Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

TẦM LONG ĐIỂM HUYỆT NHẬP LINH - CỔ ĐỒ THƯ

Phong thủy cảnh quan (hình thể) - Tầm long điểm huyệt nhập linh

Trong phong thủy thần bí nhất là "Tầm Long điểm Huyệt", nói một cách dễ hiểu "tầm Long" là đi tìm địa hình địa thế của núi, "Điểm Huyệt" là nơi đặt mộ. Nói như vậy sẽ dễ hiểu, và đơn giản quá không? Chẳng trách với trí tuệ người xưa, họ lại thích làm cho nó phức tạp và huyền hoặc hơn. Núi từ xa chạy lại thì như cái gì? Có giống một con rồng không? Cách nói của người xưa thật thú vị.

Người xưa có câu "Sống về mồ về mả, ai sống về cả bát cơm" chó thấy sự coi trọng về mổ mả của tổ tiên, xuất phát từ nhu cầu đó, cuốn "Tầm Long Điểm Huyệt Nhập Linh" này được viết, trên cơ sở trích dẫn, chắt lọc từ tinh túy cổ xưa, cố gắng dẫn giải cho dễ hiểu nhất, với hình ảnh màu sắc cho dễ hiểu nhất, với hình ảnh minh họa màu cho tiện theo dõi, tuy vậy đây cũng không phải là sách dễ đọc cho những người mới nhập môn. Thuật phong thủy xưa cũng đưa ra một số yếu tố mà người muốn học "Tầm Long điểm Huyệt: cần chú ý đó là: muốn giỏi phải đi sâu nghiên cứu, do đó chắc chắn phải bỏ ra nhiều tâm huyết mới có thể có được nhiều kiến thức. Cái tinh túy sâu xa nhất của phong thủy nếu không khổ công nghiên cứu và tìm tòi thì không thể đạt tới cực điểm.

Khi học phải chú ý tới một số yếu tố quan trọng, nếu thiếu một trong những yếu tố này thì chắc chắn sẽ khó thành:

1. Có thầy giỏi truyền thụ

2. Biết dụng tâm suy nghĩ

3. Khảo sát nhiều mộ cổ

4. Đọc nhiều sách để hiểu rõ địa lý

5. Phải dốc toàn bộ tâm huyết và thời gian, sức lực

6. Tâm thuật phải ngay thẳng

Việc tìm vị trí đất, hướng đặt mộ,... là phong tục rất được coi trọng, nhưng điều quan trọng nhất là "Tiên tích Đức, hậu tầm Long" và "Đức năng thắng số".

"Tầm Long điểm Huyệt nhập Linh" với kiến thức Phong thủy Hình thế, trích dẫn tinh túy từ nhiều tài liệu Hán cổ, gần 400 hình màu minh họa từ quan sát thực tế.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Kinh Dịch - Trí huệ và quyền biến (Mưu của người quân tử) - Quyển hạ
Kinh Dịch xuất hiện từ thời thượng cổ, là cuốn Kinh đứng đầu những cuốn Kinh – quần Kinh chi thủ của Trung Hoa. Từ khi ra đời cho đến nay, Kinh Dịch đã cuốn hút không biết bao nhiêu nhà nghiên cứu thuộc nhiều thế hệ. Kinh Dịch xuất hiện từ thời thượng cổ, là cuốn Kinh đứng đầu những cuốn Kinh – quần Kinh chi thủ của Trung Hoa.Từ khi ra đời cho đến nay, Kinh Dịch đã cuốn hút không biết bao nhiêu nhà nghiên cứu thuộc nhiều thế hệ. Kinh Dịch không chỉ là thế giới hấp dẫn đối với các học giả Trung Quốc, học giả các nước phương Đông như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, mà còn hấp dẫn các nhà nghiên cứu ở các nước phương Tây như Anh, Pháp, Mĩ, Đức. Kinh Dịch bao gồm cả Đạo Trời – Đạo Đất – Đạo Người. Riêng Đạo Người, Kinh Dịch có 64 quẻ, tượng trưng các thời ; 384 hào tượng trưng 384 nhân vật điển hình, thiện có, ác có, sang có, hèn có ; mỗi nhân vật ở trong hoàn cảnh đặc biệt và có thời riêng. Trong thời chung, thời cơ riêng, ở hoàn cảnh đặc biệt, mỗi nhân vật điển hình trong Kinh Dịch thường đứng giữa ranh giới thiện – ác, tối – sáng, hoạ – phúc, thuận – nghịch, lợi – hại, tốt – xấu … chọn hướng nào là ẩn số của bài toán ở đời? Phù hiệu, văn tự của mỗi quẻ, mỗi hào là những dữ kiện của những bài toán ấy. Dịch là biến dịch, biến hoá ; quan trọng của Dịch là chữ Thời. Các nhà nghiên cứu thường dựa vào các dữ kiện tìm ra đáp số là lợi hay hại, thuận hay nghịch, xấu hay tốt. Kinh Dịch không chỉ là thế giới hấp dẫn đối với các học giả Trung Quốc, học giả các nước phương Đông như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, mà còn hấp dẫn các nhà nghiên cứu ở các nước phương Tây như Anh, Pháp, Mĩ, Đức.Kinh Dịch bao gồm cả Đạo Trời – Đạo Đất – Đạo Người. Riêng Đạo Người, Kinh Dịch có 64 quẻ, tượng trưng các thời ; 384 hào tượng trưng 384 nhân vật điển hình, thiện có, ác có, sang có, hèn có ; mỗi nhân vật ở trong hoàn cảnh đặc biệt và có thời riêng.Trong thời chung, thời cơ riêng, ở hoàn cảnh đặc biệt, mỗi nhân vật điển hình trong Kinh Dịch thường đứng giữa ranh giới thiện – ác, tối – sáng, hoạ – phúc, thuận – nghịch, lợi – hại, tốt – xấu … chọn hướng nào là ẩn số của bài toán ở đời? Phù hiệu, văn tự của mỗi quẻ, mỗi hào là những dữ kiện của những bài toán ấy.Dịch là biến dịch, biến hoá ; quan trọng của Dịch là chữ Thời. Các nhà nghiên cứu thường dựa vào các dữ kiện tìm ra đáp số là lợi hay hại, thuận hay nghịch, xấu hay tốt.Mở đầu Thượng kinh là hai quẻ Càn – Khôn, mở đầu Hạ kinh là quẻ Hàm, nam – nữ gặp nhau ; thể hiện tam tài Thiên – Địa – Nhân hoặc Thiên – Nhân hợp nhất. Thứ tự quẻ, tự quái giải thích như sau : Đầu tiên có Trời Đất, sau mới có vạn vật, đã có vạn vật, sau mới có trai gái, có trai gái mới có âm dương giao kết mà thành vợ chồng, đã có vợ chồng mới có công sinh dục mới thành cha con. Vậy sau mới thành trật tự loài người, mới sinh ra quân thần, đã có quân thần mới có chế độ mà chia ra trên dưới, đã có trên dưới, vậy sau mới đặt ra lễ nghĩa, mới có chỗ thực hành. (Hữu thiên địa, nhiên hậu hữu vạn vật, hữu vạn vật, nhiên hậu hữu nam nữ, hữu nam nữ, nhiên hậu hữu phu phụ, hữu phu phụ, nhiên hậu hữu phụ tử. Hữu liễu phụ tử nhiên hữu quân thần, hữu liễu quân thần, nhiên hậu hữu thượng hạ, hữu liễu thượng hạ, nhiên hậu lễ nghĩa hữu sở kiến lập, hữu sở thực chi. Mở đầu Thượng kinh là hai quẻ Càn – Khôn, mở đầu Hạ kinh là quẻ Hàm, nam – nữ gặp nhau ; thể hiện tam tài Thiên – Địa – Nhân hoặc Thiên – Nhân hợp nhất.Thứ tự quẻ, tự quái giải thích như sau : Đầu tiên có Trời Đất, sau mới có vạn vật, đã có vạn vật, sau mới có trai gái, có trai gái mới có âm dương giao kết mà thành vợ chồng, đã có vợ chồng mới có công sinh dục mới thành cha con. Vậy sau mới thành trật tự loài người, mới sinh ra quân thần, đã có quân thần mới có chế độ mà chia ra trên dưới, đã có trên dưới, vậy sau mới đặt ra lễ nghĩa, mới có chỗ thực hành.(Hữu thiên địa, nhiên hậu hữu vạn vật, hữu vạn vật, nhiên hậu hữu nam nữ, hữu nam nữ, nhiên hậu hữu phu phụ, hữu phu phụ, nhiên hậu hữu phụ tử. Hữu liễu phụ tử nhiên hữu quân thần, hữu liễu quân thần, nhiên hậu hữu thượng hạ, hữu liễu thượng hạ, nhiên hậu lễ nghĩa hữu sở kiến lập, hữu sở thực chi.
Địa lý Tảo Ao - Cao Trung
Khoa Địa Lý của Trung Hoa, xưa kia, là khoa phối hợp thuyết âm dương, ngũ hành với sự quan sát cách thế, hình thể của các mạch đất cùng lối đi của sông, ngòi, suối, lạch mà tìm ra nơi có chứa tụ khí mạch của đất, dùng nơi đó làm đất kết. Họ quan niệm rằng nơi có đất kết, có thể chôn xương người chết nếu là kết âm - phần và có thể làm nhà, đình chùa, lập Doanh trại, Thị Trấn, Đô thị lên trên nếu là đất kết dương cơ, để người sống được hưởng sự thịnh vượng, phát đạt do tụ khí của vùng đất kết đó.  Khoa Địa lý có từ lâu, sự ích lợi của đất kết đã được Ông cha chúng ta tin tưởng và cả chúng ta cũng có nhiều người công nhận là đúng; sử sách có ghi chép nhiều sự kiện chứng tỏ là khoa Địa Lý có một giá trị nào ảnh hưởng đến đời sống con người.Câu ca dao: " Sống về mồ mả chứ không ai sống về cả bát cơm" đã chứng minh sự quan trọng của khoa học địa lý với con người Việt Nam. Khoa địa lý, có một huyền thoại vàng son như vậy tiếc thay đến nay đã gần như thất truyền, vì phép địa lý chính tông đã bị những man sư và man thư làm cho sai lạc đi nhiều. Lý do của sự tàn tạ sa sút của khoa này trước kia do quan niệm người xưa để giữ ngôi vị của một số dòng họ nên họ giữ bí mật chỉ một số ít được truyền lại....Địa Lý Tả Ao Địa Đạo Diễn CaNXB Sài Gòn 1969Cao Trung112 Trang
Hi Di với vền văn hóa Trung Hoa đời Tống
Cuốn sách Hi Di Với Nền Văn Hóa Trung Hoa Đời Tống được soạn giả Dương Thành sưu tầm và biên soạn, gồm 2 phần: Phần 1: Khoa Lý số học – giới thiệu xuất xứ và trình bày những nét văn hóa Trung Hoa đời Tống trong này. Nhận định của soạn giả về những căn bản của Lý số học. Phần 2: Thuật Lý số học – xưa và nay – giới thiệu các cách phân tích, sử dụng những kiến thức của Khoa Lý số học, xưa và nay.​ Cuốn sách Hi Di Với Nền Văn Hóa Trung Hoa Đời Tống được soạn giả Dương Thành sưu tầm và biên soạn, gồm 2 phần: Phần 1: Khoa Lý số học – giới thiệu xuất xứ và trình bày những nét văn hóa Trung Hoa đời Tống trong này. Nhận định của soạn giả về những căn bản của Lý số học. Phần 2: Thuật Lý số học – xưa và nay – giới thiệu các cách phân tích, sử dụng những kiến thức của Khoa Lý số học, xưa và nay.​ Lý số học, theo tương truyền được đạo sĩ Trần Đoàn, tự là Đồ Nam, hiệu là Hi Di, ở núi Vũ Dương sáng lập ra vào cuối đời Đường, đầu nhà Tống ở Trung Quốc. Trong dân gian còn được gọi là Tử Vi, gọi theo tên ngôi sao đứng đầu các sao trong môn học này.Môn học này đã được truyền vào Việt Nam hơn 1000 năm nay và được người Việt Nam tiếp nhận một cách sáng tạo, có thể nói, trường phái Lý số học Việt Nam đã có những khác biệt nhất định so với Trung Quốc. Kể cũng kỳ lạ, hiện nay Lý số học không còn được thịnh hành lắm ở Trung Quốc. Người Trung Quốc bây giờ thường hay dùng Tử Bình và bốc Dịch để giải lý xem số! Điều này phải chăng cũng cảy ra giống quy luật lan truyền văn hóa, lan truyền đạo Phật, là truyền từ Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam.Những bí ẩn về Lý số học chắc chắn chưa thể khai thác hết, vì môn học này liên quan chặt chẽ đến thiên văn, địa lý và cấu trúc con người ở tầm vũ trụ, ở tầm tâm linh. Cũng vì thế mà nó mang một dáng dấp mơ hồ, vì cơ sở khoa học của nó dường như vẫn còn nằm trên ngưỡng nhận thức của khoa học hiện đại, nhưng cũng vì thế có nhiều phiên bản sáng tạo một cách chủ quan hạn hẹp đã xuất hiện, phủ lên cho nó một tấm áo dị đoan. Nhưng hàng nghìn năm tồn tại của nó đã chứng minh sức sống mạnh mẽ của một cốt lõi có giá trị thật.Hi Di Với Nền Văn Hóa Trung Hoa Đời Tống Hi Di Với Nền Văn Hóa Trung Hoa Đời TốngDương Thành biên soạnNXB Lao ĐộngSố trang: 639
THÁI ẤT THẦN KINH - TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM
Đức Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ, nhà triết lý, nhà văn hóa vĩ đại. Ông được xếp vào là một trong 3 vị Thánh tiên tri của nhân loại. Đức Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ, nhà triết lý, nhà văn hóa vĩ đại. Ông được xếp vào là một trong 3 vị Thánh tiên tri của nhân loại.“Thái Ất Thần Kinh”  là một tác phẩm kỳ thư huyền bí của ông. Đây là một công trình nghiên cứu công phu, vĩ đại. Nó tổng hợp sức mạnh chuẩn xác của triết học toán rút ra từ những luồng vũ trụ. Là nguồn tri thức hữu thể để hiện thực mệnh sống của con người, với môi trường cảm ứng giữa người và trời đất cùng vạn vật. “Thái Ất Thần Kinh”  là một tác phẩm kỳ thư huyền bí của ông. Đây là một công trình nghiên cứu công phu, vĩ đại. Nó tổng hợp sức mạnh chuẩn xác của triết học toán rút ra từ những luồng vũ trụ. Là nguồn tri thức hữu thể để hiện thực mệnh sống của con người, với môi trường cảm ứng giữa người và trời đất cùng vạn vật. “Thái Ất Thần Kinh”“Thái Ất Thần Kinh”  cung cấp những tri thức để ta hiểu về vũ trụ và con người có luồng thông lưu với nhau trong định luật cảm ứng. Bản thân cơ thể con người là một sinh cơ nhạy bén, quan hệ ba chiều sinh hóa nhiên với vạn vật và vũ trụ. “Thái Ất Thần Kinh”  cung cấp những tri thức để ta hiểu về vũ trụ và con người có luồng thông lưu với nhau trong định luật cảm ứng. Bản thân cơ thể con người là một sinh cơ nhạy bén, quan hệ ba chiều sinh hóa nhiên với vạn vật và vũ trụ.“Thái Ất Thần Kinh”