Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Xứ Tuyết

Xứ tuyết  là tiểu thuyết của văn hào Nhật Bản Kawabata Yasunari, được khởi bút từ 1935 và hoàn thành năm 1947. Trước khi xuất bản dưới dạng ấn phẩm hoàn chỉnh, tác phẩm đã được đăng tải thành nhiều kỳ trên nhật báo. Xứ tuyết được đánh giá là quốc bảo của nền văn học Nhật Bản. Cùng với Ngàn cánh hạc và Cố đô, Xứ tuyết đã mang lại cho tác giả giải thưởng Nobel văn học vào năm 1968, nhân kỷ niệm 100 năm (1868-1968) hiện đại hóa văn học Nhật Bản với công cuộc cải cách Minh Trị. Xứ tuyết mang âm hưởng truyền thống lữ hành của các thi nhân văn sĩ Nhật Bản từ xa xưa. Câu chuyện theo bước chân của chàng trai trẻ Shimamura du hành ngoạn cảnh và tắm suối nước nóng. Shimamura, sinh ra và lớn lên ở một khu phố thương mại của Tokyo, đã lập gia đình, nhưng lại say mê với cái đẹp như bị một huyền lực điều khiển, vì vậy chàng đam mê theo học nghệ thuật vũ đạo Tây phương và hoạt kịch. Là một chàng trai tài tử nhàn rỗi thiếu thành khẩn với chính mình, lại có đôi lúc khát vọng tự tìm hiểu bản thân thôi thúc, nên chàng thích lên miền núi một mình và đã ba lần lên xuống xứ tuyết phía Bắc Nhật Bản trong ba mùa khác nhau Xuân - Thu - Đông. Trong lần thứ nhất vào thời điểm mở cửa mùa leo núi, mùa xuân bắt đầu với chồi non xanh thẳm và hương thơm ngát, chàng gặp nàng ca kỹ (geisha) Komako. Komako là một cô gái đại diện cho vẻ đẹp tràn trề nữ tính, mạnh mẽ, tương phản giữa thánh thiện và trần tục, giữa tỉnh táo và đam mê, giữa vẻ đẹp sáng ngời nét thơ ngây bên ngoài và sức trầm lắng của nội cảm. Cảm giác mà nàng đem lại cho Shimamura là sự tươi mát và thanh sạch tuyệt vời. Trong những đêm khi mà nàng giúp vui tiệc tùng bằng cách đánh đàn samisen cho những khách du hành, uống rượu say và mệt lả, nàng về bên Shimamura với sự nồng nhiệt khiến chàng rung động đến tận tơ lòng. Con tàu đưa Shimamura vượt qua đường hầm đến xứ tuyết lần thứ hai để gặp lại Komako vào mùa đông, vài tuần trước khi mở mùa trượt tuyết. Trong ánh sáng mờ ảo, Shimamura mê mẩn ngắm khuôn mặt người thiếu nữ ngồi đối diện với chàng ngời lên trên tấm kính cửa sổ toa tàu, với vẻ đẹp vừa huyền ảo vừa siêu phàm, với sự duyên dáng kỳ lạ của khuôn mặt trôi qua phong cảnh ban đêm. Cô gái đó, chàng còn gặp lại ở vùng băng tuyết, chính là Yoko. Một ca kỹ với vẻ đẹp trong trắng và xa vời, mong manh và mờ ảo, tin cậy và thơ ngây ngay cả trong cách nàng thể hiện tình cảm với Shimamura, với giọng nói "truyền cảm, trong thanh và đẹp đến não lòng", khiến chàng mỗi lần tiếp xúc là mỗi lần khám phá thêm một nét quyến rũ nơi nàng. Rồi những ngày đầu mùa thu với lá phong đỏ thắm, Shimamura lại rời Tokyo để đi nghỉ ở xứ tuyết. Ở đó, giữa hai người con gái xứ tuyết, trong khung cảnh của một vương quốc mà cảnh sắc, con người, phong tục, lối sống đều hồn hậu, chất phác và dịu dàng, chàng mẫn cảm sâu sắc trước cái đẹp nhưng lại đắn đo lưỡng lự giữa hai mối tình, một nặng về thể xác, một nặng về tâm hồn. Say đắm Komako nhưng trong Shimamura luôn hiện diện ánh sáng kỳ ảo lóe lên từ Yoko. Xúc cảm tình yêu của chàng dành cho Yoko ngày càng lớn dần khi chàng cảm nhận được cái mờ ảo và mong manh của vẻ đẹp khó diễn tả ấy, một vẻ đẹp chàng khao khát theo đuổi và nắm bắt cả đời. Trong khi Komako càng đến bên chàng thân thiết, gần gũi, mãnh liệt và hy sinh bao nhiêu, thì cứ mỗi lần rời xa xứ tuyết chàng lại thấy nàng biến mất không còn lưu lại chút dư tình trong tâm trí. Tình yêu của Shimamura với Komako bắt đầu chớm những giận hờn đầu tiên. Komako hoang mang không biết Shimamura còn yêu mình thật hay không, còn chàng cũng không sao hiểu nổi sự lạnh lùng của lòng mình, tại sao mình không thể sống được mãnh liệt, trọn vẹn và hy sinh trong dâng hiến không đòi hỏi chút gì trả lại như nàng. Đúng vào lúc Shimamura quyết định rời xa trạm nước nóng ở xứ tuyết để tránh cơn bão lòng và cắt đứt duyên nợ một cách lặng lẽ thì mọi sự đã kết thúc trong bi thảm. Trong một buổi chiếu bóng tại một nhà kho gần nơi chàng ở, một đám cháy dữ dội đã xảy ra. Mặt đất rừng rực trong tia lửa và tàn tro bốc cao lên tận bầu trời đêm, một bầu trời với dải Ngân Hà lóng lánh trong ánh sáng đẹp một cách ma quái. Yoko, người yêu thuần khiết và mối tình lý tưởng của chàng đã chết trong đám cháy đó. Khi chàng chạy tới thì thấy thân hình bất động của Yoko với gương mặt thanh tú và thánh thiện trên đôi tay Komado, còn Komako thì lời nói như mê sảng và vẻ mặt như sắp hóa điên. Chàng lảo đảo ngẩng mặt lên trời và có cảm giác dải Ngân Hà trôi tuột vào trong người chàng với tiếng gầm thét dữ dội. *** Trong “Xứ tuyết”, thiên nhiên Nhật Bản hiện lên giản dị và tĩnh mịch, mong manh và u huyền. Những tác phẩm của Yasunari Kawabata đã giữ một vị trí đặc biệt trong văn học cận-hiện đại Nhật Bản nói riêng và cho cả nền văn học Nhật Bản nói chung. Trong bộ ba tác phẩm giúp Kawabata dành giải Nobel văn học (Ngàn cánh hạc, Cố đô, Xứ tuyết), tiểu thuyết Xứ tuyết thể hiện quan niệm thẩm mỹ trong truyền thống của người Nhật Bản. Đó là bài thơ về cảnh sắc thiên nhiên, là bài ca về tình yêu, cũng là nơi tìm lại vẻ đẹp Nhật Bản. Nhóm sinh viên khoa Ngữ văn trường ĐH Sư phạm Hà Nội đã thực hiện nghiên cứu khoa học “Thẩm mỹ truyền thống Nhật Bản trong quan niệm Kawabata”, thông qua tiểu thuyết Xứ tuyết của ông. Biên tập viên Sóng Trẻ xin lược trích chương 2 của báo cáo khoa học, “Vẻ đẹp thiên nhiên Xứ tuyết trong quan niệm thẩm mỹ truyền thống Nhật Bản” ở bài đăng này. Vẻ đẹp thiên nhiên Xứ tuyết trong quan niệm thẩm mỹ truyền thống Nhật Bản Trong Xứ tuyết, thiên nhiên hiện lên với vẻ đẹp xuất phát từ chính những quan niệm thẩm mỹ của Yasunari Kawabata. Cái đẹp phong phú của tự nhiên hiện ra từ chính vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên xứ tuyết. Thiên nhiên xứ tuyết là một bài thơ Haiku bằng văn xuôi dung hợp trong đó những quan niệm thẩm mỹ nổi bật nhất của Kawabata. Từ đặc trưng của các nguyên lý thẩm mỹ và nội dung cụ thể của tiểu thuyết Xứ tuyết, chúng tôi tiến hành phân loại và tìm hiểu vẻ đẹp thiên nhiên Xứ tuyết trong quan niệm thẩm mỹ của Kawabata với 4 nội dung: 1. Thiên nhiên mang vẻ đẹp giản dị, gần gũi với cuộc sống (Wabi) 2. Thiên nhiên mang vẻ cô đơn, tĩnh mịch và dấu ấn thời gian (Sabi) 3. Thiên nhiên trong cảm nhận về sự mong manh, u buồn (Aware) 4. Thiên nhiên mang vẻ đẹp u huyền (Yugen) 1. Vẻ đẹp giản dị, gần gũi với cuộc sống 1.1. Thiên nhiên với những sự vật nhỏ bé Trong cảm nhận của Shimamura, bên cạnh những giây phút thiên nhiên hiện ra với vẻ lung linh kì ảo thì đó là hình ảnh thiên nhiên với vẻ đẹp giản dị, mộc mạc: “Lưng chừng dốc trên lùm cỏ cao và đám bụi rậm, là một bụi tre lùn rậm rạp mà cành tỏa ra mọi phía. Gần ngay cửa sổ, có một vuông vườn với những luống khoai lang, củ cải, khoai tây vươn thẳng. Mảnh vườn thật bình thường lại rực rỡ ánh ban mai khiến Shimamura được hưởng lần đầu tiên thứ màu xanh tươi tắn lạ, như được đánh bóng lên trong buổi sáng mát lành”. Hình ảnh bụi tre, vườn tược với những luống khoai lang, củ cải… giống như những biểu tượng của một làng quê hồn hậu, giản dị. Vẻ đẹp trong sáng, thuần khiết của vùng đất phương Bắc băng giá hiện lên từ chính những hình ảnh giản dị này. Thiên nhiên xứ tuyết dường như mất đi cái lạnh lẽo, cô đơn trong mỗi trận bão tuyết mà trở về với vẻ đẹp thường ngày. Hình ảnh thiên nhiên phương Bắc đối lập với sự hoa lệ, ồn ào của Tokyo chính là những gì mà người lữ khách Shimamura đang tìm kiếm. Dường như có một sự cách biệt rất lớn giữa cuộc sống thành thị và thiên nhiên ở xứ tuyết. “Đó cũng là khoảng cách giữa hai cõi: thế giới loài người đang chìm đắm trong chiến tranh, trong lối sống chạy theo dục vọng tầm thường, tâm hồn chai sạn do ảnh hưởng của nền công nghiệp cơ khí hiện đại và thế giới thiên nhiên hoang sơ, trinh bạch còn lưu những giá trị truyền thống”. Qua nhận định trên của TS. Nguyễn Thị Mai Liên, vẻ đẹp Wabi hiện lên trong hình ảnh thiên nhiên xứ tuyết cũng chính là giá trị của cái đẹp theo quan niệm thẩm mỹ Nhật Bản – cái đẹp đơn sơ, giản dị. [...] 1.2. Thiên nhiên trong nhịp sống thường nhật Thiên nhiên xứ tuyết hiện lên trong nhịp điệu cuộc sống thường ngày, phập phồng hơi thở của cuộc sống con người. Thiên nhiên thấp thoáng bóng dáng của con người, của những ngày sống đơn điệu mà đẹp đẽ, yên bình. Trong xứ tuyết, vẻ đẹp của ngày mùa, của những bông lúa hiện lên với tất cả những gì thanh bình, ấm áp. Đó là cuộc sống con người, cuộc sống của vùng núi phía Bắc – một cuộc sống giản đơn êm ả bên cạnh sự lạnh lẽo, dữ dội của những ngày tuyết phủ: “Lúa khô cũng phơi trên sào trước nhà yoko trong cánh đồng thoai thoải ngăn cách với đường. Một dãy dài treo thành một bức rèm giữa đám cây hồng, trước bức tường trắng bao quanh khu vườn đến tận lỗi vào nhà bên cạnh, một dãy khác, ở góc phải, men theo rìa cánh cổng trước vườn, chìa ra một góc để lấy lối đi lại. Trong đồng lúa, những cây khoai sọ vẫn đang xanh tốt, tàu khỏe, lá cứng cáp; ngược lại, những đóa thược dược và những hoa hồng thì đã héo tàn. Chiếc ao sen nuôi cá vàng lấp lõ phía sau những tầng lúa…”. Vẻ đẹp giản dị của thiên nhiên xứ tuyết đã tái hiện nguyên vẹn nhịp sống thường ngày của con người nơi đây. Đó là những vẻ đẹp vẫn luôn tồn tại trong đời sống, vẻ đẹp của mỗi ngày trôi qua ở vùng đất phương Bắc. Nhưng dưới con mắt của Shimamura, nó hiện ra tràn đầy hơi thở, tràn đầy sức sống, nhịp sống chảy trôi, tràn đầy bóng dáng của con người. 2. Vẻ đẹp cô đơn, tĩnh mịch và dấu ấn thời gian 2.1. Thiên nhiên mang vẻ đẹp cô đơn, tĩnh mịch Sabi được Kawabata khơi dậy trong thiên nhiên Xứ tuyết giống với vẻ đẹp cô đơn, tĩnh mịch trong mỹ học Nhật Bản trung đại với những vần thơ của Basho. “Tác phẩm không chỉ mang phong cách haiku mà còn gợi nhớ đến tập nhật kí du hành của Basho là Oku no hosomichi (Con đường sâu thẳm). Cả hai đều tìm kiếm cái đẹp trong sâu thẳm thiên nhiên ở tận phương Bắc: Oku của Basho và Xứ tuyết của Kawabata. Cả hai đều tìm kiếm cái tố phác chưa bị những hội chợ phù hoa làm vẩn đục”. Nhận định trên đây của Nhật Chiêu đã đặt vẻ đẹp ấy trong sự đối sánh với những “Hội chợ phù hoa” của phương Tây. Có thể nói, vẻ đẹp cô đơn, tĩnh mịch của thiên nhiên là vẻ đẹp dường như ngưng đọng trong không gian xứ tuyết, không pha lẫn sự ồn ào, náo nhiệt mà trái lại là vẻ đẹp của sự yên tĩnh, thâm trầm. Sabi với vẻ cô đơn, tĩnh mịch hiện lên trong thiên nhiên xứ tuyết là hình ảnh những cây bá hương và sự yên tĩnh của những khu rừng bá hương. “Thân của những cây bá hương ở đằng sau phiến đá cô ngồi vút lên thẳng tắp, cao đến nỗi anh phải ngửa người ra, tựa lưng vào phiến đá, mới dõi mặt được đến tận ngọn cây. Bầu trời bị che khuất bởi một lớp gần như màu đen những hàng cây mọc sít, những cành cây và những lớp lá kim xanh thẫm dày đặc. Yên tĩnh và thanh bình như một bài thánh ca”. Sự cô đơn, tĩnh mịch của rừng cây được gợi tả bằng những cảm nhận nhãn quang về màu sắc: đen, xanh thẫm. Những gam màu tối ấy khiến thiên nhiên xứ tuyết không hiện lên rực rỡ, thanh khiết mà cô đơn, trầm lặng, tĩnh mịch. “Những cây bá hương phủ một làn voan trắng mỏng nổi lên trên nền tuyết, dù không hề trộn vào nhau vẫn tạo thành một khối sẫm, mà cây nào cây ấy, hiện ra với dáng nét riêng biệt rõ ràng”. Những cây bá hương vào mùa thu hiện lên với màu trắng. Tuy không phải là những gam màu tối mà Shimamura đã cảm nhận khi lần đầu ngắm nhìn những cây bá hương nhưng sắc trắng này vẫn mang lại cho thiên nhiên một vẻ đẹp cô đơn. Sự mờ ảo lẫn vào khu rừng bá hương cũng chính là vẻ cô đơn, tĩnh mịch không lời của thiên nhiên xứ tuyết. Có thể nói, Sabi với vẻ đẹp không lời của sự cô đơn và tĩnh mịch đã hiện lên nguyên vẹn trong thiên nhiên xứ tuyết. Sự tĩnh mịch gần như ngưng đọng của thiên nhiên xứ tuyết khiến cho cảm nhận về thời gian ở đây dường như không trôi chảy. Đó cũng chính là vẻ đẹp mà thời gian đã ban tặng cho thiên nhiên nơi đây. 2.2. Thiên nhiên cổ sơ mang dấu ấn thời gian Những thiên tiểu thuyết của Yasunari Kawabata thường xuất hiện vẻ đẹp của thiên nhiên trong cảm quan về thời gian. Trong Xứ tuyết, dấu ấn thời gian hiện lên rõ nét qua hệ thống những biểu tượng của vẻ đẹp thiên nhiên. Từ đó, Sabi lại được cảm nhận dưới vẻ đẹp được tạo nên từ thời gian trôi chảy – vẻ đẹp cổ sơ mang màu dấu ấn thời gian. Trước hết, vẻ đẹp cổ sơ hiện lên từ những hình ảnh biểu tượng của thiện nhiên xứ tuyết. Trước hết, vẻ đẹp đó hiện ra từ hình ảnh con tàu. Ngay từ đầu tác phẩm, con tàu đã hiện lên với tư cách là một phương tiện đến với xứ tuyết – một vùng đất gần như riêng rẽ, tách biệt: “Còn các toa tàu cũ kĩ, chúng như đã trút bỏ trong đường hầm bộ áo lóng lánh của sương giá tuyết băng. Tàu chạy xuống một thung lung, ở đây, những khoảng tối hơi nhuốm màu hoàng hôn và ngập đầy những vực thẳm xen giữa các ngọn núi chồng lên nhau”. “Con tàu với ba hoặc bốn toa cũ rích và cổ lỗ, chẳng giống gì những đoàn tàu nhanh ở các chuyến lớn trung tâm, khiến ta tưởng như đang ở trong một con tàu của xứ sở khác hoàn toàn xa lạ”. Con tàu của xứ tuyết cũng mang dáng vẻ của vùng đất này – đó là dáng vẻ của cổ sơ, cũ kỹ trên nền băng tuyết. Con tàu cổ lỗ này giống đã đi xuyên thời gian, xuyên qua quá khứ để đưa con người đến đây. Kawabata đã đặc biệt khắc họa hình ảnh “con tàu của xứ sở hoàn toàn khác lạ” như một vật thể thuộc về vùng đất xứ tuyết, thuộc về thiên nhiên cổ sơ. Tiếp đến, vẻ đẹp cổ sơ, cũ kỹ từ sự trôi chảy thời gian hiện lên trong những ngôi nhà ở xứ tuyết với bóng dáng của những mái nhà, mái chùa với vẻ cũ kĩ của lớp bụi thời gian. Khu suối nước nóng mà Shimamura chọn làm điểm nghỉ ngơi với những dãy hành lang hiện rõ thời gian mà nó tồn tại: “… Mỗi bước chân anh trên lớp sàn gỗ cũ kĩ làm kính ở các cánh cửa ra vào rung lên”. Lớp sàn gỗ là dấu ấn của thời gian, là lớp thời gian đã bao trùm lên xứ tuyết. Âm thanh của những cánh cửa là tiếng kêu của thời gian. Dường như đó là vẻ đẹp tích tụ theo dòng chảy của thời gian, vẻ đẹp ngưng đọng từ quá khứ. Vẻ đẹp cổ sơ của thiên nhiên xứ tuyết còn hiện lên qua hình ảnh những mái nhà, mái chùa với những lớp lợp cũ kĩ: “… Một ngôi nhà cũ, mái đã trĩu xuống với một cửa sổ sơn đã bong vì mưa nắng... Phần lớn lợp bằng gỗ, có chẹn đá, các mái nhà trông như những dãy giống nhau, các hòn đá song song với con đường, những hòn đã to, tròn và nhẵn, trắng xóa những tuyết ở phía bóng râm và sáng loáng ở phía có nắng, đen như mực, chúng bóng loáng không hẳn vì ướt mà chủ yếu vì chúng được bào nhắn bởi băng giá, gió mưa”. Vẻ đẹp của những ngôi nhà, những mái gỗ chẹn đá được Shimamura nhìn nhận dưới những tác động của thời gian. Thời gian đã làm những ngôi nhà, những chiếc mái trở nên cũ kĩ, hao mòn nhưng chính thời gian cũng tạo nên vẻ đẹp cổ kính đặc trưng của những ngôi nhà xứ tuyết. Đó là vẻ đẹp của thiên nhiên, của thời gian đã đi qua vùng đất này, của “mưa nắng”, “băng giá” và “gió mưa”. Đó cũng chính là Sabi, là vẻ đẹp hiện lên từ những gì cũ kĩ, hoen gỉ. [...] Thiên nhiên mang vẻ đẹp Sabi trong Xứ tuyết còn hiện lên dưới cảm thức thời gian (ảnh: internet) Trong tác phẩm của Yasunari Kawabata, rất ít khi thời gian chính xác được đề cập trong các chi tiết truyện. Tuy nhiên, thời điểm mùa trong năm luôn được thể hiện rõ nét qua những đặc trưng, dấu ấn của mùa. Điều này giống với cách gợi cảm thức thời gian trong thơ Haiku. Khi Basho viết: “Một đám mây hoa/ Chuông đền Ueno vang vọng/ Hay đền Asakusa” thì thời điểm mùa xuân hiện lên chính từ hình ảnh “Đám mây hoa” đó. Điều này cho thấy sự gắn bó giữa thơ Haiku Nhật Bản và Kawabata trong quan niệm về thời gian. Những dấu hiệu về thời gian trong ngày hay dấu hiệu về mùa trong Xứ tuyết cũng là một yếu tố khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên, tạo vật trong tác phẩm và đặc biệt, nó thể hiện rõ dấu ấn thời gian trong nguyên lý thẩm mỹ Sabi. “Cái đẹp của tuyết, cùa các mùa và phụ nữ luôn luôn lấp lánh qua từng trang văn, đẹp như thơ”. [...] 3. Vẻ đẹp u buồn, mong manh Trong cảm nhận của người Nhật Bản, vẻ đẹp của thiên nhiên có lẽ cũng đi liền với sự buồn bã, mong manh. Điều này thể hiện ở chính việc lựa chọn quốc hoa của đất nước này, đó là hoa anh đào. Hoa anh đào đẹp nhất là khi chúng nở rộ, nhưng dù hoa có nở đẹp đến đâu đi chăng nữa thì nó vẫn mang một nỗi buồn phảng phất bởi một lẽ, anh đào sẽ rụng vào đúng lúc nó nở rực rỡ nhất. Như vậy, ngay từ trong cảm quan của mình, người Nhật đã đã để cho hai khái niệm “đẹp” và “buồn” song hành với nhau. Ngay cả với thiên nhiên, cái đẹp cũng gắn với cái buồn. Đây cũng chính là một trong những quan niệm thẩm mỹ truyền thống của Nhật Bản. […] 3.1. Thiên nhiên trong sự lạnh giá Thiên nhiên xứ tuyết mang một sự lạnh giá đến gay gắt. Tuyết ở đây rơi rất nhiều và mạnh, “tuyết rơi nhiều đến nỗi các đoàn tàu luôn bị những khối tuyết lở chặn lại”. Không chỉ có tuyết bao phủ “dày hai, ba mét, đôi khi đến hơn bốn mét” mà ở nơi đây, nhiệt độ cũng xuống rất thấp: “năm ngoái, nhiệt độ ở đây xuống đến hơn hai mươi độ âm”. Khí hậu khắc nghiệt đã tạo cho xứ tuyết một cái lạnh không giống với bất kì một nơi nào khác, “sờ vào vật gì, ta cũng thấy nó lạnh khác lắm”. Xứ tuyết lạnh giá tạo nên một vẻ buồn man mác. Sự lạnh lẽo ấy thấm hết vào cảnh vật, khiến chúng cũng trở nên khác biệt với Shimamura. Cái lạnh của xứ tuyết không chỉ thể hiện trực tiếp ở khí hậu nơi đây mà còn thể hiện gián tiếp qua sự hòa hợp của ánh sáng, bóng tối. Cứ mỗi lần sáng, tối lồng vào nhau, là một lần tạo cho người ta cảm giác hoài vọng, nuối tiếc và u buồn. Bóng tối đang hiện hữu thì ánh sáng cũng xuất hiện. Ngay khi đang nồi trên tàu, dưới con mắt tinh tế của Shimamura hay của chính Kawabata, bầu trời đêm hiện lên và để lại ấn tượng thật đặc biệt: “Phía trên những quả núi, hoàng hôn còn để lại vài vệt đỏ sậm muộn màng và ở tít xa, trên đường chân trời, còn có thể nhận ra được mấy ngọn núi tách biệt”. Bóng đêm đã bao trùm lên xứ tuyết nhưng ở đằng xa, ánh sáng vẫn còn hiện hữu. Dù có ở trong toa tàu hay bên cánh cửa sổ, Shimamura vẫn luôn cảm nhận được sự xen kẽ sáng tối này. […] Cũng chính từ căn phòng mình, Shimamura nhìn thấy “ở đáy thung lũng, nơi thường tối sớm, đã bắt đầu tối. Nhô cao ở bên ngoài vùng tối, các ngọn núi ở đằng kia rực rỡ nắng chiều, chúng như gần hơn bởi chúng tương phản với những hõm tối và màu trắng của chúng như ánh lân quang dưới bầu trời đỏ ối”. Và Shimamura “cảm thấy mỗi lúc một buồn”. Bóng tối và ánh sáng cùng nhau xuất hiện trên khung cảnh thiên nhiên xứ tuyết, sự tồn tại song song của cả bóng tối lẫn ánh sáng làm cho thiên nhiên như lạnh hơn, tạo nên một khung cảnh băng giá đầy u buồn, hoài vọng. 3.2. Thiên nhiên mang vẻ đẹp mong manh Trong quan niệm của người Nhật Bản, cái đẹp và cái hư vô, mong manh luôn đi cùng với nhau. Điều này được thể hiện khá rõ qua thơ Haiku. Nhà thơ Shiki đã từng viết: “Đẹp lạ lùng Ai mà không ghen tị Lá đỏ rời cành phong” Vẻ đẹp mong manh ấy hiện lên trong Xứ tuyết là thiên nhiên ngập trong sắc trắng. Màu trắng cũng là màu sắc được nhắc tới khá nhiều trong Kinh Phật. Màu trắng là biểu tượng của sự tinh khiết, thanh cao và cũng là màu của sự hư ảo. Trong Xứ tuyết, rất nhiều lần tác giả nhắc tới sắc trắng. Có khi, cảnh vật trở nên mềm mại hơn khi được che phủ bởi sự nhẹ nhàng của tuyết: “Xa xa, trên các ngọn núi, tuyết trông như một lớp kem mềm mại được bao phủ một làn khói nhẹ”. Tuyết cũng làm cho mọi thứ trở nên nặng nề, chật hẹp và cô đơn: “Sự chật hẹp của cái thung lũng bé xíu bị ép chặt giữa những ngọn tuyết phủ dày. Nơi đây chẳng khác gì một cái túi tối om, một cái hốc xiết bao đơn độc giữ lòng núi hẻo lánh này”. [...] Thiên nhiên xứ tuyết là nơi “cư ngụ” của những kiếp phù du như những loài côn trùng. Màu xanh của loài bướm đêm đã gây một ấn tượng cho anh. Với anh, đó là “màu xanh ngỡ ngàng, đơn độc, ngược ngạo thay, nhuốm màu chết chóc”; “nó rơi xuống như một chiếc lá khô, chậm và nhẹ buông rơi, lúc lên lúc xuống, trước khi chạm đất” hay lời tự hỏi “không biết con côn trùng đã chết chưa”. Chúng chỉ là những sinh mệnh mang kiếp phù du, bay lượn trong không trung rồi lìa đời nhanh chóng. Cuộc đời của những kiếp phù du luôn là như vậy. Cõi đời này sẽ không lưu lại được gì từ những vẻ đẹp ấy. [...] 4. Vẻ đẹp u huyền, kì ảo Trong các tác phẩm của Kawabata, thiên nhiên thường xuyên xuất hiện trong gương. Thiên nhiên qua những tấm gương hiện lên rất sống động nhưng cũng manh đầy vẻ siêu thưc, huyền ảo. Thiên nhiên vẫn luôn là bí ẩn mà con người luôn muốn tìm kiếm và chinh phục. Thông qua chiếc gương soi, thiên nhiên bỗng trở nên kỳ ảo hơn, khó nắm bắt hơn bao giờ hết. Với Xứ tuyết, Shimamura không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp u huyền con người mà còn cảm nhận được cả vẻ u huyền của thiên nhiên nơi xứ tuyết. Gương phản chiếu hình ảnh của tuyết, làm cho tuyết kỳ ảo hơn rất nhiều: “Tuyết bỗng sáng rực thêm nữa trong gương, chẳng khác gì ở đó có một đám cháy băng giá”. Tấm gương khiến cho lớp tuyết trắng “bỗng sáng rực”, đây vừa là hình ảnh tự nhiên của tuyết nhưng cũng lại là hình ảnh tuyết được “cải biến” trong thế giới gương soi. Từ trong gương soi, thiên nhiên đã đổi khác. Thiên nhiên không chỉ hiện lên với vẻ đẹp tự thân của nó mà vẻ đẹp ấy còn được nhân lên, đưa con người vào một thế giới mới với những khung cảnh vừa thực mà vừa hư: “Trong bầu trời đêm, phía trên những quả núi, hoàng hôn còn để lại vài vệt đỏ sậm, muộn màng và ở tít xa, trên đường chân trời, còn có thể nhận ra được mấy ngọn núi tách biệt”. Thiên nhiên trong gương soi được Shimamura cảm nhận không chỉ với hình ảnh đơn lẻ mà nó còn hòa vào vẻ đẹp của con người xứ tuyết. Thiên nhiên và con người như soi chiếu vào nhau: Cảnh đêm và điểm sáng đều được Shimamura nhìn qua tấm kính của toa tàu. Chúng ở phía xa và ở đằng sau, chúng mang những cái đẹp lung linh và huyền ảo. Shimamura cảm nhận được những vẻ đẹp ấy và anh cũng không thể rời mắt khỏi Yoko: “Anh bàng hoàng khi một ánh lửa tít xa trong núi bỗng lóe sang ở giữa gương mặt đẹp của người đàn bà trẻ, khiến cho vẻ đẹp không thể nào tả xiết ấy đạt đến đỉnh điểm”. Trong tấm gương soi, thiên nhiên và con người cùng tồn tại, vẻ đẹp thiên nhiên làm nổi bật vẻ đẹp con người. Chính và thế mà vào một buổi sáng, khi nhìn thấy vẻ đẹp của Komako hiện lên trong gương và trên nền tuyết, Shimamura đã nhớ lại vẻ đẹp của Yoko được phản chiếu lại trên cửa kính của toa tàu. Vẻ đẹp của Komako cùng với vẻ đẹp của tuyết trắng tạo nên một điểm nhấn cho bức tranh. Ở đây, tuyết trắng như làm nền cho Komako. Cụ thể hơn, vẻ đẹp của tuyết làm nổi bật đôi má đỏ hồng của cô. Shimamura hay chính Kawabata đã “mượn những chiếc gương soi để tạo lập nên một thế giới huyền ảo chưa từng có nhưng lại làm cho chúng ta tin tưởng vào đấy”. Thiên nhiên trong gương soi mang một vẻ đẹp của sự hư ảo, của sương khói bao phủ và của tuyết trắng. Chính bản thân Shimamura cũng giống như một chiếc gương. Ở đó ta có thể nhìn thấy sự mơ hồ của anh cũng giống như lúc anh nhìn thấy sự mơ hồ, kì ảo của thiên nhiên qua tấm gương.   Mời các bạn đón đọc Xứ Tuyết của tác giả Yasunari Kawabata.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hai Người Đến Từ Phương Xa - Dương Thụy
“Quê hương mỗi người chỉ một  Như là chỉ một mẹ thôi  Quê hương nếu ai không nhớ  Sẽ không lớn nổi thành người” Vâng! Hai tiếng “quê hương” rất thân thương và gần gũi. Cho nên dù đi đâu, ở đâu và làm gì không một ai có thể quên đi nguồn cội của mình. Mang dòng máu Việt Nam sinh sống và học tập trên khắp các nước trên thế giới, nhưng ngôn ngữ, những phong tục tập quán cùng những nét văn hóa tiêu biểu, đặc sắc không thể xóa nhòa trong trái tim Việt. Việc tôn trọng, lưu giữ qua các thế hệ và giới thiệu cho bè bạn năm châu biết những giá trị tinh thần cao đẹp đó cũng chính là tôn vinh văn hóa cá nhân của mỗi người… Dẫu cách biệt không gian và thời gian, dẫu phải trên đường mưu sinh nơi đất khách nhưng phải làm sao để đất nước Việt Nam mãi là một đất nước với sự thân thiện, hiếu khách. Mỗi câu chuyện như một gói hành trang nhỏ cho những người xa quê hương, nhất là các bạn trẻ. Và, Hai người đến từ phương xa, dù cách xa địa lý nhưng tâm hồn sẽ không còn cách xa… *** Mọi người trong lớp gọi tôi là “bà lớn” chẳng phải vì tôi có tướng tá phì nhiêu hay có chức tước gì quan trọng mà đơn giản họ gọi thế để ghép đôi tôi với “ông lớn”. “Ông lớn” thì quả là lớn về mọi mặt. Đó là thầy Christophe dạy chúng tôi môn Poésie. Thầy bệ vệ cao một mét tám và nặng cỡ ba ông con trai “cò ma” lớp tôi cột lại bỏ lên cân. Vì mỗi lần đọc tên thầy khó khăn quá, phải uốn lưỡi thật cong nên chúng tôi làm biếng gọi là “ông lớn” cho dễ phát âm, lại mang tính tượng hình. Còn việc mọi người xúm lại gọi tôi là “bà lớn” thì cũng chả có gì éo le. Sinh viên! Chỉ cần tôi bưng cho thầy ly nước theo nhiệm vụ lớp trưởng và thầy cười rạng rỡ cảm ơn là họ đã có đủ bằng chứng để chuyện nhỏ xé to, đồn ùm lên và đặt biệt danh cho tôi từ đó. “Ông lớn” hoàn toàn không biết rằng trên đời này tồn tại một “bà lớn” mảnh mai, mỗi buổi học hay tận tụy chăm sóc mình bằng những chai Tribeco. Ông chỉ biết hồn nhiên đón nhận một cách vui vẻ và nhiệt tình uống đến giọt cuối cùng để không phụ lòng cô sinh viên bé nhỏ. Về phần “bà lớn”, dẫu biết rằng mình chỉ “có tiếng” mà không “có miếng”, bà vẫn vui lòng tiếp tục nhiệm vụ cao cả vào mỗi buổi học và kiêu hãnh đem danh “bà lớn” ra hù dọa mấy tên con trai có ý đồ mờ ám. - Ê! Hoài ơi! - Tôi hổn hển gọi với theo - Xách cặp giùm Phương coi. Mệt quá! - Đưa đây! Anh chàng bí thư chi đoàn đưa tay đỡ chiếc cặp to đùng đựng đủ thứ đồ của tôi, cảm thấy hơi xấu hổ vì không tự nguyện hỏi giúp tôi trước khi tôi mở miệng nhờ. Con trai Việt Nam dở ẹc! Tuy vậy, một khi anh ta đã ra tay giúp đỡ rồi thì tôi cũng không tiếc gì một lời cảm ơn. - Cảm ơn nhe! Học chi mà lên tận trời xanh ba bốn tầng lầu. Mệt đứt hơi! - Tội nghiệp Phương - Hoài nghiêng đầu ngó tôi cười thông cảm - Ai biểu xách chi cái cặp nặng dữ vậy? - Tại đựng đủ thứ đồ nghề cho lớp mình nè: phấn, khăn trải bàn, sổ điểm, hai ba xấp bài photo bài tập - Tôi thở ra mệt mỏi rồi tự an ủi - mà tụi mình được vinh hạnh ngồi trên đầu trên cổ thiên hạ nên phải chịu cực leo cầu thang chút đỉnh! - Phương lúc nào cũng nói chuyện nghe phách lối - Hoài cau mày - Làm “bà lớn” riết rồi quen thói! Tôi định xạc anh chàng cao kều cái tội dám lên lớp phu nhân của “ông lớn” như mọi lần có ai làm chọc nọc tôi nhưng chúng tôi đã lên đến nơi và đụng đầu nhiều người trong lớp đang đứng nói chuyện. - Trời ơi! Coi thằng Hoài xách cặp giùm “bà lớn” kìa! ... Mời các bạn đón đọc Hai Người Đến Từ Phương Xa của tác giả Dương Thụy.
Đâu Mái Nhà Xưa - Hermann Hesse
Hình như trong mỗi con người của chúng ta đều có Một mái nhà xưa để mà hướng vọng, quay về sau những phen thăng trầm, điêu đứng. "Mái nhà xưa chưa về nhưng tâm hồn vẫn chảy tuôn về cõi trú, nơi ấy từng đêm đen những tiếng lang thang gào thét nhẹ nhàng".  Mái nhà xưa ở đây, có thể là một hoài niệm xanh xao của tuổi trẻ đã dần dà trôi tuột mà bao nhiều mộng đời, mộng nước chỉ còn thoảng lại một chút dư thanh lăng lắc ở bèn trời lận đận, với một tâm sự bi hùng "đầu tiên bạch"; Mái nhà xưa ở đây cũng có nghĩa là một cuộc tình mong manh vội tắt mà hai kẻ yêu nhau chỉ còn biết ngoảnh mặt bước đi để từng đêm nghe âm thầm réo lên biết bao là tiếc nuối; Mái nhà xưa ở đây cũng có nghĩa là một tiếng Đạo đầy tròn viên mãn mà con người băn khoăn thao thức muốn tìm ra để nương náu cho qua mấy cơn phũ phàng gió bụi. Nhưng với Hermann Hess trong tác phẩm này, thì Mái nhà xưa ấy còn có tên là Rosshalde, một ngôi biệt trang lộng lẫy, huy hoàng mà vì mối bất hòa của đôi vợ chồng cho nên cái chốn "Rosshalde tuyệt vời, hạnh phúc, đẹp đẽ... đó đã thành ra một chốn thống khổ và ghê tởm" Dường như dấy là cái bi lụy lớn nhất của con người. Và với Hermann Hesse thì điều đó lại là một điều không sao chịu nổi. Từ đấy viết lách đối với ông là một ghi nhận trung thành cái hệ lụy nhân sinh ấy với một tấm lòng xót xa vô hạn. Do đấy, toàn bộ tác phẩm của ông không phải là một ghi nhận bất cứ tiến trinh kỹ thuật văn chương nào, mà là tiếng nói phát xuất từ con tim, tiếng nói người-rất-người của một tâm hồn đã trải qua mấy mùa ở địa ngục. Cho nên ta không lấy làm lạ gì vào thuở sinh thời Hermann Hesse đã được rất nhiều nam nữ thanh niên ngưỡng mộ, hàng năm họ đã tấp nập hành hương đến "khu vườn nho nhỏ" của ông để thăm hỏi ông và hằng năm ông nhận được không biết bao nhiêu là thư từ cậy nhờ giải đáp những thắc mắc, khó khăn mà họ gặp phải trong cuộc sống. Hầu hết các tác phẩm của ông đều phần nào phản ảnh cuộc sống của ông một cách nồng nàn và ray rứt. Đâu mái nhà xưa chính là phản ảnh cuộc tan vỡ hôn nhân của ông, (Hesse đã trải qua ba lần kết hôn) và nhân vật chính trong tác phẩm này, nhà danh họa nổi tiếng thế giới Johann Veragutli có phần nào bóng dáng của ông vậy. Đây cũng là tác phẩm cảm thương nhất trong toàn bộ tác phẩm của ông. Ta thử tưởng tượng xem có gì cay đắng và xót xa hơn khi hai vợ chồng cùng sống trong một ngôi nhà, cùng ăn một bàn, lại như là hai kè xa lạ với nhau mà còn có phẩn căm hận với nhau nữa. Và cái gạch nối duy nhất giữa "hai kẻ cô đơn" ấy là một đứa con khôn ngoan dễ thương như một thiên thần, rồi một ngày kia cũng giã từ mặt đất mà đi! Ôi, đất ơi, cái đó có ý nghĩa gì? Về một khía cạnh khác, đây còn là một cáo buộc hùng hồn về sự tranh chấp của người lớn đã làm di hại đến cái thế giới thuần khiết trinh nguyên của tuổi trẻ. Ta còn thấy rõ ẩn dụ ấy ở các cuộc tranh chấp của các Quốc gia, và kết quả là người dân đen vô tội phải gánh chịu hết mọi tai ương. Cho nên ta không lạ gì khi tliấy Hermann Hesse sắp hàng bèn cạnh Romain Rolland (đây cũng là một con người rất người, một á thánh nữa vậy) trong công cuộc pacifits trong cuộc đệ nhất Thế chiến để nhận lãnh bao nhiêu lời thóa mạ nặng nề, nào là "Kẻ đê tiện", "Kẻ phản bội di sản Đức quốc" chỉ vì ông không đồng ý ở cái tinh thần hãnh tiến quốc gia để giết hại bất kỳ ai. ° ° ° Đâu mái nhà xưa kết thúc một cách nửa vời như một Sonate dang dở của Beethoven; (bản Sonate Fa thăng trưởng ấy vẫn còn thiên thu vang vọng nhưng Beethoven biết tìm Nữ Bá tước Theres Brunsvik ở nơi đâu với bức chân dung tự họa của nàng và mấy lời đề tặng rất là "lịch sự": "Xin tặng nhà nghệ sĩ vĩ đại, một thiên tài hiếm có, một người lương thiện") ° ° ° Và sau cùng khi bi kịch đã phóng thích ông, Veraguth đã lên đường sang Đông Phương nơi ông hy vọng "một khung cảnh mới mẻ thuần khiết và tự do từ lỗi lầm và khốn khổ sẽ bao bọc cưu mang ông". Hình như suốt cuộc đời băn khoăn thao thức của Hermann Hesse đã làm nổi bật lèn một bức tranh mầu nhiệm: tác phẩm The Decline of the West của Oswald Spengler nổi bật trên nền lửa đạn của hai cuộc Thế chiến. Và cũng hình như trong những đêm tối máu lửa của Việt Nam, có một câu hỏi âm thầm thảng thốt đặt ra: Chúng ta là người ở Phương Đông, bao giờ thì chúng ta cũng Trở về với Mái Nhà Xưa? - Bao giờ? Bao giờ? Vườn cô liêu giữa mùa hoa Hồng Thảo Hoài Khanh *** Mặt trời chiếu đỏ rực qua những đường viền của những đám mây đã tạnh mưa khi tiểu gia đình về nhà từ đám tang của Pierre. Bà Adele ngồi thẳng đon trong chiếc xe; gương mặt bà đã ráo hoảnh, hình như sáng rỡ và cứng ngắc một cách lạ lùng khi nhìn từ giữa chiếc nón đen và chiếc áo cắt cao. Khóe mắt Albert Sling vù lên và suốt cuộc hành trình cậu nắm chặt tay mẹ cậu. - Thế là ngày mai con sẽ ra đi rồi - Veraguth nói trong cố gắng làm cho họ xao lãng - Đừng có lo lắng về sự việc ấy, ba sẽ theo dõi mọi sự cho xong xuôi. Ngẩng mặt lên đi, con. Tại Rosshalde, khi họ từ chiếc song mã bước xuống những nhánh cây dẻ nhỏ xuống từng giọt lấp lánh dưới ánh sáng. Bị lóa mắt, họ bước vào ngôi nhà im lặng, nơi đây các chị giúp việc, trong y phục tang tóc, đã nói thì thầm khi họ chờ đợi, Veraguth khóa căn phòng của Pierre lại. Cà phê đã sẵn sàng và ba người ngồi vô bàn. - Tôi sẽ lấy phòng cho bà ở Montreux - Veraguth nói - Thấy rằng bà có một cuộc nghỉ ngơi tốt lành. Tôi cũng sẽ ra đi nữa, ngay khi tôi đã hoàn tất tại đây. Robert sẽ ở lại giữ cho nhà cửa được ngăn nắp. Hắn sẽ có địa chỉ của tôi. Không ai nghe ông; một sự trống rỗng hổ thẹn sâu xa đã đè nặng lên tất cả bọn họ như một lớp sương mù. Bà Adele nhìn cố định yào khoảng không và gom lại các mẩu vụn từ chiếc khăn trải bàn. Bà giam mình trong nỗi thống khổ của bà, không muốn đứng dậy, và Albert đã bắt chước bà. Bây giờ bé Pierre đã chết rồi, tất cả sự hợp nhất ngoài mặt trong gia đình đã biến mất, cũng như sự lịch sự được duy trì bởi một nỗ lực của ý chí biến mất khỏi gương mặt một người ngay sau khi một người khách có quyền uy và gây hoảng sợ đã đi mất. Veraguth một mình nổi bật trên những cảnh ngộ đó, thủ cái vai trò của ông và bảo toàn sự che đậy giấu diếm của ông cho đến giây phút cuối cùng. Ông ngại rằng một cái cảnh nhi nữ thường tình có thể làm hư hỏng sự chia tay của ông với Rosshalde, và trong tâm hồn ông, ông đã đợi chờ một cách nồng nhiệt cho cái phút giây khi mà hai người bọn họ sẽ ra đi. Chưa bao giờ ông cô đơn như thế như lúc ngồi trong cái tiểu phòng của ông vào chiều hôm ấy. ở đằng ngôi biệt trang, vợ ông đang thu xếp hành lý. Ông đã viết các bức thư cho Burkhardt, người mà tuy vậy vẫn chưa được kể về cái chết của Pierre, cho biết việc đi đến của ông; viết cho luật sư ông và ngân hàng, giao cho họ những chỉ thị sau cùng của họ. Rồi, khi chiếc bàn của ông đã dọn trống, ông dựng bức hình vẽ bé Pierre lâm chung trước mặt ông. Bây giờ thì em đã nằm dưới lòng đất rồi, và Veraguth tự hỏi không biết sẽ có bao giờ ông lại hiến dâng tâm hồn ông cho bất kỳ ai khác nữa như ông đã có với Pierre hay không, có bao giờ lại sẻ chia một cách sâu đậm với nỗi khốn khổ của bất kỳ ai khác nữa thế kia hay không. Bây giờ thì ông cô đơn trơ trọi. Trong một lúc lâu ông nhìn vào bức họa của ông, đôi má tóp vô, đôi mi mắt khép lại trên cặp mắt sâu trũng xuống, đôi môi mỏng dán dính chặt vào nhau, đôi tay gầy gò một cách tàn nhẫn. Rồi ông bỏ cất họa phẩm của ông vào họa phòng, lấy chiếc áo khoác và đi ra ngoài. Trời đã về đêm trên trang viên và mọi vật đều yên tĩnh. Ở đằng ngôi nhà, một vài cánh cửa sổ đèn đã thắp lên; chúng chẳng có liên quan gì với ông nhưng ở dưới những cây dẻ đen đúa, trong con đường lát sỏi các bóng cây nhỏ đã ướt sũng nước mưa, và trong vườn hoa vẫn còn cái hơi thở của đời sống và kỉ niệm. Tại đây đã có lần Pierre - không phải mới những năm trước đây sao? - chỉ cho ông xem một con chuột nhỏ bị bắt, và ở kia cạnh cây hoa giáp trúc đào em đã nói chuyện với đàn bướm xanh, và em đã đặt ra những cái tên tưởng tượng âu yếm cho các bông hoa. Tại đây, giữa chuồng gà và chuồng chó, trên bồn hoa và trên lối đi dưới những cây quất, em đã hướng dẫn cái đời sống nhỏ bé của em và chơi các trò chơi của em; đây là ánh sáng của em, sự tự do, tiếng cười trẻ thơ và tất cả sự quyến rũ của tính ương ngạnh, bản chất độc lập vôn tự nhiên của em. Tại đây, không được quan sát bởi một người nào cả, em đã tận hưởng những lạc thú như con trẻ của em và sống trong những chuyện thần tiên của em và một đôi khi có lẽ em đã tức giận hay khóc lóc khi em cảm thấy bị phủ nhận hay hiểu lầm. Veraguth đi lang thang đây đó trong bóng tối, thăm viếng mỗi địa điểm mà nó duy trì một hoài niệm về đứa con bé bỏng của ông. Sau cùng ông quỳ bên cạnh đông cát của Pierre và làm mát lạnh tay ông trong cát ẩm. Tay ông gặp phải một cái gì bằng gỗ và nhặt nó lên, ông nhận ra là cái xuổng xúc cát của Pierre, và rồi ông bẽ gãy đi, ý chí của ông đã bỏ mặc ông, và lần đầu tiên trong ba ngày khủng khiếp đó, ông đã khóc mà không kềm chế lại. Ngày hôm sau ông có một cuộc nói chuyện cuối cùng với bà Adele. - Hãy cố vượt qua nó đi - Ông nói - và chớ có quên rằng Pierre thuộc về tôi. Bà sẽ trao nó cho tôi rồi, và tôi cảm ơn về điều đó một lần nữa. Dẫu rằng tôi đã biết là nó sẽ chết, nhưng đó là lòng quảng đạx của bà. Và giờ đây hãy sống đúng như bà ưa thích, và đừng có hối hả về bất cứ điều gì. Hiện tại cứ giữ lại Rosshalde, bà có thể hối tiếc nếu bà bán nó đi quá sớm. Chưởng khế sẽ cho bà biết, ông ta nói rằng đất cát quanh đây chắc chắn lên giá. Tôi chúc bà được may mắn tốt nhất. Chẳng có gì lưu lại đây thuộc về tôi ngoại trừ đồ đạc trong họa phòng, tôi sẽ mang chúng đi sau đó. ... Mời các bạn đón đọc Đâu Mái Nhà Xưa của tác giả Hermann Hesse.
Cáo Già, Gái Già Và Tiểu Thuyết Diễm Tình - Dương Thụy
Cáo già, gái già và tiểu thuyết diễm tình, người đọc thường xuyên “đụng đầu” câu hỏi đặt ra cho chính mình: phải chăng, trong thế giới người trẻ, khác biệt văn hoá ngày càng thu hẹp? Người ta đang trở nên giống nhau trong ứng xử, giống nhau khi lựa chọn hướng đi trong cuộc sống, và nhất là sự tương đồng trong các cung bậc xúc cảm? Thấu hiểu và sẵn lòng chia sẽ nên người ta đến với nhau dễ dàng hơn. Tình yêu tâm hồn và cả thể xác không còn là thứ xa vời cấm kỵ. Nhưng chính vì thế, mỗi cá nhân lại bớt phần bí mật, ít đi quyến luyến nên chia tay nhau cũng thấy chóng vánh và nhẹ nhàng hơn. *** Tên thật: Dương Thụy Phương Khanh, sinh năm 1975 tại Sài Gòn. Là PR & Communication Manager của Tập đoàn bất động sản Singapore CAPITALAND Các tác phẩm đã xuất bản: -1997: “Dấu Lặng Trong Điệp Khúc” (NXB Văn Nghệ) -1999: “Người thổi kèn” (NXB Kim Đồng) -2002: “Hai người đến từ phương xa” (NXB Kim Đồng) -2003: “Con gái Sài Gòn” (NXB Trẻ) -2004: “Cắt đuôi” (NXB Kim Đồng) -2004: “Bồ câu chung mái vòm” (NXB Trẻ) -2005: “Hành trình của những người trẻ” (NXB Trẻ) -2007: “Oxford thương yêu” (NXB Trẻ) -2008: “Cáo già, gái già và tiểu thuyết diễm tình” (NXB Trẻ) -2009: "Venise và những cuộc tình gondola" (NXB Trẻ) -2010: Nhắm mắt thấy Paris (NXB Trẻ) Các giải thưởng văn học: -1999: Giải hai, “Hương Đầu Mùa”, Báo Sinh Viên VN – Hoa Học Trò -2004: Giải hai, “Truyện ngắn hay 2004”, Báo Tiếp Thị Gia Đình -2005: Giải ba, “Văn học Tuổi Hai Mươi”, NXB Trẻ *** Tố Uyên lặng lẽ một mình khóa cửa phòng. Đám bảo vệ quen với việc về trễ của chị cũng phải thốt lên: "Về khuya dữ chị!". Ông Toàn tài xế mừng rỡ mở cửa xe sau cả buổi đói meo ngồi chờ. Tố Uyên vốn không ưa ông này, chị thù vụ ông bị vợ cắm sừng rồi đổ thừa:ÔNG "Tại chị bắt tui làm việc về trễ quá, con vợ tui nó ngứa ngáy "nhảy dù" với thằng sửa ống nước". Mấy lần chị tính vận dụng những thủ thuật của một giám đốc nhân sự đuổi phứt ông Toàn nhưng chủ tịch công đoàn là anh ruột ông ta. - Nè, công ty sắp có tổng giám đốc mới - Tố Uyên hào hứng - Đẹp trai lắm! Tui coi hình rồi. Nghe đâu ly dị vợ. - Vậy là chị có hy vọng... - ông tài xế tính xã giao làm vui lòng sếp buột miệng. - Ý anh là sao? Tố Uyên điên tiết. Thằng cha vô duyên thấy sợ. Để rồi coi, tổng giám đốc mới mà quyết đoán một chút chị sẽ "dùi" cách đuổi cổ chủ tịch công đoàn, hay ít ra cũng làm hắn "cụt tay cụt chân". Khi đó ông Toàn đừng hòng xớ rớ trong xe chị. Đã nhiều lần ông vụng về đề cập đến việc chị đã gần bốn mươi mà chưa chồng. Mấy tài xế công ty rãnh rỗi tha hồ "tám" chuyện, đã thế ông Toàn còn thật thà học lại nguyên văn tưởng làm sếp hài lòng: "Tố Uyên tuy gái già nhưng nhìn còn ngon cơm!" Sếp mới về, không làm thất vọng mấy trăm nhân viên, trước mắt là ngoại hình. Ông người Anh, gốc Ý, vóc người năng chơi thể thao, làn da rám nắng, khuôn mặt nam tính chinh phục người đối diện dễ dàng. Berlotti phong độ tuyệt đỉnh ở tuổi bốn lăm. Tố Uyên biết chỉ cần sếp ra lệnh, chị sẵn sàng đem cả mền chiếu vào công ty làm việc. Kinh nghiệm cho thấy ông tổng nào mới về cũng cần phòng nhân sự hỗ trợ để tống bớt đám tay chân của đời trước, rước người mới vào dễ bề quản lý. Tố Uyên và sếp thường ở lại bàn bạc công việc đến tận mười giờ đêm. Đám bảo vệ giả bộ đi tuần ngang qua phòng tổng giám đốc liếc thấy hai người thân mật cười nói rổn rảng. Ông Berlotti vỗ vai Tố Uyên thùm thụp "Chúa ơi! Chúa ơi!", chị nàng bưng mặt mắc cỡ kêu lên the thé "Berlotti! Ồ Berlotti! Không!". Bà con đồn ùm lên hai người "chịu đèn" nhau rồi. Dạo này giám đốc nhân sự không mặc những bộ váy công sở nghiêm nghị nữa. Chị đổi style diện toàn bằng chất liệu mềm mại, kiểu dáng nhẹ nhàng, đơn giản mà trẻ trung. Ai cũng công nhận cái tính từ "ngon cơm" đám tài xế dành cho chị là chính xác. Tố Uyên cao một mét sáu lăm, lưng thẳng, eo thon, bụng nhỏ. Chị không có nhan sắc mỹ miều nhưng mặt mũi ưa nhìn, biết trang điểm tinh tế, và nếu đừng làm ra vẻ ta đây mà chịu cười tủm tỉm, chị quả là mỹ nhân U40. Mỗi lần nhân viên công ty thấy Tố Uyên cùng ông tổng sánh đôi lên xe đi ra ngoài công tác hoặc cùng đàm đạo thân mật trong sân, người ta thật lòng mong chị có bồ phứt cho rồi. Chức cao, tài năng, xinh đẹp mà làm gái già thật tâm sinh lý phức tạp không tài nào đoán nổi. Dĩ nhiên người trong cuộc biết công ty bàn tán gì. Mặc, anh đã ly dị, ả chưa có chồng. Hồi sau sẽ rõ. ... Mời các bạn đón đọc Cáo Già, Gái Già Và Tiểu Thuyết Diễm Tình của tác giả Dương Thụy.
Chú Bé Thành Paris - Victor Hugo
Những người khốn khổ  là kiệt tác của đại văn hào Victor Hugo. Trong tác phẩm này, tác giả đã khắc họa sống động chú bé Ga vroche hồn nhiên, dũng cảm và nghĩa hiệp… Gavroche tuy đói khổ và nhiễm chút "bụi đời" nhưng vẫn rạng ngời phẩm chất tốt đẹp. Chú căm ghét kẻ giàu và sẵn sàng giúp đỡ người nghèo khó. Chú đã dùng đồng xu cuối cùng để mua bánh cho hai đứa trẻ lạc đường đang đói và còn mở rộng bụng voi để chúng ngủ qua đêm… Paris khởi nghĩa, Gavroche hăng hái ra trận với khẩu súng không cò, miệng hát vang những khúc ca "hòa âm của tiếng chim và xưởng thợ". Gavroche luôn có mặt ở những nơi cuộc chiến gay go và ác liệt. Chú như con ong: châm anh sinh viên này, đốt anh thợ kia, đáp xuống, dừng lại, bay lượn trên chiến lũy. "Đôi cánh tay nhỏ của chú là sự chuyển động thường trực, hai lá phổi tí hon của chú chứa đựng sự huyên náo…" *** Victor Hugo là niềm tự hào của nhân dân Pháp và của toàn thế giới. Victor Hugo tên đầy đủ là Victor Hugo, sinh ngày 26 tháng 02 năm 1802 ở Bơzăngxông, mất ngầy 22 tháng 05 năm 1885. Vốn là con của một người thợ mộc, nhưng ông Joseph đã phục vụ quân đội Pháp trong thời kỳ Cách Mạng và lên tới cấp bậc thiếu tá, rồi về sau do lòng dũng cảm và công trạng chiến trường, trở thành một vị tướng trong đội quân của Napoléon. Mẹ ông sinh trưởng trong một gia đình quân chủ và ngoa đạo. Do hoàn cảnh gia đình mà Hugo chịu ảnh hưởng tư tưởng khá sâu nặng từ mẹ, tác động rất lớn sự hình thành các quan điểm của ông thời trẻ.  Cuộc đời và sự nghiệp văn học của ông bao chùm thế kỷ XIX ở Pháp. Ông ra đời khi thế kỷ đó mới chớm nở được già một năm trên đống gạch vụn hoang tàn của chế độ phong kiến vừa sụp đổ chưa được bao lâu. Ông mất vào khoảng giai đoạn cuối thế kỷ, lúc phong trào cộng sản thế giới đang chuyển qua thời kỳ đấu tranh mới hết sức quyết liệt. Ông đã chứng kiến cơn bão táp của lịch sử và nó được phản ánh trong các tác phẩm của ông. Nếu như “Letônxtôi được coi là tấm gương phản chiếu cách mạng Nga”(V.I.Lênin) thì Victor Huygô cũng được coi là tầm gương phản chiếu của cách mạng Pháp. Victor Hugo là nhà văn, nhà thơ lớn của nước Pháp. Sự rộng lượng trong các tư tưởng của ông, sự ân cần trong cách diễn tả đã làm rung động tâm hồn người đọc bởi vì ông là nhà thơ của người bình dân, đã viết ra văn, làm ra thơ với đặc tính giản dị nhưng bao hàm bên trong sức mạnh, đề cập cả về niềm vui lẫn nỗi buồn của nhiều người. Khi được hỏi ai là nhà thơ lớn nhất của nước Pháp, Văn Hào André Gide đã trả lời: "Vẫn là Victor Hugo". Victor Hugo có thể bị chỉ trích về sự nông cạn của tâm hồn tác giả và sự tầm thường của các nhân vật trong chuyện, nhưng tầm vóc tài năng của ông về văn chương, bao gồm cả kịch nghệ và thơ phú, thật là bao la, không có ai sánh kịp trong lịch sử văn học kể từ thời Shakespeare và Goethe. Mặc dù không phải là nhà tư tưởng sâu sắc, Victor Hugo vẫn là nhà văn chân thành, hiến mình cho "Chân, Thiện, Mỹ" và ông là văn hào được dân chúng Pháp yêu chuộng nhất.  “Những người khốn khổ” là tác phẩm xuất sắc nhất của Victor Hugo. Nhà văn hoàn thành bộ tiểu thuyết ấy ở đảo GheTác-nơ-đây. Trong thời gian sống lưu vọng. Tuy nhiên tác phẩm này đã được ấp ủ từ lâu. Chính vì vậy mà: “Tác phẩm được đánh giá là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nền văn học thế giới thế kỷ XIX”. “Những người khốn khổ” ghi lại dấu mốc đáng kể trên con đường phát triển mạnh mẽ của loại tiểu thuyết xã hội Pháp. Đây được coi là tác phẩm chan chứa tình lãng mạng. Tác phẩm này là đỉnh cao nghệ thuật văn xuôi, tác phẩm đã kết tinh nhất thiên tài của văn chương thế giới. *** Khi đạn to đã làm cho các chiến sĩ không ở được trên đỉnh chiến lũy và khi đạn ghém khiến họ phải rời các cửa sổ của quán rượu thì các toán quân tấn công có thể xông vào giữa đường phố mà không sợ ai nhắm bắn và có thể là không sợ ai trông thấy nữa. Có thể quân tấn công bất thình lình leo lên chiến lũy như hồi đầu hôm và biết đâu chúng sẽ bất ngờ chiếm lấy chiến lũy. Enjolras suy tính: “Nhất định phải làm cho hai khẩu đại bác bớt làm phiền ta mới được”. Anh thét: - Bắn vào bọn pháo binh! Ai nấy đều đã sẵn sàng. Từ lâu phải im lặng, cả chiến lũy bỗng nổ súng như điên cuồng, bảy, tám loạt nối liền nhau như căm hờn, như reo vui. Vài phút sau, qua làn mây mù rạch ánh lửa đạn lập lòe, người ta thấy lờ mờ đến hai phần ba số pháo thủ ngã gục bên bánh xe của các khẩu pháo. Bọn còn sót lại cứ bình tĩnh, nghiêm nghị, tiếp tục bắn nhưng bắn chậm đi nhiều. Bossuet bảo Enjolras: - Thế là tốt. Thắng lợi. Enjolras lắc đầu, đáp: - Cứ thắng lợi kiểu ấy thì chỉ mười lăm phút nữa, cả chiến lũy sẽ không còn lấy mười viên đạn. Câu nói ấy hình như đã lọt vào tai Gavroche. Chợt Courfeyrac trông thấy có ai ở phía ngoài dưới chiến lũy, trên đường phố, trong luồng đạn của quân địch. Đó là Gavroche. Gavroche đã xách một chiếc giỏ dùng để đựng chai trong quán rượu, rồi luồn qua khe hở mà ra ngoài. Bây giờ thì chú điềm nhiên lật bị của bọn quốc dân quân đã chết trên bờ lũy mà trút đạn vào giỏ. Courfeyrac kêu hỏi: - Em làm gì đấy? Gavroche ngẩng đầu lên, đáp: - Tôi hốt cho đầy giỏ đồng chí ạ. - Em không thấy đạn vãi ra đó ư? - Ừ thì như mưa đấy. Thế thì sao? Courfeyrac thét: - Đi vào! - Lát nữa đã! Gavroche chỉ đáp gọn lỏn có thế rồi đi sâu vào đường phố. Khoảng hai mươi xác người nằm rải rác suốt chiều dài đường phố cũng đủ cho Gavroche tha hồ mà lấy đạn tiếp tế cho nghĩa quân. Khói súng luẩn quẩn trong thành phố như một đám sương mù. Bị dồn lại giữa hai dãy nhà cao tầng, khói càng dày đặc giống như đám mây lọt vào thung lũng, giữa hai sườn núi dựng đứng. Nó bốc lên chầm chậm, bốc lên chừng nào thì dưới chân đã có khói mới tỏa ra thay chừng ấy, do đó không gian càng lúc càng mờ mịt. Mặc dầu giữa ban ngày mà trời vẫn cứ tối sầm. Con đường rất ngắn nhưng qua đám mây mù ấy, chiến sĩ ở đầu phố, cuối phố khó mà trông thấy nhau. Có lẽ những người chỉ huy cuộc tấn công chiến lũy đã muốn tạo ra một đám khói mù như thế. Dẫu sao nó cũng rất có lợi cho Gavroche. Vóc người đã nhỏ bé, lại lẫn vào trong làn khói, nhờ vậy Gavroche tiến sâu vào đường phố mà không bị lộ hình. Chú dốc bảy, tám cái bị đầu một cách yên ổn. Chú nằm bẹp xuống đất mà lết, chú chống hai tay, hai chân phi nước đại, chú ngậm vành giỏ vào mồm để lướt tới. Chú lê, chú lết, chú trườn, chú xoay mình, chú uốn khúc như một con rắn. Chú bò từ xác này sang xác khác. Chú mở rộng cái bị hay cái nịt đạn như con khỉ bóc quả hạnh đào. Chú đi cũng không xa chiến lũy là mấy nhưng chẳng ai dám mở miệng gọi chú trở lại, vì sợ làm cho quân thù để ý sẽ phát hiện thấy chú. Chú tìm thấy một bị thuốc súng hình quả lê trên thây một hạ sĩ. ... Mời các bạn đón đọc Chú Bé Thành Paris của tác giả Victor Hugo.