Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kỳ Án Dòng Chữ Tắt

Sophie Hannah & Tuấn Việt (dịch) Hercule Poirot nghỉ ẩn ở London tại một nhà trọ ít ai ngờ đến. Tình cờ, cùng nhà trọ với ông có cảnh sát điều tra Edward Catchpool của Scotland Yard. Và cũng tình cờ ông gặp người phụ nữ tên Jennie, hốt hoảng như trong tình trạng bị nguy hiểm. Nhưng tất cả không còn là tình cờ nữa khi xảy ra vụ án mạng ba người chết tại khách sạn Bloxham và Catchpool phụ trách điều tra... "Sophie Hannah mang một không khí mới cho nhân vật Poirot. Lời văn dí dỏm hơn, hợp thời hơn. Có điều hơi dài dòng... 3.5* là hợp lý, nhưng làm tròn...." _ NQK *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Sophie Hannah là một nhà thơ và tiểu thuyết gia người Anh, sinh ngày 28 tháng 6 năm 1971 tại Manchester, Vương quốc Anh. Cô tốt nghiệp Đại học Manchester với bằng Cử nhân Văn học Anh và sau đó theo học Đại học Cambridge để lấy bằng Thạc sĩ Văn học Anh. Sophie Hannah bắt đầu viết thơ từ khi còn nhỏ và đã xuất bản hai tập thơ trước khi chuyển sang viết tiểu thuyết. Cô đã xuất bản 12 tiểu thuyết, trong đó có 9 tiểu thuyết trinh thám, 2 tiểu thuyết lãng mạn và 1 tiểu thuyết dành cho trẻ em. Tác phẩm đầu tay của Sophie Hannah là tiểu thuyết trinh thám "The Other Half of Me" (2007), kể về câu chuyện của một người phụ nữ phát hiện ra rằng mình có một người song sinh cùng trứng. Cuốn tiểu thuyết đã được dịch sang hơn 20 thứ tiếng và nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình. Năm 2014, Sophie Hannah được gia đình của Agatha Christie ủy quyền viết một tiểu thuyết mới về thám tử Hercule Poirot. Cuốn tiểu thuyết "The Monogram Murders" (2014) là cuốn tiểu thuyết chính thức đầu tiên được viết tiếp theo mạch văn của Agatha Christie. Cuốn tiểu thuyết đã được dịch sang tiếng Việt và phát hành tại Việt Nam vào năm 2016. Ngoài ra, Sophie Hannah còn được biết đến với các tiểu thuyết trinh thám khác như "The Murderer's Son" (2010), "The Other Woman" (2013), "The Killing Room" (2015), "The Girl in the Red Dress" (2016), "The Woman in the Window" (2017), "The Love Song of Miss Jane Austen" (2018), "The Other Woman's Husband" (2020) và "The Body in the Woods" (2022). Nội dung một số tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt "The Monogram Murders" (2014): Câu chuyện bắt đầu khi một người đàn ông bị sát hại tại một bữa tiệc, trên người nạn nhân có một chiếc khăn tay có thêu chữ A. Poirot cùng với trợ lý của mình, Captain Hastings, bắt đầu cuộc điều tra và phát hiện ra rằng vụ án này có liên quan đến một bí mật đen tối trong quá khứ. "The Murderer's Son" (2010): Câu chuyện kể về một người phụ nữ tên là Emma, người phát hiện ra rằng mình có một người con trai là một kẻ giết người hàng loạt. Emma phải tìm cách ngăn chặn con trai mình gây ra thêm tội ác. "The Other Woman" (2013): Câu chuyện kể về một người phụ nữ tên là Emma, người phát hiện ra rằng chồng mình đã ngoại tình. Cô quyết định gặp người phụ nữ kia, người mà cô biết đến với cái tên Sarah. Emma và Sarah bắt đầu trở thành bạn bè và họ sớm phát hiện ra rằng chồng của Emma không phải là người duy nhất trong cuộc sống của họ. "The Killing Room" (2015): Câu chuyện kể về một nhóm người bị bắt cóc và đưa đến một căn phòng bí mật. Họ được cho biết rằng họ sẽ phải chơi một trò chơi để có cơ hội sống sót. Trò chơi này có tên là "The Killing Room" và nó đòi hỏi họ phải giết người để giành chiến thắng. "The Girl in the Red Dress" (2016): Câu chuyện kể về một người phụ nữ trẻ tên là Kate, người bị mất trí nhớ. Cô tỉnh dậy trong một bệnh viện và không nhớ gì về cuộc sống của mình. Kate phải tìm cách tìm lại ký ức của mình và giải mã bí ẩn về cái chết của một người phụ nữ trẻ mà cô được cho là đã giết. Tác phẩm của Sophie Hannah được đánh giá cao bởi lối viết hấp dẫn, cốt truyện chặt chẽ và các nhân vật được xây dựng chân thực. Cô là một trong những nhà văn trinh thám nổi tiếng nhất hiện nay. Thông tin bổ sung Giải thưởng: Giải Agatha Christie dành cho tiểu thuyết trinh thám hay nhất năm 2014 cho "The Monogram Murders" Giải Barry dành cho tiểu thuyết trinh thám hay nhất năm 2014 *** “Tóm lại, tôi không ưa cô ta,” cô phục vụ có mái tóc bay bay thì thào nói. Đó là một tiếng thì thào lớn vì mọi khách trong quán cà phê Pleasant đều nghe thấy. Ông tự hỏi, trong trường hợp này, cô ta là một cô phục vụ nào khác hay là một khách thường xuyên giống như ông. “Mắc gì tôi phải ưa cô ta, đúng không nào? Cô nghĩ khác thì tùy cô.” “Tôi nghĩ cô ta cũng tốt mà,” cô phục vụ mặt tròn, thấp bé hơn cất tiếng, có vẻ kém tự tin hơn so với ít phút trước. “Khi lên cơn ngạo mạn thì cô ta mới thế. Lúc cái mặt vênh lên thì lưỡi cô ta mới nhỏ độc. Chẳng hay ho chút nào. Tôi biết hàng tá người kiểu đó – chớ bao giờ tin họ.” “Chị nói chẳng hay ho chút nào là ý sao?” cô mặt tròn hỏi. Hercule Poirot, người duy nhất đang dùng bữa trong quán cà phê vào lúc 7 giờ 30 phút tối ngày thứ năm, tháng 2, biết rõ cô phục vụ tóc bay bay muốn ngụ ý gì. Ông mỉm cười một mình. Đây không phải lần đầu cô đưa ra một quan sát sắc bén. “Nếu vô tình thốt ra lời gì đó gay gắt thì còn tha thứ được. Tôi không ngại thú nhận, chính tôi cũng thường thế. Nhưng tôi mà vui thì tôi muốn mọi người cùng vui. Thế mới phải chứ. Nhưng có những kẻ như cô ta, chuyện chẳng có gì mà cứ trầm trọng hóa lên. Đó chính là loại người cần phải tránh thật xa.” Bien vu, Tốt, Hercule Poirot nghĩ. De la vrai sagessepopulaire. Khôn ngoan đấy. Cửa quán chợt mở tung, bật cả vào bờ tường. Đứng ở lối vào là một phụ nữ trong bộ áo khoác nâu nhạt đội chiếc nón cũng màu nâu nhưng sậm hơn. Cô có mái tóc vàng hoe. Poirot không thấy khuôn mặt cô. Đầu cô đang ngoái ra sau như chờ ai đó theo vào. Vài giây cửa ngỏ cũng là đủ lâu để cái lạnh đêm hôm tước đi hết sự ấm áp của căn phòng nhỏ. Bình thường, việc đó sẽ khiến Poirot nổi cáu, nhưng ông đang quan tâm sự xuất hiện kịch tính của kẻ mới đến nên chẳng mấy để ý tác động mà cô ta gây ra. Ông ấp bàn tay lên tách cà phê, hy vọng giữ lại chút hơi ấm cho món uống của mình. Ngôi nhà nhỏ hẹp, tường xiêu vẹo tại khu vực Gregory’s Alley này của London dù chẳng phải sang trọng gì nhưng lại có món cà phê ngon nhất thế giới. Ông không hay uống cà phê trước và sau bữa tối – thật ra, một viễn cảnh như thế luôn khiến ông thấy gơm gớm trong hoành cảnh bình thường – nhưng vào mỗi thứ năm, khi đến Pleasant chính xác lúc 7 giờ 30 tối, ông đều ban cho mình một ngoại lệ. Giờ thì ông xem cái ngoại lệ hàng tuần này là một thứ truyền thống nho nhỏ. Những nề nếp khác của quán thì ông chẳng ưa mấy: cứ mỗi khi đến quán, ông lại thấy dao nĩa, khăn ăn và ly nước bày lung tung trên bàn và phải sắp chúng lại cho đúng vị trí. Rõ ràng các cô phục vụ luôn cho rằng các món đồ này nằm đâu đó – bất cứ đâu – cũng được. Poirot không chịu và luôn đòi hỏi tái lập lại trật tự mỗi khi ông đến. “Xin lỗi, cô làm ơn đóng cửa sau khi vào được không ạ?” Tóc Bay Bay gọi với ra người phụ nữ áo-nâu-nón-nâu đang nắm chặt khung cửa, mặt vẫn hướng ra đường. “Hoặc giả cô không vào cũng chẳng sao. Chúng tôi ở trong này không muốn bị lạnh cóng đâu ạ.” Người phụ nữ bước vào. Cô ta khép cửa lại, không hề tạ lỗi vì đã để ngỏ cửa quá lâu. Từ cuối phòng cũng nghe được hơi thở gấp của cô. Cô chừng như chẳng để ý sự hiện diện của mọi người. Poirot đón cô bằng một câu Chào cô nhỏ nhẹ. Cô khẽ xoay sang ông, nhưng không đáp lễ. Mắt cô mở lớn trong nỗi lo lắng bất thường, một nỗi lo đủ rõ ràng để người lạ có thể nắm bắt được như một thứ vật chất. Poirot không còn thấy tĩnh tại và hài lòng như mọi khi. Sự thanh bình của ông đã vỡ tan. Người phụ nữ lao vội đến cửa sổ, săm soi nhìn ra ngoài. Cô ta sẽ không thấy thứ muốn tìm, Poirot nghĩ. Nhìn vào màn đêm từ một căn phòng chiếu sáng tốt thì chẳng thể thấy gì nhiều khi mà kính cửa chỉ phản chiếu hình ảnh ở bên trong căn phòng. Thế mà cô ta vẫn đăm đăm nhìn ra ngoài hồi lâu, cứ như quyết chí muốn canh gác cả con đường. “Ồ, hóa ra là,” cô Tóc Bay Bay nói với một thoáng bực bội. “Có chuyện gì vậy? Cô gặp chuyện gì sao?” Người phụ nữ áo-khoác-nâu-mũ-nâu quay đầu lại. “Không, tôi…” Lời thốt ra như một tiếng thổn thức. Nhưng cô ta nén lại được. “Không. Tôi lấy chiếc bàn ở góc có được không?” Cô trỏ vào chiếc bàn ở xa cánh cửa nhất. “Trừ chỗ quý ông kia đang ngồi, cô muốn chọn đâu cũng được ạ. Các bàn đều trống cả.” Sực nhớ đến Poirot, Tóc Bay Bay vội bảo ông, “Bữa tối của ông đang được nấu, ngon lắm đấy ạ.” Poirot rất thích nghe câu này. Thức ăn ở Pleasant ngon chẳng kém cà phê. Thật ra, xét cả hai khoản này, Poirot thấy khó tin vào điều mà ông được biết: các đầu bếp ở đây đều là người Anh. Incroyable. Không thể tin nổi. Tóc Bay Bay quay sang người phụ nữ đang lo lắng. “Cô chắc là không sao chứ, Jennie? Trông cô cứ như vừa gặp phải ma quỷ ấy.” “Tôi không sao, cảm ơn. Tôi chỉ xin một tách trà nóng thật đặc, làm ơn nhé.” Jennie bước vội đến chiếc bàn ở góc xa, ngang qua Poirot mà không hề nhìn ông. Ông khẽ xoay ghế để có thể quan sát cô. Chắc chắn cô ta đang gặp chuyện, một chuyện mà cô rõ ràng không muốn nói với các cô phục vụ. Không cởi áo, cởi nón, cô ngồi xuống chiếc ghế trông ra đường, đấu lưng với cánh cửa. Chỉ xong đâu đấy cô mới ngoái lại, nhìn ra sau. Có cơ hội quan sát chi li hơn khuôn mặt cô, Poirot đoán cô trạc bốn mươi tuổi. Đôi mắt to xanh luôn mở lớn và không bao giờ chớp. Poirot nghĩ, đôi mắt ấy như đang nhìn một cảnh tượng gây sốc. Gặp phải ma quỷ, Tóc Bay Bay đã nhận xét như thế. Nhưng Poirot chẳng thấy cảnh tượng nào kinh khủng với Jennie cả, chỉ có căn phòng vuông vức với bàn ghế, chiếc tủ gỗ treo áo khoác và nón, cùng những chiếc kệ cong vênh, đỡ trọng lượng của rất nhiều ấm tách với màu sắc, hoa văn và kích cỡ khác nhau. Các kệ này chỉ nhìn thấy thôi là cũng đủ rùng mình! Poirot chẳng hiểu sao một chiếc kệ cong oằn lại không được thay ngay bằng một chiếc kệ phẳng phiu. Ông cũng không thể hiểu nổi vì sao người ta xếp nĩa lên chiếc bàn vuông mà lại không chịu đặt nó song song với cạnh bàn. Tuy vậy, không phải ai cũng suy nghĩ như Hercule Poirot và từ lâu ông đã chấp nhận điều đó, cả mặt thuận lợi lẫn bất lợi mà nó gây ra. Ngồi nhấp nhổm trên ghế, người phụ nữ – Jennie – đăm đăm nhìn ra cửa như chờ đợi ai đó xông vào bất cứ lúc nào. Cô đang run rẩy, chắc một phần vì lạnh. Không – Poirot đổi ý – hoàn toàn không vì lạnh. Quán đã ấm lại rồi. Do muốn canh chừng cánh cửa, Jennie ngồi quay mặt về phía đó, giữ khoảng cách tối đa, dấy là kết luận hợp lý duy nhất. Mời các bạn đón đọc Kỳ Án Dòng Chữ Tắtcủa tác giả Agatha Christie.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bộ Năm Lừng Danh Tập 4: Bộ Năm Tới Đỉnh Buôn Lậu - Enid Blyton
Bộ năm lừng danh là câu chuyện về những đứa trẻ ham thích phiêu lưu mạo hiểm. Trong thế giới mà bia gừng và thịt nguội là chế độ ăn chủ yếu, Julian, Dick, Anne và George dành phần lớn thời gian lang thang hết chỗ này đến chỗ khác. Trong đó, George thực ra là con gái, nhưng vì muốn làm con trai nên cô bé cắt ngắn tóc và hành động như con trai. George rất ghét mỗi khi người ta gọi mình bằng tên thật, Georgina. Cô bé có một chú chó tên Timmy và cả một hòn đảo cho riêng mình. Đúng thế, hầu hết những đứa trẻ đều có chó, nhưng cha mẹ của George sở hữu đảo Kirrin và để cô bé chạy rông như thể đó là sân chơi vậy. Và thế là bộ năm lừng danh có chuyến phiêu lưu đầu tiên của mình trong Bộ năm trên đảo giấu vàng. Đã gần 70 năm trôi qua kể từ lần đầu được xuất bản, Bộ năm lừng danh vô cùng sống động của Enid Blyton tiếp tục làm say mê hàng triệu bạn nhỏ trên toàn thế giới. Bộ sách đã nhiều lần được chuyển thể truyền hình, điện ảnh, hoạt hình, truyện tranh, kịch bản sân khấu, trò chơi điện tử. Còn tác giả Enid Blyton thì vững vàng trong hàng ngũ những nhà văn thiếu nhi kinh điển và cuốn hút nhất thế kỷ XX. Bộ Năm Lừng Danh đã xuất bản tại Việt Nam gồm có: Bộ NămTrên Đảo Giấu Vàng Chuyến Phiêu Lưu Mới Bộ Năm Chạy Trốn Bộ Năm Tới Đỉnh Buôn Lậu Bộ Năm Chinh Chiến Dưới Lòng Đất *** Enid Mary Blyton (11 tháng 8 năm 1897 – 28 tháng 11 năm 1968) là nữ nhà văn người Anh chuyên viết truyện thiếu nhi. Bà còn có bút danh khác là Mary Pollock. Enid Blyton nổi tiếng với nhiều loạt truyện dựa trên những nhân vật quen thuộc và dành cho mọi lứa tuổi. Sách của bà được ưa chuộng ở nhiều quốc gia trên thế giới, bán được hơn 600 triệu bản. Một trong những nhân vật nổi tiếng nhất của bà là Noddy trong quyển sách dành cho độc giả nhỏ tuổi. Tuy nhiên, các tác phẩm chủ đạo của Enid nằm ở dòng văn học phiêu lưu mạo hiểm dành cho thanh thiếu niên. Những bộ truyện thuộc thể loại này bao gồm Bộ năm lừng danh, The Secret Seven và The Five Find-Outers and Dog. Ngoài ra, bà còn viết truyện ngắn và thơ nhưng ít được biết đến hơn. Các tác phẩm của Enid Blyton đôi khi cũng có yếu tố phép thuật. Đến tận ngày nay, chúng vẫn được ưa chuộng ở Khối Thịnh vượng chung Anh và nhiều nước trên thế giới. Trong suốt 40 năm, bà viết gần 800 quyển sách và chúng đã được dịch ra gần 90 thứ tiếng. Tác phẩm tiêu biểu Bộ truyện The Wishing-Chair, 1937 – 2000 Bộ truyện The Circus, 1938 – 1942 Bộ truyện The Secret, 1938 – 1953 Bộ truyện The Magic Faraway Tree, 1939 – 1951 Bộ truyện The Naughtiest Girl, 1940 - 1950 Bộ truyện The St. Clare's, 1941 – 1945 Bộ truyện The Famous Five, 1942 – 1963 (Đã xuất bản ở Việt Nam với tựa Bộ năm lừng danh, NXB Hội Nhà Văn, Nhã Nam, 2011) Bộ truyện Malory Towers, 1946 -1951 (Đã xuất bản ở Việt Nam với tựa Tòa tháp Malory, NXB Văn Học, 2010) Bộ truyện The Mistletoe Farm, 1948 - 1950 Bộ truyện The Secret Seven, 1949 – 1963 Bộ truyện The Barney Mystery, 1949 – 1959 *** MỘT NGÀY đẹp trời, ngay đầu kỳ nghỉ lễ Phục sinh, bốn đứa trẻ và chú chó bắt đầu chuyến du lịch bằng tàu hỏa. “Sắp đến nơi rồi,” Julian, cậu bé cao lớn khỏe mạnh với vẻ mặt kiên định, nói. “Gâu,” chú chó Timothy kêu lên đầy phấn khích, chú đang cố gắng nhìn ra ngoài cửa sổ. “Ngồi xuống, Tim,” Julian nói. “Để Anne còn xem với chứ.” Anne là em gái cậu. Nó thò đầu ra ngoài cửa sổ. “Chúng ta đang tiến vào Ga Kirrin!” nó nói. “Em rất hy vọng cô Fanny sẽ ở đó để đón chúng ta.” “Chắc chắn rồi!” Georgina, chị họ cô bé, nói. Cô nhóc trông giống con trai hơn là con gái, vì mái tóc rất ngắn, lại còn xoăn tít thò lò. Nó cũng có một vẻ mặt kiên định giống Julian. Nó đẩy Anne sang một bên và nhìn ra ngoài cửa sổ. “Được về nhà thích quá,” nó nói. “Tôi thích trường học - nhưng sẽ rất thú vị khi được ở tại Lều Kirrin, dong thuyền ra Đảo Kirrin thăm tòa lâu đài ở đó. Từ hè năm ngoái tới giờ chúng mình có ra đấy đâu.” “Giờ đến lượt Dick,” Julian nói, quay về phía cậu em mình, một đứa có khuôn mặt vui tươi, đang ngồi đọc sách trong góc. “Kirrin đang dần hiện ra trước mắt đấy, Dick ạ. Em có thể dừng đọc một lúc được không?” “Thật là một cuốn sách hấp dẫn,” Dick nói rồi ập sách lại. “Câu chuyện phiêu lưu kỳ thú nhất mà em từng được đọc!” “Xì! Em cá là nó chẳng kỳ thú bằng vài chuyến phiêu lưu mà chúng ta đã trải qua đâu!” Anne lập tức nói. Đúng là năm đứa chúng, tính cả chú chó Timmy vốn luôn chia sẻ mọi thứ với bọn trẻ, đã cùng nhau trải qua những chuyến phiêu lưu cực kỳ ngoạn mục. Nhưng giờ đây xem ra chúng sắp có những ngày nghỉ yên bình, với những chuyến tản bộ dài trên các vách núi, và có thể chúng sẽ dong thuyền của George tới hòn đảo Kirrin của cả bọn. “Học kỳ này anh đã học cực kỳ chăm chỉ ở trường,” Julian nói. “Anh có thể tận hưởng một kỳ nghỉ lễ đây!” “Cậu gầy đi đấy,” Georgina nói. Chẳng ai gọi cô nhóc bằng cái tên đó. Tất cả đều gọi nó là George. Cô nhóc sẽ không bao giờ trả lời khi người ta gọi nó bằng bất cứ cái tên nào khác. Julian cười toe toét. “Ồ, anh sẽ sớm phát phì ở Lều Kirrin thôi, đừng có lo! Cô Fanny sẽ lo việc đó. Cô ấy rất giỏi trong việc vỗ béo mọi người. Thật tuyệt khi em lại được gặp mẹ, George ạ. Cô ấy quả là một người rất tốt bụng.” “Phải. Hy vọng kỳ nghỉ này bố sẽ vui vẻ,” George nói. “Chắc là vậy thôi vì mẹ bảo ông vừa hoàn thành khá thành công một vài thí nghiệm mới.” Bố của George là nhà khoa học, luôn phải nghiên cứu phát triển những ý tưởng mới. Ông thích không gian yên tĩnh, đôi khi ông trở nên cáu kỉnh nếu không thể có được sự yên tĩnh mà ông cần hay mọi việc không diễn ra chính xác như ông muốn. Bọn trẻ thường nghĩ Georgina rất giống bố ở cái tính khí nóng nảy! Nó cũng có thể phát cáu kinh khủng khiếp khi mọi thứ không như ý muốn. Cô Fanny đã chờ sẵn ở ga để đón chúng. Bốn đứa trẻ nhảy xuống sân ga và lao tới ôm bà. George lao tới đầu tiên. Nó rất yêu quý người mẹ dịu dàng của mình, người luôn cố gắng che chở cho nó khi bố nó nổi cáu. Timmy thì nhảy tưng tưng xung quanh và vui sướng sủa vang. Chú chó rất thích mẹ của George. ... Mời các bạn đón đọc Bộ Năm Lừng Danh Tập 4: Bộ Năm Tới Đỉnh Buôn Lậu của tác giả Enid Blyton.
Bố Già Trở Lại! - Mark Winegardner
Hơn bốn mươi năm trước, Mario Puzo - tiểu thuyết gia người Mỹ đã cho ra đời cuốn Bố già (The Godfather), một tác phẩm được rất nhiều người ưa chuộng. Bố già là một trong những cuốn sách xuất bản có số lượng phát hành lớn nhất thế giới. Hãng phim Francis Ford Coppola cũng đã dựng thành phim. Đến nay, nhà tiểu thuyết gia Mark Winegardner sẽ lại tiếp tục câu chuyện Bố già với tác phẩm Bố già trở lại (The Godfather’s returns). Đó là vào năm 1955, sau khi đã toàn thắng trong cuộc chiến máu lửa với các gia đình tội ác ở New York, Bố già Michael Corleone ra sức củng cố quyền lực, cứu cuộc hôn nhân của mình với cô sinh viên Mỹ Kay Adams khỏi đổ vỡ và chuyển mọi hoạt động của gia đình sang phần bên này của biên giới pháp luật. Nhưng để hoàn tất ba mục tiêu này, Michael còn phải đối phó với đối thủ nguy hiểm nhất là Nick Geraci, một cựu võ sĩ quyền Anh đã leo lên các nấc thang xã hội bằng việc học và tốt nghiệp nghề luật sư, dù lúc nào hắn cũng là một sát thủ kinh khủng nhất của cánh Corleone. Độc giả nào từng thắc mắc chuyện gì đã xảy ra khiến bố già Michael phải ra lệnh cho thủ hạ bắn chết chính anh của mình là Fredo Corleone sẽ được giải đáp trong Bố già trở lại của Mark Winegardner. *** Mark Winegardner nhận bằng Thạc sĩ Văn chương về viết truyện ( Master of Fine Arts in Fiction Writing) tại Đại học George Mason và xuất bản quyển sách đầu tay ở tuổi hai mươi sáu, khi còn trên ghế nhà trường. Những quyển sách của ông đã được chọn là những sách hay trong năm bởi The New York Times Book Review, Los Angeles Times, Chicago Sun Times, USA Today và Thư viện Công New York. Tác phẩm của ông đã xuất hiện trong nhiều ấn phẩm gồm GQ, Playboy, Family Circle, American Short Fiction, Ladies’ Home Journal, Parents và The New York Times Magazine. Nhiều truyện của ông được chọn như là Truyện ngắn Xuất sắc của Năm trong The Best American Short Stories. Ông cũng là thành viên của các Chương trình Viết văn Liên kết. Hiện nay ông là Giáo sư và Giám đốc của Chương trình Viết Sáng tạo tại Đại học Bang Florida ở Tallahassee, Florida. *** Vào một chiều xuân lạnh, thứ hai năm 1955, Michael Corleone gọi Nick Geraci về gặp ông ở Brooklyn. Khi Ông Trùm mới bước vào ngôi nhà của người cha quá cố ở Long Island để gọi điện thoại, hai thuộc hạ ăn mặc giống như những con khỉ dính đầy dầu mỡ đang ngồi xem sô múa rối trên truyền hình, chờ kẻ phản bội của Michael đến nộp mạng và thích thú ngắm hai đầu núm vú của cô gái tóc vàng diễn với các con rối. Michael, đơn độc, đi vào căn phòng hơi cao hơn ở một góc mà người cha quá cố vẫn thường dùng làm văn phòng. Ông ngồi sau cái bàn xoay nhỏ trước đây là bàn làm việc của Tom Hagen. Bàn giấy của tay consigliere . Michael lẽ ra đã gọi điện thoại từ nhà riêng- Kay, vợ anh và mấy đứa nhỏ sáng nay đã rời nhà để về thăm bên ngoại ở New Hampshire- ngoại trừ chuyện điện thoại nhà của ông bị nghe lén. Đường dây khác trong nhà này cũng thế. Ông hành xử theo kiểu đó để đánh lạc hướng những thính giả sỗ sàng. Nhưng cách đấu dây sáng tạo dẫn đến điện thoại nơi văn phòng này – và dây chuyền hối lộ để bảo vệ nó- đủ sức cản trở cả một đạo binh cớm. Michael quay số. Ông không có sổ ghi địa chỉ và số điện thoại mà chỉ dựa vào sự khéo tay theo thói quen để nhớ các số cần liên lạc. Ngôi nhà lặng yên. Mẹ ông đang ở Las Vegas với em gái ông, Connie, Đến tiếng chuông reng lần thứ hai thì vợ Geraci trả lời. Ông chỉ biết sơ về cô ta nhưng vẫn gọi cô bằng tên (Charlotte) và hỏi thăm mấy con gái của cô. Thường thì Michael tránh dùng điện thoại và trước nay ông chưa từng gọi đến nhà cho Geraci. Theo thông lệ thì lệnh lạc đưa ra đều được đệm qua ba lớp người truyền để bảo đảm chẳng có cái gì bị lần dấu cho đến Ông Trùm. Charlotte trả lời giọng run run đối với những câu hỏi lịch sự của Michael và đi gặp chồng. Nick Geraci đã có một ngày thật là dài. Hai con tàu chở đầy heroin, mà không chiếc nào được dự báo sẽ đến từ Sicily, cho đến tuần tới. Thế mà đêm rồi chúng lại lù lù xuất hiện, một chiếc ở New Jersey, chiếc kia ở Jacksonville. Một kẻ kém cỏi hơn có lẽ giờ này đã phải nằm hộp, nhưng Geraci đã biết cách làm cho mọi chuyện trơn tru bằng cách tự tay trao một món quà tặng tiền mặt cho Quĩ trợ cấp của Hội Hữu nghị Quốc tế Tài xế Xe tải với con số hội viên đông đảo ở Florida, và bằng cách đến thăm (với một cống phẩm tầm cỡ!) cho vị đầu lĩnh thuộc Gia đình Stracci, người kiểm soát các bến tàu ở Bắc Jersey. Đến năm giờ, Geraci mệt lữ nhưng đã về nhà ở East Islip, thảnh thơi ngồi ở vườn sau chơi trò móng ngựa với hai đứa con gái của mình. Một bộ lịch sử hai quyển về chiến tranh thời Đế chế La mã mà chàng ta vừa mới bắt đầu đọc được để gần cái ghế dựa nơi phòng riêng để nghiền ngẫm tối nay. Khi điện thoại reo, Geraci đã lai rai vài ngụm ở ly Chivas pha xô đa thứ nhì. Chàng ta đang có mấy miếng sườn kêu xèo xèo trên vĩ nướng và một cặp Dodgers/Phillies để trên chiếc radio. Charlotte, trước đó đang ở trong bếp thu gom phần còn lại của bữa ăn , đi ra đến sân trong, mang theo chiếc điện thoại với sợi dây dài , bộ mặt thất sắc. ... Mời các bạn đón đọc Bố Già Trở Lại! của tác giả Mark Winegardner.
Anh Là Ai? - Hồ Phương
Khi chiếc xe ca chở khách còn cách thành phố Z một quãng khá xa, Trẫn Mẫn đã nhìn thấy thành phố đẹp xinh ấy thấp thoáng hiện lên sau những rừng cây thưa thớt uốn lượn, kéo dài. Anh không khỏi bồi hồi. Những kỷ niệm cũ tưởng đã bị thời gian và công việc chôn vùi, nay như những ngọn lửa nhỏ cùng nhau chấp chới thức dậy. Phải, cách đây đã gần sáu năm, trong chiến dịch mùa xuân 1975, anh đã từng sống ở thành phố này ít nhất cũng được trên ba tháng với tư cách một cán bộ trong ủy ban quân quản đặc trách công tác dân vận và an ninh của một quận trong thành phố. Ba tháng ấy, chắc chắn suốt đời anh sẽ không sao quên. Đó là ba tháng ngây ngất, say sưa, tràn ngập những niềm vui. Ba tháng với vòng hoa nguyệt quế của những người chiến thắng, anh đã sống giữa tình yêu thương ngưỡng mộ và cả sùng kính tràn trề của quần chúng, nhất là tuổi trẻ. Anh vẫn còn nhớ rõ có lẽ không thiếu một gương mặt nào. Nhưng có một gương mặt đã làm cho anh khó quên hơn cả. Đó là Thùy Dương, cô nữ sinh đại học văn khoa năm thứ nhất, một đóa hoa trinh trắng và dịu dàng của thành phố. Cô học ở Sài Gòn. Khi thành phố quê hương được giải phóng, cô đã trở về và lao ngay vào phong trào thanh niên, học sinh với tất cả niềm tin tưởng, say mê. Cô luôn luôn gần gũi anh. Và dần dần anh cảm nhận thấy được một điều xiết bao xúc động: cô nữ sinh ấy đã dành cho anh những tình cảm nồng nàn hoàn toàn khác với tất cả những người cán bộ, chiến sĩ mà cô vẫn hàng ngày gặp gỡ, hoặc cộng tác. Nhưng tiếc thay, giữa lúc tất cả mọi chuyện hãy còn đang ở bước đầu e ấp, hé mở, hai người chưa kịp nói với nhau bất cứ một lời nào thì, đùng một cái, Mẫn được lệnh trở ra Bắc và được vào trường đại học. Mẫn cứ tưởng sẽ được trở về tiếp tục học ở khoa sử trường Tổng hợp, vì trước khi đi bộ đội, anh đã là sinh viên năm thứ nhất ở đó. Nhưng tổ chức lại yêu cầu anh thi vào trường An ninh quốc gia. Từ bất ngờ nọ sang bất ngờ kia, Mẫn hơi buồn, nhưng vốn là một người lính có kỷ luật, quen chịu đựng, anh đã chấp nhận hết, kể cả sau đó ít lâu vì chiều lòng mẹ, anh đã lấy vợ. Đó là một cô nữ dân quân, bạn học cũ từ thời tiểu học. Một cuộc hôn nhân hoàn toàn không bắt đầu bằng tình yêu, giống như hầu hết mọi cuộc hôn nhân xưa cũ của các lớp cha anh trước đây. Tuy vậy, trong mấy năm ở nhà trường, cũng may, anh đã tìm thấy được một niềm vui và ham thích mới: đó là cuộc chiến đấu trên mặt trận thầm lặng. Lẽ ra anh còn có thể thích hơn nếu đó là cuộc chiến đấu ở bên kia chiến tuyến. Còn đây lại là cuộc chiến đấu ở ngay trong hàng ngũ của mình. Tốt nghiệp với những lời phê khá đẹp, Mẫn đã được điều về cơ quan an ninh của quân đội… Cũng không ngờ hôm nay anh đã có dịp trở lại thành phố này. Nhưng anh hiểu: anh trở về đây lần này không phải là để tìm lại cái địa chỉ 20 đường Võ Tánh xiết bao quen thuộc, thân thương của Thùy Dương. Anh về đây cũng đúng là để đi tìm một địa chỉ, nhưng là một địa chỉ của “ma quỷ”. Mẫn trở về thành phố này hôm nay không phải vì nó đang được nổi tiếng về một thắng lợi trong việc dùng mưu phá tan và bắt gọn một tổ chức phản động khá lớn ở địa phương. Không! Mẫn về đây vì một nhiệm vụ đặc biệt… ... *** Hồ Phương là Thiếu tướng của Quân đội nhân dân Việt Nam và là một nhà văn nổi tiếng, ông đã được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật năm 2012. Thiếu tướng, nhà văn Hồ Phương tên thật là Nguyễn Thế Xương, sinh năm 1931 tại Hà Đông, Hà Nội.(có tài liệu ghi 1930, tại Tây Hồ (quận), Hà Nội) Hồ Phương là nhà văn trưởng thành từ "Chiến sĩ Quyết tử" của Thủ Đô sáu mươi ngày đêm khói lửa bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của cha ông, gìm chân quân xâm lược cho cả nước bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến. Trực tiếp tham gia nhiều chiến dịch lớn suốt những năm chống Pháp trong đội hình của Đại đoàn quân chủ lực đầu tiên của Quân đội là Đại đoàn 308, sau này là Sư đoàn Quân Tiên phong Anh hùng, từ người lính lên Chính trị viên đại đội. Hồ Phương bắt đầu viết những truyện ngắn đầu tay về bộ đội từ khi mới 17 tuổi. Năm 1949 ông phụ trách một trong những tờ báo đầu tiên của Quân đội là báo Quân Tiên phong của Đại đoàn 308. Từ năm 1955 ông về Tổng cục Chính trị, là thành viên tham gia thành lập tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 1957. Nhà văn Hồ Phương từng giữ chức Phó tổng biên tập tạp chí Văn nghệ Quân đội. Năm 1990 ông được phong quân hàm Thiếu tướng. Hiện nay ông đang là chủ nhiệm hội văn nghệ sĩ Xứ Đoài. Mời các bạn đón đọc Anh Là Ai? của tác giả Hồ Phương.