĩ nhiên. Chúng tôi mới biết cậu được một tháng hoặc cỡ đó, chỉ trong chuyến du lịch này. Ngay khi cậu bắt đầu hẹn hò với cháu gái tôi, tôi đã lập tức gửi điện tín cho luật sư để hỏi về tất cả các thông tin của cậu. Chà, cậu có vẻ cũng được. Thành tích học tập tốt, và tôi cũng không phàn nàn gì về việc cậu là trẻ mồ côi và không có gia sản…” George Harding bắt đầu giải thích gì đó, nhưng Marcus ngắt lời anh chàng. “Rồi, rồi. Tôi biết toàn bộ cái quy trình sản xuất hóa chất của cậu, thứ có thể tạo ra cả một gia tài hay đại loại thế. Nếu cả hai đứa quyết định sống dựa vào nó thì hai đứa nên biết rằng tôi sẽ không đời nào đầu tư vào đó lấy một cắc đâu. Tôi cũng không mấy quan tâm đến cái gọi là ‘quy trình mới’, tôi ghét cay ghét đắng các quy trình mới, đặc biệt là trong ngành hóa học. Chúng tôn vinh bộ não của những kẻ ngốc và khiến tôi phát ngấy vì sự non nớt. Nhưng có lẽ cậu sẽ vẫn thu được gì đó. Nếu làm việc nghiêm túc và chăm chỉ, cậu sẽ kiếm đủ sống, và có lẽ sẽ kiếm được thêm một chút từ Marjorie. Cậu đã hiểu chưa?” George lại bắt đầu giải thích gì đó nữa. Lần này thì chính Marjorie là người ngắt lời anh ta. Khuôn mặt cô hơi hồng lên, nhưng đôi mắt của Marjorie rất thẳng thắn và cho thấy sự điềm tĩnh tuyệt vời. “Anh chỉ nên trả lời ‘vâng’ thôi,” cô khuyên. “Đó là tất cả những gì anh được phép nói.” Người đàn ông hói đầu đội mũ phớt đang đứng dựa khuỷu tay vào lan can và hơi cau mày khi lắng nghe cuộc trò chuyện, giờ đây bỗng vẫy tay như thể cố thu hút sự chú ý của giáo viên trong lớp học. “Chỉ một chút thôi, Marcus,” ông ta ngắt lời. “Anh đã yêu cầu Wilbur và tôi có mặt trong cuộc trò chuyện này, mặc dù chúng tôi không phải thành viên gia đình. Vậy nên hãy để tôi nói điều này. Có cần thiết phải thẩm vấn chàng trai kia như thể cậu ta là…” Marcus nhìn ông ấy. “Tôi ước,” Marcus nói, “một số người sẽ loại bỏ được quan niệm ngớ ngẩn rằng bất cứ dạng câu hỏi nào cũng đều là ‘thẩm vấn’ cả. Hình như mọi tiểu thuyết gia đều có quan điểm như vậy. Kể cả anh nữa, giáo sư, dường như chính anh cũng thế. Điều đó khiến tôi bực mình đấy. Tôi chỉ đang kiểm tra cậu Harding mà thôi. Chuyện đó không rõ ràng à?” “Đúng ạ,” George nói. “Ồ, thế thì tốt,” vị giáo sư hòa nhã. Marcus dịch người ngồi cách xa chiếc đài phun nước nhất có thể để không bị ngã nhào vào đó. Biểu cảm trên khuôn mặt ông trông hòa dịu hơn nhiều. “Bởi vì cậu đã hiểu hết điều đó,” ông tiếp tục nói với giọng hơi khác hồi nãy, “bước tiếp theo là cậu cần biết về gia đình chúng tôi. Marjorie đã kể gì cho cậu nghe chưa? Tôi nghĩ là chưa. Nếu cậu nghĩ chúng tôi là những thành viên giàu có nhàn rỗi thích dạo bộ, những người quen với việc nghỉ mát suốt ba tháng tại thời điểm này trong năm, thì ném chúng ra khỏi đầu ngay cho tôi. Đúng là tôi giàu có thật, nhưng tôi không rảnh rỗi và cũng hiếm khi nào đi tản bộ. Những người khác cũng vậy, tôi biết rõ điều đó. Tôi làm việc, và mặc dù tôi xem bản thân mình là một học giả chứ không phải doanh nhân, tôi cũng không phải một người kinh doanh tồi. Em trai tôi là một bác sĩ đa khoa làm việc ở Sodbury Cross. Nó cũng làm việc, bất chấp tính cách lười biếng của mình. Tôi cũng biết rõ điều đó. Nó không phải một bác sĩ giỏi, nhưng mọi người đều thích nó.” Khuôn mặt dưới cặp kính đen của bác sĩ Joe dường như đang bốc hỏa.   Mời các bạn đón đọc Vụ Án Viên Nhộng Xanh của tác giả John Dickson Carr.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Quá Trễ Để Nói Lời Từ Biệt - Ann Rule
Tuy là một tiểu thuyết hình sự nhưng Quá trễ để nói lời từ biệt lại xoay quanh câu chuyện tình cảm có thật, đầy quyến rũ đồng thời là một thảm kịch đau lòng về sự ghen tuông, phản bội và sau cùng là án mạng... Jennifer Barber Corbin (gọi tắt là Jenn) là một phụ nữ đáng yêu, mảnh dẻ, mắt nâu, tóc vàng. Dường như cô đã có trong tay tất cả: hai đứa con trai cưng, một ngôi nhà sang trọng ở khu ngoại ô nhà giàu vùng Atlanta, xe hơi đắt tiền, du thuyền lộng lẫy. Chồng cô là Bart, một bác sĩ nha khoa thành đạt, cao lớn, đẹp trai và thông minh. Tuy nhiên, cuộc sống êm đềm, hoàn hảo của họ sớm bắt đầu rạn nứt. Bart đã qua lại với một phụ nữ đã có gia đình trong suốt thời gian chung sống với Jenn, cuộc hôn nhân của cả hai thực chất không hề tồn tại một tình yêu chân thành. Hai vợ chồng đã phải nhờ đến các chuyên gia tư vấn về hôn nhân. Bart phiền muộn còn Jenn như người vỡ mộng. Cô cần tìm một ai đó đáng tin cậy - ngoài mẹ và các chị em gái. Chỉ vài tuần trước Lễ Giáng sinh 2004, Jenn được phát hiện đã chết với viên đạn vào đầu cùng một khẩu súng bên cạnh. Vị trí thi thể của cô cho thấy dường như đây là một vụ tự sát. Nhưng cảnh sát điều tra Marcus Haead không hoàn toàn tin như vậy. Gia đình của Jenn cũng không tin cô có thể tự sát. Và cái chết này dường như có liên quan đến một vụ tình nghi tự sát khác trước đó mười bốn năm của Dorothy "Dolly" Hearn, một sinh viên nha khoa xinh đẹp. Từng là ngôi sao của trường trung học, rồi bước vào một trường nha danh tiếng, Dolly đã có khoảng thời gian hẹn hò, yêu đương với Bart. Nhưng sau đó, người ta phát hiện Dolly tự sát một cách bất thường. Mọi manh mối của vụ án dường như đều bị cắt đứt cho đến khi Jenn qua đời... Mọi nghi ngờ của cảnh sát về người chồng Bart càng có thêm cơ sở để khẳng định khi đứa con trai Dalton bé nhỏ của vợ chồng Corbin nói với mọi người rằng: Bố đã giết mẹ... Liệu có đúng đây là một vụ giết người? Thủ phạm là Bart? Cái chết của Dolly có liên quan tới Bart và cái chết của Jenn? *** Độc giả đang cầm trên tay một tác phẩm của Ann Rule - nữ văn sĩ hàng đầu nước Mỹ về thể loại tiểu thuyết hình sự dựa trên những câu chuyện có thật. Cuốn sách này thuật lại một câu chuyện tình cảm có thật đầy quyến rũ - và cũng là một thảm kịch đau lòng về sự ghen tuông, phản bội để rồi sau cùng là án mạng. Hai người phụ nữ đã phát hiện sự thật quá muộn màng. Jenn Corbin là một phụ nữ đáng yêu, mảnh dẻ, mắt nâu với mái tóc vàng. Dường như cô có được tất cả: hai đứa con trai cưng, một ngôi nhà sang trọng ở một khu ngoại ô nhà giàu vùng Atlanta, xe hơi đắt tiền, một chiếc nhà thuyền lộng lẫy trên sóng nước để hội hè, và một người chồng - Bart, một bác sĩ nha khoa thành đạt, cao lớn, đẹp trai và thông minh. Nhưng dần cuộc sống êm đềm của họ bắt đầu rạn nứt. Hai vợ chồng đã phải toan tính nhờ đến các chuyên gia tư vấn về hôn nhân. Bart phiền muộn; Jenn như người vỡ mộng. Cô cần tìm đến một ai đó đáng tin cậy - ngoài mẹ và các chị em gái. Thế rồi, chỉ vài tuần trước Giáng sinh 2004, Jenn được phát hiện đã chết với một viên đạn vào đầu, và một khẩu súng bên cạnh. Vị trí thi thể của cô cho thấy dường như đây là một vụ tự sát. Nhưng cảnh sát điều tra Marcus Head không hoàn toàn tin như vậy. Gia đình của Jenn cũng không tin cô có thể tự sát. Và cái chết này liên quan như thế nào đến một vụ tình nghi tự sát khác trước đó mười bốn năm - của Dorothy “Dolly” Hearn, một sinh viên nha khoa hết sức xinh đẹp? Là ngôi sao của trường trung học, Dolly bước vào trường nha và hẹn hò với sinh viên Bart. Có mối liên hệ nào không, hoặc liệu câu trả lời có nằm trong một mối quan hệ tình cảm bí mật - thậm chí nguy hiểm - ngoài hôn nhân của Jenn Corbin? Trong quá trình thực hiện tác phẩm này, Ann Rule đã phỏng vấn gần như tất cả những ai liên quan đến câu chuyện - gia đình các nạn nhân, các cảnh sát điều tra, công tố viên và các nguồn thông tin tại Georgia và  Atlanta, để lột tả sự thật đằng sau những gì báo chí đăng tải về hai cái chết thương tâm này. Ann Rule là tác giả của hơn hai mươi tựa sách best-seller theo bình chọn của New York Times, và tất cả vẫn đang được tái bản. Là một cựu sĩ quan cảnh sát, bà là người am tường về kỹ thuật hình sự và vẫn đang giảng dạy tại nhiều học viện cảnh sát. “Quá trễ để nói lời từ biệt” đáng được xem là một tác phẩm mỹ mãn trong sự nghiệp của văn tài hình sự Ann Rule. Mời các bạn đón đọc Quá Trễ Để Nói Lời Từ Biệt của tác giả Ann Rule.
Phá Án Ư? Cứ Để Sau Bữa Tối Tập 2 - Higashigawa Tokuya
SÁT NHÂN TRONG NHÀ, VÔ VÀN NGHI PHẠM, SUY LUẬN THUẦN TÚY. Với sự tham dự của hai cảnh sát chuyên nghiệp, gia thế cao sang, học vấn huy hoàng, đầu óc hoành tráng, nhưng chưa phá nổi một vụ án nào... Và một thám tử nghiệp dư làm nghề quản gia, lái xe, vệ sĩ kiêm dọn bàn, chỉ dựa vào các tình tiết nghe kể mà đoán đâu trúng đó... Phá án ư? Cứ để sau bữa tối là một tiểu thuyết viết theo phong cách trinh thám cổ điển, chặt chẽ mà hài hước, bày ra đủ mọi dữ kiện trước mắt người đọc, thách thức họ đi điều tra cùng mình, cười vòa sự rối beng của họ và cuối cùng làm cho óc suy luận của những người ham khám phá được thư giãn nhất. Là tiểu thuyết bán chạy nhất Nhật Bản năm 2011, Phá án ư? Cứ để sau bữa tối còn đặc biệt có duyên với khán giả khi lần lượt được chuyển thể thành phim truyền hình và điện ảnh ăn khách trong hai năm sau đó. *** Chỉ mất sáu phút để đi từ ga Kokubunji tới ga Tachikawa bằng tàu tốc hành đặc biệt Chuo. Một buổi chiều thứ Bảy trung tuần tháng Chín. Ga Tachikawa tấp nập người mua sắm lẫn không mua sắm. Quả không hổ danh là thành phố “nóng” nhất tuyến Chuo. Gần đây, không thành phố nào ở Chuo thay đổi chóng mặt như Tachikawa. Phía trước cửa ga được làm đẹp hơn, những tòa nhà tráng lệ mọc lên san sát, các khối trang trí có hình thù kỳ dị, đường tàu một ray chẳng biết về đâu chạy rù rì trên đầu. Một hình ảnh hoàn toàn đối lập với tuyến Chuo vốn có. Thậm chí có phần còn vượt trội cả thành phố Kichijoji. Đương nhiên là người dân Kichijoji không công nhận điều này. Hosho Reiko miên man nghĩ vậy khi bước trên đường bộ hành trên cao trước cửa Nam ga Tachikawa. Cô mặc bộ vest đen, đeo kính không số màu đen. Trông cô không khác gì một nhân viên công sở giản dị với mái tóc được búi gọn đang lắc lư theo từng nhịp chân. Nhưng thực tế thì Reiko hiện là điều tra viên của Sở Cảnh sát Kunitachi. Cô đến Tachikawa vì công việc chứ không phải để mua sắm. Khác với cửa Bắc đã có nhiều khu mua sắm lớn, cửa Nam ga Tachikawa chưa được cải tạo nhiều, vẫn còn nhiều khu đất chờ tái thiết. Sâu vào bên trong là nơi có nhiều tòa nhà tạp cư được miêu tả bằng ba từ “Cũ – Chật – Thấp”. Reiko đi thang cuốn xuống dưới mặt đất rồi đi bộ thêm một đoạn nữa. Trước mắt cô hiện ra tòa nhà năm tầng khung sắt, xây theo kiểu hình ống. Tòa nhà trông khá tồi tàn, mới nhìn tưởng sắp bị phá bỏ. Tấm biển “Tòa nhà Gondo” treo phía trước cũng nhuốm màu lịch sử. Đến nơi, Reiko kiểm tra ngay đồng hồ. Bây giờ là 2 giờ 15 phút chiều. Mới mười lăm phút trôi qua kể từ khi cô rời khỏi chung cư Wakaba Corp ở Kokubunji. Trên tàu điện không xảy ra chuyện gì khiến cô mất thêm thời gian. Như vậy, mười lăm phút là khoảng thời gian tối thiểu để đi từ Wakaba Corp đến Gondo. Reiko vừa kết luận xong thì… Có tiếng gào rú cô nhớ đã nghe thấy lúc ở Tachikawa. Linh cảm có chuyện chẳng lành, Reiko nhìn sang phía Đông thì thấy một chiếc xe hiệu Anh quốc – chiếc Jaguar màu bạc – đang phóng quá tốc độ cho phép. Dưới ánh nắng chiều, chiếc xe hào nhoáng sáng lấp lánh như gương. Nói chính xác thì đó là thứ ánh sáng chói mắt hơn cả khi nhìn thẳng vào mặt trời bằng mắt thường. Reiko thấy hơi chóng mặt, cô thầm van vỉ. “…” Xin anh đấy! Làm ơn đỗ cách tôi 10m. Trái với ước nguyện của Reiko, chiếc Jaguar thích gây chú ý chỉ đỗ cách Reiko có 50cm kèm theo tiếng phanh chói tai. Reiko tức tối vì bị đem ra làm trò cười trước ánh mắt tò mò của người qua đường. Trong khi đó, đủng đỉnh bước xuống từ ghế lái là một anh chàng mặc vest trắng. Không biết người dân Tachikawa nghĩ sao về anh ta. Hẳn họ nghĩ đây là một cậu ấm con nhà giàu hoặc một tay sai thân cận của trùm mafia chứ chẳng ngờ đó là một cảnh sát. Nhưng đó lại là sự thật. Vâng, anh ta chính là Kazamatsuri – thanh tra ưu tú của Sở Cảnh sát Kunitachi – người giữ chức thanh tra khi mới 32 tuổi. Còn nữa, anh ta cũng là quý tử của người sáng lập hãng Kazamatsuri Motors, hãng xe nổi tiếng với thiết kế đẹp và động cơ hao tốn nhiên liệu, vì lẽ đó nên gọi anh ta là cậu ấm con nhà giàu cũng chẳng sai. Nhưng cách gọi chuẩn nhất có lẽ là, Kazamatsuri – cậu ấm nhà giàu ăn mặc như tay sai mafia hiện đang là cảnh sát . Chàng thanh tra đó vừa bước xuống xe liền vung tay lên xem giờ như thể muốn khoe chiếc đồng hồ Rolex. Anh quay sang Reiko – người đến trước – bày tỏ sự thất vọng, “Tiếc quá. Đường xá chật chội khiến tôi không phát huy được hết tính năng của chiếc Jaguar này. Tôi đã trổ hết tài nghệ lái xe để rút ngắn thời gian rồi đấy.” Thanh tra Kazamatsuri say sưa tự mãn một cách vô thức rồi nhún vai thật mạnh, “Thôi, không lý do lý trấu nữa. Rõ ràng tôi thua rồi, cô Honsho nhỉ. Giữ đúng lời hứa, tối nay tôi sẽ đãi cô món Ý hảo hạng.” “Hả!?” Sau một thoáng bối rối, Reiko đập hai tay vào nhau, “Hay quá! Tôi vẫn mong mỏi được ăn tối cùng thanh tra, dù chỉ một lần!” và ghé sát vào mặt thanh tra nói tiếp, “Anh tưởng tôi sẽ sung sướng thốt lên như vậy hả?” “Nếu cô muốn…” Thanh tra Kazamatsuri hơi né người về phía sau. “Chẳng có vụ cá cược nào nói ai thắng sẽ được đãi món Ý hảo hạng hết! Không bao giờ có chuyện đó!” “Tôi không nghĩ là không…” “Không!” Reiko quả quyết. “Chúng ta chạy thi từ Kokubunji đến Tachikawa không phải là để cá cược. Đó là một phần của công tác điều tra. Thủ tục cần có để kiểm tra bằng chứng ngoại phạm. Phải không thưa thanh tra?” .. Mời các bạn đón đọc Phá Án Ư? Cứ Để Sau Bữa Tối Tập 2 của tác giả Higashigawa Tokuya.
Xin Đừng Buông Tay - Michel Bussi
Kỳ nghỉ dưỡng ở chốn "thiên đường nhiệt đới" trên đảo Reunion của vợ chồng Martial bỗng biến thành ác mộng: người vợ đột nhiên mất tích trong phòng khách sạn, Martial trở thành kẻ tình nghi số một. Cách đó không xa, trên bãi biển Saint - Gilles, thi thể ông già người bản địa được phát hiện và trong tình trạng bị lũ cua rỉa nham nhở - trên ngực ông già cắm một con dao của... Martial. Mọi sự càng rắc rối khi kẻ tình nghi số một bỏ trốn, đem theo cô gái sáu tuổi. Khi lớp mặt nạ Martial vẫn đeo dần được lột bỏ, khi những bóng ma quá khứ trỗi dậy, khi những lời dối trá chồng chất lên nhau tưởng như bất tận, chính khi đó, sự thật mới được phơi bày. Bất ngờ tuyệt đối! "Một tác giả tinh quái dệt nên những tình tiết được đan cài hoàn hảo đến những chữ cuối cùng." (LE FIGARO) *** Saint Gilles les Bains, đảo Réunion Thứ Sáu Ngày 29 tháng Ba năm 2013 15h01 — Em lên phòng một lát. Liane không chờ lời đáp lại, nét mặt vui vẻ, rạng rỡ, cô chỉ mới thông báo như thế với con gái và chồng thì đã rời khỏi bể bơi luôn. Từ sau quầy bar, Gabin đưa mắt nhìn theo cô với vẻ kín đáo chuyên nghiệp. Tuần này, Liane là người phụ nữ đẹp nhất khách sạn Alamanda. Và trông xa thì... Tuy nhiên, cô không phải kiểu nữ du khách mà anh thường để mắt. Nhỏ nhắn, rất thanh mảnh, gần như không có ngực, nhưng ở cô có gì đó không-biết-nói-thế-nào vô cùng đặc biệt. Có lẽ là ở làn da vẫn còn trắng trẻo, với những đốm tàn nhang bắt đầu xuất hiện ở phần thắt lưng, ngay phía trên chiếc quần bơi màu xanh ngọc xen vàng. Cặp mông nhỏ nhắn đi xa dần, khẽ lúc lắc như một thứ quả còn xanh đu đưa trong gió. Đôi chân trần của cô dường như lướt đi trên cỏ, không làm gãy một cọng nào. Gabin vẫn dõi mắt nhìn theo cô cho đến tận sân trong, sau dãy ghế gập phủ vải trắng, nửa người khuất sau cây cọ khẳng khiu. Hình ảnh cuối cùng về cô mà anh nhìn thấy, hình ảnh mà anh sẽ nói với đại úy Purvi, là khi cô kín đáo cởi bỏ phần trên của bộ đồ bơi; hình ảnh gợi cảm mờ ảo của một tấm lưng trần, một bầu ngực trắng ngần, một nửa nhũ hoa, chỉ trong một thoáng khi cô với chiếc khăn rộng màu hoàng hôn quấn quanh người. 15h03 Ở quầy lễ tân, từ phía sau chiếc bàn bằng gỗ gụ, Naivo đáp lại nụ cười ướt át của Liane nhiệt tình hết sức. — Chào quý cô... ... Mời các bạn đón đọc Xin Đừng Buông Tay của tác giả Michel Bussi.
Phá Án Ư? Cứ Để Sau Bữa Tối Tập 1 - Higashigawa Tokuya
SÁT NHÂN TRONG NHÀ, VÔ VÀN NGHI PHẠM, SUY LUẬN THUẦN TÚY. Với sự tham dự của hai cảnh sát chuyên nghiệp, gia thế cao sang, học vấn huy hoàng, đầu óc hoành tráng, nhưng chưa phá nổi một vụ án nào... Và một thám tử nghiệp dư làm nghề quản gia, lái xe, vệ sĩ kiêm dọn bàn, chỉ dựa vào các tình tiết nghe kể mà đoán đâu trúng đó... Phá án ư? Cứ để sau bữa tối là một tiểu thuyết viết theo phong cách trinh thám cổ điển, chặt chẽ mà hài hước, bày ra đủ mọi dữ kiện trước mắt người đọc, thách thức họ đi điều tra cùng mình, cười vòa sự rối beng của họ và cuối cùng làm cho óc suy luận của những người ham khám phá được thư giãn nhất. Là tiểu thuyết bán chạy nhất Nhật Bản năm 2011, Phá án ư? Cứ để sau bữa tối còn đặc biệt có duyên với khán giả khi lần lượt được chuyển thể thành phim truyền hình và điện ảnh ăn khách trong hai năm sau đó. *** Trước một căn hộ chung cư. Sau khi Hosho Reiko nhấn chuông, cánh cửa được mở vừa đúng độ dài sợi dây xích, một gương mặt đàn ông ló ra. Đứng cạnh Reiko, thanh tra Kazamatsuri hăm hở lôi ra cuốn sổ tay. Ngay lập tức, mặt người đàn ông được ghé thăm – Tashiro Yuya – biến sắc. Có vẻ như cuộc viếng thăm này nằm ngoài dự liệu và chẳng vui vẻ gì với anh ta. Biết làm sao được, Reiko nghĩ. Mấy ai đoán được sẽ bị cảnh sát ghé thăm đâu. Số người hoan nghênh việc này còn ít hơn. “Có chuyện gì mà điều tra viên đến tìm tôi thế?” “Chuyện là,” Kazamatsuri trịnh trọng trình bày. “Chúng tôi muốn hỏi anh về cô gái tên là Yoshimoto Hitomi.” “Đợ… đợi đã… Sao điều tra viên lại hỏi tôi? Cô ấy đã làm gì à?” “Hỏi vậy hóa ra anh chưa biết chuyện?” Thanh tra Kazamatsuri quan sát phản ứng của đối phương trước khi công bố sự thật. “Tối qua, cô Yoshimoto Hitomi đã bị ai đó sát hại.” “Anh bảo sao!” Tashiro Yuya hốt hoảng tháo dây xích cửa, bước ra ngoài với đôi chân đã xỏ giày. “Tôi hiểu rồi. Chúng ta nên nói chuyện ở chỗ khác.” Tashiro Yuya không mời điều tra viên vào nhà, đã thế anh ta còn đóng sập cửa lại như muốn bảo, đừng hòng đặt chân vào nhà tôi, dù chỉ một bước. Nhưng ngay trước khi cánh cửa khép lại, Reiko đã kịp nhìn thấy. Giữa những đôi giày thể thao, giày da nằm lộn xộn chỗ thềm cửa, có một đôi giày cao gót xinh xắn màu trắng. Thảo nào anh ta không muốn mời mình vào nhà. Anh ta đã có người yêu mới. Trong đầu Reiko bỗng hiện lên hình ảnh nạn nhân bị sát hại hôm qua. Yoshimoto Hitomi không đi giày cao gót, cô đi bốt. Mời các bạn đón đọc Phá Án Ư? Cứ Để Sau Bữa Tối Tập 1 của tác giả Higashigawa Tokuya.