Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bông Hồng Vàng và Bình Minh Mưa - K. G. Paustovsky

K.G. Paustovski (31/5/1892- 14/7/1968) là nhà văn Nga rất nổi tiếng với thể loại truyện ngắn. Ẩn đằng sau vẻ băng giá bên ngoài, Konxtantin Paustovski sở hữu một tâm hồn Nga tuyệt đẹp với trái tim cháy rực lửa yêu thương. Ông biết rung cảm sâu sắc với cảnh đẹp thiên nhiên và sự hồn hậu của những con người không chỉ của nước Nga mà cả những nơi ông đã đi qua. Hai tập truyện ngắn Bông hồng vàng và Bình minh mưa của Paustovsky mang đến cho độc giả những cảm giác êm đềm, nhẹ nhàng, một thế giới thanh bình yên ả trước thế chiến thứ II, thế giới của những con người nước Nga bình dị, đôn hậu và lóng lánh chất thơ. Những truyện ngắn như: Tuyết, Chiếc nhẫn bằng thép, Bức điện, Trái tim nhút nhát… được Paustovski diễn đạt bằng lối văn chương giản đơn, dịu dàng như con trẻ, tác giả đã thể hiện được những tình cảm dung dị nhất: tình cảm giữa cha mẹ với con, tình yêu đôi lứa, tình làng nghĩa xóm… của con người nước Nga những năm đầu thế kỷ trước. Bông hồng vàng và bình minh mưa khiến bạn đọc phải giật mình và tự hỏi: thật sự trên đời này vẫn còn những câu chuyện kỳ diệu như thế? Thông qua tác phẩm, Paustovski nhắc nhở chúng ta về những điều đẹp đẽ, những niềm hạnh phúc nhỏ nhắn mà chúng ta đã bỏ quên hay xem như xa xỉ trong cuộc sống vội vã của mình.   *** Cơn bão tuyết tràn vào thành phố từ chập tối. Tắt ánh mặt trời là nhiệt độ hạ xuống đột ngột. Khi cơn bão ập tới, nhiệt độ còn xuống nữa. Không khí khô đến khó thở. Từ trong nhà nhìn ra chỉ thấy trời đất trắng bệch một màu bạc xỉn của băng bụi. Gió quyện chúng quẩn quanh trên mặt đường, xếp thành từng đống ở chân tường. Không một bóng người bóng vật ngoài phố. Thỉnh thoảng mới thấy một chiếc xe tải, chăn trấn thủ bọc kín máy, lạc lõng chạy qua, bụi trắng cuồn cuộn dưới gầm xe. Tì tay trên bậu cửa sổ, tôi bần thần nhìn ra những ngọn đèn đường vàng ệch trong bóng tối nhuốm màu trắng phản chiếu của tuyết già mà rùng mình cảm trước thấy chiều dài ghê gớm của thời gian một đêm mất ngủ. Guenađy Shpalikov, bạn cùng phòng với tôi, nhà thơ chưa được ai biết đến trong những năm xa xôi ấy, quẳng cho tôi một cuốn sách dày cộp, bìa bọc simili: - Đọc đi! Những đêm như đêm nay mà đọc Paustovsky thì đúng lúc lắm. Nếu cậu thích, có thể coi như mình tặng cậu. Đây là tuyển tập. Mình đã đặt mua toàn tập hôm qua rồi. Tôi ngần ngại nhìn cuốn sách dày cộp. Nhưng chỉ vừa đọc mấy chục trang đầu, tôi đã hiểu ngay rằng không gì có thể bắt tôi gấp cuốn sách lại chừng nào tôi chưa đọc xong. Và thế là đêm đó - một đêm giá lạnh mùa đông năm 1956 ở Moskva - tôi đã gặp Paustovsky. Từ những hàng chữ in bình thường trên trang giấy xanh lên màu chao đèn ngủ, những nhân vật sống bước ra, đi lại, làm việc, yêu, ghét, đau khổ, vui, buồn, trong những câu chuyện đầy tình cảm của những xúc động thường là thầm kín và cao cả, trên nền phong cảnh Nga với những hàng bạch dương run rẩy trong gió, những vì sao trong vũng nước đêm, mùi lá mục trong rừng... Tôi nghiễm nhiên trở thành người chứng kiến, người tham gia vô vàn chuyện đời chuyện người, rất thường mà rất lạ, không sao quên được. Là nhờ Konstantin Paustovsky. Và tôi thật sự đã không quên, bởi vì, hơn là những chuyện kể mà ta có thể nghe ở bất cứ ai, trong một đêm đó Paustovsky đã giúp tôi sống một đoạn đời tính bằng nhiều năm, mà là những năm giá trị, khi con người bỗng nhận ra rằng mình không thể giản đơn tồn tại, mà phải được sống thực, sống đầy đủ, với những rung cảm thực, cái duy nhất làm cho cuộc sống của ta phong phú thêm và vì thế có ý nghĩa hơn. Đọc Paustovsky tôi bỗng hiểu tôi hơn, tôi bỗng hiểu mọi người hơn. Và, đây mới là cái chính: tôi chợt hiểu rằng mỗi con người, dù người đó là ai, là nhà bác học, nhà thơ, là ông thợ mộc bình dị..., tất cả, đều là một thế giới phong phú. Thế giới ấy không lồ lộ dưới ánh sáng mặt trời, và ta không thể thấy được nó, càng không thể nhìn rõ nó, bằng cặp mắt lười biếng. Mỗi dòng chữ của Paustovsky nói với chúng ta một cái gì rất mới về cái thế giới không dễ thấy ấy. Tôi đọc mê mải, không biết rằng cơn bão tuyết đã lặng từ lâu, có lẽ từ nửa đêm, và khi tôi gập sách lại thì ánh bình minh màu trắng đục của riêng những chân trời phương Bắc đã tràn ngập khắp phòng. Ngọn đèn đêm vẫn cháy, nhưng ánh sáng màu xanh lơ của nó nhợt nhạt hẳn. Qua một đêm, tuyết đã xếp thành những vồng trắng mịn màng trên bậc cửa sổ. Tôi trở dậy, mở một cánh cửa, lặng ngắm những bông tuyết đang sà xuống. Chúng bay chậm, đung đưa trong gió nhẹ, rồi từ từ đậu xuống những đống tuyết lớn. Tôi chìa tay ra đón tuyết. Lúc đầu, tôi có cảm giác những bông tuyết lảng tránh tay tôi. Nhưng có những bông bạo dạn hơn đến gần, ngập ngừng trong giây lát, rồi mới nhẹ nhàng đáp xuống. Khi tôi thu tay về thì trong lòng bàn tay chỉ còn mấy vệt ướt: tuyết đã tan rồi. Trong khoảnh khắc ấy tôi chợt hiểu rằng tôi đã bỏ qua rất nhiều, nhiều lắm, cái đẹp trên những con đường mà tôi đã đi qua, tính cả về không gian lẫn thời gian. Cũng như trước cái đêm đáng nhớ ấy tôi đã không biết đến cái đẹp của những bông tuyết này, chỉ vì tôi không biết nhìn, chưa biết đến niềm mê say mà cái đẹp mang tới. Paustovsky chỉ cho tôi thấy cái mất mát ấy. Như một người bạn rất gần gụi với ta, như một người thân của ta, Paustovsky bước vào tâm hồn ta rồi ở lại đó, ông thủ thỉ với ta những chuyện tâm tình. Nghe xong những câu chuyện ấy, ta cảm thấy tâm hồn ta lớn thêm, rộng thêm, nhẹ hơn. °°° Paustovsky ra đời ngày 31 tháng 5 năm 1892 trong một ngõ hẻm thành Moskva. Dòng họ ông gốc kazak[1] miền Zaporozhe, sau mới chuyển tới cư ngụ ở vùng ven sông Roshi gần tỉnh lỵ Belaya Serkov. Cha ông làm nhân viên thống kê ngành đường sắt. Ông nội là một cựu chiến binh kadak dưới thời Nga hoàng Nikolaev. Cụ thân sinh ra Paustovsky là người mơ mộng và là người ở không yên chỗ. Sau thời gian tòng sự tại Moskva, ông đổi đi Vino, rồi Pskov, sau cùng mới đỗ lại Kiev. Mẹ Paustovsky lớn lên trong một gia đình tư chức ở một nhà máy đường. Tính khắc khổ, bà nắm mọi quyền hành trong nhà. Gia đình Paustovsky đông người, đủ tính đủ nết, nhưng hết thẩy đều yêu nghệ thuật. Cậu bé Paustovsky lớn lên trong tiếng đàn dương cầm, những giọng ca, những cuộc cãi vã nghệ thuật và những rạp hát. Cậu bé bắt đầu cuộc đời học trò ở trường trung học số 1 thành phố Kiev. Khi cậu học tới lớp 6 thì gia đình khánh kiệt, cậu phải tự nuôi thân bằng một nghề bất đắc dĩ không xứng với tuổi học trò là nghề "gia sư". Đó là tóm tắt mấy dòng về con người về sau này trở thành nhà văn. Tôi chép lại tiểu sử ông ở đây theo thói thường phải viết tiểu sử nhà văn mà mình giới thiệu, chứ tôi biết tiểu sử chẳng giải thích được bao nhiêu vì sao Paustovsky chọn nghề văn chứ không phải nghề nào khác. Truyện ngắn đầu tiên của Paustovsky được in khi Paustovsky còn là học sinh năm chót của trường trung học. Nó xuất hiện trong tạp chí "Những Ngọn Lửa", là tạp chí văn học duy nhất của Kiev hồi bấy giờ, vào khoảng năm 1911. Sau khi tốt nghiệp trung học, Paustovsky thi vào đại học tổng hợp Kiev. Hai năm sau, Paustovsky chuyển qua một trường đại học khác ở Moskva và ở hẳn thành phố này từ đấy. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Paustovsky làm nghề bán vé xe điện, rồi lái xe điện, rồi y tá trong các đoàn tàu quân y con thoi chạy đi chạy lại giữa hậu phương và tiền tuyến. Mùa thu năm 1915 ông bỏ công việc dân sự để đi theo một đơn vị quân y dã chiến và làm một chuyến đi dài suốt từ thành phố Lublin (Ba Lan) đến tỉnh lỵ Nesvizh ở Belorussya. Trên đường, tình cờ nhặt được một mẩu báo, ông mới biết hai anh ông đã tử trận trong cùng một ngày trên hai mặt trận khác nhau. Paustovsky vội vã trở về với mẹ. Bà cụ lúc đó đang ở Moskva. Nhưng Paustovsky không thể ngồi lâu một chỗ. Bệnh xê dịch giày vò ông và ông lại lên đường, tiếp tục cuộc sống nay đây mai đó. Ông đi Ekaterinoslav để làm việc trong nhà máy luyện kim của công ty Briansky. Rồi bỏ đấy mà đi Yuzovka, từ đó đến Taranrog, làm trong các nhà máy. Ở Taranrog, Paustovsky khởi viết cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình - "Những Kẻ Lãng Mạn". Mùa thu năm 1916, Paustovsky lại một lần nữa bỏ Taranrog để đến nhận công tác tại Công ty liên hiệp hải sản Azovskoye. Cách mạng Tháng Hai bùng nổ khi Paustovsky đang ở Moskva. Lúc đó ông đã bước vào nghề báo. Ông viết: "Sự hình thành con người và nhà văn trong tôi bắt đầu từ những năm ấy, nó xảy ra dưới chính quyền xô-viết và quyết định toàn bộ cuộc đời tôi từ đấy về sau". Sau thời gian ở Moskva, ông lại quay về với mẹ, bà cụ lúc ấy đã sống ở Ukraina. Từ Kiev, nơi ông chỉ cư ngụ một thời gian ngắn, Paustovsky đi Ôđessa. Ở thành phố cửa biển này ông được sống trong môi trường các nhà văn trẻ và tài năng: Ilf, Bagritzky, Babel, Shenghel, Lev Slavin... Nhưng rồi ông lại giã từ những người bạn tuyệt vời của mình để trở về để tiếp tục cuộc hành trình vô định. Ông đi Sukhum, Batum, Tifflis. Từ Tifflis, Paustovsky đến Armenya, rồi lang bạt sang tận Ba Tư. Năm 1923, Paustovsky trở về Moskva trong một chuyến dừng chân, xin làm biên tập viên cho một tờ báo. Cũng từ đó tên tuổi của ông bắt đầu trở thành quen thuộc với độc giả qua những tác phẩm nối tiếp nhau ra đời. Cuốn sách đầu tiên được Paustovsky coi là tác phẩm thực sự của ông là tuyển tập truyện ngắn "Những Con Tàu Đi Ngược Chiều Nhau". Mùa hè năm 1932 Paustovsky bắt đầu cuốn "Kara-Bugaz" và một số truyện ngắn khác mà về sau này ông đã kể lại khá tỉ mỉ trong "Bông Hồng Vàng". Trong cuộc sống tự do khỏi công việc nhà nước Paustovsky còn đi nhiều hơn nữa. Dấu chân ông in khắp mọi miền đất nước xô-viết, từ bán đảo Konsky đến những sa mạc vùng Trung Á, từ các thành phố băng tuyết ở Cực Bắc đến những bờ biển ấm áp vùng Krym tới những miền rừng rậm rạp của Sibir. Ngoài ra, ông còn đến Tiệp Khắc, đi tàu biển vòng quanh châu Âu, qua các thành phố Istanbul, Athena, Napoli, Roma, Paris, Rotterdam, Stockholm... Trong đại chiến thế giới lần thứ hai, ông làm phóng viên chiến tranh của Mặt trận Nam và ở đó ông cũng đi rất nhiều. Đời ông, từ lúc còn nhỏ cho đến năm 1921, được ghi lại khá đầy đủ trong các cuốn truyện mang tính hồi ký "Những Năm Xa Xôi", "Tuổi Trẻ Không Yên", "Sự Bắt Đầu Của Thế Kỷ Ta Chưa Biết". Paustovsky nói rằng nhà văn cần phải biết tạo ra tiểu sử cho mình. Tức là, ông muốn nói, nhà văn cần phải chủ động ném mình vào trong những xoáy lốc của cuộc đời, để được sống nhiều, sống thật trong nó, tự mình tạo ra nguồn nguyên liệu dồi dào cho công việc viết văn sau này. Ông nhìn những nhà văn cạo giấy, những viên chức văn chương bằng cái nhìn khinh bỉ. Ông không chỉ viết nhiều, mà còn viết hay. Hiếm có nhà văn nào ở nước Nga được in toàn tập trong khi còn sống[2]. Paustovsky là nhà văn không biết hài lòng về mình. Ông luôn nói rằng những gì ông đã viết chỉ là bước đầu, chứ toàn bộ công việc thực sự thì bao giờ cũng vậy, còn ở phía trước. °°° Văn của Paustovsky, cũng như sự tiếp nhận cuộc đời ở trong ông, những suy ngẫm của ông, mang một sắc thái đặc biệt. Lần đầu đọc Paustovsky, trong cái đêm bão tuyết không ngừng gào thét, tung băng bụi ra khắp nơi và trùm lên tất cả, khi ngọn đèn đêm tỏa ánh sáng nhè nhẹ mơ hồ lên những trang giấy, trong cái thời gian mung lung làm cho con người dễ đi vào mình hơn cả, tôi cảm thấy cuộc sống vụt ngưng lại, nhưng bên cạnh nó lại hiện ra một cuộc sống khác, với đầy đủ đường nét, màu sắc, âm thanh và tình người. Cuộc sống ấy rõ nét đến nỗi ta có thể nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy tất cả những gì thuộc về nó. Nhưng đồng thời nó cũng mơ hồ, huyền ảo, như một cái gì không thực, không dễ có thực, nhưng nó làm ta tin ngay rằng nó thật sự hiện hữu, sung sướng để mà tin. Bởi vì những cái đó đúng là có thực, nhưng lại là những cái, tiếc thay, ta không thể thấy được dễ dàng. Có lẽ, tôi đã nói điều mâu thuẫn. Nhưng, thú thật, tôi không biết diễn tả thế nào những cảm giác mới sinh mỗi lần đọc Paustovsky. Nguyễn Khải nói với tôi về Paustovsky thế này: "Hình như Paustovsky thích thả sương mù vào truyện của ông ta. Cái đó làm người đọc nhiều lúc tưởng những điều ông ta nói giống như những giấc mơ, để rồi sau khi suy nghĩ kỹ, mới tin là chúng có thật, lúc đó họ mới phát hiện rằng mình đã lớn thêm một chút trong tâm hồn". Tôi thấy đó là một nhận xét xác đáng. Cái hư mà thực, thực mà hư trong Paustovsky là thế. Nói cách khác, trong văn ông thực hư lẫn lộn - trong thực có hư, trong hư có thực. Để làm được việc đó, nhà văn phải rất dày công nghiên cứu cuộc sống, nghiên cứu thật tỉ mỉ, đến chân tơ kẽ tóc, nhập tâm cuộc sống mà mình quan sát, rồi hòa mình vào nó, sống thực với nó. Đến khi ngồi vào bàn viết thì cuộc sống ấy đã thành của mình, còn hơn của mình nữa, vì nó được nghiên cứu, được suy ngẫm, để cuối cùng bật ra chỉ những đường nét chính, những màu sắc chính mà thôi. Đó là cuộc sống trong sự biểu đạt tiết kiệm, được đưa lên giấy chỉ những gì cần thiết nhất, tinh chất nhất, đẹp đẽ nhất. Cách biểu đạt này của Paustovsky giống phong cách làm việc của những họa sĩ Trung Hoa cổ trong trường phái quốc họa. Khác với bạn đồng nghiệp phương Tây, những họa sĩ quốc họa Trung Hoa không bao giờ làm phác thảo cho những bức tranh sẽ vẽ. Họ an nhiên sống trong đời, lặng lẽ quan sát nó, lặng lẽ thu nó vào lòng, nói cách khác, họ sống như mọi người, nhưng chăm chú quan sát cuộc sống đến mức thuộc lòng nó, chỉ đến lúc ấy họ mới nhả tinh chất của nó ra trên giấy trên lụa. Cuộc sống được biểu đạt theo cách ấy hiện ra ở những điểm tập trung nhất, dường như không còn lệ thuộc chủ đề. Những gì không cần thiết, những tạp chất, đều bị họ gạt bỏ không thương tiếc. Nhưng khoan, cũng không hẳn là thế. Bên cạnh những cái thuộc tinh chất ta lại bắt gặp những nét tưởng chừng chẳng có liên quan gì tới chủ đề, có vẻ như thừa. Nhưng thử bỏ những cái thừa ấy đi mà xem - tác phẩm sẽ mất đi vẻ đẹp mà ta đã được thấy. Tức là, chúng là những cái thừa cần thiết, những cái thừa có chọn lọc bằng vô thức, những cái thừa xét cho cùng là cố ý của tác giả. Thiếu những cái thừa đó văn hết là văn. Nó thành xác chết. Tôi sẽ không chứng minh điều này. Nó vô ích như khi ta cố chứng minh vẻ đẹp của một buổi bình minh chẳng hạn. Mà cũng đừng hoài công kể lại những truyện ngắn của Paustovsky. Chúng ta hãy thử nhớ lại "Chú Bé Chăn Bò", "Gió Biển", "Chuyến Xe Đêm", "Người Đầu Bếp Già"... Liệu có thể kể lại những câu chuyện trong những truyện ngắn đó không nhỉ? Có người đã kể, kể rất hay, nhưng nghe xong, tôi nghĩ rằng sự mất mát trong câu chuyện được kể lại có thể tính bằng số bách phân là 90 phần trăm. Paustovsky có thể từ một chi tiết rất nhỏ mà dựng thành một truyện ngắn. Nhưng qua truyện ngắn đó ta được biết không phải một người - nhân vật chính - mà nhiều người, và hơn thế nữa, dấu vết của cả một khoảng thời gian. Cái "hư" trong văn Paustovsky có một đặc tính được nhiều người nhận xét. Dường như ông khám phá được trong tâm hồn ông, và trong tâm hồn người nói chung, sự ưa thích bản năng những cái không bình thường. Cho nên nói về cái bình thường bằng con đường tìm kiếm, lựa chọn để rồi đưa ra cái có vẻ không bình thường lại là con đường ngắn nhất của sự biểu đạt cái đẹp. Nhưng nếu cái không bình thường ấy quá xa lạ với trí tưởng tượng của người đọc thì cũng hỏng, người đọc sẽ đẩy nó ra và người viết thế là hoài công. Cần phải chọn cái không bình thường bình dị, nghĩa là cái có thể có, có thể xảy ra, dường như người đọc có thể thấy nó, nhưng do vô tình đã đi lướt qua nó, đi lướt qua cái đẹp, một cách hững hờ, và giờ đây, khi được nhà văn chỉ cho thấy, mới biết ra để mà nuối tiếc. Khả năng nhìn thấy cái không bình thường trong cái bình thường ở trong ông làm nên nét độc đáo của văn ông. Paustovsky thú nhận rằng khả năng đó bắt nguồn từ tính chuộng lạ vốn có trong ông từ thuở thiếu thời. Ông thuật lại: "Thế giới sặc sỡ của những cái lạ chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của tôi". "Môn học mà tôi thích nhất ở trường trung học là môn địa lý. Môn này khẳng định với tôi rằng trên trái đất có những xứ sở kỳ lạ. Tôi biết rằng cuộc sống nghèo nàn và vất vưởng của gia đình tôi hồi ấy không thể cho phép tôi nhìn thấy những xứ sở ấy. Mơ ước của tôi không thể thực hiện được. Nhưng không phải vì thế mà nó chết dần chết mòn đâu". "Tâm trạng tôi khi ấy có thể định nghĩa bằng hai từ: hào hứng và buồn rầu. Hào hứng trước cái thế giới mà mình tưởng tượng ra, buồn rầu vì không thể nhìn thấy nó. Hai cảm giác ấy chiếm thế thượng phong trong những vần thơ thuở thiếu thời của tôi và trong những tác phẩm văn xuôi đầu tiên còn non nớt của tôi". "Những năm tháng qua đi và dần dần tôi rời bỏ tính chuộng lạ, vẻ diêm dúa, hương vị làm ta mê mẩn, chất bốc của nó và thái độ dửng dưng đối với con người bình dị, không có gì đáng chú ý. Nhưng trong một thời gian dài, trong những truyện dài và truyện ngắn của tôi vẫn cứ còn rơi rớt những sợi chỉ mạ vàng của nó." Paustovsky kể rằng lần cắt đứt quyết liệt và cuối cùng với tính chuộng lạ ở trong ông xảy ra trong lần ông đi xem nhà chiếu hình vũ trụ Moskva. Cũng như mọi người, ông bị lóa mắt bởi sức sáng tạo của con người với những máy móc kỳ diệu đó. Ông ra về khi trời đã khuya. Một buổi tối tháng Mười với mùi lá rụng trên đường. Paustovsky ngẩng đầu lên. Ông bàng hoàng. Tưởng chừng ông được trông thấy,lần đầu tiên trong đời, một bầu trời thực sự - một bầu trời sống - với muôn vàn vì sao lấp lánh. "Và thế là tôi thấy tất cả những gì tôi viết từ trước tối hôm đó chỉ là giả tạo, hệt như cái nhà chiếu hình vũ trụ với những chòm sao giả của nó". Sau đêm đó, ông vội vã hủy đi một số truyện ngắn quá diêm dúa và giả tạo mà trước kia ông thích thú. Tuy nhiên, không phải cái gì khác, mà chính lòng ham mê cái lạ trong buổi thiếu thời đã dạy cho ông biết cách nhìn thấy những nét đẹp, và hơn nữa, những nét hoàn toàn không dễ thấy đối với người khác, trong những sự vật tầm thường. Những nét đẹp đó chúng ta gặp luôn luôn trong những tác phẩm của ông, hầu như trên mỗi trang giấy. Chúng làm nên cái thần thái đặc sắc của văn ông. Ngay ở trong những truyện dài "Những Kẻ Lãng Mạn", "Những Vầng Mây Lấp Lánh", mà ông than phiền rằng trong đó tính chuộng lạ còn để lại nhiều dấu vết, chúng ta vẫn thấy những nét đẹp nhờ lòng ham mê tính chuộng lạ mà có. Có lẽ cái hại của tính chuộng lạ chỉ ở chỗ nó dễ làm người viết ham cái bề ngoài hào nhoáng mà quên mất cái bề trong còn đẹp hơn rất nhiều của cuộc sống. Về vấn đề này Paustovsky viết: "Tôi cho rằng một trong những đặc tính thuộc sáng tác văn xuôi của tôi là cái thần thái lãng mạn của chúng"... "Cái đó, tất nhiên, là chất riêng của từng người. Đòi hỏi người nào cũng vậy, nhất là nhà văn, phải từ bỏ cái thần thái ấy là lố bịch. Chỉ có dốt nát mới đi đòi hỏi như thế"... "Cái thần thái lãng mạn không hề sống chung dưới một mái nhà với sự quan tâm cấp thiết đối với cuộc sống "thô thiển" và tình yêu đối với cuộc sống ấy. Trong hết thảy lĩnh vực của thực tại và hoạt động của con người, trừ một vài trường hợp ngoại lệ, bao giờ cũng sẵn có những hạt giống lãng mạn... Vì không nhận thấy những hạt giống ấy, người ta có thể giày xéo lên chúng, nhưng cũng có thể ngược lại, tạo điều kiện cho chúng nở rộ, cho chúng lấy mùa hoa của mình làm cho thế giới bên trong của con người đẹp thêm, cao thượng hơn ". Ông phải bộc bạch tâm sự mình như thế, ông phải lớn tiếng bảo vệ phong cách lãng mạn trong văn học như thế là để tự vệ, để chống trả sức mạnh của trào lưu thời thượng "hiện thực xã hội chủ nghĩa" muốn áp đặt phong cách của nó như là một phong cách duy nhất cho nền văn học xô-viết. Paustovsky không rời con đường riêng mà ông đã chọn. Ông cho rằng nó hoàn toàn không có gì trái ngược với con đường chung của các nhà văn của bất kỳ nước nào, bất kỳ thời đại nào, là hướng tới và vẫy gọi mọi người cùng nhau hướng tới Cái Đẹp[3]. Từ lâu Paustovsky đã có ý định viết một cuốn sách về nghề văn. Không phải một cuốn sách dạy viết văn, không phải thế, ông không có ý định dạy bảo ai, mà là một cuốn khảo cứu nghiêm túc nói về lao động đặc thù của những người cầm bút và vai trò của họ trong đời sống tinh thần của cộng đồng nhân loại. Trong bài "Thơ Của Văn Xuôi" đăng trong tạp chí "Ngọn Cờ" (Znamya) số ra tháng 9 năm 1953, ông viết rằng ý sáng tác một cuốn sách về nghề văn đã nảy ra trong ông ngay từ trước Thế chiến thứ hai. Ông đã bắt đầu, nhưng chiến tranh đã ngăn trở ông hoàn thành nó. Trong một thời gian hơn mười năm Paustovsky dạy nhiều khóa học văn xuôi tại Học viện văn học Gorky. Nhiều vấn đề có liên quan tới nghề văn và tâm lý sáng tác đã được đề cập. Vì các bài giảng của thầy, cũng như những lời phát biểu của trò, đều không được ghi lại, Paustovsky lấy làm tiếc, mới nảy ra ý tập hợp những tư liệu phong phú đó, bằng hình thức này hay hình thức khác, miễn sao chúng trở thành có ích cho những người viết văn, nhất là cho những người viết văn trẻ, và cho cả những ai yêu thích văn học. Mùa thu năm 1955, tại tỉnh Dubunty, một tỉnh nhỏ nằm bên bờ vịnh Riga, Paustovsky hoàn thành cuốn sách mà ông thai nghén từ lâu. "Bông Hồng Vàng" ra mắt bạn đọc lần đầu trong tạp chí "Tháng Mười"(Oktiabr). Trong bản dịch này, giống như trong nhiều bản dịch ở các nước khác mà tôi được biết ("Bông Hồng Vàng" đã được dịch ra nhiều thứ tiếng), tôi bỏ qua hai chương "Ngôn Ngữ Kim Cương" và "Những Cuốn Từ Điển". Tác giả dành hai chương này cho việc nghiên cứu những nét độc đáo của tiếng Nga liên quan tới sự thể hiện văn học, xem xét nhiều mặt ngữ nghĩa, các gốc từ, âm hưởng, tiết tấu... của văn ngôn tiếng Nga. Tôi rất tiếc những chương này, nhưng tôi nghĩ không có cách nào truyền đạt cái đẹp thuần khiết của từ ngữ thuộc một ngôn ngữ này bằng những phương tiện không tương thích của một ngôn ngữ khác. Nói chung, trong khi dịch cuốn sách, cảm giác đuối sức là cảm giác tôi thường gặp. Thậm chí ở một vài đoạn tôi cảm thấy hoàn toàn bất lực. Ai cũng biết rằng dịch nếu không phải là phản thì cũng là một cái gì mất mát so với nguyên bản. Trong "Bông Hồng Vàng", sự mất mát đó không phải là ít. Khi bản dịch hoàn tất, tôi mới hiểu rằng trong việc làm này của tôi chính tác giả đã giúp tôi rất nhiều. Bởi vì mỗi lần đọc đi đọc lại một đoạn văn khó, một hình ảnh đẹp được miêu tả một cách khác thường, cần phải tìm cách để truyền đạt cho tốt nhất, tôi lại phát hiện trong lòng mình một niềm vui, niềm vui này đã giúp tôi vượt qua những khó khăn. Bởi vì trong khi dịch "Bông Hồng Vàng", tôi hiểu thêm được rất nhiều cái lao động nặng nhọc nhưng cao quý và vi thế tuyệt đẹp của nghề văn (nếu có thể coi nó là một nghề). Tôi sẽ sung sướng nếu qua bản dịch này những ý nghĩ tốt lành của tác giả tới được với bạn đọc. Bởi vì, sau hết, tôi rất yêu Paustovsky. VŨ THƯ HIÊN Chú thích:[1] Người Nga, xuất thân từ các chiến binh chống lại các cuộc xâm lăng của Thổ Nhĩ Kỳ và người Tartar, sống thành một cộng đồng lớn ở vùng Nam Nga, thường được gọi là cô-dăc (cosaques) trong các bản dịch từ tiếng Pháp. Phân biệt với người Kazakh, cư dân nước Kazkhstan [2] Hiện nay ở Moskva có một đường phố mang tên Konstantin Pautovsky. [3] “Lời Nói Đầu” này được in trong lần xuất bản thứ nhất của bản dịch “Bông Hồng Vàng”. Lần xuất bản thứ hai nó bị bỏ đi, liên quan đến việc tên người dịch bị cấm. Trong lần xuất bản này có một số sửa chữa nhỏ. Mời các bạn đón đọc Bông Hồng Vàng và Bình Minh Mưa của tác giả K. G. Paustovsky.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Không Chiến Zero Rực Lửa - Naoki Hyakuta
“Các chiến cơ Zero thật sự rất đáng sợ. Zero nhanh đến mức không thể tin được. Sự chuyển động đó là thứ chúng tôi không thể dự đoán được, như ma trơi vậy. Mỗi lần chiến đấu, chúng tôi lại bị cảm giác yếu thế bao trùm. Thế nên, mới có mệnh lệnh rằng không để xảy ra không chiến với Zero. Chúng tôi biết việc chiến cơ tinh nhuệ mới của Nhật Bản được đặt tên mã là Zero. Cách đặt tên mới kỳ quặc làm sao. Zero nghĩa là không có gì cả, ấy vậy mà chiếc chiến cơ đó đã bỏ bùa chúng tôi với chuyển động không thể tin được. Tôi từng nghĩa đó chính là sự huyền bí của phương Đông. Chúng tôi đã từng nghĩ những phi công lái Zero không phải là người. Họ là ma quỷ. nếu không thì cũng là những cỗ máy chiến tranh.” *** Vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ 2, do sự tấn công của lực lượng Đồng Minh, phe trục phát xít Nhật- Đức-Ý lâm vào tình thế khó khăn. Trong cuộc chiến tranh trên biển Thái Bình Dương, Nhật Bản đã tỏ ra thua kém Mỹ về nhiều mặt, đặc biệt là vũ khí. Trước tình hình đó, quân đội Nhật Bản nghĩ mọi cách để cứu vãn tình thế. Họ lập ra các đội đặc công cảm tử hòng lấy lại thế trận. Bên cạnh đội đặc công trên không của Nhật ta thường biết đến với tên gọi Kamikaze - Thần Phong, còn có đội đặc công trên bộ, đặc công dưới nước…là những đội đặc công có nhiệm vụ tấn công đối phương theo dạng “cảm tử” đầy bi tráng. Cuốn Không chiến zero rực lửa của tác giả Naoki Hayakuta đã miêu tả lại đội đặc công Thần Phong và tâm trạng của những người lính cảm tử Nhật Bản khi đó. *** Review LeengKeeng: Không chiến ZERO rực lửa – Thần phong huyền bí Đông Phương – Naoki Hyakuta Đi đâu cũng bảo “Mắt biếc” của Nguyễn Nhật Ánh rất buồn, có thể rơi nước mắt, vì là thiểu số nên cũng lười nói ra, đúng đó là chuyện tình buồn nhưng chẳng đủ để làm tôi rơi nước mắt, nhiều lúc ngồi nghĩ chắc là bản thân bị mất cảm xúc rồi. Cuốn sách này chẳng phải là thể loại như “Mắt biếc” nhưng tôi đã đưa “Mắt biếc” vào để nói, thật đúng là một đứa thiếu logic, thôi kệ đi, việc này chỉ nhằm mục đích muốn nói là đến trang cuối cùng tôi đã rưng rưng mà rơi nước mắt. Đọc những dòng đầu đột nhiên nhớ tới ông ngoại, cũng giống như Kentaro và Keiko, ông ngoại tôi mất từ khi tôi còn chưa chào đời, trong ký ức không có một chút thông tin, hình ảnh nào về ông. Sau khi biết ông ngoại hiện nay không phải là ông ngoại ruột và mẹ cũng muốn biết về cha ruột của mình nên 2 chị em đã bước vào hành trình tìm hiểu về ông ngoại hay chính xác hơn họ đã bước vào cuộc chiến Thái Bình Dương – cuộc chiến mà sinh mạng của những người lính không bằng một chiếc máy bay. Một lối hành văn xen lẫn hiện tại và quá khứ, đã miêu tả rõ nét cuộc không chiến cùng cách nhìn của những người trẻ về nó. Trải qua 10 cuộc gặp cùng 10 câu chuyện về ông Miyabe và điều hay ở đây những lần gặp mặt được kể theo tiến trình hoạt động của ông, người cuối cùng họ gặp chính là ông ngoại hiện giờ. Ông Miyabe được vẽ lên là một kẻ hèn nhát, quý trọng mạng sống hơn bất cứ thứ gì. Chỉ vì câu “Tôi không muốn chết” của một quân nhân Hải quân Đế quốc lại bị khinh bỉ như thế đó. Họ đã rất thất vọng khi nghe điều đó nhưng thực ra ... chính những đau thương mà bản thân người kể phải chịu đựng đã áp đặt một người nào đó như thế nào hay sự ganh tỵ vì ông là người nghĩ về gia đình khi đang đâm chém trên chiến trường nhưng lại xuất sắc hơn bất kỳ ai. Nhiều người ghét Miyabe vì điều đó nhưng cuối cùng ai cũng muốn bảo vệ Miyabe và trong tâm khảm họ rất ngưỡng mộ ông – một con người thân thiện, tài giỏi, yêu gia đình, và có lòng trắc ẩn, là một người cố hết sức mình để bảo vệ mạng sống vì vợ con, là không muốn chết, là quyết tâm không thua chứ không phải hèn nhát. Nhưng đó không phải là tất cả những gì cuốn sách này muốn nói và cũng không phải tất cả cảm nhận mà bạn sẽ có khi đọc nó nhưng tôi sẽ không nói gì thêm để các bạn tự khám phá ha... *** Review Hōjō Akira: Có lẽ tôi sẽ sợ khi đọc những cuốn viết về chiến tranh vì nó quá ám ảnh. Tôi đọc xong cuốn sách lúc 2h sáng và trằn trọc chẳng thể nào ngủ được đành lên đây viết vài dòng về cuốn sách này. Chí ít tôi đã đọc trọn vẹn nó hơn so với “Phía Tây không có gì lạ” đã drop. Chiến tranh khiến cho không chỉ những nước thắng trận mà cả những nước bại trận đều trải qua những nỗi đau, tổn thương khủng khiếp. Như Nhật Bản, một nước chiến bại trong thế chiến thứ 2. Thần phong Kamikaze có lẽ quá nổi tiếng với nhiều người vì những phi đội máy bay cảm tử của quân Nhật. Nhưng tại sao họ lại cảm tử, họ có muốn cảm tử như vậy không thì Naoki Hyakuta đã đưa ra trong cuốn sách một cách bao quát. Mặc dù những nhân vật trong truyện là hư cấu nhưng tất cả được ông nhào nặn trên nguồn nguyên liệu có thật trong cuộc chiên tranh Thái Bình Dương của Nhật với Mỹ. Câu chuyện xoay quanh anh chị em nhà Saeki là Keiko và Kentaro muốn tìm hiểu về người ông ngoại “authentic” của mình đã hi sinh trong thế chiến thứ 2 với tư cách là một phi công cảm tử nhân kỉ niệm 60 năm kết thúc chiến tranh.Qua những câu chuyện chia sẻ của 9 người đồng đội đã từng kề vai sát cánh với ông ngoại Miyabe Kyuzo của họ trong chiến tranh, Kentaro và Keiko đã lắp ghép những câu chuyện hồi tưởng đó thành một bức tranh hoàn chỉnh về con người thật của người ông hịn quá cố đã qua đời 30 trước khi họ sinh ra. Mà thậm chí đến khi bà ngoại họ qua đời họ mới biết được sự thật này. Những dòng hồi tưởng về cuộc chiến tranh Thái Bình Dương của những người phi công của lực lượng Hải quân Đế Quốc Nhật Bản từ trận Trân Châu Cảng, Rabaul, Guadalcanal, Saipan, Okinawa đến khi Nhật Bản đầu hàng tháng 8/1945 được khắc họa một cách chân thực đến tàn khốc. Chiến tranh thật khủng khiếp quá sức tưởng tượng đối với tôi và chúng ta- những người lớn lên thời bình. Thông điệp phản chiến, phản đối kế hoạch hi sinh cảm tử của những người lính tuổi đôi mươi được khắc họa rõ nét. Lý tưởng hi sinh bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ những người thân, phải sống sót để trở về với gia đình của Miyabe Kyuzo được đặt lên bàn cân phán xét hèn nhát hay là can đảm dẫn dắt câu chuyện. Có lẽ chỉ đến khi đọc xong ta mới có thể trả lời câu hỏi đó. Bên cạnh đó Hyakuta còn phê phán những góc tối của xã hội Nhật khi đó, những quan niệm phân biệt, vô trách nhiệm của những kẻ chỉ huy bất tài nhưng lại ích kỉ vì những quyết định sai lầm của cá nhân mà làm sẵn sàng biến người lính trở thành những kẻ hi sinh vô ích. Ông phê phán cả trách nhiệm của báo chí, xã hội khi lúc nâng những người phi công ấy thành anh hùng rồi vùi dập họ như những kẻ tội phạm sau chiến tranh chỉ vì đất nước thất bại mặc dù đó là những người cống hiến và hi sinh cho đất nước. Twist nhẹ chương cuối khi ghép bức tranh hoàn chỉnh vừa đủ đẩy lên cao trào của câu chuyện cùng với những giá trị nhân văn, yếu tố lãng mạn ngọt ngào và lí tưởng về tình yêu đôi lứa trong bom đạn chiến tranh khiến cho cuốn sách giàu cảm xúc và có thể rung động đến độc giả. Phải chăng vì lẽ đó cuốn sách này đã bán được 3,5 triệu bản và được dưng thành phim? Có thể, những người đang chạy trốn thực tại, đi tìm lí tưởng sống và phân vân lựa chọn giữa con tim và lí trí có thể tìm thấy phần nào đó câu trả lời cho sự phân vân, mông lung của mình.   Mời các bạn đón đọc Không Chiến Zero Rực Lửa của tác giả Naoki Hyakuta.
Không Có Gì & Không Một Ai - Nguyễn Đông Thức
Ba nhân vật chính là ba người bạn than là Phong, Tiềm và Thương. Giữa họ vừa là tình bạn vừa lấn cấn chút tình yêu. Tuy mỗi người xuất thân từ mỗi hoàn cảnh khác nhau, nhưng vượt lên trên tất cả tình yêu thương, sự tin tưởng họ dành cho nhau không gì lay chuyển nổi. Vì thế họ đã sống và sẵn sàng hi sinh tình cảm cá nhân để bạn mình được hạnh phúc. Ba người bạn bước đi trên ba lối rẽ, mỗi người một cách vào đời, cùng trắc trở theo những thăng trầm của đất nước sau ngày giải phóng. Sau những khó khăn chia lìa họ càng quý trọng tình bạn và dẫu mỗi người ở một phương trời cuối cùng họ vẫn hội ngộ, bởi vì không có gì và không một ai có thể chia cắt tình bạn của họ. *** Mỗi lần cầm trên tay tác phẩm của nhà văn Nguyễn Đông Thức, trong tôi lại có cảm giác gần như là bồi hồi, chờ đợi. Như thể chính mình sẽ được cùng các nhân vật trở về thời mà nhà văn đã sống, đã cống hiến bằng tất cả lý tưởng của tuổi trẻ, thời đại có lẽ rồi sẽ chẳng bao giờ trở lại thêm một lần nữa trong cuộc sống đã nhiều bôn ba, vội vã này. Một năm trước, khi đọc Không quên - tập truyện ngắn cũng từ ký ức của nhà văn về những năm tháng thanh niên xung phong - tôi đã chia sẻ với ông niềm cảm phục về một thế hệ thanh niên sống thiếu thốn mọi bề nhưng sao tràn đầy nhiệt tâm, lý tưởng đến vậy. Chừng như những câu chuyện của quá khứ được nối dài bằng thời gian trở thành những con chữ bao giờ cũng mang giá trị của sự chiêm nghiệm, của một hành trình đã nhìn thấu được những vạn biến quanh đời. Lần này cũng vậy, với tiểu thuyết Không có gì và không một ai, nhà văn Nguyễn Đông Thức lại gửi đến độc giả một hành trình đã được minh chứng bằng thời gian, có hồn nhiên tinh khôi, rồi chia ly, nước mắt; có nông nổi, sai lầm và cả những tiếc nuối, đau xót. Và thứ tha… Sẽ không ai biết được ngày mai sẽ như thế nào, những lựa chọn của hiện tại rồi sẽ dẫn bước chân người về đâu. Hôm nay hạnh phúc hay khổ đau, vẫn chẳng thể nói lên được điều gì ở phía cuối con đường. Với Không có gì và không một ai, tác giả của Ngọc trong đá, Vĩnh biệt mùa hè, Trăm sông về biển… chọn một lát cắt để lý giải tất cả những điều đó. Cuộc đời, dài mấy mươi năm đó, nhưng có khi cũng chỉ là một cái chớp mắt của số phận, để những người từng thương yêu nhau được gặp lại nhau. "Không có gì và không một ai có thể thay đổi tình bạn tụi mình", một phần câu nói được chọn làm tựa truyện, và đó cũng là nguyên tắc "số 1" trong mối quan hệ giữa 3 người bạn thân, nhân vật chính: Phong, Tiềm và Thương. Gắn bó với nhau từ thời còn học đệ nhất (lớp 12 bây giờ), những tưởng cả 3 người sẽ có được những ngã rẽ hạnh phúc khi họ tràn đầy sức sống của niềm tin, của lý tưởng tuổi trẻ. Nhưng câu chuyện không chỉ xoay quanh mối tình tay ba của các nhân vật. Giữa thời đại vẫn còn đầy những biến động của thời cuộc, nhà văn đã để cho những nhân vật của mình có những ngã rẽ không ngờ tới được của lựa chọn và cả mất mát. Nếu như ở Vĩnh biệt mùa hè, Nguyễn Đông Thức từng khiến người đọc xót lòng khi “xuống tay” chọn cái chết cho nhân vật, thì ở Không có gì và không một ai, lý do cho cuộc chia ly giữa Tiềm và Thương, một tình yêu thiết tha mà không dám ngỏ, đau đớn theo một cách khác. Phong làm báo, Thương làm cô giáo vùng cao, Tiềm đi thanh niên xung phong. Phong yêu Thương, Thương lại dõi theo Tiềm, Tiềm vì không muốn Phong đau khổ mà chọn cách ra đi. Mỗi người một lý lẽ, một lựa chọn hy sinh vì hạnh phúc của bạn thân nhưng không ai nghĩ rằng cũng sẽ “không có gì và không một ai” có thể làm thay đổi khi trái tim đã chọn yêu thương một người. Hạnh phúc là một món quà, nhưng cũng là một ẩn số trong cuộc đời của mỗi người. Không có gì và không một ai là một câu chuyện đầy những ẩn số. Những câu hỏi, những con chữ bỏ lửng của nhà văn: “Nếu ngày mai ta không còn nhìn thấy nhau… Có phải cuộc đời này cuối cùng sẽ không còn lại gì? Có những sai lầm thật quá khó để lấy lại những gì đã mất”, “Hãy ngồi xuống đây, cho nhau lần này…” khiến người đọc như bị dẫn dụ, phải đi tìm câu trả lời, những lý giải trong từng trang viết của nhà văn. “Đây là cuốn tiểu thuyết mà ba nhân vật đã trôi theo dòng nhạc, từ Cho lần cuối của Lê Uyên Phương đến You’ve got a friend của Carole King. Có hay không một tình bạn giữa người nữ và người nam? Bạn đọc sẽ có câu trả lời khi cùng trôi theo dòng nhạc - dòng đời đó, để hiểu về tình bạn và tình yêu của chính mình”, nhà văn Đoàn Thạch Biền đã chia sẻ như vậy về tác phẩm. Thật vậy, cuốn sách đã đưa người đọc đi theo hành trình của 3 nhân vật chính, khóc cười cùng họ, thấu hiểu và chia sẻ, mong chờ một cái kết ít nhất là trọn vẹn cho hai con người trái tim vốn dĩ thuộc về nhau. Rồi thì có lẽ cũng được “toại nguyện” khi nhà văn đã chọn sự đoàn tụ cho kết thúc của những hành trình đi dài trong suốt mấy mươi năm. Nhưng có lẽ “không một ai” đọc tác phẩm lại nghĩ rằng các nhân vật sẽ có một kết thúc như thế, trong sum vầy nhẹ hẫng, trong nụ cười của bình yên. Dẫu rằng nếu phải quay nhìn lại thì đôi chân nào cũng đã đi qua gian nan, khắc nghiệt và đau đớn tưởng như đến tận cùng của một cuộc đời. Khép lại tác phẩm, tôi vẫn nhớ câu nói: “Không có gì và không một ai…”. Ừ, mọi thứ có thể bị bào mòn, nhưng tình thương sẽ mãi mãi ở lại. Tiểu Quyên *** Nhà văn Nguyễn Đông Thức sinh ngày 18 tháng 10 năm 1951 tại Từ Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Hiện nay ở quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Tốt nghiệp đại học. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1988). Sau ngày miền Nam giải phóng, Nguyễn Đông Thức tham gia thanh niên xung phong và làm báo, viết văn. Hiện nay anh công tác tại báo Tuổi Trẻ thành phố Hồ Chí Minh. Tác phẩm chính đã xuất bản Ngọc trong đá (tiểu thuyết, 1986) Mưa khuya (truyện ngắn, 1987) Tình yêu thường không dễ hiểu (truyện ngắn, 1987) Trăm sông về biển (tiểu thuyết, 1988) Con gái vốn phức tạp (truyện ngắn, 1988) Mối tình đầu tiên và cuối cùng (truyện ngắn, 1989) Bản án trước khi chào đời (truyện ngắn, 1989)... Vĩnh biệt mùa Hè Vĩnh biệt facebook Như Núi Như Mây ... Mời các bạn đón đọc Không Có Gì & Không Một Ai của tác giả Nguyễn Đông Thức.
Chỉ Tại Con Chim Bồ Câu - Patrick Suskind
Nhân vật chính của cuốn sách là Jonathan Noel, 53 tuổi, sống một mình trong một căn hộ nhỏ của Paris. Ông là bảo vệ của một ngân hàng, cách nơi ở khoảng 5 phút đi bộ. Ông không có bạn bè, không có bất kỳ mối liên kết nào với hàng xóm. Ông tính toán rằng cho đến lúc nghỉ hưu, ông đã dành khoảng 75 nghìn giờ để đứng trên ba bậc đá cẩm thạch ở cửa ngân hàng. Ông cũng tin chắc, ông sẽ là người duy nhất ở Paris, thậm chí ở nước Pháp, đứng lâu nhất chỉ ở một vị trí. Ông sống một cuộc sống được lập trình sẵn, và mục đích của ông chính là duy trì trạng thái trật tự ấy cho đến khi cái chết mang ông đi. Nhưng, con chim bồ câu đã đột ngột xuất hiện trong cuộc đời ông. Vào buổi sáng khi trông thấy con chim bồ câu bên ngoài cánh cửa phòng, ông dựng tóc gáy, mồ hồ vã ra đầm đìa, trái tim đập liền hồi, sợ hãi. Ông đóng sập cửa lại và ngã gục trên giường, như vừa trải qua một cơn đau tim hay đột quỵ. Nỗi sợ hãi đã khiến ông quyết định chọn những đồ vật quan trọng nhất bỏ vào vali xách đến chỗ làm. Ông tính toán số tiền mình có được để đủ thuê khách sạn trong bao lâu. Và ông lấy hết sức can đảm để ra khỏi nhà, đến cơ quan ngày hôm ấy. Câu chuyện kể tỉ mỉ những sự kiện diễn ra trong ngày con chim bồ câu xuất hiện của cuộc đời Noel. Thật tệ khi ông bắt đầu bứt rứt trong lúc đứng thực hiện nhiệm vụ, ông lơ đễnh trong sự bối rối đến mức không nhận biết chiếc xe quan trọng của ngân hàng xuất hiện đúng giờ như mọi ngày, rồi lại bần thần làm chiếc quần bị rách, phải đi khắp chốn tìm nhờ người khâu lại… Những sự kiện bất ngờ ấy từ lâu không xuất hiện trong cuộc sống của ông, khiến ông tưởng như đã chạm đáy sự tuyệt vọng. Câu chuyện Chỉ tại con chim bồ câu có thể là lời cảnh tỉnh về sự ơ hờ trần trụi ở đời sống xã hội hiện đại này, khi con người chọn cách khép chặt mọi cách cửa liên hệ với xã hội, cự tuyệt xã hội, sống qua ngày như cỗ máy, khước từ sự nghe, nhìn, đối thoại. Hay nó là một lời biện hộ cho những kẻ cô lẻ trong đời, bị đời “tra tấn” đến độ phải chạy trốn, lựa chọn bỏ rơi thay vì trở thành kẻ bị bỏ rơi, bởi đã đầy những vết thương của li tán, phản bội. Cuộc đời trầm lặng tưởng mờ nhạt của lão Noel còn khiến độc giả phải trăn trở, ngẫm nghĩ rất nhiều. Chỉ tại con chim bồ câu là cuốn tiểu thuyết ngắn của nhà văn Patrick Süskind, đã từng rất nổi tiếng với tiểu thuyết Mùi hương. Ông là một người sống khép kín. Năm 1987, ông từ chối tất cả các giải thưởng, né tránh các phương tiện truyền thông và từ từ rút khỏi công chúng. Patrick Süskind sống ở Munich và Pháp. *** Patrick Süskind (sinh năm 1949) là một nhà văn và nhà viết kịch bản người Đức. Ông học đại học về lịch sử tại München và Aix-en-Provence và hiện nay sống tại München và Paris. Cha của ông, Wilhelm Emanuel Süskind, là nhà văn, người biên dịch và cộng tác viên lâu năm của tờ báo Süddeutsche Zeitung. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Mùi hương (Das Parfum, 1985) đã được dịch ra trên 20 thứ tiếng và năm 2005 đã được đạo diễn Tom Tykwer chuyển thể phim sau khi hãng Constantin-Film đảm nhận phí tổn sản xuất và mua quyền sở hữu với tròn 10 triệu Euro. Ngoài ra Süskind còn tham gia viết các kịch bản cho bộ phim truyền hình nhiều tập Monaco Franze (1982) và Kir Royal (1986) cũng như cho các phim truyện Rossini - oder die mörderische Frage, wer mit wem schlief (1997) và Vom Suchen und Finden der Liebe (2005), được đạo diễn Helmut Dietl quay thành phim. Der Kontrabaß, vở kịch độc thoại một hồi trong năm 1981, với hơn 500 lần diễn trong mùa diễn 1984/1985 là vở kịch được diễn nhiều nhất trên sân khấu tiếng Đức. Có rất ít người khước từ cao độ các mong đợi từ đời sống văn học như Süskind. Ông gần như không tiếp nhận phỏng vấn mình, không xuất hiện trong giới công chúng và đã từ chối nhiều giải thưởng khác nhau như Giải Gutenberg, Giải Tukan và giải thưởng văn học của tờ báo Frankfurter Allgemeine Zeitung. Ông đã có một vai diễn xuất nhỏ trong bộ phim truyền hình 10 tập Monaco Franze. Tác phẩm Der Kontrabaß, 1981 Mùi hương (Nguyên tác tiếng Đức: Das Parfum, 1985, ISBN 3-8044-0392-1) Chỉ tại con chim bồ câu (Nguyên tác tiếng Đức: Die Taube, 1987) Chuyện về chú Sommer (Nguyên tác tiếng Đức: Die Geschichte von Herrn Sommer, 1991) Rossini – oder die mörderische Frage, wer mit wem schlief, 1997 Drei Geschichten, 2005, ISBN 3-257-23468-6 Mời các bạn đón đọc Chỉ Tại Con Chim Bồ Câu của tác giả Patrick Suskind.
Sức Mạnh Tiềm Thức - Joseph Murphy
Là một trong những quyển sách về nghệ thuật sống nhận được nhiều lời ngợi khen và bán chạy nhất mọi thời đại, Sức mạnh tiềm thức đã giúp hàng triệu độc giả trên thế giới đạt được những mục tiêu quan trọng trong đời chỉ bằng một cách đơn giản là thay đổi tư duy. Sức mạnh tiềm thức giới thiệu và giải thích các phương pháp tập trung tâm thức nhằm xóa bỏ những rào cản tiềm thức đã ngăn chúng ta đạt được những điều mình mong muốn. Sức mạnh tiềm thức không những có khả năng truyền cảm hứng cho người đọc, mà nó còn rất thực tế vì được minh họa bằng những ví dụ sinh động trong cuộc sống hằng ngày. Từ đó, Sức mạnh tiềm thức giúp độc giả vận dụng năng lực trí tuệ phi thường tiềm ẩn trong mỗi người để tạo dựng sự tự tin, xây dựng các mối quan hệ hòa hợp, đạt được thành công trong sự nghiệp, vượt qua những nỗi sợ hãi và ám ảnh, xua đi những thói quen tiêu cực, và thậm chí còn hướng dẫn chúng ta cách chữa lành vết thương về thể chất cũng như tâm hồn để có được sự bình an, hạnh phúc trọn vẹn trong cuộc sống. *** Tôi đã từng chứng kiến phép lạ xảy đến với rất nhiều người thuộc những tầng lớp khác nhau trên thế giới. Và tôi đoan chắc điều kỳ diệu cũng sẽ đến với bạn nếu bạn biết cách vận dụng sức mạnh thần kỳ của tiềm thức. Quyển sách này sẽ giúp bạn hiểu được rằng chính lối suy nghĩ và những hình tượng quen thuộc sẽ định hình và tạo nên số phận của bạn; vì đơn giản là suy nghĩ trong tiềm thức của một người thế nào thì họ sẽ như thế ấy. Đã bao giờ bạn tự hỏi tại sao người này buồn rầu còn người kia thì vui vẻ? Tại sao người này sung sướng và thành đạt còn người khác thì nghèo đói và khốn khổ? Tại sao người này sợ hãi và lo lắng còn người kia lại tràn đầy lòng tin và sự tự tin? Vì sao người này có nhà cửa khang trang, lộng lẫy trong khi người kia sống cuộc đời cùng khổ trong một khu nhà ổ chuột? Tại sao người này cực kỳ thành công còn người kia thất bại thảm hại? Tại sao người này đạt được nhiều thành tựu trong công việc trong khi người kia lao nhọc vất vả cả đời mà chẳng làm nên trò trống gì? Tại sao rất nhiều người lương thiện phải chịu những nỗi thống khổ đày đọa tinh thần và thể xác? Tại sao có nhiều kẻ đồi bại và vô đạo lại thành công, giàu sang và có sức khỏe tráng kiện? Tại sao cuộc hôn nhân của người này hạnh phúc còn của người kia thì bất hạnh? Phải chăng trong sự vận hành của ý thức và tiềm thức sẽ có câu trả lời cho những vấn đề này? Dĩ nhiên là có. Và chính niềm mong mỏi sâu xa được chia sẻ những đáp án mà tôi đã khám phá ra là động lực thôi thúc tôi viết quyển sách này. Tôi đã cố minh giải những điều căn bản và lớn lao về tâm trí bằng một ngôn ngữ giản dị, đời thường nhất có thể. Tôi tin rằng sau khi nghiền ngẫm và áp dụng những phương pháp được đề cập trong quyển sách này, bạn sẽ nắm giữ một sức mạnh thần diệu để tự vực mình dậy khỏi bối rối, khổ sở, u sầu và thất bại. Nó sẽ dẫn đưa bạn đến vị trí đích thực của bạn, giúp bạn giải quyết những khó khăn, ngăn bạn khỏi sự câu thúc về xúc cảm và thể chất, và đặt bạn trên con đường thẳng tắp dẫn đến tự do, hạnh phúc và sự thanh thản tâm hồn. Năng lực thần diệu của tiềm thức tồn tại trước khi chúng ta được sinh ra. Những chân lý và nguyên tắc vĩnh cửu vĩ đại trong cuộc sống cũng được hình thành từ lâu đời. Chính vì vậy mà tôi rất muốn bạn hãy vận dụng sức mạnh biến đổi huyền diệu, thần kỳ này để chữa lành những vết thương trong tâm hồn và thể xác, giải phóng bạn khỏi những hạn định của sự nghèo khổ, thất bại, cơ cực… Tất cả những gì bạn phải làm là hợp nhất tinh thần và cảm xúc với những điều tốt đẹp nhất mà bạn mong muốn, sức mạnh của tiềm thức sẽ đáp ứng phù hợp. Hãy bắt đầu ngay hôm nay. Để những điều kỳ diệu xảy đến trong đời bạn! *** Giáo sư Joseph Murphy (1898 - 1981), đã viết sách, giảng dạy, tư vấn và diễn thuyết cho hàng ngàn người trên thế giới. Ông từng là Phó chủ tịch của Hội nhà thờ Thánh khoa học ở Los Angeles trong 28 năm, nơi các bài diễn thuyết của ông có từ 1300 đến 1500 người đến nghe mỗi Chủ nhật. Tư tưởng của ông ảnh hưởng từ Ernest Holmes và Emmet Fox - những tác giả nổi tiếng theo nguyên tắc New Thought. Ông viết hơn 30 quyển sách, đưa ra những kĩ thuật đơn giản nhưng được chứng minh một cách khoa học, và đưa một sự thật đầy kinh ngạc là sức mạnh trong tiềm thức mỗi người có thể mang đến những điều vô cùng kì diệu, chữa lành mọi vết thương tâm lý. Một số quyển sách nổi tiếng của ông có thể kể đến như “Peace within yourself” (1956), “Your infinite power to be rich” (1966), “Within you is the power” (1977), “The power of your subconscious mind” (1963). Các tác phẩm nổi tiếng: - Khai Thác Sức Mạnh Tiềm Thức - Sức mạnh của tiềm thức - Phép màu của tâm trí - Câu trả lời hoàn hảo - Tình yêu là sự tự do - Điều kỳ diệu của niềm tin - Sức mạnh vũ trụ bên trong bạn Mời các bạn đón đọc Sức Mạnh Tiềm Thức của tác giả Joseph Murphy.