Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuộc Sống Ngắn Ngủi

Rosamund Morgan còn rất trẻ, mới hai lăm tuổi. Nàng mồ côi cả cha lẫn mẹ và lại rất giàu có. Nàng thông minh, xinh đẹp, có bằng ưu về lịch sử và là một nghệ sĩ piano tài năng. Nhưng, nàng sắp chết vì bệnh máu trắng. Sự ra đi của Rosamund là điều không thể tránh khỏi, song một số người lại muốn nhận được chúc thư của nàng, sớm hơn và tìm cách để đạt được điều đó. Và rồi những người xa lạ ở đâu bỗng bước vào cuộc đời Rosamund - họ muốn gì, liệu điều này có tác động đến quãng đời còn lại của nàng và có ảnh hưởng đến các chúc thư mà bao người đang thèm muốn. ***   "Một căn nhà nhỏ xinh xắn, dễ thương - Jane đọc - Hai phòng khách, hai phòng ngủ, phòng làm việc, công trình phụ và giàn nho ngoài hiên. - Sao cơ? - Robert hỏi. Anh chuyển vị trí con tốt trên bàn cờ rồi liếc về phía tờ báo để trên bàn cà phê. - Sao cái gì? - Hay ho gì cái giàn nho ngoài hiên mà lại đưa vào nhỉ. Chỉ tổ làm tối nhà chứ được tích sự gì. Anh không hiểu là làm thế nào mà quân trắng có thể đi hai nước chiếu tướng được. Quân đen chắc là ngớ ngẩn rồi. Bao nhiêu? - Bao nhiêu cái gì? - Thì cái căn nhà xinh xắn em vừa nói ấy giá bao nhiêu tiền? - Một trăm ba nhăm ngàn bảng - Jane trả lời. - Tức là gấp 11,25 lần thu nhập hàng năm cùa cả anh và em à - Robert nói không chút lưỡng lự. Jane ném tờ Everting Standard sang cho anh, tờ báo đánh văng con tướng trắng khỏi bàn cờ. Anh lẳng lặng đặt nó lại vị trí cũ, liếc mắt sang tờ báo đặt trên bàn lần nữa và rồi chống cằm đăm đăm nhìn bàn cờ. Ở phía bên kia lò sưởi, Jane với nét mặt rầu rầu ngồi bó gối trong chiếc ghế bành nhìn sang anh. - Anh thật là ngớ ngẩn mới đi dạy văn học Anh trong khi có thể giải được những nước cờ bí như vậy và thậm chí tính toán không cần suy nghĩ. Nhất định anh phải có cách nào đó để có thể kiếm ra tiền chứ - Cô nói. - Thì anh có bằng về văn học Anh mà lị - Robert trả lời - Ngoài việc đó ra anh chẳng làm được gì khác đâu. - Nhưng bây giờ có ai cần đến những sinh viên tốt nghiệp ngành văn chương đâu, ngoài những trường dạy thêm đáng ghét chẳng có triển vọng gì. - Anh chẳng hiểu gì về máy tính cả và sẽ chẳng bao giờ học được - Robert nói - A! Con mã. Mày chết này! Có thế chứ. Rất cao thủ - Anh chăm chú nhìn bàn cờ một lúc vẻ rất hài lòng trước khi bỏ quân cờ vào hộp - Anh đang ở đây với em mà, cưng. Có thật là em đang thèm khát một cái chuồng thỏ xa hoa với những chùm nho xanh quanh cửa không? - Không nhất thiết là thế, nhưng em muốn có một ngôi nhà tươm tất. Em đã ngấy lên tận cổ cái cảnh sống nghèo nàn này rồi. - Mình không phải hoàn toàn nghèo. Và vẫn còn may là mình được sống tương đốì giữa London đấy. - Và may là mình còn đủ cơm mà ăn và may là cả hai đều còn có việc làm để không đến nỗi phải sống nhờ vào của bố thí chứ gì. Em biết, em biết, em biết! Và em chán cũng vì thế đấy. Em đã hai bảy, còn anh hai chín, và năm năm nữa chúng ta cũng vẫn chỉ vậy thôi nếu không nói là sẽ khốn khổ hơn vì mọi thứ cứ đắt lên còn công việc thì thậm chí cứ ngày một ít đi. Em cần tiền. Tiền thật sự cơ. Và em cần ngay bây giờ. Em không muốn sống trong cái căn hộ tồi tàn từ thời Victoria với cái kho để than sửa lại thành bếp này đâu. Thử tưởng tượng một cái kho than dùng để làm bếp giữa năm một nghìn chín trăm tám hai này mà xem! Thật nực cười. Thử hỏi xem có bao nhiêu người dùng kho để than làm bếp? - Anh không biết - Robert nói - nhưng chắc chắn là ta có thể tìm được từ các con số thông kê điều tra dân số. Trông lên thì chẳng bằng ai, trông xuống đã chắc mấy ai bằng mình.” - Ôi, đừng pha trò ngớ ngẩn thế nữa đi - Jane hét lên - Anh không hiểu em muốn nói gì à?" Robert ngước lên nhìn cô, gật đầu không nói. Anh là người đàn ông cao lớn, điềm đạm và có vẻ trẻ hơn so với tuổi. Còn Jane vào những lúc buồn nản như thế này trông lại có vẻ già hơn. Nhưng những khi cô vui vẻ và tràn trề hy vọng thì khuôn mặt bừng sáng đầy sinh khí làm cô trông trẻ hẳn ra và hấp dẫn hơn bất kỳ vẻ đẹp hình thức nào. Cô có mái tóc hung đỏ, đôi mắt xanh, cả người như toát lên sự nhanh nhẹn, tháo vát, trừ những lúc làm công việc của một y tá chăm sóc bệnh nhân, mà quả thực là cô làm việc này cũng rất tốt. Họ đã sống với nhau năm năm, vậy mà chính Jane lại là người không muốn tổ chức đám cưới. - Chưa được - cô luôn nói vậy mỗi khi Robert đề nghị làm đám cưới - Em cảm thấy chưa ổn định lắm. Hãy đợi đến khi chúng mình kiếm được căn nhà tử tế một chút.” Anh cảm thấy hơi đau lòng khi nghe cô nói vậy, nhưng rồi cô thường xuyên nói ra những điều làm anh tổn thương. Robert không bao giờ để lộ ra là mình cảm thấy đau lòng. Cuộc sống đã dạy anh phải giấu tình cảm thật của mình. Khi còn là một đứa bé mới hai tuần tuổi, một viên cảnh sát đã nhặt được anh trong buồng điện thoại công cộng gần ga Waterloo, và trong mấy tháng sau đó nhà của anh là Bệnh viện Trẻ em. Các bác sỹ và y tá đã chiến đấu với tử thần, giành giật lại mạng sống cho cái hài nhi hấp hối ấy như thể nó là một hoàng thái tử, và khi họ đã hoàn thành phần việc của mình rồi thì họ giao lại nó cho Phòng Dịch vụ Xã hội. Nhận con nuôi, chứ không phải là đưa vào trại trẻ mồ côi, đang là trào lưu rất thịnh hành lúc bấy giờ, và trong mấy năm tiếp theo, đứa trẻ được chơi trong một căn phòng nhỏ cùng với một thằng bé Tây Ấn và một đứa trẻ Bắc Alien mồ côi, nó lớn phổng lên và tập đi, tập nói nhưng rất chậm. Gia đình tiếp theo nuôi nó được khoảng một năm, và cũng chính ở đây lần đầu tiên nó bắt đầu được biết thế nào là đau đớn, sợ hãi. Khi bà mẹ nuôi nó từ bỏ không tham gia Dịch vụ Xã hội, không phải do lỗi của bà mà là do lão chồng nghiện ngập, Robert lại bị chuyển đỉ, lần này là đến một nơi nương náu tạm thời do một giáo phái trông nom trong khi chờ đợi quyết định của các nhà chức trách xem phải làm gì với nó. Hóa ra đây lại là khoảng thời gian hạnh phúc duy nhất mà nó có được trong cả quãng đời niên thiếu cùa mình. Ánh nắng ấm áp chan hòa, bãi cỏ để chạy chơi, thỏ và mèo để chơi cùng thay vì căn nhà nhỏ bé chật chội sặc mùi sợ hãi. Hơn tất cả là một khuôn mặt với mái tóc sẫm màu, tuy xanh xao nhưng đôi mắt luôn nhìn thẳng vào nó mỗi khi người đó gọi tên nó, làm cho nó lần đầu tiên hiểu được rằng nó đích thực là Robert, và rằng trên thế gian này còn có người cũng biết đến điều đó, và rằng nó vẫn phải là Robert - mỗi ngày một lớn lên và mạnh khỏe thêm. Nó chẳng bao giờ học cách đặt tên cho một khuôn mặt, nhưng lại biết gắn liền khuôn mặt đó với một thứ tình cảm mà mãi đến tận sau này nó mới biết là tình yêu. Và khi khuôn mặt và giọng nói đó biến mất thì nó lại bị chuyển đi một lần nữa vì đó chỉ là một giải pháp tạm thời cho nó và còn có nhiều trẻ em khác có điều kiện khó khăn hơn cần được giúp đỡ - nó đã học được cách cảm nhận mất mát, đau buồn và tuyệt vọng. Và cả nghệ thuật để tồn tại. Để không bị tổn thương, anh hãy làm một kẻ vô cảm. Để khỏi bị thất vọng thì tốt nhất là đừng có hy vọng. Hãy tự tạo ra xung quanh mình một vỏ bọc dễ chịu để mọi đau khổ bên ngoài không thể xuyên qua, và trong cái vỏ bọc đó chỉ có bản thân mình, tuy cách biệt nhưng an toàn. Đó là hành trang sinh tồn của Robert Fenniman, cái tên được đặt theo người cảnh sát hôm đó đã tìm thấy anh và người bác sỹ chịu trách nhiệm chính trong việc cứu sống anh hồi ấy. Tính cách ôn hòa, điềm đạm chính là một phần đáng kể để hình thành nên cái vỏ bọc bảo vệ đó. Jane đã không nhận thấy điều này mặc dù cô luôn có cảm giác rằng cô sẽ chẳng bao giờ thực sự hiểu anh, cũng như là anh sẽ chẳng bao giờ biết được sự thật về cội nguồn của mình. Lịch sử ra đời của anh làm cho cô nửa lo âu, nửa bị mê hoặc, và không thể hiểu được làm sao anh có thể điềm tĩnh và thờ ơ đến vậy. Quá khứ của cô chẳng có gì là bí mật cả, nhưng về nhiều phương diện thì cuộc sống của cô lại hoàn toàn không ổn định, cũng giống như anh vậy. Bố cô đã từng là một nhà sáng chế, một người đàn ông bừa bãi và kỳ quặc mang chút hơi hướng thiên tài, nợ nần triền miên để rồi bắt đầu lại từ con số không. Mẹ cô thường xuyên bỏ đi rồi lại trở về với ông, và hiện giờ đang rất thỏa mãn sống một cuộc sống góa bụa ở một thị trấn nhỏ ven biển phía Nam, trông nhà cho ông em độc thân, hưởng thú điền viên và chơi bài brít. Jane thích mẹ theo cái cách cáu kỉnh của riêng cô, song lại luôn trở về mệt mỏi hơn bao giờ hết sau mỗi chuyến đi thăm bà và luôn miệng kêu ca về cuộc sống nghèo nàn và tự mãn quá quắt của mẹ. - Anh nghĩ là thể nào ông chú Walter của em cũng sẽ để lại cho em một ít tiền khi ông ấy mất - Robert nói. Họ thường nói với nhau những câu chuyện đại loại như vậy. Jane đã không mảy may hình dung được rằng sự bất mãn biểu lộ mãnh liệt ấy của cô đã chạm tới nguồn gốc của sự thiếu tự tin và bức bốì sâu thẳm trong anh. - Ông ấy thì làm gì có cái gì đáng giá - Jane nói vẻ khinh miệt. - Có cái nhà đấy thôi. - Cái nhà gỗ bé tẹo rẻ tiền giữa cả đống đến bốn trăm cái nhà cũng tồi tàn như nó ấy à. Không! Xin cảm ơn. - Em có thể bán nó đi mà. Robert với tay lấy cái hộp nhựa đỏ đựng các quân cờ, cảm giác đó làm anh thấy thỏa mãn. Anh đã nghĩ ra giải pháp đương đầu với vấn đề này và điều đó làm anh hài lòng. Nó tựa như một cái cọc chắc chắn cho anh bấu víu trong cơn phẫn nộ của Jane. - Cái nhà ấy có bán cũng chẳng mua nổi một túp lều ỏ London chứ đừng nói đến cái kho để than - Jane ước đoán. Robert biết rằng tốt hơn hết là họ nên chuyển đi khỏi London. Anh im lặng chờ đợi, đầu óc bị ám ảnh bởi nước đi tuyệt đẹp của con mã, trong khi Jane thao thao nói về những mơ ước đẹp đẽ hoang tưởng. Khi ván cờ hết nước đi, điều này thì chẳng mấy vì cơn giông tố có vẻ như trở nên tệ hơn bao giờ hết, anh sẽ lẩn tránh bằng cách tự nhủ mình bằng câu nói vĩ đại của Macbeth. "Ngày mai, ngày mai và ngày mai ..." Điều này chẳng dễ chịu gì, ngoài sự lo sợ trống rỗng đen tối với ý nghĩ mất Jane. Nhưng dù sao thì nó cũng giúp cho anh giữ được bình tĩnh để đánh giá và đối mặt với sự thật. Cuối cùng thì cơn bão cũng qua đi. Jane lại gần và ngồi xuống sàn bên cạnh cái ghế anh đang ngồi, dụi đầu vào gốỉ anh như một chú mèo hiền lành bày tỏ tình cảm với chủ.  - Em xin lỗi, anh yêu - Giọng cô nghẹn lại. - Anh cũng xin lỗi - Một tay vuốt mái tóc cô, tay kia vẫn cầm cái hộp đựng các quân cờ, anh nói: Anh thấy chỉ có một cách duy nhất để có thể giải quyết được vấn đề này - Thông thường trong những dịp như thế này anh thường đưa ra giải pháp như là cặp vé hạng nhất đi xem nhạc kịch ở Covent Garden hay một kỳ nghỉ cuối tuần ở Paris. Những “giải pháp” thường xuyên này, cùng với sách, đĩa nhạc và quần áo mới cho Jane, đã xóa sạch những gì hiện là nỗi ám ảnh của Jane về việc muốn có một “ngôi nhà xinh xắn”. Đã từ lâu, Robert nghiệm ra rằng cuộc trò chuyện tế nhị về các khoản vay nợ chẳng bao giờ được hưởng ứng cả. Đôi khi anh cũng có ý nghi ngờ rằng những mong ước cùa Jane là không tưởng, nhưng đề cập đến vấn đề này với cô hay cố gắng dưới bất kỳ hình thức nào để cô không ảo tưởng nữa có khác gì đưa quan hệ của họ đến bờ vực thẳm. - Cách gì, anh yêu? - Jane vừa hỏi vừa xích lại gần. Thay vì định nói “Chúng mình đến Caprice ăn tối đi”, anh bỗng sửng sốt và kinh hãi khi nghe thấy những lời mình thốt ra: - Hãy bỏ anh và tìm cho mình một người đàn ông có thể mua cho em tất cả những gì em muốn”. Không chỉ lời nói, cả giọng nói dường như cũng khác: chua chát, cay đắng, giận dữ và đau khổ, một giọng nói mà Jane thậm chí không hề biết đến và Robert nghĩ là đã hoàn toàn bị lãng quên trong suốt nhiều năm qua. Điều đó như thể Macbeth và các quân cờ đã quá căng thẳng để vượt qua cơn bão vừa kết thúc đến mức phá vỡ lớp vỏ bọc của anh. Jane co rúm người lại, trườn ra xa như thể anh đã đánh cô. - Anh nghĩ thế thật đấy à? Có phải anh muốn tống khứ em đi cho rảnh nợ không? Họ chằm chằm nhìn nhau trong giây lát, người này thấy rõ nỗi sợ hãi trong ánh mắt của người kia, và rồi họ ôm chầm lấy nhau như chẳng bao giờ có thể chia lìa. Tốỉ hôm sau, cũng vào tầm ấy, Jane về nhà và thông báo rằng cô đã suy nghĩ rất nghiêm túc rồi và đã quyết định phải chấm dứt cằn nhằn Robert, không rền rĩ với anh nữa và phải tự làm điều gì đó để có thể kiếm được nhiều tiền hơn. Đừng lo - cô nói thêm – Em sẽ không làm điều gì sai trái đâu, không bao giờ, dù bất cứ giá nào.” - Phúc đức quá - Robert uống cạn và rót thêm một ly nữa. Sống với Jane, người ta rất dễ mất đi những thói quen tiết kiệm. Trước khi gặp cô, anh thấy bằng lòng với những gì mình có. Hay nói khác đi, với anh một chút thôi cũng đã là nhiều rồi. Trong suốt mười năm sau khi bà mẹ nuôi, người đã nói với anh bằng giọng nói đem lại ý nghĩa lớn lao cho cái tên của anh ra đi, Robert đã có quá nhiều cơ hội để củng cố thêm cái vỏ bọc của mình. Chẳng có sự đốỉ xử thô bạo nào, nhưng vô cảm thì quá nhiều và thiếu thốn tình thương và niềm động viên. Rồi cuối cùng, khi bước vào tuổi mười sáu, anh được ông bà Quaker, cả hai đều là giáo viên đã nghỉ hưu nhận chăm sóc. Lòng tốt không dễ xúc động của họ rất thích hợp với Robert và họ cũng đã mở ra cho anh một cuộc sống trí tuệ. Dưới sự khuyến khích và hưóng dẫn của họ, anh bắt đầu đọc, học và trải qua các kỳ thi. Luôn rất thích ứng, luôn sẵn sàng điều chỉnh theo bất cứ điều gì anh muốn để anh chàng Robert trong vỏ không bị sợ hãi, anh nhanh chóng học được cách cảm thấy thoải mái khi đến trường. Cha mẹ nuôi vui mừng khi anh có giấy gọi vào đại học, và anh sung sướng cho họ và cho mình. Anh có thể và đã cảm nhận được lòng biết ơn, nhưng lại không thể nào cảm thấy hay bày tỏ tình yêu đốì với họ. Cũng may là họ không đòi hỏi điều này. Trong căn nhà tĩnh lặng của họ không có chỗ cho những cảm xúc mạnh mẽ. Nhẹ nhàng và lòng tốt; tôn trọng sở thích cá nhân của người khác, ưa thích đọc sách và tôn trọng sự thật là những bài học mà Robert đã học được từ gia đình cuối cùng nuôi anh này. Anh quen nhiều trong trường đại học nhưng không có bạn thân. Chẳng ai ghét anh song cũng chẳng có ai chú ý gì nhiều đến anh. Anh chẳng bao giờ gây ra điều gì rắc rốỉ, và luôn hòa nhập ở bất cứ nơi nào anh đến. Nhưng luôn luôn anh chỉ như một khán giả theo dõi diễn biến cuộc sống của những người xung quanh mà thôi: niềm hy vọng và sự sợ hãi, tình yêu và sự căm ghét - nhưng không bao giờ tham gia vai nào trong đó. Tránh những cảm xúc mạnh mẽ để không bị đau khổ, tránh những hy vọng cao xa vì chúng chỉ mang lại toàn thất vọng: đó là những bài học ban đẩu mà anh không bao giờ quên. Vì anh luôn tỏ ra điềm tĩnh và mãn nguyện, ở anh không bao giờ có dấu hiệu nào cho thấy sự cô đơn hay bất hạnh, nên thầy cô giáo cũng như các bạn sinh viên của anh đều cho rằng chắc chắn là anh có thân với một ai đó. Lối sống tách biệt nhưng không bất hạnh từ thời học đại học này đã theo anh đến khi ra đi làm. Robert chẳng có mục đích nào khác ngoài kiếm sống bằng cái cách mà sẽ không làm phật lòng ông bà Quaker, và đức tính kiên nhẫn cùng khiếu hài hước của anh rất thích hợp với nghề giáo và các bạn đồng nghiệp. Anh dạy ngôn ngữ và văn học Anh cho sinh viên nước ngoài, tham dự vào các hoạt động xã hội khi cần, nhưng không hề có quan hệ thân thiết với bất cứ một ai. Thời gian rỗi anh dành để đọc sách, chơi cờ, đi dạo một mình và thăm cha mẹ nuôi. Và rồi trong buổi liên hoan do một đồng nghiệp tổ chức, ai đó đã giới thiệu anh với Jane, cô chợt đến như một vầng nắng chói lòa phá vỡ cuộc sống khổ hạnh của anh, mang lại hơi ấm và làm tan đi sự cằn cỗi trong anh. Cô không để cho anh lảng tránh như những cô gái khác. Cô thích anh; cái vẻ bề ngoài lạnh lùng của anh như một thách thức với cô - cô yêu thích chính cái vẻ thách thức ấy ở anh, và cô quyết định phải làm cho anh chú ý đến mình, phải yêu mình. Trong hành trang của Robert, trong tất cả những bài học trường đời mà anh đã học, chẳng có điều gì dạy anh phải làm thế nào để chống trả những cuộc công kích dữ dội như vậy cả. Càng cố lẩn tránh, càng bị cuốn đi mạnh hơn. Và cuối cùng thì anh chẳng còn muốn trốn chạy nữa mà bước ra khỏi tình trạng vô thức như mặt đất thức dậy vào mùa xuân, và để cô dẫn dắt cuộc đời mình. Bây giờ thì anh không thể hình dung được cuộc sống mà không có Jane và cũng chẳng còn đường thoái lui. Anh đã phá vỡ cái nguyên tắc an toàn của bản thân và phải trả giá. Điều khá kỳ quặc là, gần gũi nhau như vậy nhưng Jane chưa bao giờ thành công trong việc đột nhập vào bên trong cái vỏ bọc của Robert. Có lẽ sẽ chẳng ai làm được điều đó. Có lẽ những tổn thương hồi nhỏ đã ăn quá sâu vào tâm hồn anh nên khó ai có thể hàn gắn lại được. Robert cũng phần nào hiểu được điều này và đôi khi anh cảm thấy giữa họ vẫn còn thiêu thiếu cái gì đó và rằng anh cần phải cởi mở hơn đốì với cô, chí ít là như cô luôn cởi mở về cuộc sổng và tâm tư của mình vậy. Anh trả lời cô những câu hỏi về quá khứ của mình với vẻ bình thản vốn có nhưng không bao giờ kể cho cô nghe về khuôn mặt và giọng nói đã ăn sâu vào tiềm thức anh trong nhiều năm qua. Đó là một thế giới huyền bí, quá mong manh và quý giá mà anh không muốn cho Jane biết đến. Cô phải cố phân tích nó từ xa, và anh đã bỏ lỡ điều gì đó mà ở một khía cạnh nào đó, thậm chí gần gũi với anh hơn cả bản thân Jane. Như vậy là vì một lý do nào đó, giữa họ đã có một hố sâu ngàn cách. Những khoảng quan trọng trong cuộc đời và cảm xúc mà họ chẳng thể gặp nhau. Nhưng về cơ bản là họ cần cho nhau và điều này giúp họ có thể tránh không nhìn vào cái khoảng cách đó. Tối nay cả hai người đều có vẻ như rất ý thức được mối nguy hiểm đang rình rập và thu mình lại trong sự cố gắng vượt qua ý nghĩ ảm đạm về buổi tối hôm trước. - Em không hiểu làm sào mà anh lại trở thành một công dân đáng kính như vậy - Jane nói giọng âu yếm - Điều này trái với mọi nguyên tắc xã hội học. Với sự dạy dỗ như anh được hưởng, chí ít anh phải là một thanh niên ngỗ ngược, và hiện giờ lẽ ra phải là một tên tội phạm nguy hiểm mới đúng. - Có lẽ phải vậy - Anh vừa cười vừa nói. - Tiếc là chẳng được cái may mắn như thế. Nếu cần làm điều gì bất hợp pháp thì chắc em sẽ phải làm một mình rồi. - Chắc không phải là em đang nghĩ đến việc ám sát các bệnh nhân giàu có đấy chứ - Robert bỡn cợt hỏi. - Đúng rồi, em đã nghĩ vậy đấy - cô trả lời anh cũng bằng giọng hài hước vậy - nhưng mà điều đó sẽ chẳng có tác dụng gì trừ phi họ để lại cho em thật nhiều tiền trong chúc thư, phải không?" Đôi mắt cô sáng long lanh trong tâm trạng hân hoan, tinh nghịch. - Anh không tin - Robert nói - Em mà nghỉ việc ở bệnh viện là rất tiếc đấy." - Em chẳng có sự lựa chọn nào khác sau cái lần cuốỉ cùng cãi lộn với bà quản lý bệnh viện. Và có khối điều đáng nói về dịch vụ chăm sóc bệnh nhân. Môi trường khác này, chọn được thời gian cho mình này, và ... - ... các bệnh nhân tư giàu có này, Robert cắt ngang - Anh biết em muốn nói gì rồi. Em định chiếm lòng tin cùa một bà lão ốm yếu nào đó để rồi nẫng đồ nữ trang của bà ta chứ gì. - Đúng là hiện có nhiều trường hợp thế thật - Jane nói giọng đã nghiêm túc hơn - Em có thể hiểu sự cám dỗ cùa nó, nhưng sẽ không bao giờ em làm vậy đâu. Đây là lợi dụng sự ốm yếu của người ta trong khi người ta tin tưởng giao cho mình chăm sóc. Nếu ai đó có chủ tâm muốn cho em một món quà thì đó lại là việc hoàn toàn khác. Chắc chắn không phạm pháp đúng không, em hứa với anh thế đấy, và điều đó chắc chắn chỉ đem lại thêm niềm vui cho người ta thôi chứ không phải là bớt đi đâu.’ - Anh có thể được biết đó là gì không? - Chỉ khi nào nó ảnh hưởng đến anh dưới bất kỳ hình thức nào thôi. Không phải bây giờ. - Nếu thế thì anh sẽ đi nấu vài món cho bữa tối đây để em đỡ phải vào cái kho than đó. Cô vênh mặt lên và đưa cho anh một túi đầy thức ăn vừa mua về. “Có thịt bê và một ít bột mua tận cái cửa hàng mới lộng lẫy ở phố Hampstead High đấy. Công việc ngày hôm nay của em phải đi qua phố ấy mà, em sẽ kể cho anh nghe lúc chúng mình ăn tối. Tối qua em thật đáng ghét phải không? Em sẽ nghĩ cách đền anh nhé.” “Cứ làm như mình còn bé lắm ý” - Robert nghĩ thầm khi mang túi đồ ăn vào bếp, tuy nhỏ nhưng rất tiện nghi. Trên thực tế thì khối người London còn phải thèm rỏ rãi căn nhà cách ga Paddington không xa của họ. Các buồng tuy nhỏ nhưng được sửa sang lại rất hoàn hảo; tàu qua lại hơi ồn một chút nhưng ở mãi cũng thành quen, và cặp vợ chồng trung niên trên gác thân thiện mà kín đáo. Thậm chí họ còn có một khoảnh khoảng vài mét để làm vườn và còn có vài tiếng được hưởng ánh nắng chiều trong những tháng hè. Điều lo ngại chính của Robert là hiện nay chủ nhà, một người có tuổi, lập dị nhưng nhân từ, có thể chết và họ sẽ phải chịu sự quản lý của một công ty bất động sản. Lúc bấy giờ thì Jane sẽ có lý do chính đáng để phàn nàn. Anh đặt thịt vào trong vỉ nướng và ao ước không biết đến lần thứ bao nhiêu là Jane có thể sẽ thấy hạnh phúc như anh, hài lòng như anh với những gì họ hiện có. Nhưng anh hiểu rằng mong muốn này cũng là không tưởng giống như sự thèm muốn không giới hạn của Jane đối với một cuộc sống xa hoa. Anh phải chấp nhận những ước mơ và hy vọng hão huyền của cô, cũng như cô phải chấp nhận thực tế là anh sẽ chẳng bao giờ kiếm được nhiều tiền cả. Khi yêu ai thì người ta phải chấp nhận những điều khó chịu này thôi. Và rốt cuộc, trong hoàn cảnh của anh, điều may mắn là Jane đã không yêu cầu anh phải là người trưởng thành trong khuôn phép, với một người có tuổi thơ như anh, lẽ ra anh đã không dám bước chân vào lĩnh vực tình ái nữa kia. Có lẽ anh đã điên khi yêu và phơi bày cái sinh vật nhút nhát trong vỏ bọc ra trước mọi thế lực phá hoại. Và tối qua, một cái gì đó đã rạn nứt. May mắn là Jane đã kịp nhận ra và nhanh chóng giúp anh sửa lại vết nứt đó. Vì thế bây giờ họ đang quay trở lại những gì đã qua, không bao giờ dự kiến cho bất kỳ tương lai hiện thực nào cả, chỉ mơ mộng (trong trường hợp của Jane) hay trốn tránh trong các con số và quân cờ (trong trường hợp của bản thân anh) và thu xếp các giải pháp nho nhỏ cho mình như thể họ là một cặp bé thơ không tình yêu cố gắng bù đắp lại cho nhau những gì mà cuộc đời đã không dành cho họ. Nhưng chúng ta không thể cứ sống mãi như thế này được, Robert nghĩ trong khi xé gói đậu đông lạnh; chúng ta sẽ không thể che mãi cái vết rạn ấy bằng một tờ giấy. Nỗi hoang mang sợ hãi lại tăng lên cùng với ý nghĩ về một cuộc sống không có Jane. Anh đấu tranh tư tưởng, tự nhủ rằng mọi cái không thể hoàn toàn giống như trước khi có cuộc tranh cãi tối qua được bởi vì chẳng có ai hai lần tắm trên cùng một dòng sông, nhưng sự khác biệt không có nghĩa là tồi hơn. Có lẽ cuối cùng thì Jane cũng bắt đầu hiểu ra rằng tính khí của cô đã có tác động đến anh. Có lẽ cô sẽ phải cố gắng để dung hòa. Thực tế là những cuộc tán gẫu như vậy về việc kiếm tiền từ những bệnh nhân giàu có có thể là bước khởi đầu của quá trình dung hòa đó. Trong chốc lát, anh không tin là cô đã có một kế hoạch cụ thể trong đầu, ngoại trừ mong muốn rất hợp lý là đến lúc nào đó nhận được một món quà mà thôi Robert rất thích nấu nướng, và với những ý nghĩ vui sướng ấy, anh với tay lấy mấy quả cà chua cùng một ít cải xoong để tô màu cho bữa ăn, và gọi với lên nhà bảo Jane sắp xếp bàn ăn. Cũng chẳng có gì phải làm nhiều ngoài việc dọn chồng sách báo và đẩy mấy cái ghế bành lại gần lò sưởi. Jane vui vẻ làm mà không cằn nhằn như mọi khi về chỗ ở và phòng ăn chật chội. - Mâm cơm tuyệt đẹp - Jane tán dương sau một hai phút im lặng - Khi nào chán dạy học anh có thể chuyển sang làm đầu bếp được đấy, nghề này chẳng bao giờ lo thất nghiệp cả. Robert không thấy có ẩn ý gì trong nhận xét đó nên không có phản ứng gì. - Anh không hế phản đốì, nhưng anh tin là giờ thì họ cần em cung cấp thực phẩm cả năm cho trưòng đấy. - Em sẽ không nhận làm cho họ nếu anh có ý định tự mình mở một tiệm ăn nhỏ.” Họ không ngừng tranh luận sôi nổi về vấn đề này cứ như định thực hiện những việc đó thật. Robert phân vân không biết đó có phải là một phần nỗ lực của Jane trong việc chỉ ra rằng cô cũng có thể thực tế trong việc làm ăn kiếm tiền. Dường như anh thấy rằng mình cũng cần phải cố gắng để làm được như vậy, và anh đề nghị cô kể cho anh nghe về người bệnh ở Hampstead, vì anh có cảm giác là cô đang muốn được anh hỏi. Jane kể chi tiết cho anh nghe, và Robert quên bẵng đi sự căng thẳng giữa hai người và quên đi nỗi sợ hãi của mình. Họ ngồi sang ghế bành trước lò sưỏi uống cà phê, và Robert theo dõi biểu hiện diễn biến tình cảm của Jane trong khi nghe câu chuyện thương tâm và bi thảm của một kiếp người. Mời các bạn đón đọc Cuộc Sống Ngắn Ngủi của tác giả Anna Clarke.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Và Một Ngày Dài Hơn Thế Kỷ - Tchinguiz Aitmatov.
Vĩnh biệt tác giả "Một ngày dài hơn thế kỷ" Nhà văn Kyrgyzia nổi tiếng Chinghiz Aitmatov, tác giả của những tác phẩm làm rung động hàng triệu con tim trên thế giới đã qua đời tại Bệnh viện Nuremberg ở CHLB Đức vào hồi 15 giờ 31 phút ngày 10/6. Hãng DPA của CHLB Đức đưa tin nhà văn Kyrgyzia qua đời vì bệnh phổi. Chinghiz Aitmatov đã lâm bệnh từ mấy tháng trước tại Kazan, nơi ông tham gia quay phim "Một ngày dài hơn thế kỷ". Ông được đưa vào điều trị tại bệnh viện tốt nhất ở Tatarstan (Nga). Ngày 16/5, Aitmatov được đưa sang Đức chữa trị và ông đã vĩnh biệt chúng ta ở tuổi 80. Aitmatov sinh năm 1928 tại làng Sheker, vùng Talass của Kyrgyzia. Tuổi thơ ông rong ruổi trên những cánh đồng và thảo nguyên vùng Trung Á thơ mộng. Lớn lên, Aitmatov đến sinh sống cùng gia đình tại Moskva. Nước Nga với những cánh rừng bạch dương hùng vĩ và những con người nhân hậu đã nuôi dưỡng tâm hồn Aitmatov, hun đúc nên những tác phẩm bất hủ của ông. Chính vì thế, những tác phẩm của Aitmatov đều thể hiện bằng hai thứ tiếng Kyrgyzia và Nga. Từ năm 1952, những tác phẩm đầu tiên của Chingiz Aitmatov lần lượt ra đời. Đến nay, những tác phẩm của nhà văn đã được tái bản tới 650 lần trên thế giới và được dịch sang 170 ngôn ngữ khác nhau với số lượng lên đến 60 triệu bản. Tiểu thuyết cuối cùng của nhà văn "Khi nào núi đổ (nàng dâu vĩnh viễn)" vừa được xuất bản tại Moskva năm 2006. Năm nay ở Kirgizia là "Năm Chinghiz Aitmatov". Mới đây, tại Thổ Nhĩ Kỳ, một ủy ban vận động đề cử Aitmatov làm ứng cử viên giải thưởng Nobel Văn học được thành lập. Sáng kiến đề cử Aitmatov do Hội nghị Bộ trưởng các nước Thổ Nhĩ Kỳ, Azerbaijan, Kazakhstan, Uzbekistan, Kyrgyzstan, Turkmenistan, Altai, Tatarstan, Tuva...đưa ra. Hội nghị khẳng định Aitmatov là nhà hoạt động văn học xuất sắc của cộng đồng Turkic. "Chingiz Aitmatov được coi như biểu tượng tinh thần và nhân phẩm của tất cả nhân dân Turkic trên toàn thế giới, còn toàn bộ cuộc đời nghệ thuật của ông có ý nghĩa Quốc tế sâu rộng - Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Abdull Gul tuyên bố. Chinghiz Aitmatov đã từng giữ các chức vụ như Tổng biên tập tạp chí "Văn học nước ngoài", Thư ký Hội Nhà văn Liên Xô. Ông được phong danh hiệu Nhà văn Nhân dân của Kyrgystan, Anh hùng Lao động XHCN, được nhận giải thưởng Lênin, 3 lần đoạt giải thưởng Quốc gia Liên Xô, Đại biểu Xô - viết tối cao Liên Xô, Ủy viên BCH T.Ư Đảng Cộng sản Kyrgyzia. 16 năm cuối đời, Aitmatov làm đại sứ của Kyrgyzia ở châu Âu. Nước Nga đau đớn nhận tin Aitmatov qua đời. Tổng thống D. Medvedev gửi lời chia buồn sâu sắc đến gia quyến của nhà văn. Chủ tịch Hội các nhà xuất bản Nga Mikhail Seslavinsky nêu rõ: "Trong những ngày cuối đời, Aitmatov luôn trăn trở rằng phải làm tất cả để giữ mối quan hệ nhân văn bền chặt giữa các nước cộng hòa trong không gian hậu Xô - viết. Ông tham gia các cuộc hội thảo và luôn là người bạn thân thiết, gần gũi của đất nước chúng ta. Sự nghiệp sáng tác của ông là một phần không thể thiếu trong không gian văn học của nước ta". Ngoại trưởng Pháp Bernar Kushner vô cùng thương tiếc nhà văn Kyrgyzia, ông cho rằng Aitmatov luôn sống mãi trong lòng những người hâm mộ như một nhà văn vĩ đại nhất của thế kỷ XX. Nhà hoạt động văn hóa xã hội Mikhail Veller khẳng định sự ra đi của Aitmatov đã để lại khoảng trống, mất đi một mắt xích quan trọng trong không gian văn hóa hậu Xô - viết. Bạn đọc Việt Nam mến yêu Chinghiz Aitmatov qua những tác phẩm: "Người thầy đầu tiên", "Núi đồi và thảo nguyên", "Giamilia", "Cây phong non trùm khăn đỏ", "Vĩnh biệt Gunxarư", "Một ngày dài hơn thế kỷ", "Đoạn đầu đài"... Đó là những thiên truyện đã thực sự làm ngây ngất những con tim luôn khát khao với cuộc sống mến yêu, với thiên nhiên thấm đẫm tình người. Chinghiz Aitmatov thực sự là cây đại thụ trong nền văn học Xô - viết, một nhà văn chói ngời với những tư tưởng nhân văn. "Vĩnh biệt Gunxarư"! Vĩnh biệt Chinghiz Aitmatov! Nhà văn của nhân dân Chingiz Aitmatov./. MẠNH HIỀN *** Ai - ma - tốp thuộc số các nhà văn Xô viết hiện đại mà hầu hết các tác phẩm được dịch và giới thiệu ở ta. Kể từ khi Giamilya và Chuyện núi đồi và thảo nguyên ra mắt bạn đọc Việt Nam cho đến nay một phần tư thế kỷ đã trôi qua. Cái hương sắc lãng mạn dễ làm say lòng người trong những áng văn chương dường như được dệt bằng mầu sắc của cầu vồng và cỏ hoa đồng nội đã dần dần được bổ sung thêm bằng chủ nghĩa hiện thực nghiệt ngã với những vấn đề phức tạp và nhức nhối của cuộc sống trong một loạt tác phẩm tiếp theo sau như Vĩnh biệt Gumxary, Cánh đồng mẹ, Con tầu trắng, và gần đây nhất là tiểu thuyết Và một ngày dài hơn thế kỷ, cuốn sách đánh dấu bước phát triển mới trong quá trình tìm tòi nghệ thuật của nhà văn. Cái ngày dài đằng đẵng mà tác giả đem so với cả một thế kỷ là ngày bác công nhân đường sắt E-đi-gây, nhân vật chính của tác phẩm, tiễn đưa người bạn chí cốt của mình đến nơi an nghỉ cuối cùng. Trên đường dẫn tới nghĩa trang cổ kính Ana – Bây ít mà nay đã biến thành khu vực sân bay vũ trụ, E–đi-gây đã ôn lại trong ký ức những kỷ niệm sâu sắc về người bạn quá cố Kazangap, đồng thời cũng nhìn lại quãng đời mình ngót bốn mươi năm qua với những sự việc đáng ghi nhớ, với những niềm vui và nỗi buồn không thể nào quên. Và những bước thăng trầm trong cuộc đời của Edigay cũng gắn liền với những chuyển biến của đất nước Xô viết trong vòng nửa thế kỷ. Nói một cách khác, đó chính là sự vận động của con người trong lịch sử và sự vận động của lịch sử trong con người. Cũng vào đúng lúc Edigay đang bận rộn với việc lo liệu ma chay cho Kazangap, thì trên vũ trụ đã xảy ra một sự cố phi thường: hai phi công vũ trụ trên trạm quỹ đạo phối hợp Xô Mỹ “Paritet” đã phát hiện ra một nền văn minh ngoài Trái Đất, nơi tồn tại một nền hòa bình vĩnh cửu và có một trình độ phát triển rất cao về khoa học kỹ thuật. Và những người sống trên hành tinh “Bộ ngực rừng” đó đã bày tỏ nguyện vọng muốn đến thăm Trái Đất và tiếp xúc với những người của hành tinh chúng ta. Nhưng khám phá cực kỳ quan trọng đó không ngờ lại dẫn tới những hậu quả tai hại khôn lường… Và cứ thế, những sự việc xảy ra dưới đất, trong khu vực ga xép Bão tuyết và trên khoảng không vũ trụ cứ đan chéo, xen kẽ nhau, tuyến cốt truyện hiện thực của đời sống hàng ngày với bao lo toan vất vả song song tồn tại bên cạnh tuyến huyễn tưởng ngoài vũ trụ. Tất cả những điều đó đã tạo nên kết cấu độc đáo của tác phẩm đồng thời cũng đòi hỏi ở người đọc sự động não suy tư đáng kể để thâm nhập vào cốt lõi của những sự việc, những cảnh ngộ được miêu tả. Nếu ai theo dõi con đường sáng tác của Aimatop hẳn thấy rõ rằng đứng ở trung tâm cái thế giới nghệ thuật của nhà văn bao giờ cũng là những người lao động bình thường nhất, những người đã nếm trải nhiều nỗi gian truân mất mát, đã kinh qua muôn vàn thử thách nhưng vẫn giữ vững phẩm giá con người và một niềm tin mãnh liệt vào sự tất thắng của cái thiện, vào một tương lai đẹp đẽ hơn. Ấy là Đuy-sen trong Người thầy đầu tiên, Tôn - gô - nai trong Cánh đồng mẹ, Tanabai trong Vĩnh biệt Gumxary, Edigay trong tác phẩm mới nhất này. Đối với E-đi-gây, chỉ nội việc hai vợ chồng đến định cư và nhận làm công việc đơn điệu và vất vả ở một ga xép hẻo lánh giữa chốn hoang mạc khô cằn với khí hậu vô cùng khắc nghiệt và với bao thiếu thốn trong cuộc sống hàng ngày đã là một sự dũng cảm, một chiến công thầm lặng đáng khâm phục. Đó là chủ nghĩa anh hùng dẻo dai bền bỉ của những người công nhân đã hiểu rõ được ý nghĩa công việc của mình với sự nghiệp chung của đất nước và đã tìm thấy ở lao động một niềm vui thực sự, một nhu cầu bức thiết nội tại như ánh sáng và khí trời. Nhưng E-đi-gây không phải là người chỉ biết cặm cụi làm hùng hục theo kiểu ăn no vác nặng. Ở người cựu chiến binh đảm nhận công việc bẻ ghi buồn tẻ này chúng ta bắt gặp một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, một tấm lòng đôn hậu ưu ái sống vì mọi người, một cái đầu luôn luôn trăn trở trước những vấn đề gay cấn của thời cuộc. Vì thế cho nên trong khi sống giữa nơi hoang mạc mông quạnh, Edigay vẫn cảm thấy mình gắn bó khăng khít với cuộc sống của Tổ quốc, với mạch đập thời gian, với những điều đã bao đời nay làm cả loài người day dứt. Tất nhiên không phải bao giờ E-đi-gây cũng hành động một cách sáng suốt, nhưng ông không bao giờ là một con người nửa vời, một kẻ thô lỗ hai mặt hay một phần tử thỏa hiệp, vô nguyên tắc. Phàm điều gì ông tin là đúng, là phù hợp với lương tâm mình, với lợi ích chung thì ông cố gắng thực hiện bằng tất cả khả năng của mình, không do dự chần chừ, không suy tính thiệt hơn, nhất là trong cuộc đấu tranh cho sự công bằng, cho sự phục hồi chân lý. Tác giả đã đặt Edigay vào những tình huống xử lý phức tạp, đã cho nhân vật tiếp xúc với nhiều loại người tốt xấu khác nhau, đã buộc ông phải suy nghĩ trên những câu hỏi hóc búa về cội nguồn của sự bất công, về bản chất của thói độc ác, đê tiện… và qua đó đã chiếu sáng nhân cách nhân vật từ các góc độ khác nhau. Aimatop đã hoàn toàn đúng khi ông nhận định rằng những người như E-đi-gây là “chỗ dựa của trái đất.” Nếu tuyến cốt truyện thứ nhất giới hạn trong phạm vi một không gian và thời gian chật hẹp và mang tính chất cụ thể – lịch sử, thì với tuyến cốt truyện thứ hai – tuyến huyễn tưởng – tác giả đã đưa người đọc vượt ra khỏi ranh giới một quốc gia, một chế độ xã hội và những suy nghĩ của nhà văn mang tính chất toàn cầu trước thực trạng đáng lo ngại của hành tinh chúng ta: cuộc chạy đua vũ trang, tình trạng đối địch và mâu thuẫn gay gắt giữa hai thế giới, thái độ không tin cậy lẫn nhau đã tước đoạt mất của toàn nhân loại nhu cầu và nguyện vọng chính đáng được sống và phát triển trong hòa bình, đã gây nên sự cách ly và tâm trạng hoảng sợ đối với việc tiếp xúc với một nền văn minh có trình độ cao hơn, hiện đại hơn. Phải chăng xã hội loài người trên hành tinh “Bộ ngực rừng” là hình ảnh tương lai của hành tinh chúng ta khi nhà nước không còn nữa, khi con đường tiến hóa của loài người nằm ngoài những hình thức giải quyết mâu thuẫn bằng chiến tranh, khi một nền hòa bình trường cửu được thiết lập? Chính tinh thần cao cả […] trước nguy cơ của một cuộc chiến tranh hủy diệt đang đe dọa loài người đã thôi thúc nhà văn thông qua những hình tượng ẩn dụ để nói lên những ý nghĩ nung nấu ấy. Và chính vì thế Và một ngày dài hơn thế kỷ không chỉ là một bài ca tuyệt vời về lao động sáng tạo mà còn là một lời kêu gọi hòa bình tha thiết đồng thời là lời cảnh cáo đối với […] thảm họa hạt nhân và tình hình căng thẳng trên thế giới hiện nay. … Trong Và một ngày dài hơn thế kỷ, ngoài truyền thuyết, huyền thoại, bài ca, Aitmatov lần đầu tiên đã sử dụng yếu tố huyễn tưởng như một phương thức tư duy nghệ thuật nhằm làm nổi bật lên dưới dạng khuếch đại những điều trớ trêu phi lý trong hiện thực được miêu tả, nhất là ở thời đại của những phát minh kỳ diệu về khoa học kỹ thuật. Mời các bạn đón đọc Và Một Ngày Dài Hơn Thế Kỷ của tác giả Tchinguiz Aitmatov.
Nỗi Buồn Tháng Ba - Huyền Băng
Yến đã về Sài Gòn, Yến đã đổ Tòan phần và Yến đã có cơ hội vào đại học như lòng mong muốn. Nhưng tình cảm thì sao? Yến vẫn luôn nghĩ đến Sa và mong có một cơ hội nào gặp lại. Con đường dẫn vào sở mới bây giờ không là biển, không là những hàng dương. Chỉ là nhà, hết dãy nhà này đến dãy nhà khác, thỉnh thỏang được tô điểm một cây phượng vĩ cho đỡ buồn chán. Vào những buổi trưa Yến đứng tư lự hàng giờ ngắm nhìn cây phượng vĩ mà nhớ đến trời nước mênh mông nơi vùng xa tít đó. Trong tâm tưởng Yến, Yến mông lung không biết giờ này người ấy ở đâu, còn nhớ hay quên . . . và những người khác nữa! Nhiệm vụ mới của Yến bây giờ là theo đòan đo đạc. Yến rất thích những buổi chiều công trường lộng gió, đứng trên những ụ cảng theo dõi chiếc tàu sonar để định vị tọa độ và xác định độ sâu của lòng lạch, lòng cảng. Yến thích thú vì biết lúc nào nước lớn, lúc nào nước ròng. Nhìn những áng mây tratus, anto tratus, hoặc comulus để biết phải đi về hay tíếp tục làm việc. Yến lại có những người bạn mới cũng rất hòa nhã dễ thương. Nhưng hình ảnh của người cũ thì hình như cứ vương vấn mãi trong tim. Những bạn gái mới ở đây của Yến rất phá phách, cứ vào giờ nghỉ trưa là gọi điện chọc phá hết người này đến người nọ, họ làm quen nhau, rồi hẹn gặp nhau ở nơi nào đó, nhưng không ai chịu ra mặt, người này đưa người kia đến thể là chẳng ai biết ai cả. Trong những người họ chọc ghẹo có một tên, gọi điện đến gặp Yến, thế là hắn làm quen với Yến. Hắn có một giọng nói rất dễ mến, lại ăn nói rất lưu lóat, hắn tưởng tượng Yến là một cô gái tuyệt hảo, và hắn muốn gặp mặt Yến. Chính cái tưởng tượng tuyệt hảo, Yến nghĩ mình chỉ là một cô gái bình thường và thế là Yến từ chối gặp gỡ, và cũng không buồn nhận điện. Yến muốn tìm lại sự bình yên cho tâm hồn, Yến không muốn nghĩ ngợi gì đến những chuyện tình cảm linh tinh rồi mắc công sầu nhớ. . . Thế rồi Yến gặp lại Kha, và được biết mọi người đã đổi đi mỗi ngả gần hết, Kha nói: - Sa bây giờ đang làm chúa đảo. Nghe thì oai đấy nhưng Yến hiểu chẳng qua là bị đì ra quan ải mà thôi vì quá ba gai với xếp. Nhưng cũng tốt thôi vì nam nhi chí tại bốn phương mà. Nhưng đã thế thì khả năng gặp lại nhau là chuyện không phải dễ dàng gì! Suốt một tháng trời tàu neo ở cảng Sài gòn, Kha thường đến sở Yến chơi, tán gẩu lúc rảnh rang. Nhưng không hiểu sao cả hai chẳng ai nhắc nhở gì đến Sa, như là cố né tránh. . . Yến lại gặp một vài người bạn khác cũng vào đây công tác và Yến ước ao: Phải chi Sa cũng vào đây! Một buổi trưa, Yến đang cặm cụi bên tập san hải hành, thì một bóng dáng liu khiu quen thuộc xuất hiện bên cánh cửa, Yến ngẩng đầu lên và không tin vào mắt của mình. Tim Yến đập mạnh, và Yến buộc miệng hỏi một câu ngu ngơ mà không thể nào hiểu nổi: - Ủa đi đâu đây? - Tìm Yến chứ đi đâu? Sa đáp. - Anh vô đây hồi nào vậy? - Mới vô thôi – Anh đi học TMTC. Yến mời Sa lên câu lạc bộ để nói chuyện, trong khi Hòa, một sếp mới của Yến đang cau mày khó chịu. Câu lạc bộ của sở, rất ồn ào, rất đông đúc, Sa nói Sa vào đây học 2 tuần, cả hai lại nói những chuyện vu vơ như đã từng nói, nhìn vào khuôn mặt ngổ ngáo đó, Yến thấy vẫn đáng yêu như ngày nào, Yến khoe Yến đã đổ tòan phần, Sa khoe Sa sắp được thăng chức. Nói lòng vòng thì Sa lại nhắc lại chuyện của một năm trước, đó là chuyện ông bà già hối thúc Sa cưới vợ. Yến nghĩ, cả hai cần phải có một khung cảnh nào đó để nói chuyện thỏai mái hơn, tự nhiên hơn. Yến mời Sa đến nhà chơi, và Yến nghĩ trong khung cảnh gia đình, Yến không còn mặc cảm một người lang bạt, và Yến có thể nói chuyện một cách chân thành hơn. Thế là Yến hẹn Sa vào chiều thứ bảy, và Yến nghĩ mình sẽ làm một bữa cơm đãi Sa. Ở đó Sa không có phương tiện, Sa bảo sẽ đến cùng một người bạn và Yến đồng ý. Yến mong cho mau đến cuối tuần để có những giây phút đối đãi với nhau một cách thực lòng. Chiều thứ bảy đến, vừa tan sở Yến vội vã về nhà ngay để chuẩn bị buổi cơm chiều, nhà bấy giờ thì chỉ có ba mẹ và Yến thôi, chị gái thì đã đi lấy chồng, ông anh thì đi làm xa. Dựng xe vào nhà Yến thấy không khí sao yên lặng một cách lạ lùng, Yến hỏi mẹ: - Chiều nay mẹ nấu gì ăn vậy? Con đi chợ mua thêm đồ ăn nghen? Mẹ Yến đáp: - Ăn uống gì nỗi mà ăn! Mặt mẹ Yến buồn rầu! Yến hỏi: - Chuyện gì vậy? Mẹ Yến đáp: - Không biết ai thưa gởi gì trên bót, họ xuống mời ba con lên bót rồi? Yến tần ngần, chết lặng. Và tự hỏi: - Chuyện gì nữa đây? Sống trong cái thời lọan lạc, người thương kẻ ghét, không biết chuyện gì đã xảy ra cho ba nữa. Niềm vui háo hức đón tiếp Sa như một quả bóng bị xì hơi. Và Yến không lòng dạ nào đi chợ nấu nướng hay làm một cái gì nữa. Hai mẹ con ngồi ủ rủ và lâm râm khấn nguyện cho ba tai qua nạn khỏi. Lúc đó ba Yến cũng đã lớn tuổi rồi, nhưng không biết liên quan đến việc gì mà bị mời lên bót (Lúc đó Yến không nghĩ gì đến chuyện chính trị). Mẹ Yến lại mang cơm vào cho ba vì họ còn thẩm tra gì đó. Sa đã đến với một người bạn, Yến pha cho họ hai ly cà phê với lời xin lỗi vì nhà có việc không thể làm cơm đãi họ, Yến không thể giải thích việc ba mình bị mời vào bót vì một lý do chưa rõ. Yến nói chuyện qua loa để khỏa lấp cái không khí không giống ai của ngày hôm đó. Hôm đó Sa bệnh, Yến đưa Sa một cái khăn mù soa, và một quyển tiểu thuyết để đọc lúc rổi rảnh. Và rồi chia tay. Ở đây Sa không có phương tiện cũng như thời gian, và Sa đã ghé sở Yến lúc Yến không có mặt, với quyển tiểu thuyết và mấy giòng chữ trong mãnh giấy ghi vội: Tạm biệt, Sa phải đi gấp. Mãnh giấy mà Yến còn mãi giữ sau nhiều năm. Yến cảm thấy định mệnh với mình quá trớ trêu. Tháng ba năm 1975, khi dòng người di tản từ miền Trung vào Nam, Yến không hiểu những bạn bè của mình ở ngòai đó ra sao. Yến nhớ những người đã từng giúp đỡ mình trong những tháng ngày xa xứ, Yến nhớ đến chú thiếm Nghiệp là người đã hết lòng giúp đỡ mình trong những khi tối lửa tắt đèn. Yến nghĩ đến cảnh họ phải chen chúc sống trong những liều tạm cư thiếu thốn. Yến xin phép nghĩ một ngày để đi tìm họ, nếu cuộc sống ở đó có quá khó khăn, Yến có thể mời họ về nhà ở tạm chờ ổn định. Trên con đường vào căn cứ Cát Lái, Yến miên man suy nghĩ, cuộc diện rồi sẽ đi về đâu, mọi người rồi sẽ ra sao? Trời hôm đó là tháng ba, nhưng nắng không gắt, bầu trời có vẽ u ám của trời thu hơn là trời hạ. Vượt qua nhiều căn liều tạm cư để đến khu của những người đến từ xứ Khánh, Yến gặp Chú Sùng, một người cùng sở mà cũng cùng một dãy nhà với Yến ở nhưng là cuối dãy, Yến muốn tìm vợ chồng chú Nghiệp, hai vợ chồng sát bên nhà Yến, luôn giúp đỡ Yến như người thân. . . nhưng không gặp. Chú Sùng nói: - Ông Sa cũng vào đây rồi! Yến đáp: - Vậy hả! Mà lòng buồn vô hạn. . . Yến chào chú để đi tìm những người kia, và quay ra; Sa từ ngòai bước vào bốn mắt nhìn nhau, không biết có phải mừng vì tình cờ gặp lại nhau không cả hai chạy ào đến trước mặt nhau và như muốn ôm chầm lấy nhau, nhưng cả hai đều dừng lại ở một cự ly thật gần, và rồi lại giữ khỏang cách như ngày nào. Sa hỏi Yến; - Đi đâu đây? Yến đáp: - Nghe mấy người di tản vào đây, Yến nghĩ chắc chú thiếm Nghiệp cũng vào, trong khi Đòan còn nhỏ quá sợ ở đây cực khổ, Yến định tìm họ kêu họ về nhà mình ở đỡ. Sa đáp: - Anh không thấy họ trong đòan người này, có lẽ họ không di tản. Yến hỏi: - Còn anh thì sao? Sa cười với con dấu trong tay: - Lưu vong chớ còn sao! Yến nhìn Sa như muốn hỏi gì nhưng ngại không hỏi? Và có lẽ Sa hiểu nên nói: - Anh cưới vợ rồi! Giọng Sa trầm xuống: - Bốn tháng rồi! Yến nghe lòng mình thật xốn xang, bối rối. Như vậy là sau mới đây thôi. Cuộc gặp gở lần chót ở nhà Yến không cho Sa một ấn tượng nào để có một quyết định khác hơn... Không biết mặt Yến có đổi sắc không nhưng giọng thì hơi lạc đi: - Thế à? Vậy vợ đâu rồi? Gương mặt Sa sầm xuống: - Ổng bà cứ bắt cưới hòai thì cưới cho ông bà vừa lòng chớ biêt sao bây giờ! Cưới rồi để ở đó với ông bà đến nay chưa về lại. Yến không hiểu mình nên buồn hay vui khi nghe những lời như thế. Nhưng Yến vẫn nói với Sa: - Anh làm thế đâu được, đã cưới thì phải quan tâm tới người ta chứ! Trời đã về chiều, Yến phải về thôi, Sa đưa Yến ra cổng đề về . . .Trong khỏang thời gian mà tâm trạng ai cũng hoang mang hỏang lọan mọi suy nghĩ vu vơ nhường chỗ cho bao suy tư trăn trở về đất nước, về một tương lai một số mệnh mà không ai biết mình sẽ ra sao và đi về đâu. Hòa xếp mới của Yến đề nghị Yến cùng gia đình theo Hòa di tản, nhưng ba Yến thì không, ông là một người yêu nước đến độ cực đoan, ông không chấp nhận xa quê hương xứ sở dù bất cứ lý do gì? Và việc Yến ở lại coi như là một việc hiển nhiên. Có lẽ Sa đã theo đòan lưu dân ra đi kể từ ngày đó. Và cơ hội gặp lại nhau chỉ còn là mộng tưởng. Thỉnh thoảng Yến nhớ lại những tình cảm vụn dại, vu vơ mà cười buồn với chính mình rồi tự nhủ: tử vi của mình thân mệnh bị tuần triệt án ngử nên việc gì cũng chẳng hanh thông, thôi thì "Trôi theo dòng đời vậy.. " ... Mời các bạn đón đọc Nỗi Buồn Tháng Ba của tác giả Huyền Băng.
Ngửa Mặt - Du Tử Lê
Du Tử Lê sinh năm 1942 tại huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, miền Bắc Việt Nam. Sau Hiệp định Genève, 1954, Lê Cự Phách di cư vào Nam cùng với gia đình. Đầu tiên ông định cư ở Hội An, Quảng Nam, sau đó là Đà Nẵng. Đến năm 1956, ông vào Sài Gòn và theo học trường Trần Lực, trường Chu Văn An, sau cùng là Đại học Văn Khoa. Ông làm thơ từ rất sớm, khi đang còn học tại trường tiểu học Hàng Vôi tại Hà Nội. Sau khi di cư vào Sài Gòn, Du Tử Lê bắt đầu sáng tác nhiều tác phẩm dưới nhiều bút hiệu khác nhau. Bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức lần đầu tiên vào năm 1958 cho bài "Bến tâm hồn", đăng trên tạp chí Mai. Du Tử Lê từng là sĩ quan thuộc Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, cựu phóng viên chiến trường, thư ký tòa soạn cuối cùng của nguyệt san Tiền phong (một tạp chí của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa), và là giáo sư dạy giờ cho một số trường trung học Sài Gòn. Năm 1973 tại Sài Gòn, ông được trao Giải thưởng Văn chương Toàn quốc, bộ môn Thơ với tác phẩm Thơ tình Du Tử Lê 1967-1972. Ngày 17 tháng 4 năm 1975, Du Tử Lê cùng với Mai Thảo và Phạm Duy bị kết án tử hình vắng mặt trên đài phát thanh của Mặt trận giải phóng Miền Nam vì có thái độ chống đối cộng sản quyết liệt. Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông sang tỵ nạn bên Hoa Kỳ. Hiện ông đang sống ở miền Nam California, tiếp tục nghề viết, và là nhân viên khế ước của đài tiếng nói Hoa Kỳ từ năm 1996. Ông cũng từng là chủ nhiệm các báo Việt ngữ Nhân chứng, Tay Phải, và Văn nghệ ở Hoa Kỳ. *** Nhự hơ hãi đem hung tin đến, tôi. Tôi lặng người không dám mở mảnh giấy nhỏ ra đọc. Còn đọc gì được. Mới nghe Nhự nói, chưa rõ đầu đuôi nước mắt tô đã chạy vòng quanh. Nhự cũng lúng túng, loay hoay hết nhìn tôi lại ngoái vào trong. Tôi nắm chặt hai tay, mím môi, nghiến răng để khỏi bật tiếng nấc. Mẹ tôi từ nhà trong đi lên, thấy cảnh hai đứa khác thường, giữa cửa, chắc bà cụ cũng ngạc nhiên không ít nhưng may mắn là người không tỏ dấu nghi ngờ gì. Mẹ tôi bảo, sao các con không vào hẳn trong này. Bàn ghế đó, thiếu đâu mà đứng như vậy kìa, Nhự chào mẹ tôi, nói đỡ, vâng, bác mặc chúng con. Để chúng con ra vườn cho mát. Mẹ tôi không nhìn, rẽ vào buồng bên nói, ừ, hay ra vườn cũng được. Các cô lại thèm đồ chua rồi chứ gì. Nhự cố cười, bác nói trúng ý cháu quá, làm cháu mắc cỡ, cháu định xin bác mấy trái khế. Nhự nói và kéo tôi đi xềnh xệch. Mắt tôi hoa. Đầu tôi choáng váng. Tôi không còn nhận được bất cứ một sự gì ở chung quanh. Người tôi hình như đang lả dần, héo rũ như thân cây chờ phút rã mục. Gân cốt trong người tôi nhão ra, người tôi mềm nhũn. Tôi tựa người vào Ngự, bước những bước chập chờn đầy hình ảnh chàng. Chàng và Yến, Yến, con... tôi muốn tìm một tiếng nguyền rủa thậm tệ nào đó, dành riêng cho Yến. Nhưng tôi không thể mở miệng được. Tựa lưng vào thân cây khế, tôi ngả đầu vào vai Nhự. Những bông hoa khế nhỏ xíu xinh xinh màu tím nhạt lay động trên đầu tôi. Tôi bắt đầu nức nở. Tôi khóc giữa những lời an ủi vỗ về của Nhự. Trong một thoáng, cùng lúc, những ý tưởng mâu thuẫn, lộn ngược dầm dập lóe trong óc tôi. Tôi sẽ bỏ chàng. Phải, em sẽ bỏ anh, em không thể yêu anh được nữa. Làm sao em yêu được anh, khi chính anh, đã phản bội tình em, khi chính anh đã từ chối đã phủ nhận tình yêu đó. Anh không còn xứng đáng với tình yêu của em nữa. Hết. Thế là hết. Hết, nghĩa là chúng ta không bao giờ gặp nhau. Em sẽ đi lấy chồng. Em sẽ thuộc về người khác. Anh sẽ vào ngồi tù, anh sẽ bị tử hình có thể. Anh sẽ chết, nhục nhã, dần mòn. Anh sẽ chết một mình, lẻ loi. Anh sẽ chết, một mình, không có em ở bên cạnh. Không. Không thể như thế. Anh vô tội. Em tin chắc là anh vô tội. Có đáng tội chăng là Yến, Yến. Chính cô ta. Chính con nhỏ đó. Chính nó. Trời ơi. Chính nó. Nó đã giết đời anh. Nó đã giết đời em. Nó đã giết cuộc tình mình. Không. Em không thể để anh vào tù, em không thể đứng đợi ngồi trông tin anh ra tòa, lãnh án một cái án tử hình. Tử hình. Anh. Anh của em. Không em sẽ giết anh. Không kẻ nào khác hơn em, có quyền giết anh. Em sẽ dành cho bằng được cái quyền cuối cùng ấy, về đời anh. Tôi đưa tay gạt nước mắt; lắc đầu để xua đuổi tất cả những ý nghĩ hắc ám dật dờ. Nhự ái ngại lau những giọt lệ còn đọng trên má tôi. - Phải bình tĩnh mới được, Thục. Sự thể đã đến thế. Tất nhiên không thể không buồn, không khổ. Nhưng còn có những vấn đề khác quan trọng, khẩn cấp hơn mà mình phải tính ngay mới kịp và thiết thực hơn, ngay bây giờ phải xem Tự sống ra làm sao, ở đâu. Phải hỏi Tự xem Tự định thế nào. Giờ thì chỉ còn Thục, mà Thục không bình tĩnh nữa là hết... Không cứu vãn được gì cả. Nghe Nhự nhắc tới tình trạng hiện tại của Tự, tôi mới sực nhớ, không biết giờ này, chàng ở đâu. Tôi hỏi Nhự, Nhự lắc đầu: - Nhự cũng đâu có biết. Mảnh giấy này do Hiệp đưa lại. Nhự có hỏi chỗ ở của Tự, thì Hiệp bảo, mọi liên lạc qua Doãn. Chỉ có một mình Doãn biết rõ chỗ ở của Tự mà thôi. Tôi nóng nảy: - Hay là mình Doãn ngay bây giờ, Nhự. Nhự ngập ngừng: - Cũng được. Nhưng làm sao đi, khi mắt Thục đỏ hoe thế này. Bác sinh nghi, hỏi vặn vẹo thì sao? Tôi nhíu mày, trừng mắt, cương quyết: - Thục đã có cách, Nhự cứ để mặc Thục. Tôi nói rõ mưu định của mình xong bỏ mặc Nhự ngoài vườn tôi vào nhà, lên gác thay quần áo thật nhanh. Mẹ tôi đã đứng đợi sẵn ở dưới chân thang. Bà cụ hỏi: - Con có chuyện gì mà đi gấp gáp quá vậy. Con có vẻ hoảng hốt lắm. Mẹ lo quá. Chuyện gì vậy Thục. Con. Mẹ tôi nắm lấy bàn tay tôi còn trên thành vịn. Tôi lao đao mất thăng bằng ngã dúi vào người mẹ tôi. Người ôm gọn tôi, giữa lúc nước mắt tôi lại trào ra, dàn dụa. - Sao vậy con. Con Thục kìa. Con lạ quá. Có chi sao không nói cho mẹ biết. Con cứ nói đi, mẹ hứa, dù là chuyện gì, mẹ cũng không rầy la con đâu. Con đừng sợ. Tôi gượng người, lấy lại thăng bằng và bình tĩnh. Tôi nói với người, trong khi mặt cúi gầm, ngó xuống: - Thưa mẹ, không có chuyện gì cả. - Có mà. Có chuyện gì đó thì con mới khóc như vậy chứ. Nói đi. Nói đi, mẹ tha thứ hết. Lúc nào mẹ cũng thương con. Thương con hơn hết, hơn cả các anh, các chị con, con biết thế chứ. - Vâng. Con biết. - Vậy sao không nói cho mẹ nghe chuyện gì đó. - Con không muốn nói, vì con định dấu mẹ. Mẹ tôi âu yếm vuốt tóc tôi. Những ngón tay người nhẹ nhàng vuốt tóc ở hai bên má tôi, thả thẳng về phía sau, chậm rãi: - Mẹ biết mà. Mẹ biết con có chuyện buồn. Chuyện gì buồn lắm. Nên con mới hốt hoảng, nên con mới khóc như vậy. Nào. Thôi, con gái cưng của mẹ, nói cho mẹ nghe đi, chóng ngoan mẹ cưng nhiều. (Mẹ tôi cười cười ghé sát mặt tôi) gớm, con gái lớn thế này, như ngày xưa là mẹ đã có cháu ngoại bồng rồi, chứ chơi đâu, mà nhõng nhẽo hoài à. Tôi không thể cười được, dù rất muốn cười để mẹ tôi hài lòng. Tôi nói từng tiếng: - Cô giáo con bị đau nặng, phải vào nhà thương, chắc khó qua khỏi. Con xin phép mẹ cho con đi với Nhự thăm cô. Mẹ tôi tròn mắt, bán tín bán nghi: - Cô giáo con. Thật không? Cô nào? - Cô Mùi. Cô dạy Pháp văn. Cái cô thương con nhất lớp mà con vẫn kể chuyện mẹ nghe đó. - À. À. Cô Pháp văn. Có thế thôi sao? Chỉ thế thôi mà con làm mẹ hết hồn. Mẹ đã tưởng chuyện gì. - Thế mẹ tưởng chuyện gì. Tôi ngước mắt nhìn mẹ tôi. Người lúng túng lảng tránh: - Ờ. Mẹ tưởng, tưởng có chuyện gì quan trọng hơn thế nữa xảy đến cho con. Tôi thu hết can đảm, nói một mạch: - Giờ con chẳng còn chuyện gì quan trọng nữa. Con không còn thiết tha một điều gì. Mẹ cứ yên tâm, con bây giờ sẽ sống như một cái máy. Một cái bóng trong căn nhà này. Con sẽ sống mãi như vậy. Chịu đựng mãi như vậy, để mẹ và ba vừa lòng. Con sống giờ không còn là cho con nữa. Vì đời sống con, chỉ có một cần thiết, là tình yêu, là cuộc tình của con và Tự. Nhưng mẹ đã không bằng lòng. Mẹ đã bắt con phải chọn lựa giữa mẹ và Tự. Con đã nghe mẹ. Con đã bỏ Tự. Bỏ Tự là bỏ lẽ sống của đời con. Bỏ Tự là bỏ nguồn hạnh phúc, là bỏ ánh sáng bỏ khí trời, bỏ tương lai, bỏ tất cả những gì lẽ ra ngày mai, đời con sẽ có. Đời con sẽ được hưởng. Nhưng con vẫn nghe mẹ, con vẫn bỏ Tự. Con đã bỏ Tự. Con đã nói cho Tự biết điều đó, và mẹ yên tâm, mẹ có thể yên tâm hoàn toàn, vì... Vì Tự đã không còn nữa. Không. Cơn xúc động nghẹn ngào lại làm tôi ứ đầy cổ tôi. - Sao con nói sao? Nó không còn nữa? Không còn nữa? - ... - Nó đã chết rồi. Làm sao nó chết? Ai giết nó? - Không. Không ai hết. - Vậy sao nó chết? - Không. - Thế nghĩa là sao? - Con. - Con giết nó? - Mẹ nghĩ thế cũng được: Mẹ không hài lòng sao? Nói xong, tôi mới biết mình lỡ lời. Nhưng đã muộn. Mẹ tôi hét lên: - Trời ơi. Con tôi. Nhự chạy vào, ngơ ngác: - Thưa bác, có chuyện gì đấy ạ. Mẹ tôi vừa khóc vừa đưa tay phân bua, Nhự nghe xong lắc đầu: - Thưa bác, theo chỗ cháu biết thì không có chuyện đó. Làm gì có. Bác đừng lo. Mẹ tôi ngừng khóc, chỉ tay vào tôi: - Thì đó, cháu xem. Chính nó nói ra miệng chứ ai. Nhự cằn nhằn: - Thục bậy quá (quay sang mẹ tôi), con xin bác đừng để ý. Thục nó bị giao động mạnh về chuyện cô Mùi vào nhà thương, nên nó nói lung tung không đâu vào đâu hết. Bác thì còn lạ gì tính Thục nữa. Cô ta chỉ cần một chuyện nhỏ thôi cũng đã đủ để hoảng hốt ầm ĩ lên được. Thôi có đi thăm cô Mùi thì đi để không có trễ rồi Thục. Tôi lấy khăn lau nước mắt nhìn mẹ tôi tần ngần. Tôi muốn nói một lời xin lỗi, hay tỏ dấu ân hận về hành vi nông nổi thiếu suy xét vừa qua mà sao tôi không thể mở miệng được. Cuối cùng, tôi nắm tay mẹ tôi: - Mẹ. Con lúc này, như điên như mất trí. Con không biết là con đã nghĩ gì và đã nói những gì với mẹ. Mẹ thương con. Mẹ đừng buồn con, nghe mẹ. Mẹ tôi lắc đầu: - Không. Mẹ thương con. Mẹ không bao giờ giận con hết, Mẹ biết con mẹ lúc này đang khổ sở, đang rối loạn. Mẹ không giận con đâu. Mẹ chỉ mong, thời gian sẽ giúp con quên dần nó. Thời gian sẽ giúp con lần lần bình tĩnh trở lại. Mẹ chỉ mong, chỉ cầu xin có thế thôi. - Mẹ đừng nói nữa mẹ. Mẹ nói thêm con lại khóc bây giờ. Con khổ quá. Mẹ biết không. Con không ngờ đời con lại khổ đến thế này. - Thì thôi, mẹ không nói nữa. Thôi con đi đi, Mẹ biết mà. Tôi thất thểu theo chân Nhự tới Doãn. Doãn tiếp chúng tôi bằng đôi mắt lạnh lùng, nghiêm khắc, như có phần oán trách thù ghét. Doãn bảo, chờ tôi một chút, thay quần áo, xong tôi đưa hai chị đi. Chiếc Taxi chạy quanh co một hồi. Cuối cùng tôi nhận ra khu bến tàu. Xóm Cầu khỉ. Nhự nói, khi Doãn bảo xe ngừng ngoài lộ chính. Chúng tôi xuống xe, lầm lũi theo chân Doãn rẽ vào một con đường đá dăm. Suốt từ lúc ra xe cho đến khi bước xuống, Doãn hút thuốc liền tay, ngậm miệng không nói một tiếng. Tôi dồn hết mọi khả năng chú ý, ghi nhận để lần sau có thể đến một mình. Đây là khu xóm lao động như trăm ngàn khu xóm lao động khác trong thành phố. Nhưng điểm đặc biệt của nó là khi bỏ con đường đá dăm, rẽ vào lòng xóm, người ta không có một đường đi nào, khác hơn bước lên những cây tre mảnh, hờ hững trên những trụ cột bằng xi măng hay gỗ, đó sâu xuống lòng đất bùn. Nước lấp xấp một mầu đen tanh tưởi, đầy những lăng quăng và rác rến. Càng vào sâu lòng xóm càng mở rộng những ngã rẽ với những thân tre nhỏ hơn, chỉ vừa đủ một người đi. Trong lúc di chuyển, chẳng may ở một góc nào đó, có người đi tới, một người lùi lại, đứng chéo chân ở một ngã ba hay ngã tư của hai chiếc cầu, cho kẻ kia đi qua. Với một người không quen như tôi, chỉ một chút sơ xảy nhỏ, là có thể té ngả dầm mình xuống nước bùn. Dù rón rén gượng nhẹ tránh được những tiếng kẽo kẹt của mấy cây tre vẫn uốn rung dưới chân tôi. Nhự đi trước, ngay sau Doãn, dơ tay ra phía sau cho tôi nắm. Dân trong xóm nhìn lũ tôi như một bầy quái vật. Họ hướng những con mắt nghi kỵ, gian giảo, tra khảo vào chúng tôi. Lũ trẻ con trần truồng, đứng tồng ngồng trong những căn nhà mái lá chạm sát đầu chúng. Nắng trưa làm tôi hoa mắt tư tưởng nhão chảy, tan lẫn, bầy nhầy cùng cảnh vật và bùn nước. Hình như không có một ý nghĩ nào đậu được lâu trong tâm hồn tôi. Mọi thứ đều rời rã, chia tay, cách biệt. Đôi bận, tôi muốn nhắm mắt, mặc cho chân đưa, thả lỏng thân xác cho rủi may, bất chợt. Không nghĩ về Tự, không nghĩ về gia đình, về mẹ tôi, ba tôi, các anh, các chị, về những khó khăn đã thành hàng rào thẳng ngọn, đang chắn ngang trước mặt tôi, tôi cũng không còn đủ trí nhớ để tưởng đến một chuyến đi xa không thành, những ngày đi làm đã gần đến. Tôi không biết gì hết, ngay cả những bước chân tôi đang ngập ngừng, sẻn dè tiến tới. Qua hết những chiếc cầu khỉ, chúng tôi đặt chân lên một con đường đất đỏ. Tới đây, nhà cửa có phần cao ráo hơn, nước trong và đầy. Con đường đất đỏ, chia hai khu nhà, mặt quay vào lòng sông Doãn chậm chận, quay lại nói: - Sắp tới rồi. - Xóm này tên là Cầu Khỉ phải không anh? Nhự hỏi. - Phải. Sao chị biết? Nhự cười bí mật, không đáp, mắt lơ đãng nhìn lên khoảng trời xanh cao vừa thấy được, Doãn đốt một điếu thuốc khác, vẻ hằn hộc đã lặn tan, trở lại trên gương mặt xương xẩu, khắc khổ của Doãn vẻ lạnh lùng phẳng lặng cố hữu. Thọc tay vào túi Doãn đi thản nhiên như một người đang bách bộ. Nhự lùi chân, ngang với tôi: - Liệu có nhớ được đường vào không? Tôi thở hắt ra, lấy khăn lau mồ hôi. - May ra, nếu lúc về đi đường cũ. - Rồi sau đây tính sao? Tôi cúi nhìn những ngón chân tụ máu lòi ra khỏi quai dép, chậm rãi: - Chưa biết. Mà cũng chả biết phải tính sao. Nhự lắc đầu bỏ thỏng: - Tội nghiệp. Tôi không biết Nhự dành cho ai trong lũ chúng tôi, hai chữ ấy. Ai. Hay tất cả, tất cả, trong đó có Nhự, có mọi người, có cả những kẻ ở trên bốn năm tầng lầu và tất nhiên, luôn cả những kiếp người chui rúc trong xóm Cầu Khỉ này. Bỗng dưng, tôi buột miệng bảo Nhự: - Muốn chết cho rảnh, Nhự ơi. - Bậy nào. Nhự nắm và bóp mạnh tay tôi. - Thật đó. Chết. Muốn chết quá. Cho xong. - Điên? - Đến rồi. Tiếng Doãn chặn tắt câu nói vừa thoát khỏi họng tôi, nửa chừng. Một câu gì đó, mà chính tôi cũng không nghe được. Doãn nhích tấm cửa làm bằng tôn cao bồi (1), cúi đầu bước vào. (1) loại tôn mỏng có in nhiều hình vẽ xanh đỏ. Căn nhà tối thầm thẩm. Nước róc rách chuyển mạnh dưới tấm ván láng bóng. Mùi hôi hám làm tôi phải nhăn mặt, muốn hắt hơi. Doãn đánh tiếng: - Chị Tư Xệ có nhà đó không? Sâu hút bên trong, có tiếng chân xê dịch nặng nề, rồi một thiếu phụ trạc tuổi gần bốn mươi, hiện ra ở khung cửa giữa, nối liền hai gian nhà. Chị chàng mặc một chiếc áo bà ba xanh có chấm hoa lớn mầu đỏ. Mấy nút áo ngực bung hết, trên tay chị, đứa con trai cỡ độ hơn một năm, đã ngủ, nhưng miệng vẫn cắn chặt vú mẹ. Chị Tư Xệ (đúng là người đàn bà mà Doãn vừa hỏi đó) dợm bước tới, rồi lại ngập ngừng như muốn lui, ngó sững chúng tôi. Doãn vội lên tiếng trước: - Doãn đây mà chị Tư. Doãn bạn của Long Đầu Bạc đây, chị quên rồi sao? Chị Tư Xệ hề hề, lúc lắc cái đầu xù một đầu dầy tóc, quăn tít. - À. À. Ủa anh đó sao anh Hai. Tối quá. Tui nhận không ra. Doãn tiến tới sát gần, đưa tay vờ vờ thằng nhỏ: - Ảnh đâu chị Tư. - Ảnh đi xe từ hồi sớm. Ai dậy anh Hai? Chị Tư Xệ hất hàm hỏi. Doãn quay lại: - A, mấy cô em của Thầy Ba đó chị. - Dậy hả. Mời các cô ra ngoài này cho mát. Chị Tư Xệ quay lưng, chậm chạp, bước. Doãn làm vẻ quen thuộc chỉ ghế cho chúng tôi ngồi, xong ngước mắt nhìn lên chiếc cầu thang ở góc phải căn buồng. - Xấp nhỏ đâu chị? - Ai. Anh Hai. Chị Tư đặt con xuống chiếc đi văng kê sát vách, lom khom cài nút áo hỏi lại Doãn. - Thì xấp nhỏ nhà, chứ ai chị Tư. Chị Tư cười nhìn tôi: - Ấy, chúng chạy chơi đâu đó anh. Ờ để tui đi rót nước mời đã chứ há. Doãn xua tay, Nhự mau mắn: - Thôi được rồi chị Tư. Mặc tụi tui mà. Coi như người nhà hay bà con lối xóm đi cho tiện chị Tư. - Ờ, dậy hả. Dậy cũng được à nghen. Ủa, mà hai cô đây là bà con với thầy Ba sao? - Chỉ có cô này thôi chị (Nhự chỉ tôi), còn tui là bạn, bạn là bạn đó vậy mà chị Tư, Nhự cười liếc mắt nhìn tôi. Tôi đưa mắt hỏi Doãn, Tự đâu. Doãn đằng hắng: - A, có thầy Ba trên đó không hà, chị Tư? - Có. Có đó anh Hai. Suốt từ sáng giờ thầy ấy hổng có bước xuống đây. Ngó bộ thầy ấy buồn bã quá đi anh Hai ơi. Ba xấp nhỏ, trước khi đi xe có nói với thầy ấy, cần gì cứ bảo tui hay gọi xấp nhỏ cũng được. Hoặc có buồn nữa thì đi chơi loang quanh lối xóm đây cho khuây khỏa đó mà. Nhưng thầy ấy, hổng đi đâu hết. (Bỗng chị ta hạ thấp giọng thầm thào, nghiêm trọng) mà thầy ấy bị chi dậy anh Hai? Doãn chặc lưỡi, nói nhỏ: - Trốn lính. - Dậy hả. Chị Tư vẫn tròn mắt. Tội nghiệp. Còn trẻ quá mà, trốn chi cho khổ cái thân không biết nữa. Í mà, nghe nói bạn của anh Long, Ba bầy trẻ đây, cũng như tui, quí lắm anh Hai ơi. Chả là ba xấp nhỏ và anh Long là bạn cùng mần ăn từ ngày xưa đó anh Hai. Tự hồi chưa lấy tui lận. Doãn cười, rút thuốc mời: - Hút chơi điếu đi Chị Tư. - Dà. Chị Tư Xệ vừa đáp vừa đưa tay nhón một điếu thuốc gắn lên môi một cách thành thạo. Doãn bật lửa. - Tụi tui lên gác chút nghe chị Tư. - Dà, mời, mời anh Hai và hai cổ lên đó chơi. Thầy Ba ở trển đó. Tội nghiệp, tội nghiệp. Những tiếng sau được chị kéo dài ra, ê a như phường tuồng. Doãn ra dấu cho chúng tôi theo chân lên gác. Thật không ngờ một căn nhà gỗ lại có thể có một căn gác lửng kín đáo như thế này. Nhờ hai cánh cửa sổ bên hông và một hàng lan can nhỏ, mở vào lòng sông, nên ánh nắng chan hòa căn gác. Tự quay lưng lại chúng tôi. Chàng đang tỳ tay trên thành gỗ lan can, đầu cúi xuống mặt nước. Thoạt thấy chàng, tim tôi đập mạnh, không bước được nữa. Bao mạch máu trong người tôi như ứ đọng ngừng nghỉ. Những hạch nước mắt ở hai thái dương như chỉ chực chờ tuôn trào. Tự quay lại. Tôi thấy chàng với đôi mắt sâu hoắm, hai gò má nhô cao, nước da xạm tái. Trong một hoàn cảnh khác, chắc tôi không dám quả quyết đó là Tự. Đó là người tôi từng ngất trong tay. Đó là người mà tôi đã tự nguyện hiến dâng cả đời mình, cho một ngày mai có thể đen tối, có thể thảm thiết. Tự. Tự. Tôi nghẹn ngào không gọi thành tiếng. Tự. Tự. Tôi rũ liệt toàn thân, bủn rủn muốn ngã. Tự. Tự. Chàng chập chờn bước vào. Tự. Tự. Chàng lao tới đỡ tôi trước khi tôi quỵ ngã xuống sàn gỗ. Anh. Anh. Tôi quờ quạng bên mặt chàng, đẫm ướt. Anh. Anh. Tôi bấm cả mười ngón tay trên ngực, trên vai chàng. Anh. Anh. Tôi cắn nghiến môi tôi để thấy mình còn tỉnh, còn thức. Đây không phải là cơn mê. Đây không là giấc mộng. Đây là sự thực. Một sự thực bật máu. Một sự thực trừng trừng, trợn ngươi. Sự thực như một giả tưởng, một ảo ảnh. Chúng tôi cùng ngồi bệt xuống sàn. Tôi vẫn chưa thể lấy lại được bình tĩnh. Tôi dấu mặt mình vào ngực Tự, trong khi chàng ôm lấy mặt tôi, và tỳ cằm lên đầu tôi, im lặng. Doãn xuống thang gác. Nhự ra ngoài lan can, ngó xuống dòng sông. Đợi một lúc lâu, khi tôi lần lần tỉnh lại, Tự nâng cằm tôi lên, nhìn thẳng vào mắt tôi. Con mắt chết cứng, con mắt trợn trừng, con mắt nghiêm lạnh, đe dọa, tàn nhẫn. Tôi rên rĩ, khép mắt: - Anh đừng nhìn em như thế. Tội nghiệp em với chứ. Không còn thương em nữa sao? Anh. Tự. Chàng đưa tay, ghì xiết lấy tôi. Tôi thấy hơi thở chàng dồn dập, đôi vai rung động. Chàng lại khóc. Tôi biết. Chàng đang khóc. Chàng mím môi, chàng nghiến răng để đừng bật thành tiếng nấc. Nhưng những giọt nước mắt nóng hổi của chàng theo làn tóc tôi, chảy xuống, ấm hai bên má. Tôi vẫn nép trong ngực chàng: - Em phải về. Em phải về. Em không thể ở đây. - Anh đuổi Thục? - Không phải thế. Không bao giờ. Anh... Khổ quá, anh không giải thích được. - Em hiểu. Anh khỏi cần nói. - Nhưng mà... - Nhưng mà cái gì? - Còn mẹ. Còn ba em. còn chung quanh... Còn..., còn đời em, dài lắm. Không được. - Không. Em đã có thái độ. - Không có thái độ gì hết. Em phải về. Em phải trở về. Em đối với anh, như thế này là quá đủ rồi. Anh không còn ước gì hơn nữa. Lúc chết, anh sẽ sung sướng nhắm mắt. Anh hạnh phúc hơn nhiều người khác. Anh đầy đủ lắm. Em đừng nghĩ gì đến anh nữa. Phải nghe anh mới được. Em đừng nghĩ gì đến anh nữa. Phải nghe anh mới được. Em. - Vâng, em nghe anh. Em sẽ về. - Ừ. Có thế chứ. Anh biết, em yêu anh. Em nghe anh. Em của anh, ngoan lắm... - Nhưng... - Nhưng gì nữa... - Em sẽ... - Làm sao? - Em. - Gì, em cứ nói đi. Thục, Thục ơi. Toàn thân chàng lại rung lên. Tôi cũng nghẹn ngào: - Em... em sẽ trở lại với... anh. Em không thể bỏ anh được, trong tình cảnh này. - Thôi. Anh van em. Anh xin em. Anh lạy em. Anh không muốn sau này em sẽ hối hận. Em sẽ oán thù anh. Em sẽ nhìn anh, như một kẻ giết hại đời em. Giết lần mòn tuổi trẻ của em. Em phải bình tĩnh. Phải thật bình tĩnh. Anh không còn gì cho em, để giúp em thực hiện những ước mơ của hai đứa nữa. Anh sẽ bị bắt, anh sẽ vào tù, anh sẽ bị xử bắn. Em. Anh van em, Thục. Anh lạy Thục. - Không. Em bình tĩnh lắm. Anh thấy không. Anh nhìn em đi. Nhìn vào mắt em đi, Thục của anh đây. Anh thấy em không. Em thật bình tĩnh. Em đâu có khóc nữa. Anh. Anh. Tôi vịn đầu chàng xuống. Chàng lắc đầu, tránh mắt nhìn của tôi. - Anh biết, anh biết em trọng nghĩa em trọng thủy chung, em cao cả. Em thánh thiện như thiên thần. Nhưng rồi em sẽ hối hận. Em sẽ đau đớn. Em sẽ khốn quẫn một đời vì anh. Còn ba em, còn mẹ em, còn gia đình còn xã hội, còn bạn bè en. Còn... Tôi đưa tay bịt miệng chàng: - Anh điên rồi. Anh sảng rồi. Anh hãy nghe em nói đã. Anh. Tự. Em sẽ ở bên anh, mãi mãi bên cạnh anh. Em tin anh, tin nơi em, tin nơi tình yêu của mình. Em không lý tưởng, em không lãng mạn một chút nào hết. Anh hãy nghe em. Quyết định này của em, chắc chắn sẽ làm ba, mẹ buồn, buồn lắm, buồn đến độ ba mẹ có thể từ em, không nhìn nhận em nữa. Nhưng một mặt nào khác, ở một góc âm thầm nào đó, của lương tâm, của tình người. Ba, mẹ sẽ hài lòng, sẽ hài lòng, sẽ âm thầm hài lòng về hạnh động của em. Rồi ba, mẹ sẽ hiểu em. Sẽ hiểu anh. Hơn nữa, trong trường hợp này, em không thể bỏ anh được. Không bao giờ, dù em có bị thế nào. Bình thường, em có thể bỏ anh, em có thể vì gia đình, vì lòng hiếu để, vì gì gì đó, em xa anh. Nhưng trong trường hợp này, hoàn cảnh này, thì không. Em nói: Không. Thà mai sau em hối hận với quyết định hôm nay của mình, khi anh phản bội tình em, còn hơn là em sẽ chết héo với cắn rứt lương tâm, của tình cảm tự nhiên, thuần khiết nơi tâm hồn em, nơi trái tim em. - Không. Thục. Anh muốn em nghĩ lại. Anh muốn em trở về. Trở về và suy nghĩ chín chắn. Dầu sao thì anh cũng vẫn mong em sẽ không trở lại đây, một lần nữa. - Anh không còn cần đến em. Anh không còn yêu em? Anh oán giận em điều gì? Anh. Tự. - Không. Anh không còn cần đến em nữa. - Trời ơi. Anh. Tôi tức tưởi và khóc nức nỡ. Nhự hốt hoảng chạy vào: - Có chuyện gì vậy? Tự lắc đầu. Nhự loay hoay hết đưa tay vuốt tóc lại buông thõng: - Anh phải thương Thục mới được. Anh phải hiểu nó. Anh đừng làm khổ nó thêm. Ích gì? Tự trừng mắt, cố dịu giọng: - Nhự cho rằng tôi muốn làm khổ Thục lắm sao? Tôi còn đau đớn gấp trăm ngàn lần Thục nữa. Tôi, kẻ... mà Nhự phụng phịu: - Thì Nhự nói vầy vậy đó, chứ nào có ý gì đâu. Tôi nói trong nước mắt: - Thôi. Nhự, Nhự xuống nhà đi. Thương Thục với, xuống nhà đi. Nhự ngập ngừng, khoát tay, như có một điều gì muốn nói mà không nói được. Chờ Nhự khuất, tôi mới lau nước mắt ngồi ngay ngắn người lại, nhìn thẳng vào mặt chàng: - Anh đừng dối lòng anh. Anh có thể gian dối với tất cả mọi người, nhưng không lẽ với em anh cũng thế. Tự nhìn xuống, lặng lẽ. Tôi tiếp: - Bây giờ anh trả lời em một câu thôi, một câu cuối cùng. Anh có yêu em không? Tự ngước lên, khuôn mặt chàng tiều tụy. Tôi hồi hộp thắt ruột, đứng tim. Chàng nhìn đăm đăm, xong lại cúi xuống. Tôi lay vai chàng. Anh phải trả lời em. Anh hãy trả lời đúng với lòng anh. Không lẽ đến giờ phút này, anh còn gian dối với em. Tự lại ngước mắt nhìn lên. Đôi mắt chàng long lanh. Chàng mím môi. Một lát, tôi nín thở. Chàng gật đầu, và khóc. Tôi ôm lấy chàng: - Thế là đủ rồi. Em chỉ cần có thế. Em yêu anh. Em tự dành cho mình mọi quyền hạn của một người yêu và được yêu. Chàng ghé khuôn mặt đầm đìa nước mắt, cắn vào cổ tôi. Tôi nghiến răng chịu đựng. Chúng tôi cùng nằm xuống sàn gỗ. Nắng trưa hầm hập. Những con nước lách mình, chuyển động dưới thấp. Tiếng cười hể hả của chị Tư Xệ, theo cầu thang, ngược dốc lên căn gác kín khép. Mời các bạn đón đọc Ngửa Mặt của tác giả Du Tử Lê.
Giamilia Truyện Núi Đồi và Thảo Nguyên - Tchinguiz Aitmatov
Giamilia - Truyện Núi Đồi Và Thảo Nguyên là những câu chuyện về con người, núi đồi thảo nguyên của đất nước Kyrgystan. Những con người nơi làng mạc mộc mạc, giản dị, tâm hồn, tình cảm trong sáng, những mối tình xúc động tâm can quyện với những núi đồi thảo nguyên bát ngát vẽ nên những bức tranh tổng hòa đặc sắc, bức tranh của tâm hồn. Giamilia - Truyện Núi Đồi Và Thảo Nguyên gồm 4 truyện: Giamilia, Cây phong non trùm khăn đỏ, Mắt lạc đà, Người thầy đầu tiên. Với giọng văn mượt mà, những trang viết đẹp như thơ, tập sách là sự lồng ghép những người nông dân chân chất, những núi đồi, thảo nguyên thành những câu truyện giàu càm xúc và có sức thu hút đến cùng cực đối với người đọc. Truyện Giamilia, một bức tranh tràn đầy cảm xúc của tình yêu đích thực và sự tự do. Ở một xứ xở mà mọi người xem “hạnh phúc của người đàn bà là sinh con đẻ cái, trong nhà dư dật”; Nhưng Giamilia - cô con dâu của một gia đình bề thế trong làng thì hoàn toàn khác biệt. Giamilia có tâm hồn mơ mộng, và sâu thẩm trong tâm hồn đó là khát vọng một tình yêu đích thực, yêu và được yêu. Đaniyar, đằng sau một anh thương binh lầm lì, lẻ loi, ít nói, kín đáo là một tâm hồn đang yêu say đắm, yêu đất nước, yêu cuộc sống. Và chỉ khi anh cất cao tiếng hát, tất cả những tình yêu đó mới được bộc lộ. Họ đến với nhau vì sự đồng điệu của hai tâm hồn, vì sự tự do của tình yêu, bỏ qua tất cả chuẩn mực, lề lối của làng, ràng buộc của thân phận. “Em yêu anh từ lâu lắm rồi. Ngay cả khi chưa biết anh, em đã yêu anh và chờ đợi anh, thế rồi anh đã tới, như thể anh biết em vẫn chờ anh”. *** Chyngyz Torekulovich Aytmatov (12/12/1928 - 10/6/2008) là một nhà văn người Kyrgyzstan. Ông đã viết các tác phẩm của mình bằng tiếng Nga và cả tiếng Kyrgyzstan, nổi tiếng với những sáng tác văn học về quê hương ông.  Sáng tác của Chingiz Aitmatov xuất hiện tại nước ta khá sớm. Cuối thập niên năm mươi thế kỷ 20, truyện Jamilya nổi tiếng của ông đã được dịch giả Nguyễn Văn Sỹ chuyển ngữ từ tiếng Pháp in trên tạp chí Văn Nghệ. Jamilya kể chuyện một phụ nữ Kyrgyz đã tự do đi theo tiếng gọi tình yêu, bất chấp những ràng buộc của lễ giáo và thứ đạo đức khô cằn, xơ cứng. Nhà thơ Pháp Louis Aragon đọc truyện xong đã khen đó là “truyện tình hay nhất thế giới”. Đến năm 1964, truyện đó cùng một số truyện khác trong tập sách được giải thưởng Lenin 1963 đã được dịch lại và dịch tiếp, và xuất bản thành tác phẩm Núi đồi và thảo nguyên. Đó là vào thời kỳ “hửng ấm” ở Liên Xô, khi những tác phẩm văn học nghệ thuật mang tính nhân văn, nhân đạo được đánh giá cao và phổ biến, cùng thời với các bộ phim như Đàn sếu bay qua, Bài ca người lính. Tác phẩm Núi đồi và thảo nguyên thổi một luồng gió mới lạ vào văn học Việt Nam giữa thế kỷ trước. Nhưng nó cũng đã phải hứng chịu những sự phê phán gay gắt xuất phát từ những quan niệm hẹp hòi, máy móc.   Phải hơn 20 năm sau, khi công cuộc cải tổ diễn ra ở Liên Xô, và ở Việt Nam sắp sửa diễn ra công cuộc đổi mới, Aitmatov mới xuất hiện trở lại cùng với nhiều tác giả, tác phẩm xuất sắc của văn học Xô Viết báo trước một xu thế biến chuyển của lịch sử. Một loạt tác phẩm của Aitmatov được dịch và xuất bản liên tiếp: Jamilya, Con tàu trắng, Vĩnh biệt Gunsary, Con chó khoang chạy quanh bờ biển, Sếu đầu mùa, Và một ngày dài hơn thế kỷ, Đoạn đầu đài... Và có một tình yêu, lòng say mê của độc giả Việt Nam dành cho nhà văn Kyrgyzstan đã biết từ núi đồi quê hương mình nói lên những vấn đề chung của nhân loại, của con người.   Những ai đã đọc qua văn Aitmatov sẽ không thể nào quên được hình bóng “người thầy đầu tiên” với những rung động sâu sắc, và cả lòng ân hận thấm thía. Bộ phim dựng theo truyện này đã gây thành công lớn. Xuyên suốt toàn bộ sáng tác của Aitmatov là lòng yêu thương con người, tôn trọng nhân phẩm con người, là sự phấn đấu cho con người được sống trong một xã hội nhân ái và hài hòa với tự nhiên. Văn chương với ông phải giữ được sự trong trẻo của tâm hồn. Nhà văn Nga Viktor Yerofeyev nói: “Mặc dù tràn ngập các phần thưởng, huân huy chương và sự vinh danh của nhà nước, nhưng ông vẫn giữ được sự trung thực và liêm khiết. Ông là điển hình của giới trí thức Nga ở thời kỳ khó khăn, trì trệ, khi văn học khó có hy vọng giữ được sự trong trắng của mình”.   Mời các bạn đón đọc Giamilia Truyện Núi Đồi và Thảo Nguyên của tác giả Tchinguiz Aitmatov.