Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Viết Gì Cũng Đúng - Các Thủ Thuật Để Thành Công Trong Tranh Luận

Cuốn sách này giúp người đọc có một nhận thức đầy đủ và đúng đắn hơn về biện luận, đó không phải chỉ đơn thuần là việc đưa ra những ý kiến của mình dưới một dạng thức mới, mà là việc đưa ra hàng loạt lý do hay bằng chứng để củng cố cho kết luận. Biện luận không phải là tuyên bố hay tranh cãi về một quan điểm hay vấn đề nào đó, mà là cố gắng bảo vệ cho một quan điểm nhất định với các lý lẽ và bằng chứng rõ ràng. Cuốn sách cung cấp cho bạn đọc những kiến thức như: · Những nguyên tắc cơ bản để xử lý các cuộc tranh luận ngắn: xác định giả thuyết và kết luận; phát triển ý tưởng của bạn... · Khái quát hóa: sử dụng nhiều ví dụ; sử dụng các ví dụ điển hình... · Sử dụng phép loại suy từ các ví dụ tương tự; · Các nguồn trích dẫn: tìm kiếm nguồn thông tin; kiểm tra chéo thông tin;... Đôi khi, chúng ta thường coi biện luận là công việc vô ích và chẳng hay ho gì, nhưng chúng ta cũng nhận thức được rằng biện luận là hoàn toàn cần thiết, nhất là trong xã hội ngày nay, con người được trang bị ngày một đầy đủ hơn, toàn diện hơn cả về kiến thức cũng như công cụ để tìm tòi, nghiên cứu, thì biện luận thông minh là cách hữu hiệu để bảo vệ quan điểm cá nhân. Như chính Anthony Weston - tác giả của cuốn sách này đã nói, “Chân lý không bao giờ thay đổi, chỉ có thời gian thay đổi mà thôi.”, và cuốn sách này sẽ giúp bạn đọc làm sáng tỏ nhiều hơn chân lý đó. Về tác giả: ANTHONY WESTON hiện đang giảng dạy triết học và nghiên cứu môi trường tại Đại học Elon. Ông đã xuất bản 6 cuốn sách và trên 50 bài viết trải dài từ lĩnh vực triết học môi trường và triết lý giáo dục cho tới đạo đức học và tư duy phê phán. *** Lời giới thiệu (Cho bản tiếng Việt) Độc giả thân mến, Có một câu cách ngôn nổi tiếng rằng “Chân lý sinh ra trong tranh luận” và cũng chết đi trong đó. Nếu chúng ta hiểu biết về cách thức lập luận và vận dụng nó phù hợp thì cuộc tranh luận có thể giúp ta làm sáng tỏ chân lý. Ngược lại, nếu ta lập luận bằng mọi cách chỉ cốt để bảo vệ những định kiến đã có sẵn thì chân lý sẽ chết chìm trong những trận luận chiến kéo dài. Bởi vậy, để cuộc tranh luận hay diễn thuyết thành công, điều cốt yếu là phải đưa ra được những lập luận logic, có cơ sở hợp lý.  Tại Việt Nam, chưa có cuốn sách nào thật sự ngắn gọn mà vẫn đầy đủ và dễ hiểu hướng dẫn người đọc các phương pháp biện luận hiệu quả, hữu dụng trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Bởi vậy, chúng tôi lựa chọn xuất bản và giới thiệu bộ sách về biện luận nói chung và tranh luận nói riêng với hy vọng sẽ mang đến cho các bạn những kiến thức bổ ích và dễ dàng áp dụng, giúp bạn thành công trong công việc và cuộc sống.  Viết gì cũng đúng của Athony Weston là cuốn sách đầu tiên trong bộ sách này. Tác giả đưa ra nghệ thuật viết và cách thức lập luận sắc bén, thông qua các nguyên tắc cụ thể được giải thích và minh họa đầy đủ, ngắn gọn. Đây được xem như cuốn giáo khoa thư nổi tiếng, đã được dịch sang 8 ngôn ngữ ‒ vẫn là lựa chọn đầu tiên với những ai tìm kiếm một cuốn sách hướng dẫn dễ hiểu về cách đưa ra các lập luận vững chắc.  Tiếp theo Viết gì cũng đúng, chúng tôi sẽ xuất bản cuốn Cãi gì cũng thắng – một cuốn sách thực sự lôi cuốn về cách tư duy phản biện và tranh luận sắc sảo, đặc biệt thích hợp với những ai có nhu cầu rèn luyện và nâng cao khả năng thuyết trình, thuyết phục.  Hy vọng bộ sách sẽ là người bạn đồng hành cùng bạn chinh phục con đường tư duy sắc sảo nhất.  Xin trân trọng giới thiệu tới độc giả. Hà Nội tháng 12/2011 CÔNG TY SÁCH ALPHA *** Lời tựa Quyển sách này giới thiệu ngắn gọn về nghệ thuật viết và đánh giá những lập luận, đồng thời bám rất sát mục tiêu này. Tôi nhận ra rằng hầu hết sinh viên và tác giả thường chỉ cần một danh sách vài dòng ghi nhớ và nguyên tắc chứ không cần giải thích, giới thiệu dài dòng. Do đó, quyển sách này được xây dựng xoay quanh một số nguyên tắc nhất định, được giải thích và minh họa đầy đủ nhưng rất ngắn gọn. Đây không phải một quyển sách giáo khoa mà là một quyển sách nguyên tắc. Tôi nhận ra rằng hầu hết giáo viên có thể cũng muốn giới thiệu một quyển sách nguyên tắc kiểu này để sinh viên tham khảo và tự tìm hiểu, ngõ hầu tránh lãng phí thời gian trong lớp. Một lần nữa tôi cần phải nhắc lại rằng tiêu chí ngắn gọn rất quan trọng vì mục tiêu của cuốn sách này nhằm giúp sinh viên dễ dàng viết một bài luận hay đánh giá một lập luận, nhưng các nguyên tắc cần phải dựa trên giải thích đầy đủ để giáo viên chỉ cần yêu cầu sinh viên xem Nguyên tắc 6 hay Nguyên tắc 16 hơn là phải viết cả một đoạn giải thích bên lề bài viết của sinh viên. Ngắn gọn mà đầy đủ ‒ đó là tiêu chí mà tôi theo đuổi. Quyển sách này cũng có thể được sử dụng trong chương trình học chuyên về lập luận. Tất nhiên, cần phải đưa thêm nhiều bài tập và ví dụ được trình bày rất đầy đủ trong những quyển sách có sẵn khác. Tuy nhiên những quyển sách đó cũng cần được hỗ trợ bởi quyển sách này vì mục đích của nó là tập hợp những nguyên tắc đơn giản để kết hợp các lập luận vững chắc lại với nhau. Có rất nhiều sinh viên hoàn thành khóa học về biện luận mà chỉ biết cách “bắn hạ” (hay đôi khi cũng chỉ “bắn trúng”) những ngụy biện nhất định. Họ thường xuyên không thể giải thích tại sao những lập luận đó không đúng hay đưa ra lập luận của riêng mình. Lý luận phi chính thức có thể làm tốt hơn thế: quyển sách này là một nỗ lực đưa ra cách thức làm điều đó. Xin hoan nghênh các ý kiến nhận xét và phê bình của quý bạn đọc. ANTHONY WESTON Tháng 8 năm 1986 *** Giới thiệu Tại sao phải tranh luận? Một vài người nghĩ rằng tranh luận chỉ đơn thuần là nêu lên những định kiến có sẵn theo một cách khác. Đây cũng chính là lý do vì sao nhiều người cho rằng những cuộc tranh luận thường khó chịu và vô vị. Trong một cuốn từ điển, người ta định nghĩa “tranh luận” là “tranh cãi”. Theo cách hiểu này, chúng ta thường nói rằng hai người đang “tranh cãi” nghĩa là đang đấu đá bằng mồm. Việc này diễn ra thường xuyên đến mức người ta cũng phải công nhận nó. Nhưng đó không phải là tranh luận. Trong quyển sách này, “đưa ra một lập luận” có nghĩa là đưa ra những lý do hay bằng chứng để hỗ trợ một kết luận. Ở đây, lập luận không chỉ đơn thuần là phát biểu về một quan điểm nào đó và cũng không đơn thuần là một cuộc tranh cãi. Lập luận là những nỗ lực sử dụng lý lẽ nhằm chứng minh quan điểm của mình. Tranh luận cũng không vô vị; thực tế nó rất quan trọng và hấp dẫn. Đầu tiên, tranh luận quan trọng bởi đó là cách để tìm ra quan điểm nào đúng hơn. Không phải tất cả các quan điểm đều đúng. Một vài kết luận dựa trên nền tảng của lý lẽ vững chắc trong khi những kết luận khác được hỗ trợ kém hơn nhiều. Nhưng thường thì chúng ta không thể kết luận cái nào là cái nào. Chúng ta cần phải nêu ra nhiều lý lẽ cho nhiều kết luận khác nhau và sau đó đánh giá những lập luận đó để xem xét chúng vững chắc thế nào. Theo cách hiểu này, tranh luận là một quá trình thẩm tra. Chẳng hạn, một số triết gia và nhà hoạt động xã hội tuyên bố rằng hình thức trại nuôi động vật lấy thịt gây ra đau khổ cho động vật, vì thế đó là điều phi lý và thiếu đạo đức. Phát biểu đó có đúng không? Bạn không thể trả lời bằng định kiến của mình được. Có rất nhiều vấn đề liên quan ở đây. Thí dụ như chúng ta có bị ràng buộc đạo đức với những loài khác không hay nó chỉ xấu xa khi con người là chủ thể chịu đựng đau khổ? Con người sẽ sống ra sao nếu thiếu thịt? Một vài người ăn chay đã sống rất lâu. Liệu điều này có nghĩa là chế độ ăn chay thì lành mạnh hơn? Hay nó không hề có liên quan gì khi xét đến việc nhiều người ăn thịt cũng sống lâu? (Bạn có thể tiếp tục suy nghĩ vấn đề này bằng cách đặt ra câu hỏi liệu phần trăm người ăn chay sống lâu có nhiều hơn không.) Hay ngược lại có thể là những người sống lành mạnh có xu hướng trở thành người ăn chay? Tất cả những câu hỏi này cần được suy xét rất cẩn thận và những câu trả lời thoạt đầu đều chưa rõ ràng. Lập luận cũng quan trọng vì một lý do khác. Một khi chúng ta đi đến kết luận với những lý lẽ hỗ trợ đầy đủ, lập luận là cách chúng ta giải thích và bảo vệ kết luận đó. Một lập luận tốt không chỉ đơn thuần lặp lại những kết luận. Thay vào đó, nó cung cấp những lý lẽ và bằng chứng để người khác có thể tự đưa ra quyết định. Thí dụ như nếu bạn tin rằng chúng ta cần phải thay đổi cách nuôi và sử dụng động vật, bạn cần phải đưa ra những lập luận để giải thích cách thức bạn đi tới kết luận đó. Đó là cách bạn thuyết phục người khác: đưa ra những lý lẽ và bằng chứng đã thuyết phục bạn. Có quan điểm vững vàng không phải là một sai lầm. Sai lầm chính là bạn không có gì ngoài những quan điểm. Hiểu rõ sự khác biệt giữa bài văn và bài luận  Những nguyên tắc trong tranh luận không mang tính tùy ý; nó có mục đích nhất định. Tuy nhiên, sinh viên (cũng như một số tác giả khác) không phải lúc nào cũng hiểu mục tiêu đó khi được giao viết bài luận – và nếu bạn không hiểu nhiệm vụ, bạn khó có thể làm tốt nhiệm vụ đó. Rất nhiều sinh viên khi được yêu cầu bảo vệ quan điểm trong một số vấn đề đã viết rất tỉ mỉ quan điểm của mình nhưng không nêu ra bất kỳ lý do thực sự nào để chứng minh rằng quan điểm của họ là đúng. Họ đang viết một bài văn, không phải một bài luận. Đây là hiểu lầm thuộc về bản chất. Ở bậc trung học, các học sinh tập trung học những chủ đề khá rõ ràng và không mang tính tranh luận. Bạn không cần tranh luận chuyện Hiến pháp Hoa Kỳ quy định ra ba nhánh cầm quyền trong chính phủ hay Shakespeare viết vở Macbeth. Bạn chỉ cần nắm vững những thực tế này và bài viết của bạn chỉ cần lặp lại chúng. Các sinh viên bước vào đại học với suy nghĩ mọi chuyện sẽ tương tự như thế ở một cấp cao hơn. Tuy nhiên, rất nhiều chương trình ở bậc đại học – đặc biệt là những chương trình yêu cầu sinh viên phải viết – lại nhắm vào mục tiêu khác. Những chương trình này liên quan đến cơ sở niềm tin của chúng ta; chúng yêu cầu sinh viên phải thẩm tra niềm tin và tìm cách bảo vệ quan điểm của họ. Những vấn đề thảo luận trong chương trình đại học thường không rõ ràng và chắc chắn. Đúng là Hiến pháp quy định ba nhánh cầm quyền trong chính phủ nhưng liệu Tòa án tối cao có nên có quyền phủ quyết đối với hai nhánh kia không? Đúng là Shakespeare viết vở Macbeth nhưng vở kịch đó có ý nghĩa gì? Những lý lẽ và bằng chứng có thể được đưa ra cho những câu trả lời khác nhau. Các sinh viên được yêu cầu phải học cách tự suy nghĩ để thiết lập quan điểm riêng một cách có trách nhiệm. Khả năng bảo vệ được quan điểm của mình là một thước đo cho kỹ năng đó và cũng là lý do tại sao các bài luận lại rất quan trọng. Thực tế, như nội dung từ Chương 7 đến Chương 9 sẽ giải thích, để viết một bài luận tốt, bạn sẽ phải sử dụng các lập luận vừa như một công cụ thẩm tra vừa là cách thức để giải thích cũng như bảo vệ kết luận của mình. Bạn phải chuẩn bị bài viết của mình thông qua nghiên cứu những lập luận từ góc nhìn của các bên đối lập. Sau đó, bạn sẽ phải đưa ra các lập luận trong bài viết của mình để bảo vệ kết luận bạn đưa ra và đánh giá nghiêm túc một vài lập luận từ góc nhìn của các bên đối lập. Dàn bài Quyển sách này bắt đầu bằng việc thảo luận những lập luận tương đối đơn giản và cuối cùng hướng đến cách viết một bài luận hoàn chỉnh. Từ Chương 1 đến Chương 6 trình bày cách hình thành và diễn đạt những lập luận ngắn. Một lập luận “ngắn” đơn thuần đưa ra các lý do và bằng chứng một cách ngắn gọn, thường chỉ trong vài câu hoặc một đoạn văn. Chúng ta bắt đầu với những lập luận ngắn vì một số lý do. Lý do thứ nhất là vì những lập luận này rất phổ biến. Thực tế, nó phổ biến đến nỗi trở thành một phần trong hội thoại thường nhật. Lý do thứ hai là những lập luận dài thường là sự diễn giải của các lập luận ngắn hay một chuỗi các lập luận ngắn được kết nối với nhau. Nếu bạn học cách viết và đánh giá những lập luận ngắn trước, bạn có thể mở rộng kỹ năng của mình sang những bài luận. Lý do thứ ba nên bắt đầu với những lập luận ngắn vì những lập luận này là ví dụ minh họa tốt nhất cho các hình thức lập luận phổ biến và những lỗi điển hình trong lập luận. Trong những lập luận dài, việc tìm ra vấn đề chính thường khó hơn. Do đó, dù rằng một vài nguyên tắc có vẻ rất hiển nhiên khi được đề cập đến, hãy nhớ rằng bạn đang hưởng lợi từ những ví dụ đơn giản. Những nguyên tắc khác đủ khó để đóng vai trò quan trọng ngay cả trong những lập luận ngắn. Chương 7, 8 và 9 chuyển sang bàn đến vấn đề viết luận. Chương 7 trình bày bước đầu tiên: nghiên cứu vấn đề. Chương 8 phác họa những điểm chính trong một bài luận và Chương 9 thêm vào những nguyên tắc cụ thể để viết bài luận. Tất cả những chương này đều dựa trên những gì được thảo luận từ Chương 1 đến Chương 6. Đừng bỏ qua phần đầu và nhảy ngay sang những chương về cách viết bài luận dù rằng bạn tìm đọc quyển sách này cho mục đích đó. Quyển sách này đủ ngắn để đọc xuyên suốt đến Chương 7, 8 và 9 và khi đến những chương này bạn đã được trang bị những công cụ cần thiết để sử dụng chúng một cách hiệu quả. Các giảng viên có thể chỉ định sinh viên đọc từ Chương 1 đến Chương 4 vào đầu học kỳ và sau đó là từ Chương 6 đến Chương 9 vào thời điểm viết bài luận. Chương 10 bàn về những ngụy biện, những lập luận sai lạc. Chương này tổng hợp tất cả những lỗi chung được thảo luận trong các phần khác của quyển sách và kết thúc bằng một danh sách liệt kê rất nhiều lập luận sai lạc đầy cám dỗ và phổ biến đến nỗi có cả tên riêng cho mỗi loại. Phần Phụ lục nêu ra một số nguyên tắc xây dựng và đánh giá các định nghĩa.   Mời các bạn đón đọc Viết Gì Cũng Đúng - Các Thủ Thuật Để Thành Công Trong Tranh Luận của tác giả Anthony Weston.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chinh Phục Hạnh Phúc
Thường thì con người thường sẽ dễ để quên đi hạnh phúc và khó để quên được những nỗi đau. Nhưng, hạnh phúc là cảm giác mà ai ai cũng mong muốn, nó là cảm giác là khi chính mình hoàn thành được công việc, là khi mình giúp đỡ được người khác, là khi mình nhận được sự quan tâm và thương yêu từ mọi người xung quanh. Hạnh phúc là một loại cảm giác gì? Hạnh phúc là một loại tâm trạng, chỉ cần bạn hiểu được, nó tồn tại trong mọi ngóc ngách của cuộc sống Hạnh phúc là một quả cầu thủy tinh, rơi xuống đất và vỡ làm nhiều mảnh, ai cũng có thể nhặt lên, người may mắn có thể nhặt được rất nhiều mảnh. Lúc nhặt miếng thủy tinh rơi, nếu như không cẩn thận, có thể bị cạnh sắc nhọn của mảnh vỡ làm đứt tay, khiến cho những người đi lượm hạnh phúc đau đớn không thôi. Thực ra cuộc sống chính là một chút tổn thương, một chút suy sụp, một chút bất lực, một chút cảm thán. Muốn có được hạnh phúc chỉ có thể dùng chính đôi tay của mình để cố gắng, để kiếm tìm, để thay đổi. Hạnh phúc không phải chuyện nhất thời mà là chuyện cả đời Một cuộc sống hạnh phúc không phải là “Anh yêu em” sau đó hai người bắt đầu yêu nhau, cũng không phải nói “Chúng mình không hợp” rồi chia tay hai ngả. Hạnh phúc là hai người yên lặng bảo vệ, gom góp tất cả tình yêu gửi sâu vào đáy lòng, ngày qua ngày mang ra thưởng thức. Hạnh phúc là cảm giác đến từ trái tim, chứ không phải nhận định của người khác Hạnh phúc và bi ai thực sự, chỉ có bản thân mới hiểu, định nghĩa của hạnh phúc của mỗi người đâu có giống nhau. Xe sang, nhà đẹp, nhiều tiền là hạnh phúc ư? Nhà mái đơn sơ, vườn rau xanh ngát, hoàng hôn yên bình, mỉm cười nhìn người thương, ai có thể nói đó không phải hạnh phúc và vui vẻ đời người? Tới cuối cùng mới hiểu, hóa ra hạnh phúc là một loại cảm giác, bạn cảm thấy mình có được tức là bạn đã có được. Hạnh phúc là một kiểu so sánh, vì từng rơi lệ, nên nụ cười càng thêm ngọt. Lấy lại những oán trách, khiến trái tim trở nên sáng trong như gương, khiến tối tăm không còn chỗ trốn, mắt không thấy, trái tim không buồn. Hạnh phúc không phải sơn hào hải vị, tiền đút đầy ví, không phải giàu sang, không phải lái xe sang, ở nhà đẹp Hạnh phúc là khi bạn khóc, có người xót; khi bạn mệt mỏi, có người để dựa vào; khi mỗi nguyện vọng dù nhỏ bé nhất của bạn, có người thực hiện; khi bạn có được một người yêu bạn, hiểu bạn, dù người ấy sở hữu bao nhiêu đều muốn mang những gì tốt nhất đến cho bạn. Hạnh phúc giống như một chai nước suối. Lần đầu tiên uống nó, bạn chẳng có cảm giác gì, chỉ thấy nó cũng giống như những thứ khác. Nhưng khi bạn đã nếm qua mọi đắng cay mặn ngọt, uống được một ngụm nước suối mát, bạn sẽ cảm khái, “À, hóa ra đây là cảm giác hạnh phúc!”. Hạnh phúc là dùng đôi mắt của mình nhìn về một thế giới tương lai bình lặng, có một cuộc đời bình lặng Trên thế giới này, cái gì cũng có giá cả, nhà có giá, xe có giá, mặt mũi có giá, ngay cả người yêu cũng có giá, nhưng tất cả những gì có thể dùng tiền mà mua được, thì đều không phải thứ đáng giá nhất. Hạnh phúc không phải sống lâu trăm tuổi, không phải quyền thế đầy mình. Hạnh phúc là khi mỗi nguyện vọng cuộc sống của bạn đều trở thành hiện thực. Khi đói, được ăn no. Khi khát, được uống nước. Muốn yêu, có người yêu. Có đôi khi, hạnh phúc là một mục tiêu, đó là khi bạn phải bôn ba đường dài mới tới được đích đến Có đôi khi, hạnh phúc là một loại so sánh, đó là khi bạn thấy được bất hạnh của người khác. Và hơn thế, hạnh phúc là một loại cảm giác, một loại tâm trạng, chỉ cần bạn hiểu được, nó tồn tại trong mọi ngóc ngách của cuộc sống. Dù là trong những ngày tháng tuổi trẻ hồn nhiên gặp nhau, trong hạnh phúc thời thanh xuân nhiệt huyết hay trong chia lìa nơi tháng năm đằng đẵng. Được sinh ra, đó là hạnh phúc, bởi bạn có thể trải nghiệm mọi sắc thái của cuộc sống này. Chết đi, đó cũng là hạnh phúc, bởi bạn đã vượt qua trần thế rối rắm, trở về với tự nhiên. Có bạn bè, đó là hạnh phúc, bởi vui buồn giận hờn nay đã có người chia sẻ. Cô độc, đó cũng là hạnh phúc, bởi bạn được hưởng thụ sự yên lặng và thanh lọc tâm hồn. Mọi chuyện đều thuận lợi, đó là hạnh phúc, bởi bạn đang đón nhận món quà từ ông trời. Gặp phải nghịch cảnh, đó cũng là hạnh phúc, bởi giữa mồ hôi rơi, bạn cảm nhận được sự cố gắng của bản thân. Được yêu, đó là hạnh phúc, bất kể lúc nào, nơi nào đều được quan tâm, săn sóc. Yêu, đó cũng là hạnh phúc, từ nay về sau cuộc sống có vướng bận, mơ ước có được nơi trở về. Hạnh phúc là cảm giác như vậy, liệu bạn có muốn chinh phục nó không? “Chinh phục hạnh phúc” của Nguyễn Hiến Lê là cuốn sách bạn không thể bỏ qua nếu bạn muốn chinh phục hạnh phúc Mời các bạn đón đọc Chinh Phục Hạnh Phúc của tác giả Bertrand Russell.
Sức Mạnh Của Việc Đặt Câu Hỏi Đúng
Bạn là một doanh nhân, giám đốc, trưởng phòng và đang gặp khó khăn trong việc giao tiếp với nhân viên của mình? Các cuộc họp tại công ty luôn diễn ra tình trạng chỉ một mình bạn nói còn cấp dưới im lặng. Bạn luôn tự hỏi: "Tại sao nhân viên của mình thường không đưa ra bất cứ ý kiến gì trong các cuộc họp? Chẳng lẽ họ sính nguyên tắc "Im lặng là vàng" hay năng lực lãnh đạo của mình có vấn đề?. Tuy nhiên vấn đề không phải vậy mà cũng chẳng phải do bạn giao tiếp kém. Bạn có thể đang dùng sai phương pháp, thay vì chỉ mình bạn độc thoại trong cuộc họp, tai sao bạn không đặt những câu hỏi cho cấp dưới để họ suy nghĩ và đưa ra các ý kiến, quan điểm riêng, khiến họ cảm nhận được rằng: "Mình là trung tâm của cuộc họp." Thông qua cuốn sách Sức mạnh của việc đặt câu hỏi đúng, bạn đang cầm trên tay, chúng ta sẽ biết được rằng việc đặt ra các câu hỏi đúng cho nhân viên của mình rất quan trọng. Làm cách nào để đưa ra câu hỏi đúng đắn? Cuốn sách này sẽ là lời giải đáp thỏa đáng cho câu hỏi của bạn. Nó cung cấp cho bạn phương pháp đặt câu hỏi đúng và hiệu quả nhất, nó sẽ thay đổi chính bản thân bạn và đội ngũ nhân viên của mình. Cuốn sách này thực sự là một món quà vô cùng quý giá. Hãy nghiền ngẫm và khám phá thế giới ma thuật: Đặt câu hỏi. *** HỌC hỏi qua VẤN đáp Bạn là một doanh nhân, giám đốc, trưởng phòng và đang gặp khó khăn trong việc giao tiếp với nhân viên của mình? Các cuộc họp tại công ty luôn diễn ra trong tình trạng chỉ một mình bạn nói còn cấp dưới im lặng. Bạn luôn tự hỏi: “Tại sao nhân viên của mình thường không đưa ra bất cứ ý kiến gì trong các cuộc họp? Chẳng lẽ họ sính nguyên tắc ‘Im lặng là vàng’ hay năng lực lãnh đạo của mình có vấn đề?”. Tuy nhiên, vấn đề không phải vậy mà cũng chẳng phải do bạn giao tiếp kém. Bạn có thể đang dùng sai phương pháp, thay vì chỉ mình bạn “độc thoại” trong cuộc họp, tại sao bạn không đặt ra những câu hỏi cho cấp dưới để họ suy nghĩ và đưa ra các ý kiến, quan điểm riêng, khiến họ cảm nhận được rằng: “Mình là trung tâm của cuộc họp”? Thông qua cuốn sách Sức mạnh của việc đặt câu hỏi đúng bạn đang cầm trên tay, chúng ta sẽ biết được rằng việc đặt ra các câu hỏi đúng cho nhân viên của mình rất quan trọng. Tại sao bạn không thử để nhân viên trở thành “trung tâm của cuộc họp/trao đổi” bằng cách đặt ra các câu hỏi để họ trả lời thay vì áp đặt ý kiến cá nhân của bạn và yêu cầu mọi người thực hiện theo. Việc làm này giúp họ có cảm giác như mình là một phần của công việc và có trách nhiệm với công việc đó không kém gì cấp trên. Vậy làm cách nào để đưa ra một câu hỏi đúng đắn? Cuốn sách này sẽ là lời giải đáp thỏa đáng cho câu hỏi của bạn. Nó cung cấp cho bạn phương pháp đặt câu hỏi đúng và hiệu quả nhất kết hợp với việc sử dụng bảng Mandala Ma thuật đặt câu hỏi nhằm hỗ trợ bạn trong quá trình lãnh đạo và ủy quyền. Cuốn sách mang đến cho bạn những phương pháp thay đổi chính bản thân và đội ngũ công-nhân viên. Chỉ khi nhận ra mình muốn gì, bạn mới có thể đưa ra những câu hỏi đúng, từ đó thúc đẩy tinh thần làm việc của nhân viên. Bạn không nên nghĩ rằng chỉ có các nhà lãnh đạo tại các doanh nghiệp hoặc tổ chức mới cần những thông tin bổ ích này. Dù chỉ là một giáo viên, trưởng phòng hay thậm chí chủ tiệm tạp hóa, nếu bạn không biết cách giao tiếp với nhân viên của mình thì công việc kinh doanh của bạn chắc chắn sẽ rơi vào bế tắc. Thân Nhân Trung, một vị Tiến sĩ triều Lê, từng nói “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Một đất nước muốn hùng mạnh phải có những người tài giỏi, một công ty muốn phát triển và duy trì vị thế dẫn đầu trên thị trường phải có nhân tài. Nhưng làm thế nào để tài năng của họ không bị ngủ quên? Bí quyết nằm ở khả năng đặt câu hỏi cho nhân viên, giúp họ bộc lộ năng lực của bản thân. Với lối hành văn dễ hiểu, hướng đến trọng tâm là vấn đề đặt câu hỏi đúng đắn, cuốn sách sẽ hỗ trợ đắc lực cho độc giả, đặc biệt là những người đang bế tắc trong việc giao tiếp với cấp dưới, khao khát tìm ra phương pháp thay đổi bản thân và nhân viên. Cuốn sách này thực sự là một món quà vô cùng quý giá. Hãy nghiền ngẫm và khám phá thế giới ma thuật: Đặt câu hỏi. Trân trọng gửi tới độc giả cuốn sách này! Tháng 11 năm 2014 Công ty Cổ phần Sách Alpha MIHIRO MATSUDA SỨC MẠNH CỦA VIỆC ĐẶT CÂU HỎI ĐÚNG Bản tiếng Việt này được xuất bản theo thỏa thuận với Nikkei Business Publications, Inc. thông qua Tuttle-Mori Agency, Inc. Mời các bạn đón đọc Sức Mạnh Của Việc Đặt Câu Hỏi Đúng của tác giả Mihiro Matsuda.
Mười Điều Tạo Nên Số Phận
Tôi chưa bao giờ có ý định viết cuốn sách này. Nó xuất phát từ bài diễn văn mà tôi chưa bao giờ muốn đọc. Tôi tạo ra cả hai vì mặc cảm tội lỗi, đến giờ mà tôi vẫn còn run vì đã làm thế. Để tôi giải thích cho các bạn hiểu. Cách đây hai năm, trường Holy Cross ở Worcester bang Massachusetts mời tôi phát biểu trong lễ phát bằng. Tôi ghét đọc diễn văn, ghét vì sợ. Dù có đọc bao nhiêu bài diễn văn đi nữa thì việc ấy cũng không dễ dàng hơn. Viết gì đây? Tôi thấy căng thẳng trước mấy tháng trời. Sao lại có người muốn nghe những điều tôi nói nhỉ? Phải nói gì bây giờ? Tôi hình dung ra đủ thứ tai họa có thể xảy ra. Lỡ có một con ma xuất hiện khiến tôi dựng tóc gáy lên , rồi thổi bay bài phát biểu của tôi đi thì sao? Chưa hết: lỡ tôi nói nghe như một con đại ngốc thì sao? Nếu tôi từ chối thì sao nhỉ? ( Tôi biết, tôi biết). Nếu sợ tới mức đó, làm sao tôi có gan đứng trước máy quay truyền hình mà ba hoa trước hàng triệu người? Ấy là vì tôi không thể thấy bất kỳ ai trong số họ). Những suy nghĩ và sợ hãi này ám ảnh tôi hàng mấy tuần trước khi phải phát biểu. Thần kinh tôi căng ra. Tôi hốt hoảng, bồn chồn, cáu kỉnh, sợ hãi. Mọi người đều hỏi, “Nếu ghét đến thế, sao từ đầu còn nhận lời phát biểu làm gì?”. À, trong trường hợp này, cũng như thường lệ, tôi đã từ chối ngay. Khi Holy Cross gọi điện, tôi đã muốn cám ơn họ nhiều và nói “Không” một cách lịch sự. Nhưng có một vấn đề nhỏ. Các bạn biết đấy, một trong số bốn ông anh tôi đã học ở Holy Cross. Vợ anh ấy cũng học ở Holy Cross. Cả cha và mẹ tôi đều nhận học vị danh dự của Holy Cross. Và nếu thấy thế vẫn còn chưa đủ, thì cả chú tôi cũng vậy khi ông còn làm Tổng thống Hoa Kỳ. Vị hiệu trưởng nhà trường nêu tất cả những điểm trên trong lá thư viết cho tôi. Ông liệt kê chúng theo cách mà một linh mục Thiên chúa giáo đầy kinh nghiệm thường dùng để đạt được điều mình muốn, chơi đùa với mặc cảm tội lỗi của tôi cứ như đang thổi một ống sáo kim vậy. Bức thư của ông ta là phương án A. Còn có phương án B nữa- yêu cầu các thành viên trong gia đình phải làm sao cho tôi hiểu, việc đọc bài diễn văn này đối với tôi quan trọng ghê gớm tới mức nào. Anh tôi gọi điện dọa tôi. Ui cha! Rồi mẹ tôi tham gia ý kiến. Tôi ấp úng, ậm ừ. Cũng giống mọi kẻ nhát gan thành thạo khác, tôi tránh né suốt mấy tháng trời. Thế là, Holy Cross thực hiện phương án C. Họ viết cho tôi một bức thư ngắn nói rằng, thực ra, vì không thấy tôi trả lời, họ phải tiếp tục công việc. Ban giám hiệu rất thất vọng, toàn bộ giảng viên rất thất vọng, và dĩ nhiên, các sinh viên chắc phải thất vọng khủng khiếp. Nhưng rõ ràng là tôi không thể hứa, nên họ phải tìm xem có ai khác coi đó là một niềm vinh dự lớn không. Tôi gọi cho mẹ. tôi gọi cho ông anh. Mọi người đều nói, nếu tôi sợ phát biểu đến mức ấy thì thôi, không sao- nhưng ôi trời ơi, họ cũng thất vọng lắm. Thế là hiệu nghiệm. Tất cả các phương án đều hiệu nghiệm. Đúng như các phương án ấy không thể hiện ra ngoài, mặc cảm tội lỗi lớn dần trong tôi, áp lực tăng dần – cho tới khi quyết tâm của tôi vỡ tung. Các vị ĐÚNG, tất cả các vị!. Tôi thật là một người đáng ghét, vô dụng, nhút nhát khi từ chối phát biểu! Và thế là trước khi kịp nhận ra, tôi đã khẩn cầu Holy Cross làm ơn cho tôi được phát biểu trong lễ phát bằng. Ngay khi h ọ đồng ý, tôi phát đau bao tử và quay trở lại tình trạng cực kỳ căng thẳng trước khi phát biểu. Có lẽ tôi vẫn có thể chuồn. tôi có thể đề nghị hãng NBC cử tôi đi chiến trường Nam Tư vào đúng hôm đó. Tôi có thể nói một đứa con của tôi bị ốm. Hoặc: “ Rất lấy làm tiếc. Tôi phải đi phỏng vấn Đức giáo hoàng”. Chắc chắn một trường Thiên chúa giáo sẽ cho tôi phép miễn trừ vì lý do đó. Tiếc thay, không kịch bản nào do tôi hình dung ra có thể xóa đi mặc cảm tội lỗi mà tôi biết mình sẽ cảm thấy, nếu không chịu xuất đầu lộ diện. Thú thật, tôi đã sái cả cổ vì cứ đi tới đi lui suy nghĩ. Rốt cuộc, tôi thôi không kháng cự nữa mà bắt tay vào hành động. Qua nhiều năm dài đối diện với nỗi sợ hãi, tôi đã học được cách duy nhất để đối phó là mở đường đi thẳng qua nó. Tôi bứt đầu suy nghĩ. Tôi có thể nói gì với những đứa trẻ sắp rời ghế nhà trường để bước vào đời này nhỉ? Nhớ khi tốt nghiệp ở tuổi hai mươi mốt – hình như tôi đã có quá nhiều quyền chọn lựa mà lại biết quá ít về những điều thực sự sẽ xảy đến với mình. Tôi bắt đầu tự hỏi không biết đời tôi có khác đi không nếu chỉ cần tôi biết được điều NÀY, hoặc điều KIA khi ra trường. Ngay sau đó, tôi đã có trong tay một danh sách những điều NÀY, điều KIA, và một đề tài cho bài diễn văn. Nào, thử xem! Có lẽ tôi đã có thứ đủ làm cho bọn trẻ này quan tâm để ngưng chuyền bia và champagne mà chú ý lắng nghe. Trong ghi chép của tôi toàn những thứ mà tôi ước giá mình được học trước khi bước vào cuộc đời thực. Tôi viết, viết và viết, thật thú vị. Và tôi đã biết đó là bài diễn văn hay khi tôi đọc nó ở một mỹ viện, nghe xong, mọi người đã khóc và xin bản photo. Tôi hãnh diện vì được phát biểu tại lễ phát bằng ở Holly Cross. Tôi hãnh diện vì họ mời tôi và tôi đã nhận lời, tự hào là mình đã thực sự nghĩ ra một bài diễn văn khiến mọi người xúc động. Trên hết, tôi hãnh diện là mình đã không bỏ cuộc. Thật tình, khi tôi nói xong, người ta đứng cả dậy hoan hô. Đứng dậy vỗ tay là chuyện phổ biến trong lễ phát bằng, dĩ nhiên. Vì người ta thường thấy được giải thoát khi diễn giả kết thúc, họ tự động đứng dậy vỗ tay. Nhưng những gì diễn ra sau đó thực sự làm tôi kinh ngạc. không chỉ các sinh viên đến gặp tôi xin bản photo. Các vị phụ huynh gặp tôi mắt ngấn lệ nói, họ từng ao ước biết bao nhiêu giá được biết những điều tương tự khi ra trường. Sau khi bài diễn văn được phát trên chương trình nhịp cầu C và vài bản tin khác, tôi nhận được tràn ngập các yêu cầu về nó. Mọi nơi tôi qua, nam giới và phụ nữ đều chặn tôi lại giữa đường để nói về nó, trích dẫn một hai dòng gây ấn tượng cho họ. không xạo đâu nhé. ( Tôi thấy sửng sốt. Người ta thường ngăn tôi lại giữa đường hỏi về bắp tay của chồng tôi, hoặc nhái giọng” Tôi sẽ quay lại “ pha giọng Áo). Thế là để đáp ứng tất cả những yêu cầu nhận được về bài diễn văn tôi chưa bao giờ muốn đọc, đây là cuốn sách mà tôi chưa bao giờ định viết. Tất cả các vấn đề đều giống như vậy. Tôi chỉ phát triển thêm ra. Bỏ cái gì vào đó giữa hai tờ bìa không phải chuyện đơn giản. Khi người ta đề nghị trả tiền để phát triển bài diễn văn thành sách – tôi chạy ngay về nhà ói một trận.  Vậy hãy ngồi lại cùng tôi trong một ngày đẹp trời ở Massachusets. Bài diễn văn ở lễ tốt nghiệp bắt đầu thế này: Thưa toàn thể các thầy cô, các bậc cha mẹ, gia đình, bạn bè và các sinh viên tốt nghiệp. Có thể thành thật nói rằng, tôi chưa bao giờ xúc động đến mức này từ sau cái lần học được cách phát âm từ Schwarzenergger. [ Câu này gây ra một trận cười lớn]. Hai tháng trước, Cha Reedy gọi điện cho tôi hỏi:” Maria, con có tin vào tự do ngôn luận không?”. Tôi nói: “ À, có, thưa Cha, con tin”. “Được rồi, tuyệt lắm”, Cha nói, “Vì con sẽ được phát biểu tại Holy Cross vào tháng Năm tới”. Tài tình thật, tôi nghĩ bụng. Tôi gọi điện cho anh tôi và những người bạn lỗi lạc của anh ấy từng tốt nghiệp tại Holy Cross “ Cho tôi biết thông tin về Đức cha này đi”. Họ nói: “ Ối chao, Cha là người cao quý. Cha là người sáng tạo, khôi hài, nhanh trí. Cha là nhà gây quỹ giỏi kỳ lạ”. Rốt cuộc, khi gặp cha hôm nay, tôi không biết nên bắt tay Cha hay hôn nhẫn nữa. Thưa Cha Reedy, con muốn cảm ơn Cha vì đã mời con đến đây. Con vô cùng vinh dự. Trước khi tiếp tục, tôi muốn dành một phút tỏ lòng biết ơn tất cả các bậc cha mẹ có mặt ở đây hôm nay. Tôi biết các vị đang ngập lòng tự hào, và tôi chắc các vị cũng thấy vô cùng nhẹ nhõm, vì sẽ không phải trông thấy những hóa đơn học phí kinh hoàng nữa. với tư cách bản thân cũng là mẹ của những đứa trẻ, ý kiến của tôi về việc các vị đưa con cái đến học ở đây là – yêu thương nhiều, chịu đựng nhiều, hiểu biết nhiều và tốn cực kỳ nhiều công sức. Vì vậy, tôi rất thán phục tất cả các bậc cha mẹ ở đây. Chúc mừng các vị. V ề phần cá nhân, tôi muốn tỏ lòng biết ơn cha mẹ mình vì ông bà đã bay thẳng từ cuộc họp ủy ban Olympic đặc biệt ở Châu Âu đến đây và lúc nửa đêm. Thưa Cha, thưa Mẹ, không có gì làm con tự hào hơn là được đứng đây, trước mặt cha mẹ, nhận học vị danh dự của một trường Thiên chúa giáo và đọc diễn văn khai mạc. Con yêu cha mẹ lắm.  Tôi rất vinh dự được có mặt ở đây hôm nay, nhân dịp lễ kỷ niệm lần thứ hai mươi lăm năm ngày ra một quyết định sáng suốt nhất vê chính sách mà trường Holy Cross từng làm. Ý tôi muốn nói về hành động chói sáng từ một phần tư thế kỷ trước, đã nâng cao phẩm chất và tầm cỡ của nhà trường, đó là chấp nhận cho phụ nữ vào học. [ Câu này tạo ra cả một tràng pháo tay]. Phụ nữ có ảnh hưởng to lớn ở bất cứ chỗ nào họ có mặt. Tin tôi đi, tôi biết mình đang nói gì mà. Tôi là đứa con gái duy nhất trong gia đình có bốn con trai, và tôi biết tôi đã nâng cao và cải thiện chất lượng cuộc sống của họ đến mức nào – kệ họ muốn nói gì thì nói. Tôi cũng từng được cho ăn học ở trường dòng Tên trước kia chỉ dành cho nam giới, Đại học Georgetown. V ấn đề thật sự là, thưa các quý ông, để tôi tra tấn các vị một chút nhé. Hãy nhắm mắt lại và thử hình dung Holy Cross mà thiếu phụ nữ. Kinh khủng lắm, đúng không? Chaaán lắm! Cũng như thế, hãy thử hình dung cuộc sống của các vị thiếu phụ nữ, một thời gian thôi. Cá là các vị không thể! Không có phụ nữ xung quanh, các vị sẽ không biết phải làm gì với chính mình nữa. Và tệ nhất là, các vị thậm chí còn không biết là mình không biết  – vì không có ai đứng đây nói cho các vị biết!. Vì vậy, hãy thừa nhận chúng tôi. Phụ nữ chúng tôi đôi khi có thể than vãn và làm ra vẻ hoàn toàn thiếu tự tin, luôn sợ hãi và lo lắng. Nhưng thực ra, chúng tôi biết rõ mình dọn ra bàn món gì: cả sự Dí dỏm lẫn trí Thông minh, cả Tài năng lẫn sức Sáng tạo và Trực giác siêu phàm. Chưa kể đến Sắc đẹp, sự Tinh nhạy, Thị hiếu – và, hãy tha thứ cho tôi, cha mẹ ơi – Sáng tạo tình dục đến mức đáng kinh sợ. [ Câu này làm tất cả sinh viên đứng dậy vỗ tay.]. Tóm lại, Holy Cross, các vị đã làm một việc tốt khi để cho phụ nữ vào học. Nhưng tôi không đến đây để nói về phụ nữ. Mục đích của tôi hôm nay là mang đến cho mỗi người các bạn một điều gì đó mà các bạn có thể mang theo mình. Một câu hỏi sáng suốt. Một ý kiến có thể giúp các bạn trong cuộc sống sau khi rời Holy Cross. Tôi phải vật lộn mãi mới tìm ra cách thể hiện thông điệp đó. Có vài sinh viên viết thư đề nghị tôi nói về mục đích và nỗi lo lắng của họ về cuộc sống sẽ ra sao ở thế kỷ tới. Cha Reedy đề nghị tôi nói về những mánh lới trên con đường công danh, trong bổn phận làm mẹ và trong hôn nhân. Chỉ mới nghĩ đến một trong những đề tài ấy thôi là tôi đã hoảng rồi. Cha mẹ tôi đề nghị nói về công tác phục vụ cộng đồng. Anh trai tôi, Mark, từng tốt nghiệp Holy Cross, đề nghị nói toàn về anh ấy thôi là đủ. Sau bao nhiêu khổ sở, tôi quyết định chia sẻ với các bạn danh sách mười điều đứng đầu mà tôi ước có người nói cho tôi biết khi ở vị trí của các bạn, ngồi dự lễ tốt nghiệp, tự hỏi khi nào thì bài diễn văn kết thúc quách đi cho rồi. Vậy chúng ta bắt đầu: mười điều mà tôi ước có người nói cho tôi biết trong lễ tốt nghiệp- trước khi tôi bước vào đời. Đó là bài diễn văn. Còn đây là cuốn sách. *** Tôi đã đọc bài diễn văn trên và viết cuốn sách này để các bạn có thể chia sẻ. Không phải để rút ra những bài học mà tôi đã học. Không ai có thể chia sẻ với các bạn việc ấy, vì học là thử nghiệm, và bạn phải tự làm lấy. Giống một người nhiều kinh nghiệm có lần bảo tôi, cũng là cái người mà tôi mới nói ở trên ấy: “Nếu tôi có thể chia sẻ những đau khổ mà cô đang chịu đựng, tôi cũng không làm, vì tôi không muốn cướp đi của cô sức mạnh và hiểu biết mà cô sẽ có được nhờ vượt qua nó.”. Vậy những gì mà tôi mong chia sẻ với các bạn là sự cô đơn và hổ thẹn của tôi. Tôi từng nghĩ mình là người duy nhất bắt đầu tự lập. Tôi từng nghĩ mình là người duy nhất sợ hãi. Tôi từng nghĩ mình là người duy nhất trải qua thất bại. Tôi từng nghĩ mình là người duy nhất không thể trở thành Nữ Siêu Nhân. Giờ thì tôi hy vọng các bạn biết đó là chuyện thường tình. Rất bình thường. Khi bạn nếm mùi thất bại hoặc bị loại ra, hoặc thất vọng, bạn có thể tự nói với mình:” Mình không đâm vào một bức tường. Mình chỉ đụng phải ụ giảm tốc trên đường thôi.”. Bạn có thể vượt qua và đi tiếp. Tôi cũng thế, và đây là thông điệp tôi hy vọng chuyển lại cho các bạn: Nếu tôi có thể, thì các bạn cũng có thể. Những bi kịch của mỗi người là của riêng họ. Nếu sáng suốt mở to tai mắt, bạn sẽ nghe được nhiều chuyện của những người vượt qua được những điều không thể tưởng tượng được, họ đã kiên trì chịu đựng, dù mất đi những người yêu thương, dù bệnh tật, ly hôn, phá sản, nghiện ngập. bất kỳ chuyện gì. “Nếu họ có thể, tôi cũng có thể”. Các bạn biết không, sau khi đọc bài diễn văn, tôi đã nêu ra cả một danh sách những điều khác mà tôi ước được biết: 1- Tôi ước được biết rằng, thời buổi này, đám cưới lớn, đắt tiền là một lãng phí ngớ ngẩn cả thời gian lẫn tiền bạc và cảm giác có lỗi.  2- Tôi ước được biết rằng rất dễ mất liên lạc với bạn học. Trước khi ta kịp nhận ra thì hai mươi năm đã trôi qua mất rồi, và ta để vuột mất bạn bè. Cố đừng để chuyện ấy xảy ra với bạn nhé.  3- Tôi ước được biết rằng, máy tính sẽ trở thành thước đo thế giới. Hẳn tôi đã cố sử dụng thành thạo nó sớm hơn.  4- Tôi ước được biết rằng, tình dục phải là sự sáng tạo, kiên trì và có tính quyết định. Dĩ nhiên là tôi không hề biết tôi sẽ nhiệt tình nói nhiều về nó đến thế.  5- Tôi ước được biết rằng, sự nghiệp tiếp quản đời con người ta nhanh đến thế. Tôi mải mê lao vào đó ngay sau khi tốt nghiệp. Tôi ước mình bỏ ra một năm để đi chơi khắp nơi, một năm không trách nhiệm, không hạn chót, không mục đích. Một khi đã lao vào công việc, ta không thể vô tư như trước được nữa.  6- Tôi ước được biết rằng, sức khỏe quan trọng tới mức nào. Tôi hẳn sẽ chăm lo cho mình sớm hơn. Giờ khi ta biết, vẫn có thể học hành lẫn trưởng thành và thay đổi ở tuổi bốn năm mươi và hơn nữa, thì để cho cơ thể tàn tạ đi vì bị bỏ bê hoặc bạc đãi đúng là một tội ác.  7- Tôi ước được biết sớm hơn về “ hành xử đơn giản” , những người cực kỳ sáng suốt thường đơn giản hóa cuộc sống của họ bằng cách tìm những nơi yên tĩnh, ngồi tính xem đâu là điều thực sự quan trọng, rồi vứt bỏ những thứ không cần thiết. ( Có lẽ tôi chưa thể thực sự làm điều đó, cho tới khi tôi bày bừa bãi khắp cả cuộc sống của mình, nhiều đến nỗi phải lo dọn dẹp lại).  8- Tôi ước được biết sớm hơn cách nói KHÔNG. Điều tôi nhận ra là những người thực sự sáng suốt không tự đè nặng mình bằng mặc cảm tội lỗi. Họ rất thoải mái nói: “ Không, tôi không thể làm thêm việc nào nữa”. Họ sử dụng thời gian của mình rất giỏi. Họ không làm mọi việc, nhưng một khi đã làm, họ sẽ làm tốt. Đó chính là mục tiêu của tôi hiện nay.  9- Tôi ước được biết tình yêu thương của cha mẹ dành cho con cái thay đổi thế nào. Hẳn tôi sẽ là một đứa con khác đối với cha mẹ mình, ân cần hơn, cởi mở hơn, chia sẻ với cha mẹ nhiều hơn. Vì chỉ biết lo cho mình, tôi đã ngoảnh mặt quay lưng với cha mẹ quá nhanh, quá dễ dàng. Giờ thì tôi đã biết rằng, con cái có thể làm cha mẹ hết sức đau lòng. ( Mới đây, con gái tôi nói: Mẹ ơi, mẹ nên hẹn đi chơi với ai đó đi, vì bọn con chơi với mẹ nhiều quá rồi. Chúng con muốn chơi với các bạn nhiều hơn cơ !”. Tôi đau nói tận tâm can.).  10- Tôi công ước được biết rằng, đối với cha mẹ tôi, phải nhìn cảnh con mình lấy chồng và bỏ đi sống cách xa ba ngàn dặm khó khăn tới mức nào. Tôi đã sẵn sàng chuẩn bị cho mình lòng khoan dung, rộng lượng và tình yêu thương khi một trong bốn đứa con tôi làm điều gì giống như thế.  11- Tôi c được biết về cha mẹ thời trẻ. Tôi gặp hai người lúc họ đã đi được nửa đường đời. Tôi ước được thử là cha mẹ trước khi bị đám con cái chúng tôi đè nặng trách nhiệm lên vai.  12- Tôi c được biết rằng, bốn anh trai tôi rồi sẽ không còn làm bạn tốt nhất của tôi được nữa. Tôi sẽ ít châm chọc họ hơn khi chúng tôi còn nhỏ, ít xô họ ra khỏi phòng tôi hơn, ít đuổi họ đi và ít coi thường họ hơn. Bây giờ họ là một phần chủ yếu của đời tôi, luôn có mặt ở đó. Tôi không coi tình yêu thương của họ là điều hiển nhiên. Chúng tôi đã tạo ra những mối quan hệ riêng ngoài cha mẹ, chuyện ấy trở nên cốt yếu hơn khi chúng tôi về già. Quả thật, chúng tôi coi chuyện mỗi năm gặp nhau đôi lần là cần thiết, chỉ có năm chúng tôi trong một căn phòng, tìm hiểu vị trí hiện tại của mỗi người và cách mỗi người đang sống, cởi bỏ mọi oán giận, hiểu lầm, chỉ cần có mặt ở đó cho nhau. Quan hệ gia đình nuôi dưỡng tuổi trưởng thành của tôi, là cột trụ của đời tôi, là khung xương để những phần còn lại bám vào.  13- Tôi c được biết sớm hơn về sự quan trọng của việc nói ra những lời yêu thương. Bạn hẳn phải ngạc nhiên khi biết, có bao nhiêu người thực sự không biết rằng họ được yêu thương. Tôi đã học cách nói ra điều ấy, với con cái, với chồng, với cha mẹ, với các anh trai, bất cứ khi nào tôi thấy tình cảm ấy trong tim mình. Tôi còn nói với bạn bè rằng tôi yêu quý họ, rằng họ quan trọng đối với tôi, và tôi rất dễ chịu khi đánh bạn với họ. Các bạn biết không, tôi biết được một sự thật kinh khủng khi đi dự nhiều đám tang: Sau khi qua đời, con người ta được quá nhiều lời tán dương, ca tụng. Đáng lẽ chúng ta phải nói với họ sớm hơn. Tôi là một tín đồ cuồng nhiệt chuyên chúc mừng mọi người trong các dịp lễ sinh nhật, lễ kỷ niệm, họp gia đình, chúc mừng đức tính tốt, tình bạn, sự thông thái, sự khác thường của họ. Còn gì tốt hơn là được nghe thành tiếng một cách chân thật, trước mặt mọi người, rằng ta được yêu thương, được kính trọng, được cần đến, được hiểu rõ giá trị, và được quý mến.  14- Tôi c được biết rằng, Chúa sẽ ban cho tôi mọi sức mạnh và lòng tin mà tôi cần để vượt qua những giai đoạn khắc nghiệt, chồng bị mổ tim, bà con thân thuộc chết, con cái đau ốm, thì có lẽ tôi sẽ không phải hoảng sợ đến thế.  15- Tôi được biết, tôi thay đổi thường xuyên thế nào. Đang tập trung mọi năng lực và tinh thần để trở thành nữ phóng viên giỏi hết mức có thể, thì bùm! Đến tuổi bốn mươi ba, những mối quan tâm của tôi thay đổi đột ngột. Một hôm thức dậy, tôi ngồi vào viết một cuốn sách thiếu nhi. Bỗng nhiên tôi thành tác giả, một con người mới đối với tôi, và tôi lại bắt đầu từ đầu. Nó làm cho tôi hăng hái, sôi nổi, nhiệt tình trở lại. Còn bây giờ, tôi ngồi đây, viết thêm một cuốn khác. Tôi thực sự ước được biết rằng, không chỉ có một câu trả lời cho câu hỏi : “Lớn lên con muốn làm gì?”. Bởi vì hóa ra, tôi đã lớn lên thành một phụ nữ đam mê sự nghiệp ở tuổi hai mươi, thành vợ và mẹ ở tuổi ba mươi, và cộng thêm thành tác giả ở tuổi bốn mươi nữa chứ. Tôi rất vui là đã chạm được đến cái phần trong con người có thể học hỏi được, có thể đổi mới được, mạnh khỏe và trưởng thành. Chúng ta có thể thay đổi mình, tìm ra cả một thế giới bên ngoài, hoặc cả một thế giới mới bên trong chúng ta. Hết lần này đến lần khác.  16- Tôi c được biết cách thuận hòa với chính mình sớm hơn. Tôi chưa bao giờ thực sự tự hào về mình cho đến một ngày tháng Tư năm 1999, khi tôi được biết cùng lúc cả hai tin: được trao tặng giải Peabody dành cho phóng viên truyền hình và cuốn sách viết cho thiếu nhi của tôi được đưa vào danh sách bán chạy nhất của tờ New York Times. Tôi ngồi trong phòng khách sạn và khóc. Sau bốn mươi ba năm tồn tại trên hành tinh này, tôi mới cảm thấy mình đã đạt được điều gì đó. Tôi được công nhận không phải vì gia đình tôi, vì chồng tôi, hay vì nhan sắc, mà vì bản thân và sự nỗ lực làm việc của tôi. Nó cho tôi biết, tôi có quyền tự hào về chính mình. Rốt cuộc là thế. Thế đấy. Tôi bắt đầu phát bệnh lên vì cứ nói về mình mãi rồi. Hãy nắm lấy những điều tôi đã học được và sử dụng nó. Sau một thập kỷ nữa tôi sẽ quay lại đưa cho các bạn phần cập nhật. Chúc các bạn may mắn!.   Mời các bạn đón đọc Mười Điều Tạo Nên Số Phận của tác giả Maria Shriver.
Tôi Thích Bản Thân Nỗ Lực Hơn
“Một là không có bối cảnh, hai là không có tiền, ba là không có mối quan hệ, chỉ có thể trông cậy vào chính mình”. Nếu bạn đã từng có ý nghĩ như vậy, thì một cuốn sách như “Tôi thích bản thân nỗ lực hơn” chính là tiếng lòng dành cho bạn. Bạn có từng bị ngăn cấm, bị coi là gàn dở khi từ bỏ một công việc “ ổn định, nhàn hạ” để theo đuổi thứ gọi là “đam mê” mà bạn chấp nhận đánh đổi bằng bất cứ giá nào? Thất bại ư? Nhưng nếu bạn thực sự thành công như tác giả của cuốn sách này Liệu mẹ bạn sẽ nói “Trước đây mẹ cũng thấy con ngốc, không ngờ người ngốc cũng có phúc của người ngốc, số mạng cũng không tệ…” “Mẹ à, chớ tin vào số mạng, phải tin vào chính mình! Tôi vẫn luôn tin rằng con người mới là Đấng Cứu Thế của mình. Khi gặp khó khăn hay bế tắc, cầu xin thế lực bên ngoài giúp đỡ, dù là số mạng hay thần linh cũng thế, cũng chỉ vô ích và nực cười mà thôi. Người có thể tạo ra sự thay đổi không phải ai khác mà là chính bạn. Bạn chỉ cần cúi xuống nói với sự yếu đuối của chính mình: “Đứng dậy đi!” Khi bạn đứng dậy rồi sẽ thấy được đường đi.” Trong xã hội này, chúng ta dễ dàng nghe được những câu nói về sự buông thả, lười biếng, vô kỷ luật được tô vẽ thật đẹp để an ủi chính mình. Chúng ta sẽ nói, buông thả bản thân chính là đối xử tốt với chính mình. Chúng ta sẽ nói, làm gì cũng phải cẩn thận từng li từng tí thật sự quá bức bối, quá thất bại… Thật ra không hề.  Đừng tin vào những thứ hễ đưa tay ra là có được, nhanh chóng, xuất phát từ bản năng, tùy hứng, không rõ ràng. Hãy tin vào sự từ tốn, bình thản, sức mạnh tích tiểu thành đại, thiết thực, bình tĩnh. Đầu thai, chúng ta không có sự lựa chọn. Đây là số phận không thể khống chế. Nhưng có một cuộc sống như thế nào, chúng ta có thể tạo ra. Đây là vận mệnh có thể khống chế. Cha mẹ không thể cho bạn tất cả, nhưng bạn có thể cho mình mọi thứ mình muốn. Giống như một cơn gió, ảnh hưởng đến một cơn gió khác; Một đợt sóng, ảnh hưởng đến một đợt sóng khác; Một người chán ghét chính mình, tất nhiên sẽ chứa đầy bất mãn với thế giới nhưng nếu bạn chọn sống một cuộc đời “thú vị” thì hãy nỗ lực hơn bạn của ngày hôm qua! Cuốn sách là lời nhắn gửi của một tác giả Chu Xung đến các bạn trẻ đang loay hoay trên đường đời rằng: Đằng nào cũng “mất công sống một lần”, hãy sống sao cho xứng đáng với tuổi trẻ của chính mình! *** Phụ nữ càng tự biết kiểm soát, mức sống sẽ càng cao. ------ Dương Lệ Bình từng được phỏng vấn trong phòng tập của cô, có một người hỏi cô rằng: 'Chị gầy như thế, mỗi ngày phải ăn bao nhiêu?' Cô mở hộp cơm của mình ra: một lát nhỏ thịt bò, nửa trái táo, một quả trứng gà. Đây chính là bữa trưa của cô ấy. Hơn nữa, đây còn là bữa ăn dùng trong giai đoạn tập múa liên tục ở cường độ cao. Khi nhìn thấy bữa ăn của cô ấy, tôi tin rằng ai cũng sẽ cảm thấy mình không khác gì một con trâu. Một ngày từ sáng đến tối, chỉ cần ngồi yên một chỗ thôi chúng ta cũng đã nuốt vào hàng đống thực phẩm dầu mỡ giàu calo, không thể kiểm soát, hệt như một kẻ háu ăn, dẫn đến béo phì, mệt mỏi, rồi cứ trượt dốc không phanh, ngày càng xa rời trạng thái nhanh nhẹn nhẹ nhàng. Phóng viên hỏi tiếp: 'Cô có đói không?' Cô đáp: 'Thế này đã đủ năng lượng rồi. Anh thấy đấy, chẳng phải tôi vẫn nhảy múa đàng hoàng, chưa từng gục ngã trên sân khấu đó sao.' Xem đến đây, có một từ đột nhiên nảy lên trong đầu tôi: tự kiểm soát. Nhờ vào cách phân tích của lí trí, cô ấy đã đem ý thức tự kiểm soát của mình hoà trong mạch máu, trở thành một chiếc điều khiển từ xa, như một loại trình tự tâm lý, hễ đến giờ ăn sẽ tự động làm theo. Bất kì ai có thể tự kiểm soát như thế sẽ không có mức sống quá thấp. Thế nên Dương Lệ Bình tuy đã 58 tuổi nhưng vẫn xinh đẹp và có khí chất như một tâm hồn tươi trẻ thoát tục, có không ít người nếu đem ra so sánh với cô ấy thì đã phủ lên mình một lớp tục khí khá dày. Hơn 40 năm trước, giáo sư tâm lí học Walter Mischel đã làm một thí nghiệm kẹo bông rất nổi tiếng. Ông tìm hàng trăm đứa trẻ 4 tuổi, để chúng đợi ông trong một căn phòng có một viên kẹo bông hoặc bánh quy trên bàn. Ông nói với chúng: ông sẽ ra ngoài một lúc, bánh kẹo trên bàn có thể ăn, nhưng nếu đợi được đến khi ông quay lại mới ăn thì sẽ thưởng gấp đôi. Sau khi giáo sư ra ngoài, một vài đứa bé đợi chưa đến một phút đã ăn mất bánh kẹo, một số khác lại có thể đợi được hai mươi phút và nhận phần thưởng gấp đôi. Điểm thú vị của thí nghiệm này chính là ở biểu hiện của đứa trẻ sau khi chúng trưởng thành. Năm 1981, 653 bé từng tham gia thí nghiệm kẹo bông đều đã lên cấp ba, Walter Mischel đưa phiếu khảo sát cho cha mẹ và thầy cô của chúng. Kết quả cho thấy, dù ở trường học hay ở nhà, thì những bé không chờ đợi được phần lớn đều có nhiều vấn đề về hành vi. Thành tích thi SAT (kiểm tra đánh giá năng lực) của chúng khá kém, không giỏi ứng phó môi trường áp lực, thiếu tập trung, khó kết giao bạn bè. So với những bé chỉ đợi được ba mươi giây thì những bé đợi được hai mươi phút có điểm số thi SAT bình quân đạt hơn 210 điểm. Thí nghiệm vẫn đang tiếp tục tiến hành. Sau khi đám trẻ trưởng thành, chúng bắt đầu xuất hiện những biểu hiện khác nhau rõ rệt. Những đứa trẻ không giỏi chờ đợi sẽ sa vào con đường nghiện ngập. Còn những đứa trẻ chờ đợi được thường có thành tựu lớn, gia đình êm ấm hơn. Qua tuổi 30 tôi mới dần hiểu được tính quan trọng của việc tự kiểm soát bản thân. Tôi cũng từng nghĩ con người nên giữ một cách nhìn thoải mái về cuộc sống, muốn ăn thì ăn, muốn uống thì uống, dẫu sao đời người ngắn ngủi, vui vẻ tùy thích mới không uổng phí. Nhưng khi lớn dần, tôi mới nhận ra suy nghĩ này không đúng. Trong cuốn 'Sức mạnh của ý chí: Tâm lý học về sự tập trung, tự kiểm soát và hiệu suất' có một đoạn viết thế này: 'Cốt lõi của những vấn đề cá nhân và xã hội nằm ở chỗ thiếu khả năng tự kiểm soát: không tự làm chủ được mà tiêu tiền vay tiền, đánh người trong lúc kích động, thành tích học tập kém, làm việc chậm chạp rề rà, rượu chè nghiện ngập, ăn uống không lành mạnh, ít vận động, thường xuyên lo âu, tính tình nóng nảy...' Thiếu khả năng tự kiểm soát sẽ dẫn đến hàng loạt bi kịch trong cuộc sống: cơ thể biến dạng, đau khổ bệnh tật, đánh mất bạn bè, bị sa thải, ly hôn, vướng vào lao tù... Chẳng hạn, một người luôn ăn uống thả ga thì hiện tại có thể rất mập; một cô gái từ sáng đến tối chỉ muốn chơi bời, bữa nhậu nhẹt tụ tập nào cũng góp mặt, quán bar hay karaoke nào cũng từng đến, cứ nghĩ bản thân phóng khoáng quyến rũ lắm, nhưng không hay biết mỗi khi người khác nhắc đến cô ấy đa số đều tỏ ý khinh thường, chẳng mấy ai xem trọng; một người cuồng mua sắm, hễ thấy giảm giá là mua sắm điên cuồng, có thể đến bây giờ vẫn lôi thôi lếch thếch, không biếng, vô kỷ luật được tô vẽ thật đẹp để an ủi mình. Chúng ta sẽ nói, buông thả bản thân cũng là cách đối xử tốt với chính mình. Chúng ta sẽ nói, làm gì cũng phải cẩn thận từng li từng tí thật sự quá bức bối, quá thất bại... Thật ra không phải như vậy. Cho dù là trong học tập, công việc, hay trong cuộc sống cá nhân, tự kiểm soát chính là nhân tố quan trọng nhất dẫn đến thành công. Có một nghiên cứu tâm lý học điều tra những nhân tố ảnh hưởng đến thành tích học tập của các sinh viên đại học. Đầu tiên, người làm thí nghiệm liệt kê hết những phẩm chất có thể dùng được ra, có hơn 30 phẩm chất được liệt kê như tích cực, cởi mở, vui tính, nghiêm túc, cẩn thận, hoạt ngôn, hướng nội, thích đọc sách... Sau đó, họ tìm hàng trăm sinh viên để tiến hành thử nghiệm. Cuối cùng, họ phát hiện ra những phẩm chất này không hề ảnh hưởng trực tiếp gì đến thành tích học tập. Điểm duy nhất có thể ảnh hưởng đến thành tích là khả năng tự kiểm soát. Thậm chí sức ảnh hưởng của nó còn cao hơn cả chỉ số IQ. Có thể kiểm soát chính mình, khi nên học bài thì học bài, khi cần nghe giảng thì nghe giảng, khi phải làm bài tập thì làm bài tập, cứ thế người đó rất có khả năng sẽ đạt được thành tích hơn người. Trong đời sống cũng thế. Người có khả năng tự kiểm soát mạnh thường ít mắc bệnh tâm lý, hiệu suất làm việc cao, phần lớn có lòng đồng cảm, được người khác tin tưởng và dễ thành công hơn. Vì thế, ở phần đầu cuốn 'Sức mạnh của ý chí: Tâm lý học về sự tập trung, tự kiểm soát và hiệu suất', Roy Baumeister đã viết thế này: 'Dù bạn định nghĩa thành công thế nào đi nữa: gia đình êm ấm, có được tri kỷ, cuộc sống giàu sang, đảm bảo kinh tế, làm việc mình thích, tâm hồn khỏe mạnh, nội tâm phong phú... Tất cả đều cần chuẩn bị sẵn vài phẩm chất cho mình.' Khi các nhà tâm lý học đi tìm các phẩm chất ấy, họ đều phát hiện: Khả năng tự kiểm soát mới là phẩm chất quan trọng nhất trong số chúng. Tất nhiên, lực chọn cách sống thế nào là việc của mỗi cá nhân. Bất cứ một ai có ý chí, có thú vui, có phẩm chất đều muốn hướng đến điều tốt hơn, cố gắng thoát khỏi sự kém cỏi của chính mình để có được cuộc sống chân thiện mỹ. Chỉ có như thế chúng ta mới có thể cảm thán: Được sinh ra làm người thật tốt biết bao! Vậy, phải như thế nào mới có thể làm được điều đó! Kant từng nói, khả năng tự kiểm soát khiến chúng ta khác với mọi người. Tự kiểm soát giúp chúng ta có mức sống cao hơn, cũng giúp chúng ta có một cuộc sống tự do hơn. Ông đã suy luận thế này: Giả sử chúng ta giống các loài động vật, đi theo ham muốn của bản thân, né tránh khổ đau, khi đó chúng ta hoàn toàn không phải đang hành động một cách tự do thật sự. Vì sao không phải? Vì chúng ta đã trở thành một tên nô lệ cho ham muốn và sự kích động. Không phải chúng ta đang lựa chọn, mà chúng ta đang phụ tùng. Nhưng, sở dĩ con người là người, vì con người không phải do ham muốn mà là do chính mình làm chủ. Chỉ khi chính mình làm chủ mới thật sự có được tự do. Mấy hôm trước tôi đọc được một bài đăng rất hay của một người bạn. Bài viết như sau: 'Tôi không có lòng tin đối với những thứ hễ đưa tay ra là có được, những thứ cấp tốc, tùy hứng, không rõ ràng, xuất phát từ bản năng. Tôi tin vào sự từ tốn, bình thản, thiết thực, bình tĩnh, vào sức mạnh tích tiểu thành đại. Tôi không tin rằng thiếu tinh thần tự giác, không tự mình bồi đắp, không nỗ lực lại có thể giải phóng được một cá nhân hay tập thể nào. Khi bạn rút gươm chĩa về tứ phía đầy vẻ hoang mang, bạn sẽ bị vây hãm trong hoang mang của cuộc sống trong lồng giam của hiện thực, không biết đi đâu về đâu. Xin hãy ghi nhớ, con đường duy nhất để tìm đến tự do chính là: Dùng cách tự kiểm soát để tránh khỏi rắc rối, để thoát khỏi xiềng xích, tập trung tinh thần, dốc toàn lực để tiến về nơi mà bạn muốn đến. Dù có thể dùng cách này thì đến hết cuộc đời bạn cũng không thể đến được Utopia trong mơ ước, nhưng dọc đường đi chắc chắn bạn sẽ có rất nhiều niềm vui, rất nhiều hạnh phúc, gặp được chốn đào nguyên của mình, đến được vùng đất lí tưởng của lí chí. Ở trong thế giới đại đồng ấy, bạn sẽ lại yêu thương chính mình, sẽ nắm tay hòa thuận với người khác, đồng thời nói với thế giới rằng: 'Tôi được sống, tôi được yêu thương, tôi không hối tiếc!' Mời các bạn đón đọc Tôi Thích Bản Thân Nỗ Lực Hơn của tác giả Chu Xung.