Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Họa Hương Hồn (Nguyễn Mỹ Hạnh)

Dân gian đồn rằng đêm mười lăm tháng bảy tốt nhất không ra khỏi đường kẻo gặp tai vạ, bởi không biết được thứ mà mình gặp là người hay ma. Ngày này cửa âm phủ mở ra nối liền hai cõi âm dương vì vậy âm khí đặc biệt thịnh, mới chập tối người dân trong thôn đã không dám ló mặt ra khỏi nhà, ai nấy đều đóng cửa kín mít, ấy vậy mà lúc này lại có đám rước dâu.

Nghe thấy tiếng kèn trống náo nhiệt cả một vùng, người trong thôn đều tò mò mở hé cửa nhìn trộm thì thấy một cái kiệu hoa lớn, đi xung quanh là đám gia nô thổi kèn, kỳ quái là tất cả đều mặc đồ tang màu trắng. Con đường trong thôn toàn sỏi đá gập ghềnh ấy vậy mà đám người này lại đi nhanh như bay, bóng dáng thì mờ mờ ảo ảo.

Ngay lúc đám rước vừa đi tới ngôi nhà nhỏ cuối thôn, liền có tiếng hét lên:

- Người đâu, mau tới cứu tiểu thư nhà ta, người đâu….

Cô dâu đang ngồi ngay ngắn trong kiệu đột nhiên lăn đùng ra. Người hầu thấy tiểu thư nhà mình vừa uống xong chén trà cô ta rót thì hộc máu ngã xuống liền lấy làm hốt hoảng lắm, vội vàng hô hào người tới cứu. Cô ta vội đặt chén trà xuống, đưa tay lên mũi tiểu thư nhà mình thì thấy tiểu thư đã tắt thở… Tìm mua: Họa Hương Hồn TiKi Lazada Shopee

- Xin các người, mau mau gọi thầy lang tới cứu tiểu thư…. Tiểu thư không thể có chuyện được…

Cô ta nước mắt dàn dụa vừa lay tiểu thư lại vừa kêu cứu mà không biết chén trà làm bằng men sứ xanh ngọc bên cạnh đang tỏa ra làn khói nghi ngút, nước bên trong ly trà lạnh toát, có nhìn thế nào cũng không thấy đáy. Người có mắt nhìn ắt sẽ biết chén trà này đã bị hạ ngải!

Đám gia nô khiêng kiệu mặt ai nấy đều lạnh tanh vô cảm, cô dâu sống hay chết có quan trọng chi đâu, bởi lẽ cậu chủ nhà bọn họ cũng là người chết kia mà! Trời lúc này đã chập choạng tối, đám chim lợn nháo nhác bay loạn trên nóc nhà, kêu lên những tiếng thê lương như đang tiếc thương một cô gái mới độ xuân thì đã bạc mệnh….

Tiếng chim lợn kêu nhức óc khiến người đàn ông trong nhà không nhịn nổi, chạy vào gác bếp lấy con dao bầu, hừng hực định chạy ra ngoài đuổi đám chim lợn mang điềm xui này đi thì bị bà vợ ngăn lại, bà ta kéo tay áo chồng mình lại, la toáng lên:

- Ông định làm gì vậy, bộ muốn hại chết cả cái nhà này hay không!

- Bà yên tâm, tôi chỉ ra đuổi đám quạ đi thôi, chứ không ra cái đám rước kia đâu…

- Ông ở yên trong nhà cho tôi! Hôm nay người trong thôn đều kháo nhau ở yên trong nhà đó! Đám rước kia tôi thấy cứ tà ma thế nào ý, biết đâu họ để mấy khứa chim lợn kia dụ ta ra ngoài, hại chúng ta thì sao? Ông không nghe thấy vừa có vị tiểu thư nào chết hả?

- Có con dao bầu ở đây, kẻ nào dám đụng tới cái nhà này, tôi cho nó vài nhát, mẹ nó cứ ở yên trong nhà, tôi ra xem thế nào!

Ngay lúc người đàn ông định bước chân ra khỏi cửa thì bát hương đặt trên bàn thờ gia tiên bốc cháy dữ dội, người vợ vội nói:

- Các cụ hiển linh rồi đó ông thấy chưa?

Người đàn ông lúc này mới nghe lời vợ, vất con dao bầu xuống, rồi vội đi lấy nước dập lửa trên ban thờ.

Lại nói lúc này ở bên ngoài có một bà lão đi tới, mái tóc bà ta bạc trắng, đôi mắt tinh ranh híp lại nhìn về phía kiệu hoa rồi dừng mắt lại ở tách trà sứ xanh kia. Đây là bà đồng được nhà họ Hà mời về để làm tang sự riêng cho cậu Luân nhà họ, trông thấy bà ta thì đám gia nô có chút cung kính, không cố tình rải giấy tiền nữa mà ngừng tay lại, đứng dạt sang hai bên tạo thành lối đi cho bà ta.

- Ngươi cho phu nhân uống thứ này?

Bà đồng chỉ tay vào chén trà hỏi, người hầu của vị tiểu thư thấy đôi mắt tam bạch toàn là lòng trắng của bà ta liếc thì sợ hãi quỳ xuống đáp:

- Dạ phải, là.. là tiểu thư dọc đường khát nước nên đòi uống bằng được.

- Cô ta bị hạ ngải!

- Dạ… gì cơ? Sao… sao có thể, xin bà xem xét, tôi, tôi không hại tiểu thư, không phải tôi…

Bà đồng không đáp lời, lấy từ cái bị chỗ thắt lưng một cây kim bạc, sau đó cầm lấy bàn tay của vị tiểu thư, chọc mũi kim vào mười đầu ngón tay của cô ấy. Rất nhanh đã có máu rỉ ra, không đỏ tươi như người bình thường mà có màu đỏ thẫm, còn có vị tanh tưởi như xác chết. Xong việc bà ta đặt tiểu thư nằm xuống, lại lấy ra một cái chuông đồng, lại chấm lên trán tiểu thư một vết chu sa đỏ.

Bà ta lắc lắc cái chuông, hô lớn, hô đúng bảy lần rồi dừng.

- Thần linh phù hộ, xin cho ba hồn bảy vía của vị tiểu thư này quay về!

Thông thường khi gọi hồn vía quay lại thân xác của mình thì cần đọc cả họ tên, ngày tháng năm sinh của họ, vậy mà bà đồng chẳng thèm đọc tên vị tiểu thư kia lấy một lần, làm cho người khác cảm giác bà ta làm cho có lệ. Mọi người còn tưởng bà ta lừa bịp thì vị tiểu thư kia đã sống lại rồi…

Họa Hương đầu đau như búa bổ, bên tai cô là tiếng chuông đồng leng keng nghe chói vô cùng, cô chậm rãi mở mắt ra thì thấy mình đang ngồi trên một cái kiệu màu trắng, mành kiệu làm bằng lụa tơ tằm, gió thổi vào bay phất phới, mà trên người cô cô cũng mặc y phục cưới màu trắng, bên trên có thêu hình long phượng, cô còn chưa hiểu có chuyện gì thì cổ họng truyền tới cảm giác buồn nôn kinh khủng. Cô vội cúi người xuống đất nôn ói một trận mới thấy dễ chịu, xong xuôi nhìn xuống dưới đất là một đám dòi trắng đục béo tròn như con sâu đang ngo ngoe thì cô cảm thấy thật kinh tởm, lại nôn tháo thêm trận nữa.

Đến khi cô lấy lại tinh thần, ngẩng đầu nhìn lên thì thấy vây xung quanh cô là đám người kỳ lạ mặc đồ tang trắng, ai nấy đều đeo thêm chiếc mặt nạ trắng, nếu không phải trông thấy có một bà lão và một cô gái trẻ, cô còn tưởng mình đã xuống âm phủ rồi cơ.

- Bà… bà là ai, các người là ai….

Người hầu tưởng tiểu thư nhà mình kinh sợ, cũng lo tiểu thư sẽ hỏi tội cô ta về chén trà kia, liền vội trấn an:

- Tiểu thư đừng sợ, đã ổn rồi…

Thấy Họa Hương còn đang ngơ ngác, bà đồng liền vỗ mạnh vào vai cô một phát:

- Vị tiểu thư này, không giờ phải gọi cô là phu nhân mới phải, cô còn ngây người ra đó làm gì, mày, mau sửa soạn cho cô ta đi, chút nữa còn làm nghi lễ vợ chồng với cậu chủ.

Bà ta chỉ tay thẳng mặt một cô gái trẻ, trông y phục mặc trên người thì có vẻ là người hầu của cô, còn khá trẻ, chỉ chừng mười lăm mười sáu tuổi. Con nhỏ bị bà đồng dọa nạt liền sợ hãi, run rẩy nói:

- Tiểu thư… À phu nhân, để em chải chuốt lại cho người.

- Lẹ cái tay lên cho ta, sắp trễ giờ tốt rồi kia. Cậu Luân mà tức giận, tụi bây có trăm cái mạng cũng không cứu được đâu! À thôi, vừa đi vừa trang điểm cũng được, khởi kiệu đi tiếp!

Thế là đám rước lại tiếp tục lên đường. Trong nhà đôi vợ chồng kia chứng kiến hết thảy, càng kinh sợ hơn là đám rước đó lại đi về hướng nghĩa địa của thôn….

Trong lúc người hầu trang điểm, Họa Hương nhắm mắt suy nghĩ, tại sao cô lại ở trong thân thể này chứ? Không phải sau khi bị cướp mất xác, hồn cô đã bị đánh văng ra ngoài, bây giờ sao lại nhập vào thân xác một cô gái xa lạ chứ! Có thể chủ nhân của thân thể này đã chết, vô tình hồn cô lại được bà đồng kia chiêu vào.

Họa Hương nghĩ tới những việc mình đã trải qua thì phẫn hận mà nắm chặt bàn tay lại, móng tay sắc nhọn vì thế mà đâm qua da thịt, khiến bàn tay cô chảy máu.

- Phu nhân, người… vẫn ổn chứ?

Họa Hương cố nén cơn giận trong lòng, hiện giờ cô còn chưa biết tình hình, thân thế của cơ thể này, ngộ nhỡ bị người phát hiện ra chuyện mượn xác sống lại, nhất định sẽ cho cô là quỷ nhập tràng, đem đi thiêu sống thì rắc rối to, vì vậy cô không dám nói nhiều, chỉ ậm ờ cho qua chuyện.

- Ta không sao.

Những việc này đối với một cô gái trẻ mới mười tám tuổi như cô thì việc này kinh sợ và hoang đường đến chừng nào cơ chứ! Hiện giờ cô chỉ muốn được quay về nhà của mình, nhận lại người thân và đòi lại vị hôn phu của mình thôi, vì cớ gì cô đang sống yên ổn, sắp gả cho người mình yêu lại bị một vong hồn không tên không tuổi cướp đi thân xác của mình kia chứ! Cô càng nghĩ càng uất ức, những giọt nước mắt đã lăn trên gò má hồng xinh đẹp lúc nào không hay.

Họa Hương cứ ngẩn ngơ mãi, mà đám rước dâu cũng đi tới khi trời tối mịt mới tới nơi. Người hầu đã trang điểm xong cho cô từ lúc nào, Họa Hương cũng tò mò dung nhan của thân thể này, liền bảo cô ta đem gương đồng đến cho mình nhìn thử. Trong gương phản chiếu hình ảnh một cô gái xinh đẹp, mày ngài, đôi mắt trong veo như làn nước mùa thu lại mang chút gì đó đượm buồn. Dù đã trang điểm nhưng sắc mặt cô vẫn không tốt lắm, nhìn qua có chút thiếu sức sống, cộng thêm y phục cưới màu trắng trên người, khiến cho người khác cảm thấy tang thương vô cùng.

Họa Hương được người đỡ xuống kiệu, cô ngẩng đầu nhìn phủ đệ trước mắt, lầu son gác tía, cổng cao chục thước, trên cổng treo biển hiệu bằng vàng lấp lánh “Hà Phủ”, nơi đây chẳng khác nào chốn bồng lai tiên cảnh, cô thật tò mò không biết đây là vùng nào, lại có phú hộ giàu có đến vậy! Kỳ lạ là nhà chồng không có ai ra rước cô, chỉ có bà đồng nắm tay cô kéo vào phủ đệ nhà họ, nghi thức thật sơ sài, chứng tỏ ở đây địa vị của cô không được coi trọng cho lắm.

Cô mím chặt môi, bước chân cao qua bậc cửa, dân gian đồn rằng xây bậc cao như này để những thứ như ma quỷ hay cương thi không vào được nhà, cũng rạch ròi địa phận của gia chủ để thổ công, thổ địa dễ bề trông coi.

Quả nhiên phủ đệ này rất rộng, bà đồng dẫn cô đi qua một đoạn hành lang dài ngoằn ngoèo, trước mặt cứ có lớp sương mù phủ kín. Bà ta đi trước, cô đi sau, bà ta cứ đi bảy bước lại rải một xấp tiền vàng, miệng lẩm bẩm:

- Trăm quỷ tránh đường, mở đường tới…âm ti…

Hai chữ cuối bà đồng cố tình đọc không thành tiếng, khiến Họa Hương không nghe được. Cô đang định hỏi chuyện thì thấy hai bên hành lang dày đặc là những con ma đói, cùng với đó là những tiếng oan thán, khóc than cổ quái vô cùng, thậm chí có con còn vươn cái bàn tay có móng sắc nhọn túm lại cổ chân của cô kéo lại. Bà đồng lập tức thấy không ổn, liền quay lại ném xấp tiền âm phủ vào nó, mở miệng quát:

- Mau cút cho ta, đây là chỗ các ngươi náo nháo à, hôm nay là ngày mừng của cậu Luân, tụi bây mà phá hỏng chuyện, coi chừng tao đánh tụi bây hồn phi phách tán!

Con ma đói kia nghe vậy liền lập tức rụt tay lại, cả bọn xúm lại vồ lấy đống tiền kia. Họa Hương nuốt nước miếng, khẽ giọng hỏi bà đồng:

- Ta nghe nói mỗi nhà đều có thổ địa trông coi, vả lại nơi người ở dương khí mạnh, sao lại lắm ma quỷ thế?

Bà đồng đột nhiên quay người lại, nhìn thẳng vào mắt cô, cái nhìn sắc lẹm khiến cô nổi hết da gà:

- Ai nói với cô nơi này cho người ở?

Không cho người ở, vậy thì cho ma quỷ sao?

Truyện này được coi là siêu phẩm của tác giả Mỹ Hạnh. Quý bạn đọc đừng quên chia sẻ cho mọi người cùng đọc và theo dõi nhé.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Họa Hương Hồn PDF của tác giả Nguyễn Mỹ Hạnh nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Chúa Ruồi (William Golding)
"Chúa Ruồi" là tác phẩm đầu tay và cũng là tác phẩm nổi tiếng nhất của William Golding. Thông qua một hệ thống các biểu tượng giàu ý nghĩa, ông thể hiện cuộc chiến khốc liệt giữa cái Thiện và cái Ác trong mỗi con người. Từ trong lịch sử phát triển của nhân loại, ánh lửa đã là một biểu tượng mang những ý nghĩa đối lập nhau. Ánh lửa vừa gợi lên không khí ấm áp, quây quần của những buổi hội họp lại vừa là một mối họa hủy diệt bởi lửa có thể thiêu đốt mọi thứ ngáng đường nó. Trong "Chúa Ruồi", ánh lửa là nguồn gốc nảy sinh mối xung đột không thể giải quyết giữa Ralph và Jack. Với tư cách là người đứng đầu, Ralph luôn tâm niệm việc thắp lên ngọn lửa để tàu thuyền có thể trông thấy và đến cứu là công việc hệ trọng nhất đối với lũ trẻ. Cậu bé tìm mọi cách để khiến lũ trẻ hiểu ra điều đó song đó là một nỗ lực vô vọng bởi hầu hết bọn trẻ không thể tập trung làm việc gì quá 5 phút và chúng dễ bị thu hút bởi những hoạt động huyên náo hơn là ngồi một chỗ và trông chừng đống lửa. Đi ngược lại với nỗ lực của Ralph, Jack chỉ quan tâm đến việc đi săn. Niềm say mê săn đuổi đã xâm chiếm tâm hồn cậu bé và lây lan nhanh chóng trong đám trẻ. Jack cũng sớm nhận ra việc kiếm được thịt tạo cho nó quyền chỉ huy đám trẻ. Đối với Jack, ngọn lửa không có ý nghĩa là một tín hiệu cầu cứu bởi nó đã thích nghi được với hoàn cảnh khắc nghiệt trên đảo hoang. Nó sẵn sàng hạ những nhát dao chí tử vào các con mồi để duy trì sự sống và nhất là sự quyền lãnh đạo tối cao của mình. Với Jack, ngọn lửa bập bùng là thứ để nấu chin thức ăn cho buổi tiệc tùng man dại. Điệu nhảy xung quanh ánh lửa của những bộ mặt nạ vằn vện biến chúng thành một lũ mọi. Sự giao tranh khốc liệt giữa hai phe luôn được hỗ trợ bởi những tia sét rạch ngang bầu trời và đó là những điềm báo đầy tai ương với cuộc sống của lũ trẻ. Mặc dù cuối cùng, hành động thắp lên ngọn lửa biến hòn đảo trở thành một đảo lửa của Ralph đã giúp tàu hải quân phát hiện và cứu lũ trẻ xong ám ảnh về ánh lửa và những cuộc tranh giành tàn bạo để có được ngọn lửa vẫn sẽ ám ảnh lũ trẻ. Chúng có thể bước ra khỏi làn khói mịt mờ của khu rừng trên hoang đảo nhưng chúng sẽ phải đạt chân vào một thế giới ghê rợn hơn. Đó là cuộc chiến tranh nguyên tử của người lớn. Ánh lửa lại làm một ranh giới đưa chúng từ một bi kịch nhỏ đến một bi kịch lớn hơn và lần này, liệu chúng có may mắn được cứu thoát? Tìm mua: Chúa Ruồi TiKi Lazada Shopee Hòa mình với cuộc sống hoang dã, những đứa trẻ dần quên đi nền văn minh đang tồn tại bên ngoài hòn đảo. Dưới sự lôi kéo của Jack, lũ trẻ từ bỏ những chiếc lều bên bãi biển để sống trong hang đá. Hình dáng những cậu bé đáng yêu không còn mà thay vào đó là những tên mọi tí hon vẽ mặt vằn vện. Chính cái mặt nạ đó đã khiến chúng "không còn biết xấu hổ dưới ánh mặt trời". Với giọng văn lạnh lùng và đanh thép, William Golding đã miêu tả hành trình ngược về cõi u mê của những đứa trẻ bị bỏ rơi trên đảo hoang. Thông qua một hệ thống các biểu tượng giàu ý nghĩa, ông thể hiện cuộc chiến khốc liệt giữa cái Thiện và cái Ác trong mỗi con người. Tác giả: William Gerald Golding sinh năm 1911 tại Cornwall nước Anh. Xong trung học, ông theo ngành vật lý để vừa lòng cha mẹ. Được hai năm, thấy không thích khoa học tự nhiên nên ông chuyển sang văn học và triết. Năm 1935, sau khi tốt nghiệp, Golding lấy thêm bằng sư phạm và dạy tại nhiều trường khác nhau và từ năm 1935 đến 1940, trong đó có một trường dành riêng cho nam sinh. Năm 1940, khi thế chiến II bùng nổ, Golding phục vụ trong Hải quân Hoàng gia Anh. Là thuyền trưởng, ông đã lập được nhiều chiến công xuất sắc. Golding từng có mặt trong chiến dịch đổ bộ lên Normandie (Pháp) năm 1944 của quân Đồng minh. Năm 1945, chiến tranh kết thúc, ông trở lại với nghề sư phạm. Golding cho rằng những thảm họa ông từng chứng kiến trong chiến tranh: sự dã man của con người, đặc biệt là tội ác diệt chủng của Đức Quốc xã… tất cả chỉ có thể giải thích được qua cái Ác Bẩm sinh. Chúa Ruồi (Lord of the Flies), cuốn tiểu thuyết đầu tay và nổi tiếng nhất của Golding xuất bản năm 1954 mang đậm ưu tư này của tác giả. Truyện kể về diễn tiến bi thảm trong cuộc sống của mấy chục đứa trẻ khoảng từ sáu đến mười hai tuổi may mắn sống sót trên một hoang đảo ở Nam Thái Bình Dương sau khi chiếc máy bay chở chúng đi sơ tán bị trúng đạn trong một cuộc chiến tranh nguyên tử. Cũng bối cảnh là hoang đảo, nhưng khác với loại chuyện phiêu lưu có hậu kiểu Robinson Crusoe hay Đảo giấu vàng… Chúa Ruồi là một câu chuyện ngụ ngôn, tư tưởng của tác giả ẩn sau rất nhiều ẩn dụ và biểu tượng. Mới đầu, khoảng hai mươi nhà xuất bản ở Anh đã từ chối bản thảo của Golding. Cuối cùng, cuốn sách được nhà xuất bản Faber and Faber tại London phát hành, song chẳng gây được tiếng vang gì. Tuy nhiên, hai, ba năm sau, cuốn tiểu thuyết được nồng nhiệt đón nhận ở Mỹ. Điều này không thể giải thích rằng “Bụt chùa nhà không thiêng”, mà vì người dân Anh mới trải qua hai cuộc thế chiến thảm khốc chỉ trong vòng hơn hai mươi năm, họ đâm ra kỵ loại truyện có nội dung u ám, bi quan. Từ đó, Chúa Ruồi trở nên nổi tiếng, được đưa vào giáo trình văn học ở Anh, Mỹ và nhiều nước Châu Âu, tác phẩm còn được dựng thành phim hai lần - năm 1963 và 1990. Sau Chúa Ruồi, Golding còn cho ra đời nhiều tác phẩm khác, phần lớn đều mang nỗi trăn trở của ông về hai chữ Thiện và Ác của con người. Năm 1980, Những nghi lễ của chuyến đi (Rites of Passage), tập đầu trong bộ truyện ba quyển với chủ đề tương tự Chúa Ruồi, đoạt giải Booker. Năm 1983 Golding được trao giải Nobel văn học vì sự nghiệp của ông. Năm 1988 ông được Nữ hoàng Elizabeth II ban tước Sir. William Golding mất ngày 19 tháng Sáu 1993. Đánh giá: “Nếu Chúa Ruồi chỉ đơn thuần là một tác phẩm văn học thiếu nhi, ắt hẳn nó sẽ vô cùng rạo rực và tươi sáng, nhưng tác giả của nó là Golding, người đã trải qua đủ ác mộng để hiểu rằng: nơi nào con người không kiềm chế được cái ác bản năng thì dẫu chỉ là trò chơi của trẻ nít, vườn địa đàng sớm muộn cũng thành địa ngục.” - The Times Trong một cuộc chiến tranh nguyên tử, mấy chục đứa trẻ chưa đến tuổi thiếu niên “may mắn” sống sót trên một hoang đảo sau khi chiếc máy bay chở chúng đi sơ tán bị trúng đạn. Chúng tập họp dưới bầu trời Nam Thái Bình Dương nắng gắt, chia sẻ gánh nặng và đặt niềm tin vào thủ lĩnh. Nhưng rồi, cái đói và thiên nhiên khắc nghiệt từng bước vắt kiệt bọn trẻ. Bản năng sinh tồn đã dần bóp nghẹt sự ngây thơ - từ đây thực tại của chúng tan hòa vào ác mộng. Một câu chuyện ngụ ngôn đau đớn và hãi hùng, ngập tràn những tư tưởng ẩn sâu dưới hàng hàng lớp lớp ẩn dụ và biểu tượng. Với Chúa Ruồi, một kiệt tác văn học kinh điển đầy ám ảnh, William Golding đã khiến các nhà phê bình văn học hao tốn giấy mực chỉ để tranh luận về một vấn đề: Có thực “nhân chi sơ tính bản thiện” hay chăng là… ngược lại? “Chỉ vài tuần giữa nơi hoang vắng đã đủ khiến con người quay lại với bóng tối u mê, nơi hắn đã phải mất hàng ngàn năm để rũ bỏ. Chúa Ruồi là câu chuyện phiêu lưu giả tưởng gần nhất với thực tại.” - The New York TimesĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chúa Ruồi PDF của tác giả William Golding nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Chúa Đảo Xa (Victoria Holt)
Eleanor Alice Burford Hibbert (1906 - 1993) Các bút danh của bà: Jean Plaidy, Eleanor Burford, Philippa Carr, Elbur Ford, Victoria Holt, Kathleen Kellow, Anna Percival, Ellalice Tate Victoria Holt là một trong rất nhiều bút danh của tiểu thuyết gia nổi tiếng người Anh, Eleanor Alice Burford Hibbert (1906 - 1993). Bà là tác giả của hơn 200 tiểu thuyết nổi tiếng thế giới. Mặc dầu 1 số nhà phê bình cho rằng tác phẩm của bà là những tiểu thuyết phi thực tế, nhiều nhà phê bình văn học khác lại đánh giá bà là một nhà văn tài năng. Trong các tác phẩm của mình, bà đã đưa ra những kiến giải sâu sắc về lịch sử, văn hoá và đời sống tâm hồn con người. Nhiều hình tượng nhân vật nữ rất đẹp, rất điển hình của bà đã làm nên tên tuổi, sự nghiệp của một Hibbert được mệnh danh là “Nữ Hoàng của tiểu thuyết tình cảm - gay cấn”, giúp bà nhận được sự hâm mộ của hàng triệu bạn đọc trên thế giới. Sách của bà được dịch ra trên 20 thứ tiếng. Hibbert viết truyện từ lúc còn rất trẻ nhưng mãi đến năm 1947, tác phẩm đầu tay của bà mới ra mắt bạn đọc, Bên kia dãy núi xanh là cuốn đầu tiên trong số 90 tiểu thuyết tình cảm - lịch sử (Historical novel) bà viết dưới cái tên Jean Plaidy. Tuy vậy, phải đợi đến lúc Hibbert lọt vào mắt xanh của một ông bầu văn chương người Mỹ, người cho rằng bà có đầy đủ các tố chất để trở thành một trong những tiểu thuyết gia ăn khách nhất của thế kỷ 20 thì sự nghiệp văn chương của bà mới phát triển đến đỉnh cao. Kể từ đấy, dưới cái tên Victoria Holt, bà tập trung vào thể loại tiểu thuyết tình cảm trong đó các yếu tố lãng mạn kết hợp với các tình huống gây cấn theo phong cách Gothic, rất hợp với việc khai thác những bí mật đen tối trong lịch sử cũng như trong đời sống con người. Cuốn Người tình của Mellyn xuất bản năm 1960 là cuốn đầu tiên trong 32 cuốn viết theo phong cách này. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng bà viết trước lúc qua đời là Viên ngọc đen (The Black Opal). Tìm mua: Chúa Đảo Xa TiKi Lazada Shopee Hibbert hoàn toàn giữ bí mật về ngày sinh và những biến cố trong đời, vì thế người đời không được biết nhiều về cá tính và cuộc đời bà, trừ một điểm bà là một trong số ít nữ sĩ có nhiều đầu sách bán chạy nhất và trong cuộc đời hữu hạn của mình đã viết gần 200 tiểu thuyết lớn nhỏ. Nhóm thực hiện Victoria Holt Project xin giới thiệu lần lượt 3 tác phẩm, tiếp theo tác phẩm đã được đăng ebook trên TVE là Niềm kiêu hãnh Con Công (The pride of the Peacock). Gồm có: Quyển thứ 1: Mối thù tơ lụa (The Silk Vendetta) Quyển thứ 2: Chúa đảo xa (Lord of the far island) Quyển thứ 3: Mùa trăng của người thợ săn (The time of the hunter’s moon) *** Sau đêm vũ hội của Esmeralda, tôi ngủ thiếp đi trong một giấc mơ hãi hùng. Giấc mơ, lần đầu tiên xuất hiện khi tôi mười chín tuổi. Tất cả đều mơ hồ nhưng cũng gây cho tôi bao lo sợ xa xôi. Khi tỉnh dậy, tôi hoảng hốt khiếp sợ không sao lý giải nổi một cách xác thực những gì đã diễn ra, chỉ linh cảm thấy một sự hẩm hiu đang mong chờ đợi. Trong giấc mơ, tôi đi vào một căn phòng giống như một quán nhậu. Trong phòng có một cái lò sưởi xây bằng gạch. Ngay cạnh ống khói, trên tường treo một tấm thảm đỏ sậm cùng màu với tấm thảm thô ráp trải trên nền nhà, khiến cho căn phòng tối tăm càng trở nên u ám. Tiếp đến là bức tranh “bão biển”… một bộ bàn tròn được đặt ngay dưới bức tranh cùng với mấy cái ghế đặt lỏng chỏng xung quanh. Đột nhiên… có tiếng nói từ một noi bí mật vang lên, tôi đứng chết lặng, toàn thân tê liệt không sao cử động nổi. Ú ớ… mãi, tôi mới choàng dậy được, mồ hôi trên người túa ra ướt đẫm. Một năm trôi qua, tôi tưởng giấc mơ đã trôi vào quên lãng, nhưng không ngờ nó vẫn quay trở lại. Vẫn căn phòng nhỏ xíu tối tăm với màu đỏ sậm… tất cả gần như cũ, không có gì thay đổi ngoài một chi tiết mới, ở góc phòng xuất hiện cái ghế cong bập bênh, tuy nhiên nỗi khiếp đảm thì không hề suy giảm. Tôi nằm trên giường trằn trọc suy nghĩ, tại sao căn phòng quái ác đó lúc nào cũng đi vào cơn ác mộng? Tại sao tôi phải chịu nỗi kinh hoàng khủng khiếp đến như vậy? Tất cả điều đó có thể là kết quả của sự tưởng tượng quá mức gây ra chăng? Nhưng không hiểu tại sao nó cứ lặp đi lặp lại hoài như thế? Tuy nhiên tôi cố giữ kín, không kể cho ai biết điều ngốc ngếch tẻ nhạt ấy. Nhưng chắc chắn nó không đem lại cho tôi một dấu hiệu tốt đẹp nào trong tương lai, mà nó chính là hồi chuông cảnh tỉnh đang rung lên báo hiệu sự nguy hểm sắp xảy ra với tôi. Tôi không muốn cường điệu sự tưởng tượng của mình một chút nào. Cuộc sống của tôi vốn đã ghồ ghề khốc liệt. Ngay từ nhỏ, tôi đã sớm bị quăng vào nhà dì Agatha, chao ôi điều này cũng là may cho tôi ghê lắm, nếu không tôi đã trở thành đứa trẻ trong trại mồ côi. Dù sao ở đây tôi được học, được chơi cùng với Esmeralda con của dì… và luôn luôn ghi nhớ công ơn của dì. Tôi không bao giờ dám coi thường mối quan hệ họ hàng, bởi đó là cái cầu thang cho tôi bước vào nhà dì, để trở thành một thành viên chính thức của gia đình. Cho nên kể về dì Agatha - người em họ của mẹ tôi xem ra không được thích hợp cho lắm. Dì Agatha là một phụ nữ khác thường. Dì thống trị gia đình không phải chỉ bằng cái thân hình lực lưỡng quá khổ, mà còn bằng cái giọng nói choang choang phun ra lửa. Đến nỗi, ngay cả dượng William, chồng dì vốn không phải là một người đàn ông quá nhỏ con cũng phải chịu lùi bước. Trước dì và con gái, dượng giống như một chú hề trong rạp xiếc. Cho dù dượng William là một người giàu có, am hiểu kinh doanh, say mê công việc, nhưng sức mạnh của dượng chỉ được thể hiện ở ngoài đường, còn ở trong nhà dượng hoàn tàn bị khuất phục bởi người vợ quá mạnh mẽ. Tuy dượng là người kín đáo, nhưng đôi khi cũng để lộ ra nụ cười ánh mắt thân thiện, an ủi tôi một đứa trẻ côi cút. Tôi nghĩ, dượng có thể là một người đàn ông đàng hoàng nếu dượng bốc lửa một chút, cho dù dì Agatha có là một phụ nữ nổi tiếng, xuất sắc như thế nào. Dì Agatha vốn là một ủy viên trong ủy ban Phụ nữ. Hàng ngày, dì đi tiếp những phụ nữ kém may mắn. Tôi giúp dì pha trà, mang bánh ra ngoài phòng mời khách… Với cái nhìn thiện cảm, dì khen ngợi: - Được đấy, Ellen bé bỏng, ở nhà không làm gì thì buồn chết đi được. Đôi khi Esmeralda cũng giúp tôi mang bánh lên, rót trà vào từng cái ly đặt làm tràn cả ra ngoài. Emeralda là một cô gái nhu mì, dễ thương! Khác hẳn với mẹ, không ai có thể tin được cô là con của bà chủ. Dì Agatha tỏ ra rất khó chịu khi người ta mắc lỗi, tôi luôn giúp đỡ Emeralda tránh khỏi lỗi lầm, với lòng nhiệt tình đôi khi vượt ra ngoài khuôn phép. - Esmeralda, hãy giữ cho vai ngay ngắn, em đừng để thõng xuống như thế xấu lắm. - Hoặc tôi nhắc nhở, - Hãy cầu nguyện đi Emeralda, đừng có lầm bầm như vậy, không tốt đâu. Esmeralda là một cái tên đẹp, nhưng cô không xứng đáng với nó. Mắt cô màu xanh ngấn lệ, tóc dài lơ thơ như liễu rủ… Tôi thường giúp cô làm toán, viêt tiểu luận,… lúc nào cô cũng gắn bó với tôi như hình với bóng.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chúa Đảo Xa PDF của tác giả Victoria Holt nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Chúa Đảo Talua (William Somerset Maugham)
Tập Những quần đảo thần tiên gồm bảy truyện ngắn viết về miền Nam Hải của W. Somerset Maugham được Nguyễn Hiến Lê tuyển dịch và giới thiệu. Bảy truyện ngắn đó là: Chết cũng không chừa, Sự truỵ lạc của Edouard Barnard, Chúa đảo Talua, Chịu hết nổi, Honolulu, Mưa và Cái đầm. Trước đây tôi đã chép ba truyện ngắn: Mưa, Cái đầm và Chết cũng không chừa[1]. Nay tôi chép thêm Chúa đảo Talua. Truyện ngắn này tôi chép từ eBook Những quần đảo thần tiên do một thành viên TVE-4u gởi tặng, rồi đối chiếu với nguyên tác tiếng Anh Mackintosh đăng trên http://www.unz.org/Pub/MaughamWSomerset-1934v01-00071 để sửa một vài lỗi. Goldfish Tháng 07/2014 *** Tìm mua: Chúa Đảo Talua TiKi Lazada Shopee Chàng vùng vẫy mấy phút ở dưới biển; chỗ đó biển nông quá, không lội được, mà ra xa thì sợ cá mập. Rồi chàng lên bờ vô phòng thay quần áo xối nước ngọt, thấy mát lạnh dễ chịu quá. Nước Thái Bình Dương nặng, nhớp nhúa, mới bảy giờ sáng mà đã nóng, ngâm mình dưới nước đó đã chẳng thấy khỏe khoắn mà còn uể oải thêm. Lau mình cho khô, khoác chiếc áo tắm vào rồi chàng lớn tiếng cho người bếp Trung Hoa hay năm phút nữa thì ăn. Chàng đi chân không qua đất đầy cỏ dại mà viên tỉnh trưởng Walker hãnh diện gọi là bồn cỏ, vô nhà, thay quần áo rất mau và chỉ bận một chiếc sơ mi và một chiếc quần trắng, rồi qua nhà viên sếp của chàng ở phía bên kia khu cư xá. Hai người ăn chung với nhau, nhưng hôm đó người bếp bảo Walker đã cưỡi ngựa ra đi từ năm giờ sáng, khoảng một giờ nữa mới về. Mackintosh ngán ngẩm nhìn trên bàn ăn món paw paw và món trứng với thịt heo mỡ. Đêm trước chàng khó ngủ: muỗi sao mà nhiều quá, vo ve chung quanh mùng nghe rợn người, y như tiếng phong cầm văng vẳng bất tuyệt nào đó, và mới chợp mắt được một chút chàng lại giật mình tỉnh dậy chỉ sợ có một con muỗi nào chui được vào mùng. Trời nực quá, chàng ngủ khỏa thân, trằn trọc hoài. Và lần lần chàng nhận ra tiếng sóng vỗ vào mỏm đá, đều đều một điệu không ngừng, bình thường quen tai rồi thì không để ý tới nữa, nhưng lần này vì thần kinh mệt mỏi quá, chàng không chịu nổi, phải bịt chặt tai để chống lại cái nhịp điệu nó như bổ vào đầu đó. Nghĩ rằng không có cách nào làm ngưng tiếng sóng bất tuyệt ấy được, không thể đem sức mình ra đọ với sự tàn nhẫn của hóa công, chàng nổi đóa muốn điên, đập phá một cái gì. Chàng cảm thấy nếu không ráng tự chủ được thì sẽ hóa điên mất. Và lúc này đây, nhìn qua cửa sổ thấy cái vũng long lanh dưới vòm trời không một gợn mây y như một cái chén úp. Nhìn đường bọt trắng viền mỏm đá, chàng còn rùng mình oán ghét cảnh đó. Chàng mồi một cối thuốc, lật lật chồng báo ở Auckland mới từ Apia gởi tới vài ngày trước. Những số mới nhất cũng đã cách đó ba tuần rồi, thật chán không thể tả. Rồi chàng vô phòng giấy, một phòng rộng, đồ đạc chỉ có sơ sài gồm hai cái bàn và một chiếc ghế dài kê ở một bên. Một số thổ dân với hai người đàn bà ngồi trên ghế, chuyện trò với nhau trong khi đợi Walker. Mackintosh bước vô họ cúi đầu chào. - Talofa-liĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chúa Đảo Talua PDF của tác giả William Somerset Maugham nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Chùa Đàn - Vang Bóng Một Thời (Nguyễn Tuân)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chùa Đàn - Vang Bóng Một Thời PDF của tác giả Nguyễn Tuân nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.