Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trậm Điểu

Tay tỷ phú lừa đảo Charles Merick đang ngồi tù. Hắn lấp lửng công khai bí mật về một tài sản vẫn còn đang được giấu đâu đó. Điều này đã kích thích lòng tham của một bầy “cá mập” bủa vây chờ ngày hắn được ra tù và cả những nạn nhân của trò lừa đảo tài chính của hắn. Thẩm phán Hammond Birk, người đã cứu vớt cuộc đời Gibson Vaughn khi anh còn là một thanh niên gặp rắc rối trong cuộc sống cũng là một trong số những nạn nhân đó. Để trả món nợ ân tình, Gibson quyết định sẽ cướp lấy số tiền của Merrick. Đối đầu với những đối thủ sừng sỏ, khát máu, Gibson sẽ làm gì? Những đồng tiền chưa bao giờ lên tiếng, nhưng âm thanh leng keng đến chói tai của chúng khiến người ta phải điên loạn mà nổ súng, giết người không ghê tay, mọi giá trị đạo đức hay pháp luật đều trở nên vô nghĩa khi đồng tiền lên ngôi. Trậm Điểu là những cuộc đào tẩu và âm mưu đen tối kinh hoàng. *** "Chiến đấu cho ra trò, nhưng đừng bao giờ để họ chọn sân đấu." ________________ Nếu như Sợi dây thừng nghiệt ngã là câu chuyện móc nối quá khứ để mở ra hiện thực thì Trậm Điểu là chính là kết quả của hiện thực mà Gibson đã lún chân vào. Trậm Điểu là một cuộc chơi khác, nơi mà những câu chuyện ở quá khứ vẫn bám lấy anh, vẫn tác động lên cảm xúc và trực giác của Gibson nhưng lại ít ám ảnh hơn trong Sợi dây thừng nghiệt ngã. Lần này anh đòi hỏi bị thách đấu ở một phương diện khác, khi mà kẻ anh thách đấu lại có một vị trí đặc biệt: gã ở tù bị săn đón nhiều nhất. Cuộc đấu trí lần này là cái giá của hiện thực mà Gibson buộc phải chấp nhận. Nó cuốn người đọc không ở việc tìm ra bí ẩn hay những quá khứ đen tối mà là ở quá trình tranh đấu giữa hai bên, đã vậy kẻ còn lại không khác gì vô hình. Có một điều thú vị tớ nhận thấy là trong câu chuyện này, để nói rõ ai trắng ai đen trong truyện này rất khó, mà việc đó cũng không phải quan trọng. Chỉ riêng những tình tiết nảy sinh và diễn ra liên hồi cũng đủ để cuốn sách này là một cuốn trinh thám xuất sắc. Phần sau là hồi gay cấn nhất. Có hành động, có twist. Cái twist truyện không nhảy cái đùng một phát xuống dòng, nó chỉ thả nhẹ ở một tình tiết thôi, không hề gây sốc ngay lập tức nhưng lại đủ sức lật câu chuyện sang hướng mới. Đọc mà thực tâm cảm khái tác giả viết tốt quá, mọi thứ đều rất chặt chẽ và logic. Đoạn cuối cũng là một cú lật ngoạn mục, một cú nhử mà tới giờ tớ nghĩ lại vẫn cay, cuốn sách tiếp theo đâu. Chào thân ái từ tinh cầu nóng chảy! *** Review // Không spoil ~ TRẬM ĐIỂU ~ Tác giả: Matthew FitzSimmons. Dịch giả: Trần Trọng Hải Minh Thể loại: Trinh thám phương Tây. Mức độ ưa thích: 9.5/10 ————————- Sau vụ việc với phó tổng thống Benjamin Lombard trong quyển “Sợi dây thừng nghiệt ngã”, tưởng rằng có thể yên ổn sống tiếp nhưng rốt cuộc chàng thám tử Gibson Vaughn lại bị “nhờ vả” tham gia cuộc điều tra xoay quanh Charles Merrick – tù nhân kinh tế sắp mãn hạn tám năm tại nhà tù Niobe. Tuy ban đầu không muốn nhưng rồi Gibson Vaughn vẫn dấn thân vào vì một lý do khá cảm tính. Cuộc điều tra đòi hỏi khả năng tin tặc của anh, sự bền bỉ linh hoạt, lòng dũng cảm và cả bản tính hài hước gợi đòn. Mọi chuyện diễn biến càng lúc càng tệ khi Gibson phải đối mặt với nhiều phen nguy hiểm tính mạng và thậm chí bị bắt bởi CIA. Sau khi đọc “Sợi dây thừng nghiệt ngã”, Biển có ấn tượng tốt với truyện trinh thám của Matthew FitzSimmons nên rất hào hứng đọc tiếp Trậm Điểu. Đúng như mong đợi, Trậm Điểu có cốt truyện thật sự hấp dẫn ly kỳ. Tác giả không cố tình viết giựt gân kiểu như “bỗng một bóng đen xuất hiện bên cạnh tôi” nhưng câu chuyện vẫn cuốn hút ngay từ những trang đầu tiên, nhiều đoạn khiến Biển căng thẳng do quá hòa mình vào câu chuyện. Giọng văn rành rọt phân minh, tuy thường xuyên có những câu dài như cả đoạn nhưng đọc vẫn dễ hiểu. Những câu văn dài cũng cho thấy kỹ năng dịch thuật thượng thừa và nỗ lực của dịch giả. Biển không hiểu rõ những đoạn về kinh tế hay âm mưu chính trị trong truyện, nhưng điều đó không ngăn cản Biển thưởng thức chất trinh thám của Trậm Điểu. Nửa sau quyển sách sẽ khiến độc giả muốn đọc một mạch để nhanh biết kết cuộc. Tuy không có nhiều đoạn triết lý nhưng Matthew FitxSimmons đã khéo léo lồng ghép tâm lý nhân vật vào các đoạn văn, khiến người đọc cảm nhận và thấu hiểu được cách suy nghĩ, hành xử của các nhân vật trong truyện. “Thêm nữa, đàn ông ở tuổi anh ta có xu hướng không coi trọng phụ nữ ở tuổi cô và cô nhận ra rằng bị đánh giá thấp là điều hữu ích”. Trậm Điểu cũng có đề cập một chút đến khả năng mà tội phạm được chấp nhận hòa nhập với XH sau khi mãn hạn tù. Tuy biết phải khoan dung với đồng loại nhưng hầu hết người dân thường – những người không có tiền án tiền sự – sẽ rất khó cảm thấy an toàn và tin cậy để sống chung / làm việc chung với những người đã từng phạm tội. “Một người phạm tội hình sự như ông phải ghi rõ lịch sử phạm tội khi xin việc. Và bởi vì việc phân biệt đối xử đối với tội phạm hình sự đã bị kết án không phải là bất hợp pháp, có ít người chịu tuyển dụng họ. Kẻ tội phạm còn lại lựa chọn gì ngoài việc tiếp tục cuộc đời tội ác?” [Đoạn tiếp theo đây Biển không nghĩ là spoil, nhưng bạn nào sợ spoil thì xin đừng đọc ^_^]. Nhân vật chính Gibson Vaughn không được xây dựng hình tượng siêu anh hùng như Jack Reacher, đọc Trậm Điểu mà nhiều lần Biển tức tối nôn nóng khi thấy anh bị đánh, bị ép phải quy phục trước cường quyền. (Người có thể coi là nữ chính trong truyện này) là Lea Regan, một phụ nữ dũng cảm nhưng không kém phần cố chấp. Trong Trậm Điểu, số phận của cô bị bỏ ngỏ khiến Biển khá lo lắng. Cũng muốn nói một chút về kết cuộc của truyện, Biển không biết tiếng Anh nên không biết cách tìm hiểu xem loạt truyện “Điệp vụ Gibson Vaughn” có bao nhiêu cuốn, nhưng sau phần kết của Trậm Điểu thì Biển đoán tác giả phải viết tiếp ít nhất là một quyển khác, vì nếu số phận của Gibson Vaughn kết thúc như trong Trậm Điểu thì đúng là tác giả muốn khiến độc giả tức chết. Ngay khi nhìn thấy thông tin phát hành và bìa của cuốn Trậm Điểu thì Biển liên tưởng đến loài chim trẩm từng đọc được trong tác phẩm Trâm của tác giả Châu Văn Văn. Trong quyển “Trâm – Tình lang hờ” có đoạn Lý Thư Bạch nói như sau: “Trên đời làm gì có chim trẩm, chỉ là người chết vì trúng loại độc này, toàn thân đến cả thịt da lông tóc đều sẽ chứa chất độc, chim trúng độc chết thì đến lông vũ cũng có độc. Chỉ cần lấy tóc người hoặc hoặc lông chim trúng độc cũng đủ tái chế thành kịch độc, nên mới có truyền thuyết chấm lông chim trẩm vào rượu là thành rượu độc”. Còn trong Trậm Điểu, có phần chú thích của dịch giả rằng “trậm điểu” là loài chim độc trong truyền thuyết TQ. Sách “Sơn Hải Kinh” mô tả Trậm Điểu là loài chim bụng màu tía, cổ dài, mỏ màu hồng điều. Nó cực độc vì chuyên ăn rắn lục. Con trống gọi là Hồi Dương, con mái gọi là Âm Uân. Bìa sách thoạt nhìn hơi khó hiểu nhưng rất hợp với tựa đề Trậm Điểu. Chất giấy trong sách rất đẹp, vốn là một mọt sách giấy nhưng khi đọc sách Biển ít khi quá “tôn sùng nâng niu” sách, thậm chí còn hay gấp góc để đánh dấu những đoạn hay, nhưng đối với Trậm Điểu, sách đẹp đến nỗi Biển đọc kiểu 45 độ và chịu khó ghi chép lại tất cả chứ không nỡ gấp góc. Chữ in to rõ dễ đọc, còn vài lỗi chính tả và lỗi đánh máy không đáng kể. Số điểm 9.5/10 là Biển chấm cho toàn bộ các yếu tố từ ngoại hình đến nội dung, thiếu 0.5 là vì phần kết khiến Biển bứt rứt lo lắng! Cũng như các loạt truyện về Jack Reacher của Lee Child hay loạt truyện của David Baldacci, series về Gibson Vaughn của Matthew FitzSimmons chắc chắn là những quyển sách không thể bỏ qua đối với các mọt trinh thám. (Sea, 25-8-2019) Bookmark tự vẽ, lấy ý tưởng từ Internet. Camellia Phoenix *** Những ngọn đèn tỏa ra luồng ánh sáng huỳnh quang sâu thẳm. Khắp nơi quanh gã, Merrick nghe thấy âm thanh của những người đang bị ép phải thức giấc. Những tiếng cót két của lò xo nệm cũ kỹ. Những cuộc trò chuyện, đã ngưng lại vào tối hôm trước khi đèn tắt, lại tiếp nối như thể mới chỉ vài giây trôi qua. Những câu chuyện dễ nối lại vì chúng vẫn là những cuộc đối thoại tầm thường giống như buổi sáng hôm trước và trước đó nữa, kéo dài lê thê suốt tám năm trời mà Merrick lúc nào cũng thức giấc cùng với chúng. Nhà tù chỉ quanh quẩn bàn luận với mấy chủ đề - cuộc đời trước khi vào tù, cuộc sống trong tù và lời hứa hẹn về một cuộc đời tốt đẹp hơn sau đó. Kẻ thù và bạn hữu, đàn bà, người thăm nuôi, nhà ăn và đồ ăn dở tệ. Chẳng bao lâu đã hết chuyện và từ đó trở đi chỉ còn những biến thể của một chủ đề. Tù nhân đến rồi đi, nhưng những cuộc đối thoại đó vẫn cứ tiếp diễn mãi. Được truyền miệng cho nhiều thế hệ phạm nhân còn chưa tới, như thể những cuộc đối thoại ấy mới là những khách trú đích thực duy nhất của nhà tù, còn tù nhân đơn giản chỉ là tiếng nói chuyển tiếp những gì đã được nói ra từ rất lâu trước đó. Hay đó là điều mà Charles Merrick sẽ hạnh phúc khi tưởng tượng về việc gã vĩnh viễn bỏ lại nhà tù liên bang Niobe sau lưng trong 142 ngày nữa. Merrick tung chân khỏi giường và xỏ thẳng vào đôi tông để chân gã không bao giờ phải chạm vào mặt sàn của nơi đáng ghê tởm này. Chỉ trong bốn động tác nhanh gọn, thuần thục, gã đã dọn xong giường của mình. Chiếc chăn lông thô đến nỗi chó cũng không thèm đắp. Con Morgan thì chắc chắn là không rồi - con chó Tây Ban Nha dòng King Charles của gã, nó đã qua đời khi gã ở trong này. Gã nhớ con vật đó: con vật trung thành duy nhất mà gã từng biết. Mấy tay lính gác đi qua khu nhà giam, bắt đầu lượt điểm danh lúc bảy giờ sáng. Bọn chúng còn hai lượt điểm danh vào lúc ba và năm giờ sáng nữa. Đó là phần khó khăn nhất với gã khi ở trong tù - giấc ngủ của gã cứ bị cắt ngang bởi những tiếng rầm rì vô nghĩa cùng tiếng bấm từ chiếc máy đếm nhỏ chỉ vì ý nghĩ nực cười rằng bọn chúng đang đếm thầm trong đầu. Những kẻ với trình độ tốt nghiệp phổ thông thậm chí còn không đủ tiêu chuẩn làm việc trong phòng văn thư của Merrick Capital. “Sẵn sàng cho ngày trọng đại chưa, Lọ Lem?” Những tay lính gác đã dọa dẫm gã nhiều tuần liền. Kể từ khi giám đốc nhà tù chấp thuận cuộc phỏng vấn, Merrick không còn nghĩ được chuyện gì khác. Gã đã không có khách thăm nào ngoại trừ các luật sư của gã từ nhiều năm rồi, nên xin hãy tha thứ cho sự phấn khích về cuộc phỏng vấn của gã. Đám lính gác cùng lũ tù nhân đều không ngừng mỉa mai gã như những đứa trẻ ghen tức, nhưng gã hiện đang có tâm trạng quá tốt để mà bận lòng về chuyện đó. Ngay khi các lính gác ra hiệu là mọi việc đã sẵn sàng, Merrick lao nhanh về phía phòng tắm. Gã hẳn đã chạy nếu được phép. Bình thường, gã không bao giờ vội vã đi đâu; sau mỗi góc quanh vẫn là nhà tù, vậy thì việc gì phải vội? Nhưng hôm nay gã muốn là người đứng đầu hàng, gã không muốn đang tắm lại hết nước nóng. Tắm xong, Merrick cạo râu cẩn thận và chải mái tóc vàng dày của gã cho đúng nếp. Nó đã ngả bạc hơn so với hồi gã mới đến nhà tù liên bang Niobe, nhưng gã vẫn còn mái tóc đó và thế là đủ. Nếu có gì khác, thì hôm nay gã thấy mình khá hơn. Cường độ làm việc kinh khủng ở Merrick Capital đã tổn hại đến sức khỏe và vùng bụng của gã. Phải vào tù gã mới phát hiện ra tình yêu với việc tập thể dục. Đẩy tạ như một tù nhân đích thực. Chiếc dao cạo rẻ tiền làm gã bị xước ở dưới tai, gã đắp vào đó một miếng giấy vệ sinh. Gã nhớ da diết chiếc bệ đá cẩm thạch cũ với những đồ dùng vệ sinh đắt tiền được đặt lên. Gã nâng niu cả một lọ nước hoa bản mẫu ưa thích của mình - thứ đã khiến gã tốn bao nhiêu là công sức và mưu mẹo. Gã đã phải hy sinh cả một tháng lương thực của mình để đưa lậu nó vào đây dành cho hôm nay. Gã mở nắp và ngay lập tức biết rằng nó hoàn toàn xứng đáng. Một giọt vào gáy và ba, không, bốn giọt nơi cổ tay trái, cần xịt thêm để che đậy mùi hôi hám của nơi này. Gã chà xát hai cổ tay với nhau và tự ngưỡng mộ mình trong gương. Một lính gác đi ngang qua ngửi thấy mùi và dừng lại. “Mùi quái gì thế, thằng tù?” “Chanel’s Pour Monsieur,” Merrick nói. “Pour Monsieur?” Tay lính gác nói, nhại gã bằng thứ giọng Pháp tệ hại. “Chà, mày có mùi như trong phòng phá thai ấy. Nhanh lên, Lọ Lem, không thì lỡ bữa tiệc đấy.” Merrick mặc bộ áo liền quần tẻ nhạt của nhà tù và cố gắng làm cho nó thẳng thớm lại trong gương, không mấy tác dụng. Gã đã yêu cầu được mặc bộ vét ở tòa cho buổi phỏng vấn để rồi bị cười nhạo trong văn phòng giám đốc trại giam. Có lẽ đằng nào thì bộ đồ đó cũng không vừa với gã nữa, vì gã đã gọn gàng hơn nhiều so với khi tới đây. Gã sẽ cần những bộ vét mới, bắt đầu là mười lăm hay hai mươi bộ và hy vọng rằng tay thợ may quen của gã ở Savile Row chưa về hưu. Người ta không thể tùy tiện thay đổi thợ may được. Lúc ăn sáng, Merrick ngồi một mình và chọn đại món được tạm gọi là trứng bác. Gã không thích ý tưởng bước vào một cuộc phỏng vấn mà chưa được chuẩn bị, nhưng bên tạp chí đã bác bỏ yêu cầu gửi trước câu hỏi. Lúc còn là đối tác quản lý điều hành của Merrick Capital, gã có hai hay ba cuộc phỏng vấn mỗi tuần. Cánh nhà báo xếp hàng để gặp gã và nhóm quan hệ công chúng của gã xem trước câu hỏi, lên kịch bản cuộc gặp để phô bày thương hiệu Charles Merrick trong thứ ánh sáng lộng lẫy nhất có thể. Việc bước vào một cuộc phỏng vấn chưa được chuẩn bị trước sẽ là trải nghiệm mới, nhưng Finance là một tạp chí đàng hoàng, chuyên nghiệp ở đẳng cấp cao nhất. Họ chắc chắn sẽ cử tới một người giỏi. Gã không biết người phụ nữ Lydia Malkin này, nhưng cô ta sẽ chứng tỏ năng lực của mình. Gã đang cảm thấy muốn cởi mở và ý tưởng về cuộc trò chuyện hấp dẫn với gã. Trò chuyện thực sự. Đã lâu rồi không ai hỏi gã một câu khiến gã phải suy nghĩ. Khi đến giờ phỏng vấn, lính gác dẫn Merrick vào một trong những căn phòng tư vấn pháp lý chật hẹp. Căn phòng trơ trọi, không có gì ngoài một chiếc bàn dài và những chiếc ghế kim loại chẳng thoải mái chút nào. Gã từng ở trong phòng này, hay một căn phòng tương tự, không biết bao nhiêu lần. Một phụ nữ cỡ tuổi con gái gã đang ngồi ở bàn, khoảng chừng hai mươi lăm? Cô ta đang hí hoáy ghi chép trên một tập giấy ghi chú. Ngay cả khi gã chấm điểm rộng tay thì trông cô ta cũng không hấp dẫn lắm. Có lẽ là một phóng viên tập sự được cử tới cùng để có chút kinh nghiệm hiện trường. Được thôi, được thôi. Hai phụ nữ luôn tốt hơn là một. Cô ta đặt bút xuống và đứng lên chào gã. “Rất vui được gặp ông, ông Merrick.” “Bao lâu nữa cô ấy mới tới đây?” “Xin lỗi?” “Lydia Malkin. Bao lâu nữa cô ấy tới? Tôi không biết tay lính gác cho chúng ta bao nhiêu thời gian. Họ có thể… khó chịu,” gã nói như thể mô tả dịch vụ phòng ở một khách sạn. “Tôi chính là Lydia Malkin.” Cô đưa tay ra. Gã nhìn bàn tay và cảm thấy huyết áp tăng lên với suy nghĩ có người đã cử đứa nhóc tì này tới phỏng vấn gã. “Cô là phóng viên tờ Finance?” “Phải, là tôi.” “Cô bao nhiêu tuổi? Hai mươi hả? Cô học xong đại học chưa?” “Tôi hai mươi sáu. Tôi có bằng thạc sĩ báo chí của trường Northwestern.” “Thậm chí cô có biết tôi là ai không?” “Ông là Charles Merrick.” “Tốt cho cô. Nhưng tôi biết rất rõ là tờ Finance không cử một phóng viên hai mươi sáu tuổi đi thực hiện bài phỏng vấn trang bìa bao giờ.” Cô nhìn gã tỏ vẻ ngạc nhiên. “Tôi lấy làm tiếc nếu có trục trặc trong khâu liên lạc. Đây không phải bài trang bìa.” “Cô nói sao cơ?” “Đây chỉ là một phần hồ sơ nhân vật nhỏ: ‘Giờ ông ấy ở đâu?’ Đại loại thế. Bởi ông sẽ sớm ra khỏi đây.” “Một phần hồ sơ nhân vật? Peter vẫn còn là tổng biên tập chứ?” “Peter Moynihan là tổng biên tập,” cô nói với giọng mệt mỏi làm Merrick phát bực. “Và anh ta nghĩ rằng sẽ là ý hay nếu viết… Cô nói sao nhỉ? Một ‘phần hồ sơ nhân vật nhỏ’ về tôi?” “Thực ra Peter không mặn mà lắm với ý tưởng đó. Lúc đầu là vậy.” “Lúc đầu.” “Tôi đã thuyết phục ông ấy.” “À, cảm ơn cô nhiều,” Merrick nói. “Vì đã nói hộ tôi.” “Có lẽ tôi nên ra về.” Gã nhìn cô thu dọn những tài liệu đã bày ra trên bàn. Ngày xưa, gã sẽ cười lớn khi tiễn một phóng viên ra khỏi văn phòng của gã nếu người đó thử một chiến thuật rõ ràng như thế. Gã cực kỳ muốn để cô ta rời nhà tù Niobe trong thất vọng và trắng tay, nhưng gã ngăn cô lại vì điều đó sẽ còn làm gã tổn thất hơn nhiều. “Tại sao họ không quan tâm?” Cô dừng lại và nhìn thẳng vào mắt, đánh giá gã một cách tự tin. Gã không quan tâm nhưng buộc phải mỉm cười. Dù không muốn thừa nhận, nhưng gã cần Lydia Malkin hơn là cô cần gã. “Ông muốn biết thật sao? Không ai quan tâm cả,” cô nói. “Rất nhiều người ghét cay ghét đắng thỏa thuận nhận tội của ông với Bộ Tư pháp. Tám năm tù cho những hậu quả mà Merrick Capital gây ra cho các nhà đầu tư của nó là điều thật lố bịch. Và tổng tài sản tịch thu không bõ bèn gì để đền bù cho các nạn nhân của ông - những cuộc đời đã bị hủy hoại.” Merrick bác bỏ ý kiến rằng thỏa thuận của Bộ Tư pháp với gã là hết sức độ lượng. Giá mà cô Lydia Malkin bé bỏng này biết được dù chỉ là một nửa câu chuyện. Món quà gã đã trao cho đất nước vĩ đại này để đổi lấy cái được gọi là sự khoan hồng. CIA lẽ ra phải tổ chức một cuộc diễu hành để vinh danh gã thay vì nhốt gã ở đây. “Đó là chưa nói tới thực tế là ông được đưa vào đây thay vì một nhà tù thực sự.” “Một nhà tù thực sự sao? Chà, thay vì ‘câu lạc bộ đồng quê’ này hả?” “Phải.” “Cô có biết là chúng tôi thực ra không có sân quần vợt không? Chúng tôi từng có, nhưng họ đã san phẳng nó rồi. Biết tại sao không? Vì ý tưởng cho rằng đây là một ‘câu lạc bộ đồng quê.’ Như thế là phân biệt đối xử.” “Phân biệt đối xử sao?” “Chính xác là thế. Tôi đã bị từ chối một hình thức tập thể dục chính đáng. Vì sao? Vì đó là một môn thể thao mà những người như tôi rất thích, như thế là phân biệt đối xử. Xong rồi để bọn họ chơi bóng rổ, một trò chơi bọn họ cũng thích thú như thế. Vậy thì công bằng ở đâu?” “Bọn họ?” Cô hỏi, tìm cách khiến gã mắc câu. Gã không mắc vào trò đó. “Vậy… Nếu chẳng ai bận tâm, thì tại sao cô lại ở đây?” “Để xem nhà tù có làm thay đổi một người được biết đến với tên gọi là Madoff Đệ nhị hay không.” “Madoff Đệ nhị?” “Người ta gọi ông thế. Ông chưa bao giờ nghe hả?” “Tất nhiên tôi nghe rồi. Tôi chỉ không tin nổi là cái tên đó lại hợp lý.” “Tại sao không?” “Vì Merrick Capital không phải là tài chính đa cấp, vậy đó. Đây là một sự sỉ nhục. Hoạt động kiểu Madoff là kiểu nghiệp dư. Ai cũng biết hắn ta làm gì. Rõ rành rành. Hãy lưu ý là không hề có công ty lớn nào ở Phố Wall đầu tư dù chỉ một xu với Madoff. Điều này chẳng phải hơi lạ lùng khi mà Madoff chỉ báo lỗ có bốn tháng trong hai mươi năm hoạt động sao? Điều đó như thể một cầu thủ bóng chày có tỉ lệ đánh trúng bóng .900 một mùa mà vẫn không được một đội lớn ký hợp đồng. Lý do duy nhất Madoff không bị bắt sớm hơn là vì SEC mắc kẹt với đám nhân viên bất tài, thiếu ngân sách. Họ đã điều tra hắn sáu lần. Sáu! Họ lẽ ra phải tóm hắn từ năm ’99 khi Harry Markopolos cảnh báo về hắn, nhưng SEC không bao giờ bận tâm xác nhận những cáo buộc về hắn với DTC. Vì vậy, phải, tôi khó chịu vì bị đánh đồng với gã cặn bã đó.” Cô bắt đầu bật máy ghi âm đặt ở giữa bàn. “Merrick Capital thì khác gì chứ?” “Merrick Capital là công trình nghệ thuật của chúng tôi. Các chiến lược đầu tư của chúng tôi hoàn toàn hợp pháp và lợi nhuận cho nhà đầu tư của chúng tôi là không có tiền lệ.” “Merrick Capital bắt đầu làm giả số liệu lợi nhuận từ năm 1998.” Gã có thể cảm thấy máu dồn lên tai. “Những khách hàng của tôi vẫn trở nên giàu có.” “Không phải vào năm 2008, năm đó thì không. Ông mất cả gia tài vì đặt cược vào mỏ niken ở Tây Úc.” “À phải, vụ sụp đổ lớn,” Merrick nói. “Giá mà người dân Mỹ biết cách trả tiền vay thế chấp đúng hạn.” “Ông bị bắt là lỗi của người dân Mỹ sao?” “Cô nói chuẩn đét đấy. Nếu vụ sụp đổ lớn không khiến giá niken lao dốc, thì vụ cá cược của tôi, như cô gọi nó, đã có lãi.” “À, đó chắc chắn là góc nhìn có một không hai,” cô nói, nghiêng người về phía trước. “Nhưng đó vẫn là một vụ được ăn cả ngã về không. Ông ít ra phải thừa nhận điều đó. Các kinh tế gia gọi đó là một trong những màn đánh cược vô trách nhiệm nhất trong ngành tài chính hiện đại, dù có hay không có cuộc khủng hoảng tài chính. Vậy mà giờ ông ngồi đây, tự tin về một kết quả khác. Làm sao ông biện minh được cho sự đoán chắc đó?” Trong thâm tâm Merrick biết, thậm chí là khi đó, rằng gã lẽ ra nên suy nghĩ cẩn trọng hơn. Thay vì thế, gã đã trả lời câu hỏi của cô. Mời bạn mượn đọc Trậm Điểu của tác giả Matthew Fitzsimmons & Trần Trọng Hải Minh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đứa Con Xa Lạ
Đứa con xa lạ là tiểu thuyết của nhà văn Anh - Rachel Abbott. Tác phẩm vừa được Nguyễn Xuân Hồng dịch, Nhà xuất bản Văn học và Văn Việt Books phát hành. Câu chuyện mở đầu bằng một vụ tai nạn khó hiểu trong một đêm không trăng. Caroline Joseph lái xe đưa con gái sáu tuổi Natasha về nhà sau bữa tối cùng họ hàng thì nhận một cuộc điện thoại bí ẩn. Sau cuộc điện thoại, chiếc xe của cô bị trượt trên đường và lật ngửa. Caroline qua đời còn con gái cô - Natasha - biến mất không dấu vết. Sáu năm sau, Natasha đột ngột xuất hiện trong nhà như một bóng ma bí ẩn. Bố cô là David lúc này đã đi bước nữa với Emma và có cậu con trai nhỏ tên Olive. Natasha đối xử với bố và dì như những kẻ thù với sự lạnh lùng, tàn nhẫn mà khó ai ngờ một đứa trẻ 12 tuổi có thể làm được. Cô bé cũng không hé một lời về sáu năm qua của mình và vì sao cô có thể quay trở về. Cuộc điều tra của cảnh sát dần hé lộ thân phận của Natasha. Ngoài sự căm hận với bố, Natasha còn phải đứng trước lựa chọn hoặc làm theo hoặc bị những kẻ điều hành giết. Trong thời gian đó, chính Natasha bị cảm hóa bởi sự kết nối lạ lùng với người mẹ kế và đứa em cùng cha khác mẹ.Trong khi David cố tìm cách để kết nối lại với con gái, vợ anh là Emma cảm thấy bất an trước sự xuất hiện lạ lùng của Natasha. Khi Emma ra ngoài để tránh sự ngột ngạt trong gia đình, con trai cô Olive đã bị Natasha giao cho những kẻ bí ẩn. Tác phẩm cũng dần hé lộ người liên quan tới vụ tai nạn của Caroline Joseph năm nào. Sâu xa của vụ việc là những mối quan hệ làm ăn bí hiểm, những lựa chọn, đấu tranh để giữ gìn hạnh phúc... *** Tác giả Rachel Abbott sinh ra và lớn lên ở Manchester, Anh. Bà được đào tạo làm chuyên gia phân tích hệ thống nhưng lại mở công ty truyền thông đầu thập niên 1980. Sau khi bán công ty năm 2000, bà chuyển tới vùng Le Marche, Italy và bắt đầu viết lách. Rachel từng xuất bản các tiểu thuyết Only the Innocent (Chỉ là  kẻ vô tội), The Back Road (Lối sau) và Sleep Tight (Say ngủ). *** Thêm mười phút nữa, và cô sẽ an toàn ở nhà. Caroline Joseph rùng mình khoan khoái vì chuyến đi dài đằng đẵng sắp kết thúc. Chưa bao giờ cô thích việc lái xe ban đêm và cô luôn cảm thấy hơi mất kiểm soát. Từng cặp đèn pha tiến đến gần dường như đều hút cô về phía chúng, thứ ánh sáng màu trắng của chúng soi tỏ không gian trong xe, trong khi cô nắm chặt vô lăng, cố hướng chiếc xe thẳng về phía trước. Nhưng giờ thì không còn lâu nữa. Cô mong được đem Natasha đi tắm nước ấm, uống một cốc sô cô la nóng, và ủ con bé trên giường. Sau đó cô có thể dành nốt thời gian còn lại của buổi tối cho David. Anh đang gặp chuyện gì đó bực bội, và Caroline nghĩ rằng nếu họ có thể ngồi trước đống lửa cùng với một ly rượu vang khi Natasha đã say ngủ thì cô có thể thuyết phục được anh nói ra mọi chuyện. Chắc chắn phải là chuyện gì đó liên quan đến công việc. Cô liếc nhìn cô con gái quý báu của mình qua gương chiếu hậu. Tasha đã sáu tuổi - hay sáu ba phần tư, như cách cô vẫn thích đem khoe - mặc dù thân hình mảnh khảnh của con bé khiến nó trông nhỏ tuổi hơn. Mái tóc vàng nhạt của nó buông thành những lọn quăn mềm mại trên vai, và những đường nét thanh tú của nó thỉnh thoảng lại sáng bừng lên trong thứ ánh sáng vàng khi họ đi qua những ngọn đèn đường. Mắt con bé nhắm chặt, và Caroline mỉm cười trước vẻ bình an của con bé. Hôm nay Tasha thể hiện tính cách dịu dàng như thường lệ, chơi rất vui vẻ với anh chị em họ trong khi đám người lớn bận rộn làm theo lệnh bố của Caroline. Ông cụ đã đưa ra một “chỉ dụ” - lần này tuyên bố rằng Caroline, cùng với các anh chị em và gia đình của họ, phải đến dự một bữa tối trước dịp Giáng sinh. Bình thường, tất cả mọi người đều vâng lời. Tất cả mọi người có nghĩa là trừ David ra. Đường rẽ vào những con hẻm dẫn tới nhà họ vùn vụt tiến lại gần, Caroline liếc nhìn Natasha lần chót. Khi họ rời khỏi đường chính và xa dần những khung cửa sổ của các cửa hiệu đèn đuốc sáng choang, quầng sáng màu hổ phách của những ngọn đèn đường cao vút, khoang sau xe chìm vào bóng tối. Con bé ngủ suốt cả chuyến đi, nhưng lúc này bắt đầu cựa quậy. “Con ổn chứ, Tasha?” Caroline hỏi. Đứa bé chỉ làu bàu đáp lại, vẫn chưa tỉnh ngủ hẳn để trả lời trong lúc đưa mu bàn tay dụi dụi mắt. Caroline mỉm cười. Cô đạp nhẹ phanh và chuyển số để rẽ. Tất cả những gì cô phải làm là chạy nốt vài dặm đường cuối cùng của chuyến đi này, dọc theo những ngõ phố hẹp có hàng giậu hai bên, chìm sâu trong bóng tối, và rồi cô có thể nghỉ ngơi. Cô chợt thấy lo lắng về David. Anh biết cô rất ghét lái xe buổi tối, và lẽ ra anh có thể cố gắng - vì Natasha, nếu không phải vì cô. Hôm nay cả hai người đều nhớ anh. Có một chuyển động đột ngột bên trái thu hút ánh mắt của Caroline, và cô xoay đầu về phía đó, tim cô đập nhanh trong lồng ngực. Một con cú xà thấp xuống hàng giậu, phần ngực trắng xóa của nó bắt trọn quầng ánh sáng từ đèn pha của cô, sáng rỡ trên nền trời đen. Cô thở phào. Trời không có trăng, và mặt đường đen kịt trên các ngõ phố dẫn tới ngôi nhà của họ lấp loáng những hạt sương. Mọi thứ xung quanh cô dường như yên tĩnh hoàn toàn, như thể cả thế giới vừa dừng lại, và giờ nếu con cú bay đi thì cô là vật duy nhất vẫn còn chuyển động. Caroline biết, nếu cô mở cửa sổ, sẽ chẳng có tiếng động gì ngoài tiếng động cơ xe ầm ì khe khẽ. Phía trước hay đằng sau đều chẳng có ánh sáng, và trong phút chốc, nỗi sợ bóng tối rất tự nhiên của cô nhăm nhe ụp xuống. Cô rướn người về phía trước, bật radio với âm lượng nhỏ, cảm thấy bình tâm nhờ sự vui tươi của những ca khúc dịp lễ. Chẳng mấy cô sẽ phát ngán với những âm thanh này nhưng ngay lúc này, sắc thái vui vẻ thường lệ của chúng khiến cô thấy thư thái. Cô mỉm cười khi điện thoại trên ghế ngồi cạnh mình bắt đầu reo. Chắc chắn rằng đó là David muốn hỏi khi nào cô về, cô chỉ hơi liếc nhìn màn hình, nhưng đúng khoảnh khắc cuối cùng cô nhận ra, cuộc gọi đến từ một số đã được ẩn. Cô chạm vào màn hình và hủy cuộc gọi. Dù là ai thì cũng cứ đợi tới lúc cô về đến nhà đã. Cô đánh lái bằng một tay để cua nhanh trong lúc đặt điện thoại trở lại ghế ngồi, khiến chiếc xe hơi trượt đi trên mặt đường lạnh lẽo. Cô cảm thấy hơi hoảng. Nhưng chiếc xe vẫn vững, và cô lại thở bình thường. Caroline ngoặt thật cẩn thận ở những chỗ tiếp theo, nhưng đôi vai căng cứng của cô trùng xuống khi cô chạy đến một đoạn đường thẳng có bờ giậu cao che chắn, cùng những đường rãnh sâu dọc hai bên. Caroline rướn sát vào kính chắn gió, đăm đăm nhìn sâu vào màn đêm. Đèn pha xe cô đang rọi vào một khoảng tối thẫm hơn - có gì đó trong ngõ phố phía trước. Cô hơi đạp phanh và ve một số, chạy chậm lại vẻ phòng xa. Cô chuyển tiếp về số hai để tiến gần vật cản, hãi hùng nhận ra đó là một chiếc xe hơi, xoay nghiêng chắn ngang đường, hai bánh trước của nó vùi xuống rãnh bên mé phải đường. Cô nghĩ mình nhìn thấy một bóng đen trong xe, như thể có ai đó đổ gục trên vô lăng. Khi Caroline chầm chậm tiến về phía chiếc xe, tim cô bỗng đập rộn, cô nhấn nút để hạ kính cửa sổ. Trông như có người cần được giúp đỡ. Điện thoại lại reo vang. Ý nghĩ đầu tiên của cô là mặc kệ, nhưng nếu đã xảy ra một vụ tai nạn thì cô có thể cần gọi thêm hỗ trợ. Cô vớ lấy điện thoại trên ghế và trả lời cuộc gọi, nhận ra tay mình đang run bắn. “A lô?” “Caroline, em về nhà chưa?” Đó là một giọng nói cô mơ hồ nhận ra, nhưng không sao xác định rõ được. Mắt cô không rời vật cản phía trước trong lúc cô dừng lại và mở dây an toàn. “Vẫn chưa. Nhưng sao? Ai đấy?” “Nghe anh này. Cho dù em làm gì, em cũng đừng dừng xe lại. Cho dù có chuyện gì xảy ra, trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng đừng dừng xe lại.” Người đàn ông nói nhỏ và nhanh. “Về nhà. Về thẳng nhà. Em nghe anh nói không?” Vẻ hoảng hốt của giọng nói trong điện thoại tương ứng với tâm trạng lo lắng dần tăng của chính Caroline. Cô ngập ngừng. “Nhưng có một chiếc xe nằm ngang đường, và trông như có người bên trong. Có thể họ bị bệnh, hoặc họ vừa gặp tai nạn. Tại sao tôi không thể dừng lại? Có chuyện gì vậy?” “Cứ làm như lời anh đang bảo, Caroline. Đừng ra khỏi xe. Đạp chân xuống ngay và chạy qua chiếc xe đó, đừng có dừng lại vì bất kỳ ai hay bất kỳ cái gì. Cứ làm đi.” Giọng nói khẩn trương, gấp gáp. Caroline cảm thấy nỗi sợ dâng lên trong cổ họng. Chuyện này là sao? Cô liếc nhìn gương chiếu hậu, và quyết định. Cô ném điện thoại di động lên ghế cạnh mình, nắm lấy vô lăng bằng cả hai tay. Chiếc xe nằm bẹp kia dài và thấp, choán hầu hết bề rộng mặt đường với hai bánh sau hơi hẫng khỏi mặt đất vì ca-pô chếch xuống rãnh. Không có nhiều chỗ để vòng qua phần thùng sau của chiếc xe, nhưng cô có thể làm được. Cô phải làm được. Cô đạp mạnh chân xuống sàn. Lốp xe trượt trên mặt đường lạnh lẽo, nhưng vẫn bám được, và cô đánh xe sang trái. Bánh xe bên trái cô leo lên bờ đường bên dưới hàng giậu và chiếc xe lượn một góc khá nguy hiểm. Cô xoay vô lăng trở lại bên phải và chiếc xe của cô nện mạnh xuống, hướng thẳng mé bên kia đường. Caroline lại đánh lái sang trái để chỉnh thẳng hướng, động cơ rồ lên khi cô tăng tốc. Đột nhiên cô cảm thấy mình bắt đầu trượt đi. Cô cuống cuồng xoáy vô lăng hết hướng này lại hướng khác, nhưng cho dù cô làm gì, chiếc xe vẫn chẳng nghe lời. Băng phủ mặt đường, và cô đang đi quá nhanh. Cô nhớ đã được dặn cách lái xe ở chế độ trượt, nhưng cách đó cũng không ổn. Trong đầu cô vụt lóe lến một cái tên. Cô đột nhiên nhận ra ai vừa gọi cho mình. Nhưng tại sao lại là anh ta? Cô gọi to tên anh ta, nhưng cô biết rằng lúc này anh ta chẳng thể làm được gì. Mắt cô bị hút về phía gương, về phía khoang sau tối om của chiếc xe, nơi tất cả những gì cô nhìn thấy là màu trắng trong đôi mắt mở to, hãi hùng của Natasha. Cô đạp mạnh chân phanh, nhưng chẳng ăn thua. Chiếc xe trượt nghiêng, va vào bờ đường lần nữa, chồm lên một góc và bật tung, lăn lông lốc, va mạnh qua hàng giậu và đâm sầm xuống rãnh, cơ thể gãy rời của Caroline văng đi rồi nằm yên nửa trong nửa ngoài ô cửa sổ để ngỏ. Viên cảnh sát lái xe dọc theo những ngõ phố hẹp, tận hưởng khoảnh khắc bình yên hiếm hoi trong thời khắc sắp đến Giáng sinh. Một người giấu tên gọi đến báo có một chiếc xe hơi văng khỏi đường ở đâu đó quanh đây, nhưng theo nhân viên điều phối, người gọi đến không cung cấp thêm được chi tiết nào nữa. Viên cảnh sát hy vọng vụ này chỉ là một gã đần nào đó phá xe vì bị cạn xăng hoặc trục trặc. Anh đã phải xử lý quá đủ đám say xỉn vào cái mùa tiệc tùng này rồi, và một chiếc xe xinh xắn bị bỏ lại sẽ lại khiến anh phải rời khỏi đường một lúc - thậm chí có khi đến hết ca trực luôn. Dần dần anh nhận ra rằng không thể tìm được sự lạc quan ấy của mình. Những ánh đèn khiến anh phải tin. Không ai vứt bỏ xe của mình mà đèn vẫn sáng cả, và đằng trước anh còn nhìn thấy một ngọn đèn trắng đứng yên, chiếu sáng quắc, soi tỏ những hàng cây trơ trụi bên đường. Lúc anh lại gần hơn, quầng ánh sáng chói chang từ cặp đèn pha khiến anh lóa mắt. Anh dùng mu bàn tay che bớt mắt, hết sức thận trọng tiến lại gần phòng trường hợp có người nằm trên đường mà anh không thể nhìn thấy. Anh tiến đến cách chiếc xe khoảng hai mươi mét và tắt động cơ. Ngay lập tức anh thấy rằng tình hình rất tệ. Chiếc xe bị lật ngửa, phần trước ghếch lên một bên bờ hẻm. Nhưng chính tiếng động mới khiến anh rùng mình sởn tóc gáy. Xen lẫn với tiếng nổ đều đều êm ả của động cơ xe đắt tiền vang lên trong không gian thôn dã tĩnh mịch xung quanh, chính là nhạc nền rất huyền ảo không lẫn đi đâu được của bài White Christmas của Bing Crosby. Tiếng nhạc thư thái tuôn vào không khí buổi đêm lạnh lẽo qua một ô cửa để ngỏ, nơi đầu của một người phụ nữ thò ra ở một góc rất khó tin khiến viên cảnh sát không cần đến gần chiếc xe cũng biết cô ấy đã chết. Anh chầm chậm tiến lại phía chiếc xe dựng ngược để tắt động cơ, và cả tiếng nhạc. Anh đã có thể hít thở trở lại. Giờ thì đây chỉ là một vụ tai nạn giao thông trên đường với duy nhất một chiếc xe gặp nạn, mặc dù rất thảm khốc. Anh với lấy bộ đàm. Trong lúc đợi nhân viên cấp cứu đến, biết rõ rằng họ chẳng thể làm gì hơn là xác nhận những gì anh đã biết, viên cảnh sát tiến hành chặn đường, gọi nhóm chuyên gia đến điều tra vụ tai nạn và đề nghị kiểm tra trên hệ thống máy tính cảnh sát toàn quốc về chiếc xe để xác định chủ sở hữu. Anh vớ lấy một chiếc đèn pin cực mạnh trong ngăn hành lý của mình và rọi quanh ngõ phố, rọi xuống hào, dọc theo bờ đường, cố tìm kiếm xem có ai từng tìm cách bò ra khỏi chiếc xe, có thể bị thương, hoặc thứ gì đó trên đường có thể là nguyên nhân khiến chiếc xe bị mất lái không. Chẳng có gì cả. Con đường trống trơn. Viên cảnh sát thấy nhẹ người khi không khí yên ắng bị phá vỡ bởi những tiếng còi rúc càng lúc càng gần, và chỉ vài phút sau xe cứu thương vụt đến, ánh đèn của xe làm hiện ra một người đi xe đạp một mình đang ngập ngừng tiến lại hiện trường. Người đàn ông nhảy xuống xe và đứng cách một quãng. Viên cảnh sát tiến lại phía anh ta. “Xin lỗi, thưa ông - ông cần lùi lại.” “Vâng, thưa ngài sĩ quan. Tôi chỉ đang trên đường về nhà thôi.” “Tôi hiểu, nhưng tôi không thể để ông đi qua đoạn đường này vào lúc này, thưa ông. Tôi tin chắc ông thông cảm chuyện đó.” “Có người bị thương à? Trông như xe của Caroline Joseph. Tôi nói có đúng không?” Người đi xe đạp hỏi. “Lúc này tôi chưa khẳng định được, thưa ông.” Người đàn ông ngó qua viên cảnh sát để nhìn chiếc xe rõ hơn. “Tôi nhìn thấy kia là cô ấy thì phải? Ôi lạy Chúa. Cô ấy chết rồi, phải không?” Anh ta nhìn viên cảnh sát, miệng há ra vì sốc. “David tội nghiệp. Đó là chồng cô ấy. Anh ấy sẽ suy sụp mất.” Viên cảnh sát không nói gì. Tất cả những gì anh có thể làm là giữ người đàn ông cách hiện trường vụ tai nạn càng xa càng tốt cho tới khi lực lượng hỗ trợ đến, nhưng ngay cả từ khoảng cách này, vẫn nhìn thấy rất rõ phần đầu của người phụ nữ. “Không có Natasha đi cùng cô ấy sao?” Người đi xe đạp hỏi, giọng anh ta run lên. “Cô gái bé bỏng của cô ấy? Đứa bé đáng yêu nhất.” Viên cảnh sát lắc đầu, có phần nhẹ người. “Không, thưa ông. Ghế cho trẻ con có ở phía sau nhưng thật may là trống không. Không có ai khác ở trong xe.” Mời các bạn đón đọc Đứa Con Xa Lạ của tác giả Rachel Abbott.
Say Ngủ
Bạn sẽ chấp nhận đi bao xa để níu giữ những người mình yêu thương? Khi Olivia Brookes gọi điện tới đồn cảnh sát, trình báo sự việc chồng con mình mất tích, trong cô đồng thời có một niềm tin mãnh liệt rằng cô sẽ không bao giờ gặp lại họ lần nữa. Tại sao ư? Bởi đây không phải bi kịch duy nhất từng xảy đến trong đời cô. Hai năm sau đó, thanh tra thám tử Tom Doughlas lại được cử đến điều tra gia đình ấy, nhưng lần này, chính Olivia mới là người biến mất. Tất cả mọi bằng chứng đều cho thấy cô đã ở đây, trong chính ngôi nhà này vào buổi sáng hôm ấy. Thế nhưng ô tô của cô vẫn ở trong gara, bóp tiền vẫn nguyên trong túi xách đặt trên mặt bàn bếp. Cảnh sát muốn phát lệnh tìm kiếm và cầu cứu sự giúp đỡ, song chẳng hiểu vì sao, từng bức ảnh trong album gia đình, điện thoại lẫn máy tính cá nhân đều đã bị xóa bỏ. *** Tác giả Rachel Abbott sinh ra và lớn lên ở Manchester, Anh. Bà được đào tạo làm chuyên gia phân tích hệ thống nhưng lại mở công ty truyền thông đầu thập niên 1980. Sau khi bán công ty năm 2000, bà chuyển tới vùng Le Marche, Italy và bắt đầu viết lách. Rachel từng xuất bản các tiểu thuyết Only the Innocent (Chỉ là  kẻ vô tội), The Back Road (Lối sau) và Sleep Tight (Say ngủ). *** Cô gái mỉm cười lúc rời khỏi quán rượu đông nghẹt, ồn ào, những tiếng cười vẫn văng vẳng bên tai khi cô chật vật mở cánh cửa nặng trịch, để một luồng khí lạnh buốt ùa vào. Cô quay người và hét lên, “Đêm!” với bất kỳ ai có thể đang dõi theo mình, một vài cánh tay giơ lên chào tạm biệt, nhưng hầu hết còn đang bận giữ những ly bia, hoặc khua múa loạn xạ để nhấn mạnh một phần nào đó trong câu chuyện thú vị mới nhất đang được chia sẻ với bất kỳ ai sẵn sàng lắng nghe. Cánh cửa đóng sầm lại sau lưng cô, chặn hết thứ ánh sáng màu vàng ấm áp cùng những âm thanh hân hoan của đám người trẻ tuổi đang vui thú. Đêm đen bủa xuống xung quanh cô và sự im lặng đột ngột ập tới như một cú đòn hiện hữu. Trong khoảnh khắc, cô đứng im bất động. Rùng mình trước cái rét đầu đông, cô siết chặt khăn quàng xung quanh cổ và khoanh hai cánh tay, co ro ôm lấy mình tìm hơi ấm. Cô thật sự sẽ phải tìm lấy một chiếc áo choàng mình thấy đủ ưa thích để mặc trong những dịp ra ngoài buổi tối. Mỉm cười trước ý nghĩ phù phiếm đó, cô tự nhủ chỉ mất có mười lăm phút đi bộ để về đến căn hộ của họ, cho nên nếu rảo bước thì chẳng mấy chốc cô sẽ được ấm áp. Không gian im lặng tạm thời bị gián đoạn khi cánh cửa quán rượu bật mở một lần nữa, ánh đèn từ phía trong hắt quầng sáng màu hổ phách ngang qua vỉa hè ẩm ướt. Cô nghĩ mình đã nghe thấy tiếng ai đó hét gọi tên cô, át cả tiếng nhạc ầm ĩ phát ra từ quán rượu ấm áp, nhưng cánh cửa đã đóng sập, tất cả lại chìm vào im lặng. Tại khu vực này của Manchester, vẫn còn vài người đang vội vã rảo chân, mất hút theo những con đường nhánh dẫn về nhà họ. Thời tiết khốn khổ và cái lạnh tê tái đầu mùa có vẻ đã giữ chân mọi người trong nhà tối nay, ai có thể oán trách họ được chứ? Phía trước cô vài thước, một cặp đôi đang dừng lại hôn nhau, cô gái choàng cánh tay quanh cổ chàng trai, đứng kiễng mũi chân lên, áp toàn bộ cơ thể mình vào người yêu, đêm tối dường như ấm áp hơn. Cô lại mỉm cười khi nhìn họ, nghĩ rằng khi yêu cảm giác thật tuyệt vời làm sao. Cô và bạn trai chỉ mới dọn về ở với nhau gần đây, cô chưa bao giờ hạnh phúc được như vậy. Cô đi đến chỗ giao với con đường chính, đợi ở chỗ băng qua đường. Không có nhiều xe cộ, nhưng đây là một trong những trục đường chính ra vào Manchester nên nó chẳng bao giờ hoàn toàn yên ắng cả. Cô hối hả băng qua khi đường phố quang hẳn, tiến về phía những con phố yên ắng hơn ở mé bên kia, rời xa dần những khu nhà cùng căn hộ hiện đại. Cô đã mừng run lên khi họ tìm được một căn hộ trong một ngôi nhà kiểu Victoria thời xưa - toàn bộ tầng trệt là của họ, mặc dù vẫn còn hơi nhếch nhác, song họ đang thu vén dần. Tuyệt vời nhất là nó lại nằm trên một trục đường có hàng cây xanh rất thanh bình, nhờ thế mà từng ngôi nhà đều trông có vẻ rất riêng tư. Cô rẽ vào con đường đầu tiên. Khu công viên nhỏ bên tay phải thường rất đông trẻ con chơi đùa, nhưng lại vắng tanh vào giờ này buổi tối, chuyển động duy nhất là từ một chiếc xích đu lẻ loi đang đung đưa nhè nhẹ, không hề phát ra tiếng. Đôi giày đế bằng của cô gõ nhè nhẹ trên vỉa hè, cô có cảm giác rất lạ như thể mình đang bị tách ra khỏi phần còn lại của thế giới. Cô liếc về phía ô cửa sổ của những ngôi nhà mình đi qua, nhưng hầu hết trong số chúng đều đã bị những bờ giậu cao chắn khỏi tầm nhìn, còn những chỗ cô có thể thấy được đều tối đen, chỉ có hình phản chiếu vô hồn của những ngọn đèn đường làm cho những căn phòng phía sau dường như vắng vẻ một cách kỳ quái. Cái cảm giác rằng mình không hề một mình len đến trong cô. Không phải một khoảnh khắc riêng rẽ - tiếng lẹt xẹt của một chiếc giày, thấp thoáng một bóng đen - khiến cô có cảm giác ấy. Mà là một thứ gì đấy hoàn toàn khác. Là cảm giác đôi mắt ai đó đang xoáy vào lưng mình. Cô chỉ biết như vậy. Người cô cứng đờ, mọi đầu dây thần kinh đều râm ran. Cô có nên vùng chạy không? Hay như thế sẽ là tín hiệu cho kẻ kia đuổi theo, tóm lấy cô? Cô có nên rẽ vào lối chạy xe của nhà ai đó? Nhưng gã có thể bắt kịp cô trước khi cô đến được cửa nhà. Hay sẽ tốt hơn nếu gã biết cô đã nhận ra gã? Nếu cô quay lại nhìn, liệu có thôi thúc hắn phản ứng lại hay không? Cô không biết nữa. Nhưng gã ở đó. Chỉ là cô không biết gã đang ở gần cô đến mức nào. Không hề suy nghĩ, cô xoay đầu thật nhanh. Đường phố vắng tanh. Gã không ở phía sau cô ư? Nhưng gã đang ở đâu đó, cô chắc chắn là vậy. Cô liếc nhìn qua bên kia công viên và nghĩ đến chiếc xích đu đung đưa. Gã có thể đang đi sát bên cô, nấp sau những bụi cây dọc vỉa hè tối om, không một ánh sáng. Tâm trí cô vụt nhớ đến một chuyện đã xảy ra lúc trước, cũng trong buổi tối nay. Xen giữa tất cả những tiếng cười và không khí vui vẻ ở quán rượu, có một khoảnh khắc cô đã cảm thấy không thoải mái. Cô đã xoay tròn rất nhanh trên chiếc ghế đẩu ở quầy rượu, gần như mong chờ sẽ nhìn thấy sự hiện diện của một gã đàn ông không quen biết đứng cách sau lưng cô chỉ vài phân. Nhưng chẳng hề có ai cả; thậm chí không có ai đang nhìn cô. Cô cố xua cái cảm giác đó đi, để cho sự vui vẻ của buổi tối lấn át cơn rùng mình ớn lạnh vì bất an và rồi dập tắt nó. Nhưng nó vẫn như vậy. Chính xác thì đó là những gì cô đang cảm thấy lúc này. Ngay phía trước là một lối vào công viên. Nếu gã ở trong đó và đang tới gần để tóm lấy cô thì đây chính là chỗ gã sẽ ra tay. Cô có vài giây để đưa ra một kế hoạch. Cô sẽ hành động như thể chẳng có gì phải lo lắng, đến khi tới ngang với cổng vào, cô sẽ bỏ chạy. Và nếu phải làm như vậy, cô sẽ hét thật to. Chỉ hai bước nữa thôi, cô sẽ đến được chỗ đó. Cô buông thõng hai tay, thả xuống hai bên sườn. Cô có thể nhìn thấy góc đường nhà mình ngay phía trước, nhưng thậm chí chỗ đó còn tối hơn, những thân cây đan kết dày kịt vốn rất được yêu thích hắt bóng đen xuống vỉa hè chật hẹp, mớ cành cây đen đúa trơ trụi của chúng lẫn vào bầu trời đêm. Một, hai - và chạy. Cô không dám liều liếc nhìn cánh cổng mở toang của công viên, cũng không thể nghe thấy tiếng ai đang bám đuổi theo mình do tiếng bàn chân giậm thình thịch cùng tiếng thở hổn hển của cô. Nhưng khi cô chỉ còn cách góc phố mười mét thì mọi chuyện xảy ra. Cô đã gần tới được đó, gần như đã về được đến nhà, gần như đã an toàn. Một bóng đen trồi ra từ phía sau cái cây đen đúa cuối cùng, đứng im bất động, hai chân xoạc rộng ra, đang chờ đợi để tóm lấy cô. Mời các bạn đón đọc Say Ngủ của tác giả Rachel Abbott.
Ba Bộ Mặt Của I-A-Nút
Xta-nhi-xlap Ga-ga-rin BA BỘ MẶT CỦA I-A-NÚT Truyện tình báo Liên Xô Người dịch: Nguyễn Thụy Láng NHÀ XUẤT BẢN THUẬN HÓA HUẾ - 1987 Số trang: 240 Dịch từ nguyên bản tiếng Nga BA BỘ MẶT CỦA I-A-NÚT Báo Tiểu thuyết - Tháng 6-1984 àu ngầm «Van-ki-ri-a» mất tích Vào tháng sáu năm 1944, chiếc tàu ngầm của hải quân Đức mang tên Van-ki-ri-a bị mất tích. Khi thời hạn thẩm tra kết thúc, thì ở căn cứ hải quân, nơi chiếc tàu ngầm Van-ki-ri-a có trong danh sách, các tàu khác đã treo cờ rủ và các sĩ quan đều mang băng tang. Ban tham mưu xếp nó vào danh sách các tàu ngầm và thủy thủ bị mất tích, còn người thân của các thủy thủ thì được biết là họ đã hy sinh anh dũng trong một trận chiến đấu với kẻ thù của nước Đức vĩ đại. Ít người được biết số mệnh thật sự của chiếc tàu ngầm này. Hành trình các chuyến đi kéo dài của nó người ta lại càng biết ít hơn. *** Một người dáng vóc vạm vỡ, bắp thịt nở nang, da rám nắng, từ biển bước lên bãi tắm óng ánh cát vàng, gạt những giọt nước đọng trên mình rồi thủng thẳng đi dọc theo mép nước. Giờ này trên bãi tắm Ca-pa-ca-ban ở Ri-ôđơ Gia-nê-rô chỉ có ít người. Từ Đại Tây Dương, từng luồng gió mát thổi vào sâu trong lục địa xô bạt luồng khí nóng oi bức đang bốc lên từ những con đường rải nhựa của thành phố. Hắn ta đứng lại, lấy chân hất chiếc vỏ ốc nửa chìm nửa nổi trong cát. - Chào Ghéc-man! Người đàn ông đứng tuổi có bộ râu hung hung kiểu thủy thủ với thân hình rắn chắc cất tiếng chào. Y đang nằm ngửa cách Ghéc-man chừng dăm bước và bây giờ lật sấp, chống khuỷu tay nhỏm dậy, đưa tay che mắt cho khỏi bị chói nắng. - Chào bác sĩ Dên-khốp! Ghéc-man đáp lại rồi ngồi xuống cát bên cạnh y. - Anh đến muộn 15 phút đấy. - Có một chuyện hoàn toàn tình cờ, thưa bác sĩ. Ghéc-man nói. - Khỏi cần chi tiết. Ta hãy nói vào việc đi. Mong sao anh tránh khỏi được mọi chuyện tình cờ, chàng trai ạ. - Thuyền đã đến vào đêm qua. Đội thủy thủ đã được bố trí ngay tức khắc, và bây giờ chắc là đang vung tiền vào tiệc rượu chè. Trên thuyền chỉ còn lại thuyền trưởng và một gã Mê-hi-cô tên là Pê-rết. - Thế gã Pê-rết này làm việc ra sao? - Một chàng trai đáng tin cẩn. Có thể trông cậy vào anh ta. - Bọn họ chỉ có hai người thì không thể đưa thuyền ra khỏi cảng được! - Vâng, tất nhiên, nhưng tôi đã chuẩn bị thêm hai người nữa. Ghéc-man trả lời. - Hãy thận trọng đấy ! Đừng quên rằng chính phủ nước này, về hình thức, đang theo con đường trung lập. - Tôi hiểu ngài. Thưa bác sĩ. Cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra ở đâu ạ? - Ở vuông 27-15. Các anh cần phải có mặt ở đấy từ 23 giờ đến nửa đêm. Tín hiệu - pháo lửa đỏ để mọi góc độ nhìn thấy rõ và ở phía dưới là những đốm sáng xanh. Anh sẽ bắn pháo hiệu. Họ sẽ tự tìm đến chỗ anh. Mật khẩu của họ «Chào buổi sáng». Anh sẽ trả lời: «Địa bàn bị hỏng, bây giờ đêm nào cũng lạnh». - Tất cả đã rõ. Ngay đêm nay ạ? Ghéc-man hỏi. - Chính đêm nay. Hàng chở trên tàu là bao nhiêu? - Một trăm sáu mươi tấn - Ghéc-man trả lời. - Một trăm tấn ở dạng thỏi, còn lại là tiền đúc. Bác sĩ Dên-khốp cau mày. - Phải đúc lại tất cả. Với những số tiền đúc ấy thì nguy hiểm hơn đấy. Ghéc man nhún vai. - Đấy không phải là điều quan tâm của chúng ta, thưa bác sĩ. - Ghéc-man đáp... - Phải. - Dên-khốp xác nhận. - Thôi, đi đi, Ghéc-man! Trước tiên hãy xuống nước, sau đó lên bờ, ở đâu thì tùy ý. Ban ngày hãy nghỉ ngơi đi. Đêm nay anh phải đứng trước một công việc khó khăn nặng nề đấy. Hãy nhớ nhé: Ô vuông 27-15. *** Con cá Ma-rơ-lin to lớn lao nhanh vào tấn công. Đàn cá chuồn vọt lên, bay trên mặt nước, giương những cặp vây dài lướt sẹt trong màn đêm dày dặc để thoát nạn... Một lúc sau chúng lại hạ xuống nước. Chỉ còn một con vì bay cao hơn cả đàn nên không trở về với biển được. Bị mắc vào kính tiềm vọng, nó rơi xuống dưới chân những người đang đứng trên cầu tàu, chút nữa làm rơi chiếc mũ lưỡi trai của viên chỉ huy tàu. - Đồ dơ dáy! - Viên chỉ huy rủa rồi lấy chân hất con cá chuồn vào một góc. - Nửa giờ nữa là đến hẹn! - Tê-ô-đo Phôn Bết-man nhận định. - Anh tin rằng chúng ta đang ở đúng địa điểm đã định chứ? - Viên chỉ huy hỏi. - Hoàn toàn tin chắc. - Tốt. Chúng ta chờ đợi vậy. Chiếc tàu ngầm Van-ki-ri-a đã tắt đèn, đậu đúng ô vuông 27-15 trong tư thế chiến đấu: thân tàu dài và hẹp ẩn chìm dưới nước, chỉ có buồng chỉ huy, như một mỏm đá ngầm, nổi mập mờ trên mặt nước khó mà đoán nổi trong đêm tối. Địa điểm chúng ta đậu đúng trên chí tuyến Ma-kết. Viên thuyền phó thứ nhất phá tan sự im lặng. Trong khi đó chiếc thuyền «Ô-ri-nô-cô» đang tiến đến địa điểm hẹn. Vài giờ trước, dưới sự chỉ huy của Han-xơ Đrê-vít, một người Đức sinh ra ở Ác-hen-ti-na, con thuyền rời cảng Ri-ô đơ Gia-nê-rô ra khơi. Các nhà chức trách trên cảng theo thông báo của viên thuyền trưởng đã nhận xét trong các giấy tờ: cảng đến là Xan-tô Ca-ra-vê-lốc; hàng chuyên chở là máy khâu, đoàn thủy thủ gồm năm người. Đứng bên cạnh viên thuyền trưởng trên mạn tàu là người giúp việc có vẻ mặt rầu rĩ, đó là Pê-rết, mà trước đây theo lời đồn là một tên cướp sừng sỏ, gốc Mê-hi-cô. Ở đây còn có cả Ghéc-man và hai thủy thủ bỏ trốn từ chiếc tàu thủy Ác-hen-ti-na vì bị cám dỗ bởi viễn cảnh sẽ kiếm thêm chút đỉnh trong chuyến đi này. Tên chúng là Jô và Lu-ít. Trên thuyền gắn một máy nổ công suất lớn. Giờ đây, thuyền Ô-ri-nô-cô đang đi vào ô quy định, viên thuyền trưởng và Ghéc-man nhìn về phía trước. Pê-rết đứng bên tay trái, các thủy thủ đang chơi xúc xắc trong buồng của họ. - Có lẽ ta đã đến địa điểm - Viên thuyền trưởng nói và cho thuyền chạy chậm lại. - Dừng máy và chuẩn bị lửa hiệu. Mười lăm phút nữa chúng ta sẽ bắt đầu. Trên bầu trời, một phát pháo hiệu đỏ bùng lên như một ngôi sao và phía dưới nó nhấp nháy một đốm lửa xanh. *** - Lẽ ra đã đến lúc họ phải xuất hiện. Viên chỉ huy tàu ngầm Van-ki-ri-a vừa càu nhàu vừa đưa chiếc đồng hồ dạ quang lên tận mắt. - Mới quá có 10 phút. Phôn Bết-man trả lời - có thể họ đến muộn. - Thế anh tin chắc rằng chúng ta đang ở đúng vị trí ta phải có mặt chứ? - Viên chỉ huy hỏi lại. Tê-ô-đo Bết-man nói với vẻ bực mình: - Tôi đã đích thân kiểm tra lại những tính toán của hoa tiêu. Chính ông cũng có thể thấy rõ được điều đó. - Tôi đã thấy các đốm lửa rồi! - Tên nhận tín hiệu kêu lên. - Không thể nói khẽ hơn được à! - Viên chỉ huy càu nhàu - các anh không phải đang đi dạo chơi ở ngoại ô đâu nhé. Đứng bên bánh lái đi. Việc chuyển các hòm nặng từ thuyền lên tàu ngầm kéo dài đến tận lúc rạng đông. Tham gia vận chuyển có đoàn thủy thủ của cả hai chiếc tàu và thuyền. Pê-rết đã hai lần xuống tàu ngầm và trở về với một chai rượu vốt-ca chính phẩm trên tay. Trong một lần đi như vậy, chớp lấy thời cơ khi trong khoang không có ai. Pê-rết đã nhanh như cắt rút từ trong áo khoác ra một hộp kim loại dẹt to như hộp thuốc lá, cúi xuống nhét dưới một ống chạy dọc theo boong tàu Van-ki-ri-a. Đến sáng, tất cả các máy khâu đã nằm gọn trong chiếc bụng thép của tàu Van-ki-ri-a. Ghéc-man lên cầu tàu nói thầm vào tai viên chỉ huy khoảng 5 phút, sau đó trở về thuyền Ô-ri-nô-cô. Các thủy thủ tàu Va-ki-ri-a tháo dây buộc, và cả tàu lẫn thuyền đều tiến theo các hướng khác nhau. - Chúng ta đi lên phía bắc chứ, thuyền trưởng? - Ghéc-man nói - đến Rê-xi-phi, Pê-rết hãy đứng lên bánh lái đi. Ta muốn ứng tiền trước cho mấy anh bạn này. Ê! Jô, Lu-ít! Các thủy thủ đang ngồi trong khoang thuyền, buông thõng những cánh tay rã rời vì khuân vác từ đêm đến giờ, nặng nề đứng dậy đi về phía Ghéc-man đang đứng bên cửa buồng điều khiển. - Các chàng trai ơi, các anh giỏi lắm - Ghéc-man nói - các bạn nghĩ sao về một hớp rượu ngon và mấy đồng tạm ứng? Jô, một lên lai lực lưỡng, cười sung sướng và nhảy cẫng lên ở trên boong. - Tốt quá, thưa ông chủ, tốt quá! - Hắn nói. Lu-ít, một tên Ấn Độ bán thuần chủng có thân hình dài ngoằng và gầy gò, mỉm cười rụt rè. - Các bạn, hãy cầm lấy rượu và tiền đây này! Và có thể nghỉ ngơi được! - Ghéc-man nói. Các thủy thủ xoay lưng lại, sánh vai nhau đi về buồng thủy thủ ở phía mui thuyền. Ghéc-man nhìn viên thuyền trưởng đang đứng bên chiếc cửa sổ mở của buồng điều khiển, hắn đưa mắt về phía tấm lưng to bè của Lu-ít và dùng tay trái lấy khẩu súng máy trong chiếc tủ con ra. Những tiếng nổ vang lên liên tiếp. Lu-ít khựng lại, ngã sấp mặt xuống boong, co giật rồi hết cựa quậy: chai rượu từ từ tuột khỏi tay hắn. Viên đạn làm cho Jô sững lại dường như có một bức tường bỗng hiện lên trước mặt hắn. Hắn đứng sững trong giây lát, không nhúc nhích và thế là Ghéc-man lại nâng khẩu súng máy lên một lần nữa. Chỉ có điều hắn chưa kịp bắn thì Jô đã đột ngột quay ngoắt lại, đôi mắt mất hết thần sắc, nhìn thẳng, tiến về phía Ghéc-man đang giương súng. Jô tiến lại gần, còn Ghéc-man thì giật lùi về buồng điều khiển. Cuối cùng, trong buổi sáng yên tĩnh của biển khơi vang lên những tiếng nổ chát chúa của loạt súng máy, những viên đạn từ nòng súng bay ra cắm ngập và xé nát tấm ngực nở nang của tên lai. Hắn bước thêm được một bước cuối cùng, rồi thở khè khè đứt đoạn: - Ông... chủ... sao... lại… *** Hành trình của chiếc tàu ngầm hải quân Đức Van-ki-ri-a trong một thời gian được thực hiện trên mặt nước. Sau đó, viên chỉ huy ra lệnh bắt đầu lặn, vì tàu đi ngang qua khu vực nhiều tàu bè và thủy thủ tàu ngầm Đức không muốn để một ai phát hiện ra mình. - Tê-ô-đo, tôi sẽ ngủ chừng hai tiếng - viên chỉ huy nói với Phôn Bết-man - hãy cho tàu chạy về phía đảo Mác-tin Vác, từ đó ta sẽ rẽ về hướng xích đạo. Hai giờ nữa tôi sẽ thay ca cho anh. Tê-ô-đo suy nghĩ về những điều ngang trái mà số phận đã ném hắn - một sĩ quan tàu ngầm xuất sắc - vào cái hộp thép nhét đầy những máy khâu để thay thế cho những quả thủy lôi khủng khiếp. Tê-ô-đo Phôn Bết-man, tất nhiên hiểu rằng món hàng này quan trọng đối với nước đại Đức biết chừng nào. Nhưng công việc của hắn là đánh chìm các tàu địch chứ không phải là lẩn tránh giữa đại dương trên chiếc tàu ngầm không có máy phóng ngư lôi. Hắn liếc nhìn đồng hồ, mắng nhiếc tên cầm lái đã làm tàu lệch hướng mất 3 độ và lom khom chui qua những chiếc cửa hình ô-van của các ngăn buồng đi đến ca-bin. Song, Tê-ô-đo Phôn Bét-man đã không kịp tới đó. Một luồng khí nén từ phía sau xô hẳn ngã chúi xuống, đập cằm vào khung cửa. Hắn thấy đau ở cằm. Sau đó, viên thuyền phó thứ nhất không còn cảm thấy được gì nữa. Tên cầm lái ở vị trí trung tâm thấy lớp vỏ bọc có một chỗ bị bung vào phía trong và một dòng nước đen ngòm cuồn cuộn chảy về phía hắn rồi cuốn lấy hắn, vò xé hắn và dìm hắn chết ngập. Viên chỉ huy cũng chết ngập trong nước không kịp dậy. Các thủy thủ trong khoang mũi của tàu thì còn sống sót được một ít vì tiếng nổ làm cho chiếc tàu đứt làm đôi, nhưng phần mũi vẫn còn đủ kín. Chiếc quan tài bằng sắt vừa nhào lộn vừa chìm sâu xuống đáy đại dương, và ở đây nó bị một lớp nước dày chừng 300 mét đè lên. Chừng nửa dặm về bên phải, chiếc tàu chở hàng đang chạy từ Ri-ô Grăng đi Môn-rô-via thấy một vòm nước nổi lên lóng lánh dưới ánh mặt trời. Cột nước chùng chình giây lát rồi sau đó vỡ tung ra, gây nên sự kinh hoàng cho đoàn thủy thủ của chiếc tàu Bra-xin mang tên «Xao-pao-lô». Khoảng đen lấp lánh các màu lan rộng ra ở ngay chỗ vòm nước đã biến đi. Con tàu quay mũi đến gần nó, hạ xuồng, bắt đầu lượm lặt những mảnh vỡ và xác chết bị tung lên cùng với những bóng nước bị vỡ ra trên mặt biển. Bấy giờ là thời chiến và thuyền trưởng tàu «Xao- pao-lô» cấm không được báo tin về sự kiện đã xảy ra. Viên thuyền trưởng cố xác minh quốc tịch của những xác người đã được thủy thủ mình vớt lên, nhưng việc đó không thể được. Chẳng có giấy tờ gì, chẳng một dấu hiệu nào ngoài những dấu hiệu về chủng tộc. Ông ta không tìm được gì hết. *** Chiếc tàu ngầm «Van-ki-ri-a» bị mất trong tình trạng bí ẩn đối với các nhà chỉ huy Đức, nó chở 160 tấn ni-ken dưới dạng thỏi cùng với tiền đúc của Mỹ và Ca-na-đa. Ni-ken - một kim loại ánh bạc có giá trị bậc nhất trong bảng tuần hoàn của Men-đê-lê-ép với ký hiệu 28, là kim loại khó nóng chảy, cứng và không bị biến đổi trong không khí. Ni-ken trở thành một vấn đề nan giải đối với nước Đức cũng như nhiên liệu và còn có thể nan giải hơn. Dầu sao thì dầu lửa còn có thể thay thế được. Còn ni-ken thì không. Thiếu ni-ken không thể có vỏ thép. Thiếu vỏ thép không thể có xe tăng. Thiếu xe tăng thì không chiến thắng nổi trên những chiến trường của đại chiến thế giới lần thứ II. Thiên nhiên đã bớt xén, không cho nước Đức đủ ni-ken. Ở thung lũng sông Ranh chỉ có một trữ lượng ni-ken không đáng kể. Phần lớn ni-ken nước Đức phải mua của Ca-na-đa. Chiến tranh bắt đầu và nước Đức bị mất đi nguồn ni-ken từ Ca-na-đa. Hít-le chiếm được Hy-lạp và cùng với nó là các mỏ ni-ken. Nước chư hầu Phần Lan mở rộng cửa các mỏ ni-ken ở miền Bắc tại vùng Pết-xa-mô cho người Đức. Ở đó có các tù nhân và tù binh làm việc. Cả một quân đoàn SS đảm nhận bảo vệ các hầm mỏ và đảm bảo khai thác, liên tục loại quặng pyrit đỏ có hàm lựợng ni-ken và gửi về các nhà máy luyện kim ở Đức. Khi xe tăng T-34 của Liên Xô xuất hiện trên các chiến trường, các chuyên viên Đức kinh ngạc bởi độ bền của vỏ thép các xe tăng dó. Theo mệnh lệnh từ Béc-lin, chiếc xe tăng T-34 đầu tiên chiếm được đã được đưa về Đức. Ở đây, các nhà khoa học đã phân tích vỏ thép của nó. Họ xác định rằng vỏ thép của xe tăng Nga có một tỷ lệ ni-ken cao và do đó vỏ thép này cực kỳ bền vững. Việc thiếu ni-ken trong vỏ thép đã dẫn đến tình trạng là cho đến năm 1944, các nhà máy quốc phòng của Đức quốc xã phải sản xuất xe tăng vỏ dày hơn bình thường. Nhưng ngay vỏ như vậy vẫn dễ bị phá vỡ và các xe tăng «con hổ» «con báo» «phéc-đi-năng» rõ ràng là nặng nề hơn và yếu thế hơn các xe tăng và xe tự hành của Liên Xô. Ni-ken và ni-ken! Cần nhiều ni-ken hơn nữa! Mời các bạn đón đọc Ba Bộ Mặt Của I-A-Nút của tác giả Xta-nhi-xlap Ga-ga-rin.
Ác Mộng Ven Hồ
Gina Royal là một phụ nữ bình dị sống cuộc sống êm đềm bên chồng và hai đứa con thơ tại vùng Wichita, tiểu bang Kansas. Thế giới của cô bỗng đảo lộn hoàn toàn vào ngày nọ, khi cô lái xe đưa các con đi học về thì phát hiện một chiếc xe hơi đã tông vào bức tường gara nhà cô, để lại một khoảng trống hoác đồng thời phơi bày bí mật kinh hoàng: một thi thể phụ nữ chết trong tư thế bị treo cổ. Gia đình Gina bỗng chốc rơi xuống vực thẳm. Để sinh tồn, cô buộc phải trốn chạy, bỏ đi mọi thứ mình từng có, những mong làm lại cuộc đời. Gina cuối cùng tìm được bến đỗ tại ngôi nhà nhỏ bên hồ Stillhouse. Nhưng hy vọng mới còn chưa kịp bén rễ thì cuộc đời một lần nữa đẩy cô đến bờ vực khốn cùng. Cô phải làm thế nào để giữ được sự tỉnh táo trong trò chơi ú tim của kẻ giết người đã hiểu rõ cô và cô cũng hiểu hắn rất rõ? Phải làm thế nào để vừa giữ an toàn cho các con, vừa phải gìn giữ sợi dây tình cảm mong manh với hai đứa trẻ tuy còn nhỏ mà đã phải chịu quá nhiều thương tổn?  Là tập đầu tiên trong series trinh thám Stillhouse gồm ba cuốn, cùng với Con lạch chết chóc và Dòng sông hắc ám, Ác mộng ven hồ sẽ đưa người đọc cùng Gina trải qua hành trình đi tìm sự thật với vô vàn ngã rẽ cùng những nút thắt mở bất ngờ đến phút chót. ----- Về tác giả Rachel Caine Rachel Caine là một trong những tác giả ăn khách nhất thế giới với hơn năm mươi đầu tiểu thuyết nằm trong danh sách bán chạy, bao gồm hai series truyện dành cho tuổi thiếu niên là Ma cà rồng vùng Morganville và Đại Thư viện. Các dòng sách bà theo đuổi gồm có: tiểu thuyết giật gân, huyền bí, kỳ ảo hiện đại, khoa học viễn tưởng và tiểu thuyết siêu linh dành cho giới trẻ. Bà hiện sống cùng gia đình tại Fort Worth, bang Texas, Mỹ. *** Ác mộng ven hồ Tác giả: Rachel Caine. Dịch giả: Ngụy Thanh Tuyên Thể loại: Trinh thám hiện đại phương Tây, hồi hộp Gwen Proctor là người mẹ đơn thân của hai đứa trẻ, con gái lớn 14 tuổi đang trong thời kỳ nổi loạn, con trai nhỏ 11 tuổi tương đối hiểu chuyện và biết quan tâm đến chị gái. Gwen cũng là học viên xuất sắc tại trường dạy bắn súng cạnh vùng hồ Stillhouse thuộc bang Tennessee. Ngôi nhà của họ tọa lạc ở nơi có phong cảnh rất nên thơ, nhưng Gwen giữ thái độ xa cách và hết sức thận trọng với hàng xóm. Cô ép mình tập luyện gắt gao những bộ môn tự vệ nhằm cố gắng duy trì tinh thần ổn định và giữ tính mạng cho bản thân và hai đứa con. Cách đây bốn năm, Gwen từng là người phụ nữ nội trợ hạnh phúc có chồng làm thợ mộc, cuộc sống vô tư vô lo trôi qua từng ngày, cho đến khi một tài xế say rượu tông vỡ nát bức tường garage nhà cô, làm lộ ra thi thể một phụ nữ chết trong tư thế bị treo cổ. Tôi định chọn “Ác mộng ven hồ” làm một quyển trinh thám đọc chơi vào cuối tháng 9, không nghĩ rằng nó cuốn hút như thế này, khiến tôi bỏ ngủ và đọc hết trong vòng chưa đến hai ngày. Cuốn sách khiến tôi liên tưởng nhiều đến quyển “Săn đuổi đến cùng” (Lisa Gardner), cả hai cuốn đều đưa độc giả hoàn toàn rơi vào bầu không khí căng thẳng nhiều phần tối tăm của câu chuyện, hồi hộp theo từng hành động của nhân vật, sợ hãi với diễn biến kịch tính của truyện. Cả hai cuốn cũng không nhấn mạnh lắm vào vai trò của cảnh sát, nhân vật chính không thuộc giới thi hành pháp luật, họ chỉ vô tình rơi vào vòng xoáy tội ác và phải nỗ lực bằng cả tính mạng để giải thoát chính mình + người thân. Ngay phần mở đầu của “Ác mộng ven hồ” đã có cảnh khiến tôi sợ. Nếu là vài năm trước thì tôi đã không dám đọc tiếp, nhưng nay bớt nhát rồi, thêm nữa là cách viết của tác giả quá cuốn hút nên tôi đánh liều đọc đến hết, và khá ưng ý với quyển sách này. “Ác mộng ven hồ” không có những câu tả cảnh hữu tình hay những lời thoại chứa đầy kiến thức tâm lý ứng dụng như trong truyện của Lee Child hoặc Baldacci, cách viết của Rachel Caine khiến tôi nghĩ đến Tử Kim Trần: miêu tả rõ ràng gãy gọn, tập trung vào nhân vật và hành động, rất thực tế nhưng không khô khan, cảm giác như không có chữ nào dư thừa. Thêm một lý do khiến tôi thích cuốn này là vì tác giả không đưa vào quá nhiều tình cảm lãng mạn, thay vào đó, chất trinh thám tỉnh lạnh và đậm đặc hoàn toàn làm hài lòng các độc giả trinh thám. Suốt quá trình đọc, tôi cảm nhận sâu sắc rằng Rachel Caine đúng là một tác giả NỮ viết cho bạn đọc NỮ, vì nội dung truyện nhấn mạnh vào diễn biến tâm lý của một phụ nữ trẻ, cách cô ấy bảo vệ con như một loài thú dữ, cách cô ấy so sánh người đàn ông trong hiện tại và người đàn ông của quá khứ, cách cô ấy vận dụng toàn bộ sức mạnh yếu ớt của nữ giới để chống lại kẻ xấu… Không biết những cuốn khác trong loạt truyện “Stillhouse” thì sao nhưng sau cuốn này thì tôi kết luận mình thích truyện của Rachel Caine. Có một số truyện trinh thám tôi từng đọc qua đề cập đến tác hại của Internet đối với cuộc sống con người, chẳng hạn như “Cây thập tự ven đường”, “Dữ liệu tử thần”, “Sát nhân mạng” (cả ba truyện vừa nêu đều của tác giả Jeffery Deaver). “Ác mộng ven hồ” cũng tương tự như vậy. Trước khi đọc cuốn này, tôi chưa từng tưởng tượng vợ con của một kẻ sát nhân sẽ nhận được thái độ đối xử như thế nào từ công chúng? Thông cảm, hay thờ ơ không quan tâm? Trái với lầm tưởng ngây thơ của tôi, mức độ thù hằn đổ lên đầu họ còn gấp nhiều lần đổ lên chính kẻ sát nhân. Họ chỉ là phụ nữ và trẻ con, và dù vô tội, họ vẫn bị những tay anh hùng bàn phím vô nhân tính thiếu não đe dọa bằng những từ ngữ tục tĩu dơ bẩn, những hành động tiểu nhân bỉ ổi. Trong truyện có nhiều câu, nhiều đoạn rất thấm thía mô tả suy nghĩ của Gwen Proctor khi cô và các con phải nhận lấy những lời lẽ / những cách cư xử mà họ hoàn toàn không đáng phải chịu. Tuy hiểu rằng người sử dụng Internet không phải toàn người xấu, nhưng quyển sách này vẫn đem đến cho tôi những góc nhìn mới, giúp tôi sáng mắt ra và từ nay thêm phần e sợ khi dùng Internet nói chung và mạng xã hội nói riêng. Thiết kế bìa rất hợp với tựa sách, lẽ ra tôi phải sợ nhưng tôi chỉ thấy bìa đẹp!, gợi liên tưởng đến bìa cuốn “Tiếng thét”của Hamanaka Aki. Phần dịch thuật xuất sắc, giúp cho việc đọc câu truyện càng trở nên dễ dàng và thú vị hơn đối với bạn đọc VN. Tuy có để ý tìm kiếm nhưng tôi không nhớ mình có gặp lỗi chính tả hay lỗi biên tập nào trong truyện hay không. Loạt truyện “Stillhouse” của tác giả Rachel Caine còn những cuốn khác gồm + Killman Creek: Con lạch chết chóc, đã được dịch tiếng Việt Còn những tựa sách sau thì tôi mạn phép tự dịch là + Wolfhunter River: Dòng sông săn sói + Bitter Falls: Thác nước đắng cay + Heartbreak Bay: Vùng vịnh tim vỡ Hy vọng những cuốn còn lại đều sẽ được dịch và xuất bản tiếng Việt. Bây giờ đọc tiếng Việt, vài năm sau nếu có cơ hội đọc lại nguyên tác tiếng Anh thì tôi nghĩ mình sẽ có thêm quãng thời gian tận hưởng những quyển sách thú vị này. *** (Sea, 29-9-2020) Cáo Biển Non Xanh Gina Royal có lẽ không tin nổi đến một ngày nọ gia đình hạnh phúc của cô lại rơi vào vực thẳm của bi kịch: Người chồng chung sống bao lâu nay thực ra là một thằng sát nhân bệnh hoạn! Tội ác của hắn chỉ thực sự lộ tẩy khi có 1 tai nạn hi hữu xảy ra ở gara, nơi hắn thường xuyên làm việc tại nhà. Gina bị cáo buộc đồng loã nhưng sau đó được tuyên trắng án. Để bắt đầu cuộc sống mới với 2 con, người phụ nữ này sẽ phải làm những gì? “Ác mộng ven hồ” là câu chuyện về hành trình chỉ có trốn chạy và trốn chạy của một người đàn bà yếu ớt không một tấc sắt trong tay. Rong ruổi hết bang này sang bang nọ với những thân phận mới. Mục đích của cô là để đem lại nơi chốn an toàn và ổn định cho các con của mình. Có vẻ định mệnh đã sắp đặt cô dừng chân lại ở vùng Hồ Stillhouse, bang Tenessa. Nhưng vì sao toà đã tuyên án vô tội mà Gina Royal vẫn phải chạy trốn ko ngừng? Nói đến đây tôi lại nhớ về “Thư” của Higashino Keigo: Một kẻ phạm tội bị cầm tù 15 năm; và 15 năm đó cũng là ngần ấy ngày cuộc đời em trai của anh ta bị “cầm tù” ở phía bên ngoài song sắt. Gina có phần giống với người em trong câu chuyện ấy, chính xác thì cuộc đời của cô ngay cả khi chồng bị tống vào ngục vẫn ko thể ngóc đầu lên được, nhưng cô thê thảm theo một cách khác. Cả 3 mẹ con liên tục bị đe doạ tấn công, giết chết. Những thân nhân của các nạn nhân mà thủ phạm là gã chồng cũ không chấp nhận việc Gina vô tội, người ta tìm cách truy lùng họ để trả thù. Bọn cuồng tín tôn thờ chủ nghĩa man rợ phát tán các hình ảnh thoá mạ các con cô…Bằng một cách nào đó, chính người chồng đầu ấp tay gối đã “cầm tù” và bóp nghẹt cơ hội làm lại cuộc đời của vợ con mình. Một con thú khát máu trong vỏ bọc người chồng mẫu mực liệu có bao giờ nghĩ đến viễn cảnh đó hay không? Tôi đọc cuốn sách này nhanh và hoàn thành sớm hơn tôi tưởng. Đây là một cốt truyện gần như đè bẹp yếu tố trinh thám thuần mặc dù có đầy đủ yếu tố: người chết, cảnh sát, nghi phạm, điều tra. Xương sống của truyện tập trung về đời sống nội tâm và cách ứng phó của nhân vật chính với các diễn biến bên ngoài. Nhiều lúc cứ ngỡ như đây là một cuộc chiến sinh tồn, vì vai trò của Gina không khác gì một con mồi dễ triệt hạ. Tôi cũng thừa nhận rằng không ít lần tôi phát bực với nhân vật này. Nhu nhược và yếu đuối, thường tìm cách đổ lỗi cho bản thân mình, có phần hơi kém thông suốt tâm lý của con cái, bề ngoài thì luôn đề phòng nhưng kì thực rất dễ tin người. Tin mình đi, Gina dễ tin người vãi lá; không cần đọc đến đoạn tác giả lồng ghép vào về sau thì ngay từ ban đầu cũng thừa dữ kiện để nhận ra rồi. Nhưng suy xét kĩ thì tôi thấy cũng dễ hiểu. Gina sống với không một sự giúp đỡ và tâm trạng cảnh giác cao độ luôn luôn khiến cô mệt mỏi. Hoàn cảnh khắc nghiệt làm thay đổi tâm tính của cả cô lẫn 2 con. Cuộc sống của cô là chỉ cần bạn ngồi yên một chỗ, rồi tai hoạ và rắc rối cũng sẽ tự dưng tìm đến bạn. Gina không thông minh lên được là bao, nhưng mạnh mẽ thì có, sự mạnh mẽ chậm dần đều. Đơn giản Gina chỉ là một phụ nữ an phận hiền lành, không có kĩ năng va vấp ngoài xã hội từ trước. Nếu nói thứ cảm xúc nào rõ ràng nhất sau khi đọc xong cuốn sách này thì đó là sự phẫn nộ. Không những nạn nhân là nữ, chết thảm, mà đối tượng bị đổ lỗi ở đây cũng vẫn lại là phụ nữ; Luôn là phụ nữ. Một xã hội nhân danh diệt trừ cái ác nhưng không hiểu rõ bản chất cái ác. Kẻ tội đồ lại thành “ai-đồ”, có fandom sùng bái. Cái nhìn thiển cận của đa số con người trong xã hội đối với một cá nhân có vết đen là vấn đề không thể tránh khỏi, vì khó có người nào thật sự muốn bản thân mình buộc phải có trách nhiệm nhân ái và bao dung với đồng loại. Luật pháp trong câu chuyện này còn thua cả luật rừng. Tôi thấy nực cười nhất là đám cảnh sát. Thầm nghĩ có lẽ tác giả muốn gia tăng độ khó và mức độ hiểm trở cho hành trình của nhân vật chính nên suốt từ đầu đến cuối không có nổi lấy 1 tay nào thông minh nhạy bén Nếu không muốn nói là có mặt chắc chỉ để hằm hè đe doạ. Và cuối truyện thì chỉ cần nói “Tôi nợ chị cả một trời xin lỗi” xí xoá là xong! Tôi không chê tác phẩm này về mặt logic phá án, bởi vì nó quá mờ nhạt, không có gì để phân tích và suy đoán thì biết lấy gì ra để chê? Chẳng có gì khác ngoài một vài biểu hiện không thiện chí và gây khó dễ cho nhân vật chính, không cấu thành nổi dữ kiện để đặt nghi vấn ai là kẻ đứng sau. Và như đã nói từ trước là Gina ngây thơ vãi lá, hoặc nếu tác giả xem đó là thử thách gây bất ngờ cho độc giả phát hiện ra điều bí mật thì xem ra quá nhẹ nhàng. Vậy suy cho cùng, chạy trốn mãi vẫn không thể là giải pháp thực sự hữu hiệu, Gina buộc phải đối mặt và phải trở nên cáo già hơn. Chúng ta chờ xem ở phần 2, “Con Lạch chết chóc” có khởi sắc hơn phần 1 này hay không nhé? À mà phải nói thêm rằng gã chồng trong truyện cũng thuộc dạng bệnh nhất trong các loại bệnh. Các bạn đọc “Vỏ bọc hoàn hảo”- Lisa Gardner; “Những thiên thần mất tích”- Karin Slaughter; “Sau cánh cửa đóng”- B.A Paris dễ thấy hình ảnh tương tự nhưng đảm bảo không “bệnh” bằng Chồng của Gina đâu, mặc dù hắn chỉ xuất hiện qua sự hồi tưởng của cô là nhiều. Phần 1 kết thúc mở, phần 2 sẽ hứa hẹn gay cấn hơn. *** GINA ROYAL Wichita, bang Kansas Gina chẳng bao giờ hỏi tới cái gara. Ý nghĩ ấy sẽ khiến cô phải thao thức bao đêm ròng suốt nhiều năm về sau, làm mí mắt cô nóng ran, đùng đùng giật liên hồi. Lẽ ra mình phải hỏi. Phải biết. Nhưng cô đã không hỏi, cô không biết, và cuối cùng, chính điều đó đã hủy hoại cô. Thường thường, cô về nhà lúc ba giờ chiều, nhưng chồng cô gọi, báo rằng anh có việc gấp ở sở làm và cô phải tới trường đón Brady và Lily thay anh. Cũng chẳng vấn đề gì lắm, thật thế - vẫn còn vô khối thời gian để dọn dẹp nhà cửa trước khi nấu bữa tối. Anh tỏ ra rất đáng yêu và rối rít xin lỗi khi làm xáo trộn lịch trình của cô. Thực sự, Mel có lẽ là người đàn ông tốt nhất, hấp dẫn nhất trên đời và cô sẽ đền đáp cho anh; cô đã quyết định như thế. Tối nay, cô sẽ nấu món anh thích nhất: gan chiên bơ hành, uống kèm với vang pinot noir thượng hạng mà cô vừa lấy ra khỏi tủ và đang bày trên bàn bếp kia. Sau đó là buổi tối cả nhà quây quần, là ngả người trên sofa xem phim cùng lũ trẻ. Chắc sẽ là bộ phim siêu anh hùng mới ra mà bọn trẻ kêu gào đòi xem suốt mấy hôm nay, dẫu Mel rất kĩ tính với các thể loại phim ảnh cho trẻ nhỏ. Lily sẽ cuộn người lại như cục bông tròn nóng sực, rúc sát vào Gina, còn Brady nằm dài trong lòng bố, đầu gác lên tay ghế. Chỉ có những đứa trẻ dẻo người mới nằm thoải mái được như thế, nhưng đó là điều Mel yêu thích nhất trần đời: thời gian bên gia đình. Chậc. Điều yêu thích thứ hai, sau nghề mộc của anh. Gina hy vọng tối hôm nay anh sẽ không kiếm cớ ra ngoài và lại hì hục làm cái nọ, sửa cái kia trong xưởng mộc. Một cuộc sống bình thường. Dễ chịu. Không hoàn hảo - tất nhiên rồi. Chẳng ai có cuộc hôn nhân hoàn hảo cả, phải không nào? Nhưng Gina cảm thấy hài lòng, nói chung là thế. Cô rời nhà mới được có nửa giờ, đủ lâu để phi tới trường, đón bọn trẻ, và phóng trở lại nhà. Ôi trời! Ngộ nhỡ nhà ai bị cháy thì làm sao đây? Đó là ý nghĩ đầu tiên nảy ra trong đầu khi cô rẽ vào góc đường và thấy đèn hiệu nhấp nháy ở khu phố nhà mình. Cô đứng tim trước ý nghĩ đó, nhưng ở giây tiếp theo, giây phút ích kỷ, cô lại nghĩ: Thế này thì bữa tối muộn mất. Chuyện nhỏ nhặt là thế nhưng khiến người ta phát bực. Đường bị chặn hoàn toàn. Cô đếm thấy có ba chiếc xe cảnh sát đằng sau rào chắn, đèn chớp trên xe họ khiến những ngôi nhà gần như giống hệt nhau ở gần đó chìm trong màu đỏ lừ của máu và màu xanh tái của những vết bầm. Một xe cứu thương và một xe cứu hỏa nằm thu lu ở tít cuối đường, rõ ràng đang bị bỏ không. “Mẹ ơi?” Brady, cậu bé bảy tuổi đang ngồi ở ghế sau, hỏi. “Mẹ, có chuyện gì vậy mẹ? Là nhà ta ạ?” Giọng cậu có vẻ phấn khích. “Nhà mình cháy à mẹ?” Gina cho xe đi thật chậm và cố quan sát hiện trường: một bãi cỏ bị xới tung, một thảm lan diên vĩ bị san phẳng và mấy lùm cây bị nghiền nát. Một cái xác hộp thư móp méo vắt vẻo nửa trong nửa ngoài rãnh thoát nước. Hộp thư nhà họ. Bãi cỏ nhà họ. Nhà của họ. Phía cuối bãi chiến trường đó là một chiếc SUV màu nâu sẫm, động cơ vẫn còn đang xì khói. Chiếc xe bị kẹt phân nửa trong bức tường ở mặt tiền gara - xưởng của Mel - và ngật ngưỡng tì lên đống đổ nát từng là một phần của ngôi nhà gạch vững chãi. Cô vẫn luôn nghĩ rằng nhà mình rất vững chãi, rất chắc chắn, rất bình thường. Đống gạch vụn và những miếng thạch cao vỡ nát như một bãi nôn kia nom mới kinh tởm làm sao. Chúng trông mong manh quá. Cô hình dung ra chiếc SUV khi nó lao lên lề đường, hất tung hộp thư, trượt trên sân, và đâm sầm vào gara. Khi trong đầu vẽ ra cảnh tượng đó, chân cô cuối cùng cũng nhấn xuống phanh xe mình, lực đạp khá mạnh, đủ để cô cảm nhận được cú xóc đến tận xương sống. “Mẹ!” Brady hét lên, gần như sát vào tai cô, và theo phản xạ, cô đưa tay lên ra hiệu cho con im lặng. Bên ghế khách, Lily, mười tuổi, đã gỡ tai nghe ra và nhoài về phía trước. Miệng con bé há hốc khi nó nhìn thấy nhà mình bị phá, nhưng nó không nói một lời. Mắt nó vẫn đang trố ra vì choáng. “Mẹ xin lỗi.” Gina nói, nhưng gần như không nhận thức được mình đang nói gì. “Có gì đó không ổn, con ạ. Lily? Có sao không con?” Mời các bạn mượn đọc sách Ác Mộng Ven Hồ của tác giả Rachel Caine & Ngụy Thanh Tuyên (dịch).