Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đen (Bernard Werber)

Bernard Werber sinh năm 1961 tại Tolouse, viết truyện ngắn đầu tiên năm lên bảy tuổi. Khởi sự viết tiểu thuyết nhiều tập Les Fourmis khi học xong bậc phổ thông. Sau khi tốt nghiệp khoa báo chí, ông nhận được một giải thưởng dành cho các phóng viên xuất sắc năm 1983. Ông viết cho tờ báo địa phương ở Cambrai, rồi cộng tác viên các tạp chí L’Evénement du Jeudi, Le Point, Libé. Từ 1980 đến 1994 làm cho tạp chí Nouvel Observateur chuyên mục khoa học.

Les Fourmis do nhà xuất bản Albin Michel phát hành năm 1991 đã gây được sự chú ý trong giới văn học. Năm 1992, xuất bản Les jours des fourmis (được dịch ra 22 thứ tiếng) và Thanatonautes năm 1996. Cuốn thứ ba của bộ truyện Les Fourmis là La Révolution des fourmis ra mắt năm 1997.

1998, xuất bản Le Père de nos pères sau thời gian nghiên cứu tài liệu về thời đại đồ đá cổ.

1999, thực hiện phim ngắn đầu tiên La Reine de Nacre

2000, hoàn thành sau hai năm L’Empire des Anges Tìm mua: Đen TiKi Lazada Shopee

2001, L’Utime Secret

2002, tập truyện ngắn L’Arbre des possibles

2003, xuất bản Nos Amis les Humains và một phim ngắn về loài người dưới con mắt của người ngoài hành tinh

2004 đưa Nos Amis les Humains lên sân khấu và ra mắt cuốn đầu tiên trong tác phẩm nhiều tập Nous les Dieux

2005 ra cuốn tiếp theo Le souffle des Dieux trong bộ Nous les Dieux

Ông nhận được giải thưởng tác phẩm được yêu thích của tạp chí phụ nữ Elle. Thành công của Bernard Werber một phần do ông sáng tác theo thể loại tiểu thuyết khoa học, kèm theo những suy tư triết lý về tổ chức xã hội của con người, vốn rất thịnh hành ở các nền văn chương tiếng Anh, nhưng lại không được đánh giá cao tại Pháp.***

Từ mười tháng nay, mặt trời đã tắt lịm, những ngôi sao không còn nhấp nháy nữa, và trái đất, nơi mà Camille quá rành rọt, đã trở thành một thế giới u ám. Như vậy là trong cuộc chiến đấu với ánh sáng, bóng tối đã giành phần thắng lợi.

Sáng nay, như tất cả các buổi sáng, Camille mở mắt ra giữa một đêm dài vô tận; hắn sờ soạng để yên tâm là Brusseliande vẫn còn ở bên cạnh, Brusseliande dài và mảnh khảnh, trung thành và lanh lợi hơn cả đồng minh mạnh mẽ nhất. Đó là một thanh kiếm mà Camille chọn cho mình kể từ lúc tất cả bị đảo lộn.

Việc ấy đã diễn ra trong đêm.

Từ lâu người ta lo sợ điều tồi tệ.

Ngưòi ta linh cảm Chiến Tranh Thế Giới lần thứ 3 đang đến.

Nó đã nổ ra trong đêm 6 tháng 6 năm 06.

Theo những gì mà hắn hiểu, thảm họa đã diễn ra cực kỳ nhanh chóng.

Những trái bom nguyên tử đã biến những thành phố lớn trở thành bình địa.

Không có ai biết ai là người khởi xướng. Một số người cho rằng hệ thống điện toán đã tạo ra phản ứng chớp nhoáng. Ngay khi trái bom đầu tiên vừa nổ, một trận mưa đáp trả được kích hoạt. Hàng trăm tên lửa đạn đạo xé rách bầu trời tạo nên những tiếng rít ghê rợn. Có thể một tên lửa đã chệch hướng. Nó bay nhầm quỹ đạo và, thay vì hủy diệt loài người, nó lại tiến thẳng vào thái dương hệ. Trong khoảng không, không có gì có thể ngăn chặn được một tên lửa đạn đạo. Nó đã chọc thủng sao Kim hay sao Thủy. Nó làm mặt trời nổ tan tành.

Cuộc va chạm ấy có lẽ đã làm ánh sáng loé lên dữ dội.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đen PDF của tác giả Bernard Werber nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Emmanuelle – Tập 1
Emmanuelle – Tập 1 Emmanuelle – Emmanuelle Arsan Vào cuối thập niên sáu mươi, cuốn Emmanuelle được xuất bản ở Pháp và gây sôi nổi trong dư luận rộng lớn. Lý do chính không phải vì tác giả cuốn này, Emmanuelle Arsan, là một phụ nữ mà lại đi viết truyện dâm tình. Lý do làm cuốn Emmanuelle nổi tiếng phức tạp hơn nhiều. Lý do thứ nhất là tại từ trước đến giờ đa số dâm thư đều do đàn ông viết theo cảm quan và thân xác của nam iới. Lần này Emmanuelle Arsan viết theo cảm quan và thân xác nữ giới – dĩ nhiên là phải khác. Lý do thứ hai có nguyên nhân văn hóa văn minh. Trong các xã hội phụ hệ của thế giới hiện tại, người đàn bà thường được giản lược vào hai hình ảnh, hai chức năng: hình ảnh thứ nhất là một thánh nữ trên bục cao, hoàn toàn trong sạch, bước xuống bục đi lấy chồng chỉ cốt để đẻ con; hình ảnh thứ hai là làm gái điếm, làm một dụng cụ để thỏa mãn dục tình cho đàn ông. Kim Bình Mai 50 Sắc Thái – Tập 1: Xám Hồng Lâu Mộng Tác giả Emmanuelle Arsan không chịu như vậy. Bà chủ trương rằng người đàn bà cũng là một con người, cũng là một chủ thể tính dục, nghĩa là cũng có nhu cầu nhục tình cần phải được thỏa mãn, và có quyền được thoả mãn – như đàn ông vậy. Vì tác giả không phải chỉ định viết về những thú vui dục tình của nhân vật Emmanuelle, mà còn dưa ra cả mặt triết lý sống nữa. Một nhân sinh quan vượt thoát ra khỏi sự khống chế của chủ nghĩa thanh giáo của bất cứ đạo nào, đặc biệt là thanh giáo của Công Giáo cũng như Tin Lành. Bời có chủ đích như thế nên truyện có nhiều đoạn triết lý rườm rà, sử dụng nhiều điển tích cũng như trích dẫn thơ văn Âu Châu xa lạ với một tác giả trung bình người Việt, do đó người dịch đã mạn phép lược bỏ bớt.
Thép Đã Tôi Thế Đấy
Thép Đã Tôi Thế Đấy Thép Đã Tôi Thế Đấy – Nikolai A.Ostrovsky Nikolai Ostrovsky viết Thép Đã Tôi Thế Đấy trên giường bệnh, trong khi bại liệt và mù, bệnh tật tàn phá chín phần mười cơ thể. Chưa bao giờ có một nhà văn sáng tác trong những điều kiện gian khổ như vậy. Trong lòng người viết phải có một nhiệt độ cảm hứng nồng nàn không biết bao nhiêu mà kể. Nguồn cảm hứng ấy là sức mạnh tinh thần của người chiến sĩ cách mạng bị tàn phế, đau đớn đến cùng cực, không chịu nằm đợi chết, không thể chịu được xa rời chiến đấu, do đó phấn đấu trở thành một nhà văn và viết nên cuốn sách này. Càng yêu cuốn sách, càng kính trọng nhà văn, càng tôn quý phẩm chất của con người cách mạng. Thép Đã Tôi Thế Đấy là cuốn sách gối đầu giường của bao thế hệ thanh niên Việt Nam. Pavel là một thanh niên, được tôi luyện, được nung rèn trong lò lửa của cách mạng và đã vượt qua được nhiều khó khăn, cực khổ. Tác phẩm lột tả được niềm tự hào đã vượt qua những thử thách cam go, sức mạnh của niềm tin và khát khao được sống, được cống hiến, được bùng cháy trọn vẹn ngọn lửa đời mình cho tố quốc, cho cách mạng. Cuộc Cách Mạng Một Cọng Rơm Suối nguồn 30 Tháng 4 – Chuyện Những Người Tháo Chạy Nhân dân Liên Xô, nhân loại tiến bộ chờ đợi văn học phản ánh và đào sâu cho mình hình ảnh con người anh hùng mới ấy. Lần đầu tiên trong văn học, N. A- xtơ-rốp-xki thu gọn được hình ảnh con người mới trong nhân vật Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin. Pa-ven không những khác hẳn với những anh hùng của các thời đại trước. Khác hẳn với những tác phẩm văn nghệ của những năm đầu cách mạng, thường ca ngợi lòng dũng cảm vô tổ chức, tả sức mạnh tràn trề, lớn khỏe của quần chúng như một sức mạnh bột phát, tự nhiên. Thép đã tôi thế đấy cho ta thấy từng con người trong một quần chúng rộng lớn nảy nở như thế nào, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Thép đã tôi thế đấy ghi lại cả một quá trình tôi thép, bước đường gian khổ trưởng thành của thế hệ thanh niên Xô viết đầu tiên.
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai – Tú Xuất Truyện Ba Giai Tú Xuất – Nhiều tác giả Ba Giai được biết nhiều bởi tài làm thơ châm biếm mà đối tượng chính là các quan lại tham nhũng, các người trọc phú. Ông được biết đến như là một người trong cặp bài trùng Ba Giai – Tú Xuất. Tú Xuất tên thật là Nguyễn Đình Xuất, ông và Ba Giai đã tạo nên một giai thoại Ba Giai – Tú Xuất “thứ nhất Ba Giai, thứ hai Tú Xuất”. Ông là một người thông minh, tri thức hơn người nhưng hay gặp thất bại trong khoa cử, từ đó sinh ra tính hay bông đùa, trêu cợt, đặc biệt là đả kích vào những thói hư, tật xấu và những tiêu cực của người đương thời. Đọc thêm: Trạng Quỳnh Tuyển tập truyện cười Vova Truyện cổ Grim hay nhất Đây cũng là một hiện tượng độc đáo của văn học Việt Nam xuất hiện vào những năm đầu thế kỷ 20 và là một cặp bài trùng trong văn học Việt Nam, nhắc tới người này thì không thể quên người kia và ngược lại. Đó là những mẩu chuyện về hai nhân vật đầy cá tính, thích trào lộng và hay bày ra tình huống quái ác khiến đối tượng bị “chiếu tướng” phải dở khóc dở cười hay những giai thoại đầy mưu mẹo, lấy của quan tham chia cho dân nghèo.
Phía Tây Không Có Gì Lạ
Phía Tây không có gì lạ (All quiet on the Western front) “Phía Tây không có gì lạ” là câu chuyện về Pôn Baomơ, một người lính Đức trẻ, xung phong vào quân đội vì Căntôrec, vị giáo sư của anh, đã thuyết phục cả lớp tham gia quân đội để làm cho nước Đức được vẻ vang. Sau một thời kỳ huấn luyện gian khổ dưới quyền của Himmenxtôt, một phu trạm, Baomơ và các bạn ra tiền tuyến. Dù được vẽ vời trong nhà trường với những hình ảnh huy hoàng của các anh hùng, Baomơ nhanh chóng nhận thức được rằng những chiến hào đầy máu của Mặt trận phía Tây là một sa lầy của những khổ đau và chết chóc. Phía Tây Không Có Gì Lạ Ngay khi những quả đạn pháo đầu tiên nổ tung trong bùn lầy, Baomơ và các bạn thấy rằng tất cả những người ở lại nhà đều dối trá: chiến tranh không phải là một thay đổi vinh quang, chiến tranh không làm cho các cậu con trai trưởng thành mà nó hủy diệt một cách có hệ thống tất cả những ai khỏe mạnh và lịch sự. Tất cả các bạn của Baomơ đều chết, bị thương, hoặc đào ngũ. Pôn Baomơ bắt đầu tự vấn về cuộc đời mình và băn khoăn không biết mình có sống sót được sau cuộc chiến hay thậm chí có sống được trong một thế giới không có chiến tranh hay không. Xuyên suốt câu chuyện, Remarque thường dùng từ “chúng tôi” để nói lên tình đồng đội – cái quý nhất mà chiến tranh tạo nên. Những người lính ấy đã trải qua những giây phút cận kề cái chết cùng nhau nên họ gắn bó với nhau, chia sẻ với nhau tất cả những gì họ có. Đại Chiến Hacker John Đi Tìm Hùng Hai Số Phận “Chúng tôi không nói nhiều nhưng chúng tôi để ý săn sóc nhau từng ly từng tí, thiết tưởng còn hơn cả những cặp tình nhân. Chúng tôi là hai con người, hai tàn lửa sống nhỏ bé, và ngoài kia, là đêm tối, là vòng vây của thần chết.” Erich Maria Remarque (1898-1970) đã phục vụ trong Thế chiến thứ nhất và đã bị thương tất cả năm lần. Những hình ảnh ghê rợn của cuộc chiến trong giao thông hào đã để lại những vết sẹo không phai mờ trong tâm trí Remarque nên ông cố xua đuổi những bóng ma đó qua các sáng tác văn học. “Phía Tây không có gì lạ” là tác phẩm hay nhất của ông dù chín tác phẩm khác ông cũng viết về những đau đớn, khổ cực trong chiến tranh.