Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vụ Án Lerouge

Vào ngày thứ 5, 6 tháng 3 năm 1862, một vụ án mạng đã làm ngôi làng La Jonchère thanh bình bị chấn động: bà quả phụ giàu có Lerouge bị sát hại dã man tạị nhà riêng. Điều tra viên Lecoq đã phải nhờ sự giúp đỡ của một thám tử nghiệp dư cũng là người thầy của mình, lão Tabaret, tham gia vào cuộc điều tra. Với sự cẩn trọng, tỉ mỉ,  kĩ thuật  phát họa tâm lí tội phạm xuất sắc cùng phương pháp suy luận chặt chẽ, tài tình, lão Tabaret đã lần theo manh mối và dễ dàng tóm được thủ phạm. Khi vụ án tưởng chừng đã khép lại thì những bước ngoặt của số phận lại bất ngờ mở ra một hướng đi mới, khiến các điều tra viên phải xem xét lại toàn bộ những suy luận của mình. Những tình tiết mới xuất hiện sẽ đưa vụ án này đi đến đâu? Những bí mật đen tối nào đang bị lớp màn của thời gian che phủ. BẤT NGỜ, HẤP DẪN là những gì độc giả nhận xét khi đọc cuốn tiểu thuyết trinh thám này của Gaboriau. Giới thiệu tác giả Émile Gaboriau Émile Gaboriau (1832 - 1873) là một trong những tiểu thuyết gia “mở màn” cho thời kỳ đỉnh cao của trinh thám Pháp, đưa trinh thám Pháp sánh ngang với trinh thám Anh, trinh thám Âu Mĩ.  Bạn đọc ở Việt Nam biết đến ông với Hồ sơ số 113 và Tội ác ở Orcival.  Bằng việc xây dựng thành công hình tượng nhân vật thám tử tài ba, tài trí Lecoq, Émile Gaboriau đã trở thành một trong những nhà văn trinh thám kiệt xuất trên thế giới và được mệnh danh là "Ông tổ" của tiểu thuyết trinh thám Pháp.  *** “Liệu có gì ghê tởm hơn sự gán ghép hai ý nghĩ ấy với nhau, lòng căm hận và công lý! Không cần coi thường mình hơn so với những kẻ xấu xa mà mình đã kết án, liệu một quan tòa có thể cho phép nhớ rằng một kẻ tội nhân mà số phận đang nằm trong tay mình đã từng là kẻ thù của ông? Một Thẩm phán điều tra liệu có được phép sử dụng những quyền lực thái quá của mình để chống lại một bị can, khi mà sâu trong tâm can ông ta vẫn còn một giọt mật đắng?” Một đoạn miêu tả tâm lý nhân vật thật xuất sắc với những đấu tranh nội tâm về việc có nên đem chuyện riêng tư vào phép công hay không? Thực chất, nếu đặt bản thân vào hoàn cảnh của nhân vật, chúng ta liệu có công tư phân minh được hay không? Hay cũng chỉ áp dụng quyền hành mà bản thân đang có để triệt tiêu tất cả những mối thù hận và căm hờn lên kẻ thù đang đứng trước mặt? Đôi khi đọc sách là thế, là khiến tôi phải suy ngẫm về những đoạn nhỏ trong sách để tự vấn lòng mình xem bản thân sẽ làm như thế nào với tình huống đó. “Vụ án Lerouge” mở ra với bối cảnh làng La Jonchere bình yên, thế nhưng tất cả mọi người đã bị chấn động bởi cái chết của bà quả phụ Lerouge. Hàng loạt thắc mắc được đặt ra và người ta không hiểu tại sao bà ta bị giết, ai có thể ra tay tàn độc như vậy. Lần này, sự xuất hiện của ông thám tử nghiệp dư Tabaret là một điểm nhấn thú vị và rõ ràng là ông ta có phần tài giỏi hơn cả Lecoq khi sớm tìm ra được hung thủ. Ở nhân vật này, chúng ta sẽ thấy được bóng dáng của Holmes bởi khả năng quan sát mọi việc và tình tiết rất cẩn trọng. Một chút tự mãn được thêm vào tài năng phá án của lão đã tạo ra một cá tính hết sức riêng biệt, đôi chút hài hước và đôi chút khó ưa. Thực ra, ở “Vụ án Lerouge”, việc hung thủ bị lộ diện không còn là yếu tố hút bạn đọc nữa. Điểm hay nhất chính là mối tình xưa cũ của nhân vật được tiết lộ khiến cho chúng ta thêm phần đồng cảm và thích thú nhiều hơn. Tình yêu bi ai được khai thác triệt để và rõ ràng sẽ lấy được nước mắt bạn đọc. Khổ trong tình yêu và tội ác được nảy sinh không phải là một mối kết nối quá mới nhưng với việc khai thác sâu sắc đã khiến cho câu chuyện thật sự thành công và đầy sâu sắc. Nếu những định kiến của xã hội và kiêu hãnh của con người có thể áp chế tình yêu thì sao nó không thể áp chế được luôn cả những bi kịch đã nảy sinh từ những uất ức đó?! Nhìn chung, “Vụ án Lerouge” đã mang tới một câu chuyện đầy ai oán cho bạn đọc với sự lồng ghép tuyệt vời giữa miêu tả tâm lý nhân vật với những đoạn phá án khá kịch tính. Sự thật và những mâu thuẫn tâm lý đã đẩy câu chuyện đến mức cao trào nhất; đôi lúc, tôi còn cảm thấy bất ngờ như chính cảm xúc của nhân vật trong truyện vì không ai có thể ngờ mọi chuyện lại diễn biến theo chiều hướng ấy. Tham, sân, si của lòng người đều hiện rõ qua cách diễn đạt của tác giả Émile Gaboriau và nếu phải suy ngẫm về tình đời, tình người thì mọi chuyện đều diễn ra cay đắng quá, khó mà chấp nhận được. (Trần Nguyễn Phước Thông, FB Trần Thông, 25-01-2020) Trần Thông *** Émile Gaboriau Chắc các bạn chưa quên “trai đẹp” trong Hồ sơ số 113, “gái đẹp” trong Tội ác ở Orcival. Nay các bạn sẽ biết thêm “ông già” Tabaret rất thú vị. Tại ngôi làng La Jonchere thanh bình, bà quả phụ Lerouge bị sát hại tại nhà. Ở một ngôi làng từ trước tới giờ luôn thanh bình, tại sao bà quả phụ Lerouge lại bị sát hại? Nguyên nhân khiến bà bị sát hại là gì? Tất cả các câu hỏi đó được giải đáp nhờ sự trợ giúp của vị thám tử nghiệp dư, lão Tabaret. Người được gọi là thầy của anh chàng thám tử gà trống Lecoq. Dưới con mắt của thanh tra Gevol, lão Tabaret là một ông già tự phụ như một con công, dễ nổi khùng, dễ mắc lừa, lão làm trinh thám chỉ để chứng tỏ tài năng của mình, giống như một nghệ sĩ không hơn không kém. Mặc dù đôi lúc có sự nhiệt tình thái quá nhưng không thể phủ nhận tài năng của lão Tabaret. Sự cẩn trọng, tỉ mỉ, khả năng quan sát, suy luận sắc bén. (Sự quan sát tỉ mỉ có bóng dáng của thám tử Sherlock Holmes quen thuộc). Dĩ nhiên có sai lầm thì mới là con người, đâu phải ai cũng thông minh hoàn hảo. Lecoq “trai đẹp” chỉ là cameo trong tập này thôi. Sân khấu chính là lão Tabaret. Không biết có phải do đọc kha khá trinh thám rồi nên “khôn” hơn hay do vụ án mà Boog đoán được cả hung thủ lẫn nguyên nhân gây ra tội ác nên không bất ngờ lắm về hung thủ. Tuy nhiên, để lại cảm xúc ở vụ án này không phải ở khía cạnh trinh thám mà là khía cạnh tình cảm. Boog khá là xúc động, cảm thông cho mối tình bi ai của nhân vật. Tại sao yêu nhau không đến được với nhau, để giờ đây hai ta phải khổ đau. Những rào cản định kiến, sự ngăn cách của xã hội, sai lầm bồng bột của tuổi trẻ đã để lại một bi kịch mà lớp đất thời gian không thể chôn vùi. Đánh giá cá nhân: 7,5/10 Binh Boog *** Thứ Năm ngày 6 tháng Ba năm 1862, hai ngày sau ngày Thứ Ba Ăn Mặn*, năm người đàn bà ở làng La Jonchère đã đến trình diện tại Sở Cảnh sát xã Bougival. Ngày được ăn thịt sau Mùa chay (ND). Họ báo với cảnh sát rằng từ hai ngày nay không ai nhìn thấy hàng xóm của họ là bà quả phụ Lerouge, người sống một mình trong một ngôi nhà nhỏ biệt lập. Sự im ắng này khiến họ lo lắng. Sợ là có án mạng hay ít nhất là một tai nạn gì đó, họ yêu cầu “luật pháp” phá cửa vào nhà xem có chuyện gì để được yên tâm. Bougival là một xứ sở đáng yêu, cứ Chủ nhật là trai gái lại chèo xuồng về đây; tội phạm cũng nhiều nhưng hiếm có án mạng. Vì thế, ban đầu viên thanh tra khước từ lời cầu xin của mấy người đàn bà, nhưng họ cứ nài nỉ mãi và cuối cùng nhà chức trách đã phải nhượng bộ. Ông cho gọi viên cai đội hiến binh đến cùng với hai nhân viên, sai người tìm một anh thợ khóa, rồi cả tốp cùng đi theo hàng xóm của bà quả phụ Lerouge. Làng La Jonchère là một ngôi làng nhỏ nằm trên triền dốc đổ xuống sông Seine, giữa xã Malmaison và xã Bougival. Nó cách con đường lớn hai mươi phút, con đường lớn đó chạy từ Paris đi Saint-Germain qua Rueil và Port-Marly. Dẫn đến làng là một con đường dốc đứng mà ngành cầu đường chưa hề biết đến. Thế là nhóm người, dẫn đầu là tốp hiến binh, đi theo con đường lớn đắp thành một con đê ngăn cách sông Seine với khu vực này, rồi chẳng mấy chốc họ quẹo phải rẽ vào một con đường ngang sâu hút kẹp giữa hai dãy tường gạch. Đi khoảng một trăm bước, họ dừng lại trước một căn nhà đơn sơ nhưng có vẻ ngoài lịch sự. Với bề sâu kéo dài hơn bề rộng, ngôi nhà có một tầng trệt hai phòng và một tầng áp mái ở trên. Quanh nhà trải rộng một khu vườn gần như không được chăm sóc. Thông ra vườn là một chiếc cổng gỗ nhẹ được buộc hờ bằng một sợi dây thép. - Ở đây này. - Mấy người đàn bà lên tiếng. Viên thanh tra cảnh sát dừng bước. Trong lúc đi đường, nhóm người của ông đã nhanh chóng được những kẻ hiếu kỳ và những kẻ vô công rồi nghề ở quanh đây gia nhập. Giờ đây ông đang bị khoảng bốn mươi kẻ tò mò vây quanh. - Không ai được vào đây! - Ông nói. Và, để cho mệnh lệnh của mình chắc chắn được tuân thủ, ông cắt cử hai anh hiến binh đứng gác trước lối vào, rồi ông bước tới, theo sau là viên cai đội và anh thợ khóa. Ông đích thân chĩa đầu cây gậy cạp chì gõ mạnh nhiều lần, đầu tiên là vào cánh cửa, sau đó là tất cả các ô cửa con. Sau mỗi cú gõ ông lại áp tai vào vách gỗ nghe ngóng. Không thấy động tĩnh gì, ông quay sang anh thợ khóa, ra lệnh: - Mở khóa đi. Anh thợ khóa mở túi dụng cụ và chuẩn bị đồ nghề. Anh đang lùa một cái que móc vào ổ khóa thì trong đám người hiếu kỳ có tiếng reo lên: - Chìa khóa! Chìa khóa đây này! Quả thực, một cậu bé chừng mười hai tuổi, trong lúc đang chơi với tụi bạn đã nhìn thấy một chiếc chìa khóa to nằm trong cái rãnh bên đường; cậu bé nhặt lên và đắc thắng đem tới. - Đưa đây, cậu bé, - viên cai đội nói - đưa chúng ta xem nào. Chìa khóa được đưa vào mở thử; đúng là chìa của ngôi nhà. Ông thanh tra và anh thợ khóa nhìn nhau đầy vẻ lo lắng sợ sệt. - Không hay rồi! - Viên cai đội lẩm nhẩm. Rồi họ vào trong nhà, trong khi đám đông, bị hiến binh vất vả giữ lại, vừa giậm chân sốt ruột, vừa cố ngó qua tường để nhìn vào trong xem chuyện gì đã xảy ra. Thật đáng tiếc là những kẻ phỏng đoán có án mạng đã không nhầm, ông thanh tra cảnh sát tin chắc như vậy ngay từ ngưỡng cửa. Trong căn phòng đầu tiên, tất cả đã tỏ rõ sự có mặt của những kẻ bất lương. Đồ đạc trong nhà, một chiếc tủ ngăn kéo và hai chiếc hòm lớn, đã bị phá đáy. Trong căn phòng thứ hai, là phòng được dùng làm buồng ngủ, quang cảnh còn lộn xộn hơn. Có thể hình dung rằng một bàn tay giận dữ đã vô cớ làm đảo lộn mọi thứ. Cuối cùng, bên cạnh lò sưởi, xác bà quả phụ Lerouge nằm dài với khuôn mặt vùi trong tro. Nửa khuôn mặt và tóc bị cháy thui, và thật kỳ diệu là lửa không bén đến quần áo. - Bọn vô lại, - viên cai đội thì thầm - chẳng lẽ chúng không thể ăn cắp mà không phải giết chết người đàn bà tội nghiệp này ư! - Nhưng bà ta bị đâm ở chỗ nào? - Ông thanh tra hỏi - Tôi không thấy máu. - Đây này, giữa hai vai đó, thưa ngài thanh tra. - Viên cai đội nói tiếp. - Hai cú đâm mạnh! Tôi xin lấy quân hàm của tôi để đánh cược là thậm chí bà ta đã không kịp kêu lên một tiếng “Ối!”. Ông cúi người, đặt tay lên thi thể. - Ồ, - ông nói tiếp - xác bà ấy đã lạnh thật rồi. Mặc dù có vẻ chưa cứng lắm, ít nhất bà ấy cũng đã tắt thở được ba mươi sáu giờ đồng hồ. Ông thanh tra ngồi vào một góc bàn ghi vội tờ biên bản. - Thôi không nói dông dài nữa, - ông bảo viên cai đội - giờ là lúc phải tìm ra thủ phạm. Hãy đi báo cho ngài Thẩm phán hòa giải và ngài xã trưởng đi. Còn nữa, hãy chạy đi Paris đưa bức thư này cho Viện Công tố. Trong hai giờ đồng hồ một Thẩm phán điều tra sẽ có mặt tại đây. Trong khi chờ đợi, tôi sẽ tiến hành một cuộc khám xét sơ bộ. - Chính tôi phải đưa bức thư này ư? - Viên cai đội hỏi. - Không, hãy cử một nhân viên của ông đi. Ông sẽ ở đây giúp tôi ngăn đám người tò mò kia và kiếm cho tôi các nhân chứng. Cứ để yên hiện trường đó, tôi sẽ sang căn phòng đầu tiên kia. Bà quả phụ Lerouge này là ai, quê ở đâu, bà làm nghề gì, lấy gì để sống, và sống như thế nào? Bà có thói quen gì, những mối giao du của bà thế nào? Kẻ nào có hiềm thù với bà, bà có hà tiện không, liệu bà có tiền không? Đó là những điều quan trọng mà ông thanh tra muốn biết. Nhưng cho dù có nhiều nhân chứng thì họ cũng chẳng biết gì hơn. Khi lần lượt được hỏi, những người hàng xóm chỉ đưa ra những lời khai vô nghĩa, thiếu mạch lạc và không đầy đủ. Chỉ có một bà làm vườn và một bà bán sữa cho bà quả phụ Lerouge là có vài thông tin chính xác, mặc dù chẳng mấy giá trị. Cuối cùng, qua ba giờ hỏi cung mệt mỏi, sau khi thu thập những lời chứng mâu thuẫn nhất và những chuyện ngồi lê đôi mách khôi hài nhất, ông thanh tra cảnh sát hình dung được sự việc gần đúng như sau: Cách đây hai năm, bắt đầu từ năm 1860, bà Lerouge đến xã Bougival với một chiếc xe dọn nhà lớn chở đầy đồ đạc, chăn mền và quần áo. Bà vào một quán trọ và bày tỏ ý định muốn ở lại trong vùng, rồi bà lập tức đi tìm thuê một căn nhà. Khi tìm thấy căn nhà vừa ý này, bà thuê ngay không mặc cả, với điều kiện trả trước 320 franc nửa năm, nhưng bà không đồng ý ký hợp đồng thuê nhà. Thỏa thuận thuê nhà xong, bà dọn đồ vào ở ngay hôm đó và bỏ ra khoảng 100 franc cho việc sửa chữa. Đó là một người phụ nữ tầm năm mươi tư, năm mươi lăm tuổi, trông rất trẻ, đẫy đà và rất khỏe mạnh. Chẳng ai biết tại sao bà lại chọn cái nơi hoàn toàn không quen biết một ai này để về ở. Người ta đoán bà là người Normandie vì thường thấy bà đội chiếc mũ trùm bằng vải bông vào buổi sáng. Thứ mũ dùng cho ban đêm này vẫn khiến bà rất duyên dáng vào ban ngày. Bà thường mặc những chiếc váy dài rất đẹp, cuốn nhiều dải ruy băng quanh mũ và đeo đầy đồ trang sức giống như một bức tượng thờ. Có thể bà là người miền biển, vì trong lúc chuyện trò bà rất hay nhắc đến biển và tàu thủy. Bà không thích nói đến chồng mình, là người, theo bà, đã mất trong một vụ đắm tàu. Chưa bao giờ bà hé mở một chi tiết nhỏ nhất nào về chuyện này. Chỉ có một lần bà nói với bà bán sữa trước sự có mặt của ba người khác, “Chưa có một người đàn bà nào bất hạnh như tôi trong chuyện vợ chồng.” Bà quả phụ Lerouge được coi là giàu có, hoặc ít nhất là rất sung túc. Bà không phải là người hà tiện. Bà thích sống thoải mái, tiêu nhiều cho chuyện ăn uống và thường mua rượu vang từng nửa thùng. Niềm vui của bà là được thiết đãi bạn quen và những buổi dạ tiệc của bà thật thịnh soạn. Nếu người ta khen bà giàu có thì bà cũng chẳng phản đối nhiều. Người ta thường nghe bà nói, “Tôi không có tiền lợi tức, nhưng tôi có tất cả những gì cần thiết. Nếu tôi muốn hơn nữa thì tôi sẽ có.” Ngoài ra, chưa bao giờ người ta nghe thấy có lời bóng gió nào, dù là nhỏ nhất, về quá khứ, về quê hương hay về gia đình bà. Bà rất hay nói chuyện, nhưng khi nói chuyện, bà chỉ nói đến những điều xấu xa của đồng loại. Dù sao, chắc là bà đã trải đời và biết nhiều chuyện. Với tính rất hay ngờ vực, bà cố thủ trong nhà mình như trong một pháo đài. Buổi tối không bao giờ bà ra khỏi nhà. Người ta biết rằng bà thường uống rượu say vào bữa tối và sau đó đi nằm luôn. Rất hiếm khi người ta nhìn thấy có người lạ đến nhà bà. Khoảng bốn, năm lần có một quý bà và một cậu thanh niên trẻ, và một lần khác có hai quý ông, một ông già đeo đầy huân huy chương và một chàng trai trẻ; hai người này đi trên một chiếc xe lộng lẫy. Nói tóm lại, người ta không tôn trọng bà mấy. Bà thường có những lời lẽ chướng tai và lập dị phát ra từ miệng một người ở tuổi đó. Người ta đã nghe thấy bà đưa ra những lời khuyên khó chịu nhất dành cho một cô gái. Tuy nhiên có một ông bán thịt lợn ở Bougival, một người buôn bán vụng về, cũng tán tỉnh bà. Bà đã gạt đi và nói bà lấy chồng một lần là đủ rồi. Mấy lần khác, người ta nhìn thấy có những người đàn ông đến nhà bà. Đầu tiên là một chàng trai trẻ trông có vẻ là một nhân viên hỏa xa, rồi sau đó có một ông cao lớn tóc nâu khá già, mặc một chiếc áo blouse và trông có vẻ rất dữ tợn. Người ta đoán rằng cả hai đều là nhân tình của bà. Vừa hỏi cung, ông thanh tra vừa ghi tóm tắt lời khai của nhân chứng, và ông đang viết đến đây thì ông Thẩm phán điều tra xuất hiện. Ông này dẫn theo ông Đội trưởng an ninh cùng một nhân viên. Ông Thẩm phán điều tra Daburon, người mà sau này bạn bè đã từng vô cùng ngạc nhiên thấy ông xin từ chức để về quê vui thú ruộng vườn vào đúng lúc vận may đang đến với ông, năm nay ba mươi tám tuổi, có thân hình đẹp, trông dễ mến mặc dù có vẻ lạnh nhạt, có một khuôn mặt hiền hậu và hơi buồn, vẻ buồn rầu này là di chứng của một căn bệnh hiểm nghèo mà cách đây hai năm đã suýt khiến ông mất mạng. Làm Thẩm phán điều tra từ năm 1859, ông nhanh chóng trở nên nổi tiếng. Là người cần cù, kiên nhẫn, có trực giác tinh tế cùng óc sáng suốt hiếm có, ông biết cách tháo gỡ những vụ án rắc rối nhất, và, giữa trăm nghìn mối tơ vò, ông biết cách nắm được sợi dây dẫn lối. Được trang bị một bộ óc lập luận logic chặt chẽ, chỉ ông mới có thể giải quyết được những vấn đề hóc búa mà gã X nào đó là thủ phạm. Là người biết khôn khéo suy luận từ cái đã biết để tìm ra cái chưa biết, ông rất giỏi trong việc tập hợp các sự kiện và tập trung những tình tiết phù phiếm nhất và có vẻ ngoài vô can nhất thành một cụm chứng cứ không thể chối cãi. Tuy nhiên, mặc dù có những phẩm chất đáng quý như thế, nhưng ông lại tỏ ra không phải sinh ra để làm những chức phận khủng khiếp này. Ông rùng mình thực hiện những chức phận đó với sự ngờ vực trước sự lôi kéo của những năng lực tài hoa của mình. Ông không có sự táo bạo để thực hiện những cú bất ngờ mạo hiểm có khả năng làm bộc lộ sự thật. Mời các bạn mượn đọc sách Vụ Án Lerouge của tác giả Émile Gaboriau & Nguyễn Văn Dân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Dư Tội
Trung Quốc thập niên 90, làn sóng đóng cửa các quốc xĩ khiến không ít gia đình tan nát, trong đó có cả gia đình Dư Tội. Mẹ hắn bỏ đi khi hắn vẫn còn ắm ngửa, Dư Tội được người cha đặt lên xe bán hoa quả kéo đi khắp nơi kiếm sống. Từ nhỏ Dư Tội đã tiếp xúc đủ thủ đoạn đường phố, thiếu thốn tình cảm từ mẹ, thêm kiểu giáo dục đòn roi từ cha. Dư Tội biến thành kẻ bất trị, từ trộm cắp, đánh nhau, thu tiền bảo kê, không chuyện tệ hại nào không làm. Lo cho tương lai của con, cha Dư Tội dồn hết tiền bạc chạy cho hắn vào trường cảnh sát, mong con thành người tử tế. Dư Tội càng lớn càng hiểu chuyện, biết cha mình nuôi mình không dễ, hắn chỉ có một ước mơ nhỏ bé, được về quê làm cảnh sát để bảo kê cho cha bán hoa quả. Ngày tốt nghiệp sắp tới gần, Dư Tội vô ý đắc tội với hoa khôi trường cảnh sát, rắc rối kéo tới ngay hôm đó khi Dư Tội bị một đám người đột nhập vào trường tấn công. Bằng vào thủ đoạn ranh ma, Dư Tội không những thoát được mà còn truy ra nguồn gốc của chúng, dẫn theo đám anh em được gọi là 13 con sâu hại đánh cho những kẻ này nhập viện. Sự việc bị trường phát hiện, 13 con sâu hại đối diện với nguy cơ đuổi học … đây cũng trở thành bước ngoặt cuộc đời của Dư Tội. *** Tác giả Thường Thư Hân một quái kiệt hiếm có của làng văn học mạng, cái tên anh không được biết tới nhiều ở Việt Nam, nhưng chắc hẳn không ít độc giả biết tới Hắc Oa, Dư Tội, Đối Dịch, Hương Sắc Khuynh Thành... Thứ tự đọc truyện Lão Thường là: Hắc Oa - Dư Tội - Hương Sắc Khuynh Thành - Đối Dịch, tuy đọc riêng bất kỳ truyện nào cũng không hề gì. Mặc dù sau đó đang ở đỉnh cao sự nghiệp, Thường Thư Hân và tập đoàn Văn Duyệt xảy ra tranh chấp bản quyền dữ dội, hai bên kéo nhau ra tòa, phiên tòa kéo dài bốn năm. Kết quả không có gì bất ngờ, một tác giả sao chống nổi tập đoàn lớn như thế, Thường Thư Hân thua, thậm chí tập đoàn Văn Duyệt sở hữu tên Thường Thư Hân tận 15 năm sau khi anh chết, khiến Thường Thư Hân phải đổi tên sáng tác, làm sự nghiệp của anh ảnh hưởng nghiêm trọng. Thế nhưng bộ đôi Hắc Oa, Dư Tội là viên ngọc quý trong giới văn học mạng, Văn Duyệt chẳng thể vùi dập được. Thường Thư Hân từ nhỏ mê tiểu thuyết võ hiệp, anh thích nhất Vi Tiểu Bảo dưới ngòi bút của Kim Dung, vì thế Dư Tội trong lòng anh cũng là người bình thường như vậy, không muốn làm anh hùng, chỉ muốn sống sao cho không hối tiếc, sống hết mình, không thẹn với lòng mà thôi. Đi ra ngoài một chuyến, anh hiểu ra, không bằng cấp tử tế, không dễ tìm việc tử tế. Thường Thư Hân ra tù về Sơn Tây, anh tự học một năm, thi đỗ vào trường đại học địa phương, không thể không nói đây là kỳ tích vì thời đó đại học vẫn có giá lắm, không tràn lan như sau này, thi vào đại học không hề dễ.  -------------o0o------------- Dư Tội, từ truyện ra đời, từ đời vào truyện. (Bài khá dài và khá chi tiết, nên đừng vì thấy dài mà không đọc hết nhé, kẻo bỏ qua một siêu phẩm đấy!) (Đáng lẽ bài này sẽ chia làm 2 phần, nhưng sợ các bạn chờ phần tiếp theo lâu sẽ mất hứng nên gộp luôn) Tác giả Thường Thư Hân một quái kiệt hiếm có của làng văn học mạng, cái tên anh không được biết tới nhiều ở Việt Nam, nhưng chắc hẳn không ít độc giả biết tới Dư Tội. Đây là tác phẩm hiếm hoi đạt thành công lớn ở cả ba mặt, tiểu thuyết mạng, sách in và cả phim truyền hình, một thời độ hot không gì sánh bằng, hãy thử nhìn lại năm xưa Dư Tội từng hot thế nào. Đầu tiên nói tới phim truyền hình, vì nhờ phim mà tên tuổi của anh vang dội khắp cả nước. Ngay từ mùa đầu lên sóng, Dư Tội trở thành hiện tượng, được cư dân mạng Trung Quốc xưng tụng là Hunger Games phiên bản Trung Quốc đạt 600 triệu lượt xem. Tới mùa thứ hai, chiếu chưa được một ngày, lượt xem đột phá 100 triệu, điểm douban lên tới 8.6. Chỉ cần tìm kiếm ở Trung Quốc phim hình sự hay nhất, chắc chắn có cái tên Dư Tội.   Trước khi trở thành bộ phim siêu hot trên mạng, nguyên tác Dư Tội được đăng trên Chuangshi, một trang web đăng truyện thuộc tập đoàn Văn Duyệt giống Qidian. Dư Tội chính là tổng quán quân tuyệt đối hai năm liên tiếp của Chuangshi. Khi truyện mới viết được hết quyển 1 trên 8 quyển, đã được Đằng Tấn mua bản quyền chuyển thể phim truyền hình. Đến lúc sách in phát hành, cơn sốt Dư Tội vẫn chưa hạ nhiệt, chỉ trong vòng 2 tháng, truyện phải in thêm tới ba lần, tới nay lượng tiêu thụ đột phá 100 vạn, trở thành tác phẩm best seller 5 năm liên tiếp của thể loại hình sự điều tra, thành tích này bị chặn lại bởi chính sách khác của anh. Khi Dư Tội đạt được sự thành công rực rỡ đó, nhiều tác phẩm của Thường Thư Hân lọt được vào mắt xanh đông đảo độc giả khắp nơi. Nhiều người nhận ra, Thường Thư Hân thậm chí còn có một tác phẩm xuất sắc hơn, cảm xúc mạnh mẽ hơn Dư Tội, đó chính là Hắc Oa. Ngay trong năm đó, Hắc Oa được in thành sách, Đằng Tấn tuyên bố, bấm máy phim Hắc Oa ( Cảnh sát Oa ca), khiến vô số độc giả thốt lên, đó là năm của Thường Thư Hân. Mặc dù sau đó đang ở đỉnh cao sự nghiệp, Thường Thư Hân và tập đoàn Văn Duyệt xảy ra tranh chấp bản quyền dữ dội, hai bên kéo nhau ra tòa, phiên tòa kéo dài bốn năm. Kết quả không có gì bất ngờ, một tác giả sao chống nổi tập đoàn lớn như thế, Thường Thư Hân thua, thậm chí tập đoàn Văn Duyệt sở hữu tên Thường Thư Hân tận 15 năm sau khi anh chết, khiến Thường Thư Hân phải đổi tên sáng tác, làm sự nghiệp của anh ảnh hưởng nghiêm trọng. Thế nhưng bộ đôi Hắc Oa, Dư Tội là viên ngọc quý trong giới văn học mạng, Văn Duyệt chẳng thể vùi dập được. Trong khuôn khổ bài viết này, mình sẽ chỉ nói tới Dư Tội. Dư Tội kể về một học viên trường cảnh sát có tên vô cùng kỳ lạ Dư Tội, vì tranh chấp nhỏ trong trường, Dư Tội và 12 người anh em trong trường, được gọi là 13 con sâu hại đối diện với nguy cơ đuổi học. Bọn họ không biết rằng đó là cái cớ, cả 13 người được đưa vào chương trình lựa chọn tinh anh, từ đó bắt đầu cuộc đời cảnh sát đầy câu chuyện cảm động, hoang mang, nhiệt huyết cùng kích động. Điều đầu tiên nói về Dư Tội thì y là kẻ sống sót, bất kể hoàn cảnh thế nào, người tồn tại cuối cùng sẽ là y. Dư Tội không phải là nhân vật lương thiện, tử tế gì, vì từ nhỏ đã phải lăn lộn phố phường nhiễm vô số thói hư tật xấu của tiểu thị dân, phải nói là nhân vật khó ưa nhưng đồng thời tính cách đa diện cũng làm người ta khó ghét, tính cách phóng túng tùy tiện, nhưng nhìn rõ bản thân, cũng nhìn rõ đối thủ vì thế y luôn là kẻ sống sót rút lui một cách an toàn nhất. Nhìn bề ngoài tựa một kẻ bất chính, gian xảo, tư lợi, hèn hạ kỳ thực đối với người thân, bạn bè, lại thực lòng chân thành, có sự lương thiện thuần túy. Tuy bị gọi là máu lạnh nhưng biết cảm thông, nhìn tựa kẻ hận đời sống buông thả lại khao khát sống đàng hoàng ... rất nhiều mâu thuẫn tập trung vào một nhân vật, khiến tính cách trở nên chân thực phong phú, cả cãi xấu cái tốt lẫn lộn, khiến Dư Tội thành một cảnh sát ưu tú nhất vươn tới tầm cao khiến tất cả phải ngước nhìn. Dư Tội tuy nổi tiếng là tác phẩm hình sự xuất sắc nhất trong thể loại, nhưng so với việc nói nó là tiểu thuyết trinh thám, không bằng nói nó là tác phẩm tuổi trẻ về lý tưởng và tình yêu. Truyện lấy chuyện vụ án chỉ để nói chuyện đời, truyện không đưa ra bài học cho độc giả, nhưng tin rằng khi đọc Dư Tội, không ít đoạn khiến độc giả bỏ sách xuống mà suy ngẫm. Vì sao Dư Tội thành công lớn như thế, rất nhiều người nói "tiểu thuyết quá chân thật". Làm sao không chân thực cho được, vì nguyên hình của nhân vật Dư Tội chính là tác giả, khi phóng viên liên hệ với Thường Thư Hân người được gọi là "Lão Thường" một ông chú lôi thôi đang ẩn cư ở thành phố nhỏ, người mà không ít cư dân mạng suy đoán là một hình cảnh, năm xưa lại là tên tội phạm cướp của bị bắt vào tù, từng là một tên lưu manh đầu đường xó chợ không hơn không kém. Khi được phóng viên hỏi tới chuyện cũ, Lão Thường ở bên kia điện thoại thoải mái kể lại chuyện năm xưa, chính vì trải nghiệm phong phú đầy vị cuộc sống đó thành chất dinh dưỡng tốt nhất cho tác phẩm của anh. Lão Thường thừa nhận, nguyên hình Dư Tội chính là mình. Phóng viên vốn muốn hẹn tới nhà Lão Thường xin phỏng vấn, Lão Thường gạt đi, nói mình không phải minh tinh, không cần tốn công như thế, huống hồ nhà anh rất xa, vất vả thế là không đáng. Tuy chỉ là cuộc phỏng vấn qua điện thoại, Lão Thường không vì thế mà qua loa, phóng viên hối hận, nếu biết trước được nghe câu chuyện đặc sắc như thế, dù vất vả thế nào cũng phải tới tận nơi, chỉ để tận mắt thấy Lão Thường, so với trong truyện, cuộc đời Lão Thường còn là truyền kỳ hơn nhiều. Anh sinh năm 1975, năm 1993 vừa tròn 18 tuổi, vào cái thời phương nam hừng hực cải cách mở cửa, anh bất chấp người nhà khuyên can, học theo người ta chạy tới Quảng Châu kiếm tiền. Nào ngờ, tiền chẳng kiếm nổi, đến cơm ăn chẳng no, tuổi trẻ kích động, anh sinh ra ý nghĩ nông nổi, đi cướp. Khi đó Lão Thường nấp ở một bến tàu hỏa, nhìn người ra rút NDT từ ví ra, chuẩn bị đưa vào cửa sổ thu phí, anh xông tới cướp ví chạy luôn. Kết quả lần đầu gây án đã thất bại, trả giá bằng 8 tháng tù giam. Lão Thường nói "Đó không phải chuyện hay ho gì, bình thường tôi xấu hổ không nói ra.". Ở trong tù, anh quen đủ loại người từ buôn ma túy, trộm cắp vặt, làm hàng giả, giết người ...v...v...v.. tất cả những người đó là nguyên nhân lớn sau này tác phẩm của Thường Thư Hân luôn sinh động chân thực. "Cảnh sát kể về vụ án thường không tỉ mỉ đôi khi còn phải bảo mật. Nhưng tội phạm thì khác, nhất là ở trong tù, thời gian rảnh nhiều mà." Lần lỡ bước đó làm Thường Thư Hân khi còn rất trẻ đã ý thức được, thì ra người bình thường đi theo hướng tà ác lại chỉ cách một bước mà thôi. Trong những năm tháng trong tù, anh được thấy khát vọng trần trụi nhất của con người, cùng nhân tính nguyên thủy nhất, về sau anh đặt tên tiểu thuyết là Dư Tội ( Tội lỗi che giấu) là vì thế. Thường Thư Hân từ nhỏ mê tiểu thuyết võ hiệp, anh thích nhất Vi Tiểu Bảo dưới ngòi bút của Kim Dung, vì thế Dư Tội trong lòng anh cũng là người bình thường như vậy, không muốn làm anh hùng, chỉ muốn sống sao cho không hối tiếc, sống hết mình, không thẹn với lòng mà thôi. Đi ra ngoài một chuyến, anh hiểu ra, không bằng cấp tử tế, không dễ tìm việc tử tế. Thường Thư Hân ra tù về Sơn Tây, anh tự học một năm, thi đỗ vào trường đại học địa phương, không thể không nói đây là kỳ tích vì thời đó đại học vẫn có giá lắm, không tràn lan như sau này, thi vào đại học không hề dễ.  Tuy quyết tâm thay đổi con người, nhưng thời gian trong tù ảnh hưởng tới anh nhiều hơn anh nghĩ, tính cách nóng nảy, ưa bao lực, vì xích mích nhỏ không nhịn được, anh đánh nhau trong trường, vì thế học được hơn một năm đã bị khai trừ. Không lâu sau khi bị đuổi học anh lại nghe tin dữ, cha qua đời bởi tai nạn giao thông, thành hối tiếc suốt cuộc đời Thường Thư Hân, vì tới tận khi cha mất, anh vẫn là đứa lông bông chưa thể làm cha mẹ yên lòng. Vừa có tiền án, lại bị đuổi học, anh không cách nào tìm được công việc đàng hoàng ngoài xã hội. Vì mưu sinh, anh làm tới ba bốn chục công việc khác nhau, bán rau, bán sách, bán vé số, kéo xe ba bánh, đi khai khoáng, tiếp thị, nấu ăn … "Có những lúc tôi làm liền mấy việc, cái gì kiếm được tiền là tôi làm. Bán rau, nghề này tính thời vụ cao, thu đông kiếm nhiều, mùa hè bình thường. Bán sách, nghề này chỉ được một hai tháng lúc khai trường, còn là bán sách in lậu." Công việc duy nhất anh làm lâu dài làm công nhân cho công ty điện tín đương địa, bắt đầu từ vác thang, kéo dây điện. Mỗi ngày làm việc xong phải viết báo cáo công tác, đó là việc rườm ra phiền phức tốn thời gian mà chẳng ai muốn làm cả, thế nên trong đội đẩy cho anh làm. Kết quả do báo cáo của Thường Thư Hân do gọn gàng đâu ra đó, câu chữ thông thuận, hoàn toàn khác người ta. Dần dà, anh được điều tới văn phòng làm văn thư. Mới đầu anh còn chịu khó học thêm máy tính, một lòng phấn đấu tiến bộ. Đáng tiếc quá khứ lần nữa níu kéo, ngay cả hi vọng ký hợp đồng chính thức cũng vô vọng, không thể tốn thời gian làm việc tạm thời thế này, anh liền từ chức. Có lẽ suốt thời gian đó, chuyện vui duy nhất của anh là trong thời gian đi bán sách lậu, cơ duyên thế nào, anh quen được một cô giáo, rất xinh xắn. Quen nhau ba năm, cô giáo trẻ không chê anh nghèo, chẳng chê anh có quá khứ không tốt, bất chấp cha mẹ ngăn cản, anh có được cái gật đầu của cô, hai người thành vợ chồng. “Có lẽ cô ấy mê món ăn tôi làm.” Lão Thường cười ha hả. Lão Thường không kể nhiều về khó khăn của mình, vì đó thành vốn sống quý nhất của anh, cũng hun đúc cho anh một ánh mắt thấu hiểu cuộc đời. Lại nói rời công ty điện tín, anh chuyển sang bán máy vi tính, ở cửa hàng vi tính, rảnh rỗi anh vào mạng xem tiểu thuyết. Khi đó anh vừa mua nhà để cưới vợ, áp lực khoản vay mua nhà rất lớn, anh không thể dựa vào vợ nuôi được, thấy người ta ở trên mạng viết tiểu thuyết kiếm nhiều tiền lắm, đó là năm 2008 giai đoạn tiểu thuyết mạng bắt đầu bùng nổ, anh muốn thử xem sao. Sau hai tác phẩm sáng tác thử, bộ tiểu thuyết chính thức đầu tiên của anh trên mạng là Hồng Nam Lục Nữ, đề tài đô thị, lượng người mua vip cũng được vài nghìn, mỗi tháng anh viết mấy chục vạn chữ, tiền thù lao là 900 đồng, tuy ít nhưng anh kích động lắm, dù sao anh chỉ tranh thủ sáng tác lúc rảnh rỗi thôi. Khi đó tôi nghĩ "Nghề này sống được đấy." Sang tới tác phẩm thứ hai Hắc Oa nhờ tích lũy được ít độc nhà từ bộ trước, lần này anh yên tâm sáng tác hơn nhiều, thành tích ngày càng tốt, nhiều độc giả thốt lên, té ra tiểu thuyết mạng còn có thể viết tới mức này. Anh chính thức trở thành tác giả toàn thời gian. Đến khi sáng tác Dư Tội, bắt đầu có công ty lớn phát hiện ra viên ngọc bị bỏ quên, mới viết được xong quyển một, người ta đã mua bản quyền truyền hình.  "Khi đó tôi còn chưa có tiếng tăm gì, bản quyền bán quá rẻ, chỉ được 60 vạn, xung quanh biết được, đều bảo tôi ngốc." Thế nhưng ông trời rất công bằng, nhờ thành công lớn của Dư Tội, Thường Thư Hân bán thêm bản quyền truyền hình 3 tác phẩm nữa, trong đó Hắc Oa bán với giá 280 vạn. Quay lại với Dư Tội, Thương Thư Hân hồi ức, khi anh đang Dư Tội trên mạng, rất nhanh anh có được lượng fan cực lớn. Tháng 10 năm đó, có 20 fan hâm mộ vì hợp ý nhau mà tập trung ở Tấn Thành, bọn họ không ngại đường xá xa xôi tới từ khắp nơi trên cả nước lặn lội tới huyện thành nhỏ vùng tây bắc, họ tới tìm Lão Thường. Làm anh bất ngờ là, 12 người trong đó là cảnh sát. Tất nhiên số cảnh sát đó còn bất ngờ hơn, họ nói "Chúng tôi cứ tưởng anh là đồng nghiệp." "Thái độ của tôi với cảnh sát khi đó là kính nhi viễn chi, dù sao tôi từng bị bắt, chẳng may họ tra ra tôi có an thì xấu hổ lắm. Có cả một tạp chí thuộc sở công an liên hệ với tôi, họ tưởng tôi tốt nghiệp trường cảnh sát, mời tôi phụ trách chuyên đề, tôi tất nhiên là từ chối." Rồi Dư Tội xuất bản thành sách, một số hình cảnh trong đại đội hình sự thành phố lái xe mang theo đống sách tới nhờ tôi ký tên, họ nói "Cả đại đội hình sự là fan của anh, chúng tôi đi xin chữ ký thay cho họ."  Từ đó thường có cảnh sát tới tìm Thường Thư Hân trò chuyện, họ tham dự thảo luận tình tiết, còn hiến kế cho anh viết sách, cung cấp tư liệu vụ án, ví như họ nói, "anh bố trí cảnh hàm sai hết rồi, đó là hệ thống của Hong Kong, không phải Đại Lục chúng ta." Vì thế Lão Thường phát hiện sách của mình còn nhiều sai lầm, anh sửa lại không ít tình tiết trong truyện, Dư Tội anh sửa tới 5 lần, Hắc Oa sửa tới lần thứ 3, các truyện khác không có truyện nào anh đăng lên rồi thôi, mà rất chịu khó sửa lại truyện. Vụ án trộm trâu, buôn ma túy v..v..v trong Dư Tội đều là vụ án chân thực mà anh được những người bạn cảnh sát cung cấp tư liệu. Giống Dư Tội, Lão Thường là người sống có phần cô độc kín tiếng, anh không giống tác giả thời đại này, anh không tham gia quảng bá phim, không tổ chức buổi kỳ tên sách, thậm chí còn chẳng mở tài khoản công chúng giao lưu với fan. Bởi thế xung quanh anh, trừ vài người thân và những người bạn cảnh sát, chẳng ai biết được ông chú lôi thôi hay đi dép lê lang thang ngoài đường hay ngậm cọng cỏ hoặc phì phèo thuốc lá như người thất nghiệp lại là tác giả bán được hàng trăm vạn cuốn sách.  Có thể nói Lão Thường thuộc thế hệ cũ rồi, chỉ biết lặng lẽ viết truyện đăng truyện, dùng tác phẩm thay tiếng nói bản thân. Vì vậy tên tuổi anh không nổi tiếng như tác phẩm của anh, nhưng nhờ độc giả yêu thích truyền miệng, tới giờ tác phẩm của anh vẫn luôn được săn tìm. Vì chuyên tâm sáng tác, Thường Thư Hân trong thời gian sáng tác Hắc Oa đã chuyển về nhà cũ ở thôn quê gần thành phố, sống cuộc đời ẩn cư. Mỗi tối trong khói thuốc mịt mù, anh đánh máy đăng truyện, đêm ngủ tới lúc tự nhiên tỉnh, sau đó lên thành phố làm cơm cho vợ và con, cuộc sống thong dong thoải mái. Anh nói đùa anh sáng tác là nghề phụ, nghề chính là ông chồng nội trợ. Trừ đưa đón con, làm việc nhà thì anh đóng cửa đánh máy. sở thích nghiệp dư là xem tiểu thuyết, nghe nhạc, tản bộ, cùng người xung quanh đánh cờ, bốc phét với đám bạn cảnh sát. Vợ anh và con gái đang học cao trung năm thứ hai đều không đọc tiểu thuyết của anh. "Vợ tôi thích xem phim gia đình, không bao giờ xem phim cảnh sát. Con gái tôi à, nó thích xem phim Hàn, thích theo đuổi ngôi sao, nhưng sách của tôi thì nó chả ưa chút nào, tôi thấy ngôi sao duy nhất mà con gái tôi không theo đuổi, chính là tôi." Phóng viên kể, Lão Thường nói câu đó với giọng khoái trá lắm, rõ ràng rất đắc ý về cuộc đời mình.   Mời các bạn mượn đọc sách Dư Tội của tác giả Thường Thư Hân.
Vị Khách Chủ Nhật
“… Những ngọn núi sau lưng ông sừng sững như một đại giáo đường. Chúng trỗi lên thẳng đứng từ mặt biển, vĩ đại và hùng tráng, già lão và nhàn nhĩ, mỗi ngọn có khuôn mặt xám xịt riêng. Những khuôn mặt luôn luôn thay đổi, có sống cả đời cũng chưa đủ để ghi nhận hết. Khúc nhạc đại phong cảm của gió tàn phá chúng với tốc độ vô cùng chậm chạp nhưng không bao giờ ngơi nghỉ. Ông chẳng để ý gì đến chúng nữa cả. Lúc nào chúng chả đứng đó. Những người khác đến đây để ngây ngất chiêm ngưỡng núi, để trèo lên đó và lại gần bầu trời thêm một chút, có lẽ để được diện kiến các đấng thánh thần chăng. Nhưng ông cũng như những người cư ngự khác ở đây, đối với ông núi non là sự mặc định. Phải chăng có sở thích triết luận và suy tư thì ắt ông sẽ coi chúng là những người lính gác, là rào chắn mọi hiểm nguy rình rập. Đã có lần ông rời đảo, đã cố gắng đoạn tuyệt nó mà không thành. Từ đó ông chỉ vào bờ khi chẳng dừng, và đôi khi làm một chuyến du ngoạn trọn gói về phương Nam. Bây giờ ông là một người khác. Sống một cuộc sống điều độ. Ngày xưa ai dám tin chuyện đó? Cũng đôi khi tâm trí ông trôi về dĩ vãng, song ngày càng hiếm hơn . Tốt hơn hết là cái gì đã qua thì cứ để nó yên. Nhưng không phải lúc nào cũng làm được thế. Con bé ấy đã biến đi đâu? Liệu có bao giờ ông biết được không?...” - “Khi bạn đã kiệt sức và từ bỏ Dostoyevsky, hãy đọc Kanger. Nó chính là phương thuốc chữa trị tình yêu đang phai nhạt mà bạn dành cho việc đọc sách”. – Upsala Nya Tidning - “Thomas Kanger đã trở thành một tác giả trinh thám tài năng ngang tầm những tên tuổi có uy tín trong thể loại này như Mankell, Edwardson và Nesser”. – Varnamo Nyheter. - “Văn phong của Kanger ấn tượng một cách tàn nhẫn. Không đối trọng nào được phép xuất hiện trong lời tường thuật của ông. Nó cũng tương tự phương pháp sắt đá đặc sắc của Hemingway” – Eskilstuna-kurien. - “Thomas Kanger và nhân vật Elina Wiik của ông nổi bật lên như ngôi sao sáng chói nhất trên bầu trời văn học trinh thám Thụy Điển” – Gefle Dagblad. *** Hồi hộp và lôi cuốn, tác phẩm trinh thám này không chỉ lần theo dấu vết hung thủ của một vụ án sắp hết thời hiệu khiếu kiện mà còn dẫn dụ độc giả khám phá thế giới tâm lý nhân vật ở những tầng sâu thẳm… Review Tác phẩm: Vị khách chủ nhật Một vụ án mạng từ hai mươi tư năm và mười một tháng trước, chính xác là còn hai mươi lăm ngày nữa sẽ khép lại vĩnh viễn. Một phụ nữ trẻ bị bóp cổ chết. Năm tháng sau xác của cô được phát hiện với những vết răng sói cắn. Đứa con gái hoàn toàn mất tích. Bộ hồ sơ dài tới ba nghìn trang với những phần điều tra tỉ mỉ và đầy nỗ lực… Nữ cảnh sát Elina Wiik đã quyết định lật lại vụ án này từ nỗi ám ảnh của một đồng nghiệp thân thiết, khi anh bị chứng nhồi máu cơ tim. 35 tuổi, xinh đẹp và đầy bản lĩnh, Wiik mang đến cảm giác đầu tiên về một “người đàn bà thép”, khi đã quyết là không rời bỏ mục tiêu lựa chọn của mình. Và Wiik đã chọn nạn nhân Ylva Marieanne Malmberg của gần hai mươi lăm năm trước, bắt đầu từ một xuất phát điểm mà chính cô cũng thừa nhận đây là một chuyện viển vông, một vụ chưa ai làm nổi bao giờ. Có bao điều phiền toái kéo theo từ vụ án tưởng chừng đã được khép lại ấy. Công việc thường ngày của Wiik là giải quyết những vụ trộm vặt, đánh nhau đã vì thế mà bê trễ. Ba nghìn trang hồ sơ không chỉ ngốn hết thời gian của Wiik mà còn lan sang cả một vài đồng nghiệp trong cơ quan. Điều này khiến vị sếp trong cơ quan hết sức bực bội. Đã có lúc Wiik bị dồn tới bước đường cùng, buộc phải rời bỏ vụ án. Tuy nhiên, người phụ nữ trẻ này lúc nào cũng biết tìm cho mình một lối để tiếp tục đi. Có tới ba mươi tư nghi phạm được Wiik liệt kê từ những cuốn nhật ký để lại của Ylva. Và cô đã quay ngược lại thời gian để tái hiện lại tất cả những gì đã xảy ra với nạn nhân trước đó. Những kẽ hở của hồ sơ đã được phát hiện, và Wiik lúc nào cũng tin tưởng sẽ giải quyết được vụ án mạng này tới cùng. Đầy cuốn hút với các nhân vật dường như ai cũng có xu hướng không muốn bày tỏ bản thân quá nhiều. Lôi cuốn với hai tuyến nhân vật cùng lao về quá khứ, một bên là nữ cảnh sát tài ba và chuyên nghiệp, một bên là cô gái trẻ Kari muốn kiếm tìm sự thật nguồn gốc của mình. Hồi hộp với những mắt xích mãi tận đẩu đâu có thể tình cờ ghép nối được với nhau, hé mở một cách bất ngờ. Và điều kỳ diệu mà Thomas Kanger đã làm được: chỉ để tội phạm xuất hiện ở phút cuối, và kèm theo một tiết lộ gây sửng sốt không kém. Vị khách chủ nhật là cuốn sách thứ tư trong bộ tiểu thuyết trinh thám sáu tập của nhà văn Thụy Điển Thomas Kanger. Khác với những cuốn trước đó, tác phẩm này được xây dựng hoàn toàn từ hư cấu. Với cặp mắt quan sát của một phóng viên điều tra, Thomas Kanger đã đưa vào Vị khách chủ nhật cái nhìn quyết liệt tới tận cùng sự thật, khiến văn phong của ông ấn tượng một cách tàn nhẫn. Đó là lý do để Thomas Kanger và nhân vật Elina Wiik của ông nổi bật lên như ngôi sao sáng chói nhất trên bầu trời văn học trinh thám Thụy Điển. Tác phẩm này đã được dịch ra nhiều thứ tiếng như Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Na Uy, Phần Lan, Đan Mạch, Hà Lan…, được đề cử giải Tiểu thuyết hình sự Thụy Điển và hiện đang được Hollywood dựng thành phim. Thomas Kanger sinh năm 1951, sống gần Stockholm. Trước khi bước vào nghiệp viết tiểu thuyết trinh thám, ông là phóng viên thường trú nhiều năm ở nước ngoài. Là nhà văn, nhà báo, Thomas Kanger đã chín lần sang Việt Nam giảng dạy về báo chí, và dấu ấn này ít nhiều lưu lại trong Vị khách Chủ nhật, mở đầu với một khung cảnh ở Việt Nam. Bản lĩnh của phóng viên đã mang đến cho tác giả một cái nhìn chiều sâu sau những tác phẩm trinh thám, mà ông từng tâm sự: “Làm báo, tôi quan tâm đến vấn đề lạm dụng quyền lực; còn khi viết tiểu thuyết tôi muốn tìm hiểu xem tại sao người ta lại hành động theo cách này hay cách khác, sự phát triển trong xã hội đã ảnh hưởng đến con người ra sao, đặc biệt đối với phụ nữ”. Phúc Yên - vnexpress.net *** Tác giả Nhà văn, nhà báo Thụy Điển nổi tiếng Thomas Kanger sinh năm 1951, lớn lên ở Uppsala, sau đó sống gần hai mươi năm ở Västerås, hiện sống gần Stockholm, ông bắt đầu làm báo từ năm 1980, mười năm sau chuyển sang làm phóng viên truyền hình, từng là phóng viên thường trú nhiều năm ở nước ngoài. Thomas Kanger đã viết tổng cộng chín cuốn sách, bao gồm: năm tiểu thuyết trinh thám, một tiểu thuyết kinh dị, một cuốn sách nghiên cứu, hai cuốn sách điều tra. Thomas Kanger cũng hợp tác với Truyền hình Quốc gia Thụy Điển làm phim tài liệu phóng sự điều tra. Đề tài trong tác phẩm của ông thường gây được sự chú ý mạnh mẽ trong dư luận xã hội không chỉ ở Thụy Điển mà cả ở nước ngoài. Thomas Kanger làm báo và viết văn với niềm tin tạo ra những tác động góp phần loại bỏ những điều xấu trong xã hội. Với tài năng và tầm ảnh hưởng ngày càng mở rộng của ông, điều này đã phần nào trở thành hiện thực. Các tiểu thuyết của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng, dựng thành phim. Thomas Kanger từng tham gia phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam tại Mỹ, đã đến Việt Nam chín lần để giảng dạy về báo chí. Tiểu thuyết trinh thám Vị khách Chủ nhật mở đầu với một khung cảnh Việt Nam lần đầu được dịch sang tiếng Việt sẽ là những trang sách hấp dẫn giới thiệu với độc giả Việt Nam một nhà văn tài năng đến từ đất nước Thụy Điển xa xôi. *** Chuyện kể ngày xưa lần đầu tiên sói và tuần lộc gặp nhau. Trông thấy cặp sừng to tướng và đôi mắt đen của tuần lộc, sói thất kinh. “Cậu cần sừng nhọn làm gì vậy?” sói hỏi. “Cậu nói đúng, sừng tớ nhọn lắm,” tuần lộc đáp. “Nhưng tớ vừa ra đời nên chưa rõ dùng sừng làm việc gì cả.” Không vì thế mà sói thấy yên tâm. “Tại sao đôi mắt đen to tướng của cậu lại nhìn tớ chằm chằm vậy?” sói muốn biết. “Tớ không muốn làm cậu sợ đâu, hay là tớ quay mặt đi vậy nhé,” tuần lộc nói. Giờ thì đến lượt tuần lộc hỏi sói. “Thế cậu là ai? Trông thấy răng cậu vàng khè và họng cậu đỏ chót tớ sợ phát run lên.” Nghe tuần lộc nói sợ mình, sói khẽ vẫy đuôi và gầm gừ: “Hãy liệu hồn khi gặp ta, vì lúc nào ta cũng thấy đói.” Từ đó trở đi sói là kẻ mạnh hơn và tuần lộc là con mồi của nó. Ông quen tay thả dây buộc lưỡi câu trượt xuống nước. Trời xám xịt đầy mây, không khí đã ứ hơi mưa, và xung quanh im ắng lạ thường so với biển Baltic thường ngày. Chiếc thuyền con lúc lắc trườn tới một cách thận trọng. Kinh nghiệm cho ông biết thời tiết có thể đột ngột thay đổi. Đang lặng gió đấy mà cũng có thể ầm ào ngay đấy, song chưa bao giờ vì thế mà ông không chèo thuyền ra biển. Ra tận ngoài khơi, cách xa bờ, chỉ ở đó ông mới thấy thanh thản. Những ngọn núi sau lưng ông sừng sững như một đại giáo đường. Chúng trồi lên thẳng đứng từ mặt biển, vĩ đại và hùng tráng, già lão và nhàu nhĩ, mỗi ngọn có khuôn mặt xám xịt riêng. Những khuôn mặt luôn luôn thay đổi, có sống cả đời cũng chưa đủ để ghi nhận hết. Khúc nhạc đại phong cầm của gió tàn phá chúng với tốc độ vô cùng chậm chạp nhưng không bao giờ ngơi nghỉ. Ông chẳng để ý gì đến chúng nữa cả. Lúc nào chúng chả đứng đó. Những người khác đến đây để ngây ngất chiêm ngưỡng núi, để trèo lên đó và lại gần bầu trời thêm một chút, có lẽ để được diện kiến các đấng thánh thần chăng. Nhưng ông cũng như những người ngụ cư khác ở đây, đối với ông núi non là sự mặc định. Phải chăng có sở thích triết luận và suy tư thì ắt ông sẽ coi chúng là những người lính gác, là rào chắn mọi hiểm nguy rình rập. Đã có lần ông rời đảo, đã cố gắng đoạn tuyệt nó mà không thành. Từ đó ông chỉ vào bờ khi chẳng đừng, và đôi khi làm một chuyến du ngoạn trọn gói về phương Nam. Bây giờ ông là một người khác. Sống một cuộc sống điều độ. Ngày xưa ai dám tin chuyện đó? Cũng đôi khi tâm trí ông trôi về dĩ vãng, song ngày càng hiếm hơn. Tốt hơn hết là cái gì đã qua thì cứ để nó yên. Nhưng không phải lúc nào cũng làm được thế. Con bé ấy đã biến đi đâu? Liệu có bao giờ ông biết được không? Mời các bạn mượn đọc sách Vị Khách Chủ Nhật của tác giả Thomas Kanger & Lê Quang (dịch).
Vẫy Vùng Giữa Vũng Lầy
Mọi chuyện bắt đầu vào một đêm tháng Tư thanh mát, khi cô vợ xinh đẹp nóng bỏng bị hất khỏi chiếc du thuyền sang trọng xuống lòng đại dương ngay vào đêm kỷ niệm hai năm ngày cưới bởi chính người chồng yêu dấu! Bội bạc, ngoại tình, hay còn mưu toan ghê gớm gì khác khiến gã phải làm chuyện tày đình? *** "Vẫy vùng giữa vũng lầy" - Bình Bồng Bột dịch từ tác phẩm "Skinny Dip" - mang nội dung tội phạm theo phong cách hài hước. Bình Bồng Bột (tên thật: Trần Minh) dành một năm qua để dịch tiểu thuyết xuất bản năm 2004 của Carl Hiaase. Anh chọn tựa đề Vẫy vùng giữa vũng lầy nhằm thể hiện thế mắc kẹt của nhân vật chính và cả những người liên quan trong cuộc sống, công việc và sự lựa chọn của họ. Nhan đề cũng liên quan chặt chẽ tới vùng đầm lầy Evanglades, bang Florida, bối cảnh diễn ra phần lớn câu chuyện. Tác phẩm có khởi đầu "mở toang": Một vụ mưu sát mà thủ phạm hạ sát nạn nhân ngay từ trang đầu tiên. Tuy nhiên, cách dẫn dắt của tác giả Carl Hiaasen khiến người đọc phải tò mò, do nạn nhân không chết, còn nguyên nhân của vụ án hết sức mù mờ. Độc giả sẽ cố lần theo trang sách tìm cho ra nguyên nhân người chồng hất cô vợ xinh đẹp, nóng bỏng, thông minh và giàu có xuống biển từ boong du thuyền ngay trong đêm kỷ niệm hai năm ngày cưới. "Vẫy vùng giữa vũng lầy" do Nhà xuất bản Hội Nhà văn và Tao Đàn ấn hành, ra mắt trong tháng 1. Ảnh: Tao Đàn. Đi theo hành trình của người vợ lần tìm lý do chồng hạ sát mình, cuốn truyện đưa độc giả đến với những bí mật động trời của giới nhà giàu Mỹ, nhưng cũng là những câu chuyện hết sức thời sự trên thế giới: nạn đầu độc môi trường, chuyện chính quyền cấu kết với giới tài phiệt lũng đoạn kinh tế, bóc lột người lao động, hay nạn mua bán bằng cấp, làm giả số liệu, tống tiền... Dưới ngòi bút của tác giả Carl Hiaasen - một cựu nhà báo của Miami Herald và Tribune Content Agency - các câu chuyện, hội thoại hài hước mang đậm văn hóa đại chúng Mỹ liên tiếp hiện ra, với những ví von về các ngôi sao ca nhạc, điện ảnh, thời trang, thể thao như ban nhạc The Beatles, nữ hoàng nhạc đồng quê Shania Twain, danh hài Jim Carrey, phim James Bond. Cũng như nhiều tác phẩm hiện đại Mỹ, tiểu thuyết có nhiều nhân vật kỳ dị, hành động khác thường khiến độc giả phì cười nhưng không quá bất ngờ. Không cần một cái kết đóng, dứt khoát hay có hậu, Vẫy vùng giữa vũng lầy làm độc giả thỏa mãn khi khép lại trang cuối vì đã trải qua một hành trình hồi hộp, gay cấn nhưng dần dần gỡ được các nút thắt một cách hợp lý. Giống các tiểu thuyết tội phạm Mỹ, truyện không thiếu các màn nổ súng, rượt đuổi lẫn tình ái mùi mẫn. Bình Bồng Bột có bản dịch khá thành công, truyền tải được nguyên vẹn nội dung và còn sáng tạo trong việc chuyển ngữ. Bản dịch thể hiện được giọng văn hài hước, châm biếm, sử dụng đầy rẫy ngôn ngữ thời thượng phù hợp với lớp trẻ những vẫn không mất đi "chất Mỹ", đem lại sự thú vị và sảng khoái cho người đọc. Nếu cần hoàn thiện hơn, có lẽ chỉ là việc còn nhiều thuật ngữ, danh từ riêng cần được chú thích rõ ràng hơn cho bạn đọc đại chúng ở lần tái bản. Tiên Long - vnexpress.net *** Trong 3 ngày cuối mùng của Tết vừa qua (mùng 6 đến mùng 9 Tết) mình đã xuất sắc đến không tin được khi đã đọc xong cuốn sách mới nhất của Tao Đàn là Vẫy vùng giữa vũng lầy của Carl Hiaasen (dịch Bình Bồng Bột). Cuốn tiểu thuyết 420 trang sặc mùi bạo lực, chính trị, xã hội, môi trường và cả những cảnh phim con heo nữa. Quá nhiều yếu tố thuộc nhóm sách mình chưa bao giờ ưu tiên tìm đọc trước giờ. Lý do duy nhất mình đọc nó chính là do anh Bình Bồng Bột dịch. Mình mê anh Bình Bồng Bột sau khi đọc Phút 89: Tự truyện Lê Công Vinh, “CR7 vs Messi, Khổ luyện và Thiên tài” và gần nhất cuốn Tự truyện siêu nặng ký nghĩa đen lẫn nghĩa bóng: Mike Tyson – Sự thật trần trụi (lúc này ảnh để tên chấp bút là Trần Minh). Mình được biết là ảnh còn 2 cuốn tự truyện khác nữa là Tự truyện Hoàng Thùy Linh: Vàng anh và phượng hoàng với Tôi là Ibrahimovic. Nhưng vì đã đọc 3 cuốn thể loại tự truyện rồi nên mình không có dự định đọc tiếp 2 cuốn này. Vì vậy khi biết và thấy những người anh, chị chia sẻ cuốn tiểu thuyết dịch mới nhất của anh Bình Bồng Bột mình vứt hết liêm sỉ đã xin vợ lì xì ngay. Mời các bạn mượn đọc sách Vẫy Vùng Giữa Vũng Lầy của tác giả Carl Hiaasen & Bình Bồng Bột (dịch).