Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

PDF MINH TÂM BỬU GIÁM - TRƯƠNG VĨNH KÝ (1924) - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ

Các sách Minh Tâm Bảo Giám lưu hành rộng rãi ở Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam trước đây phần lớn dựa theo bản Vạn Lịch (người ta không nhắc tên người biên soạn nữa có lẽ vì tác giả thực thụ chính là những người phát biểu ý kiến đã được trích dẫn). Người dùng sách ngày nay nên hiểu rằng bản gốc của Thu Quát chỉ còn ý nghĩa lịch sử, còn ý nghĩa văn hóa thì thuộc về bản Vạn Lịch ra đời sau bản Thu Quát ngót hai trăm năm.  Bản Vạn Lịch tuy chỉ nhiều hơn 1 thiên nhưng nội dung lại gấp đôi bản Thu Quát và chắc chắn là nó không cộng vào đó toàn văn bản Thu Quát.Hán học du nhập Việt Nam từ thời nội thuộc nhà Hán (179 trước Công Nguyên). Các triều đại kế tiếp của Trung Quốc đều duy trì ý thức vun đắp cho nền văn hóa và chính trị khu vực bằng tinh thần "đồng văn". Do đó, sách vở Trung Quốc lưu hành ở Việt Nam không thua kém gì ở Trung Quốc nhờ sự qua lại khá thường xuyên của giới ngoại giao và giới doanh nhân hai nước. Tuy nhiên, sách Minh Tâm Bảo Giám có mặt nhan nhản trong dân gian hầu hết lại là sách chép tay gia truyền của những gia thục chứ các nhà xuất bản địa phương không hề tham gia phát hành, khắc in như đối với các sách khác - Phần lớn các ông Ðồ lại thường dạy theo trí nhớ thành thử thử ít đảm bảo tính chính xác, thống nhất của văn bản. Tựu trung các sách ấy thuộc hai dòng chính:- Dòng 1: Sách gồm 20 thiên (từ thiên Kế thiện đến thiên Phụ hạnh). Dân gian quen gọi sách nầy là "Minh Tâm mắc".- Dòng 2: Sách không chia thiên, chỉ rút những câu dễ hiểu ở cuốn trên, tổng số chữ chỉ còn phân nửa. Dân gian quen gọi sách nầy là "Minh Tâm rẻ"Cả hai sách ấy đều tập hợp những danh ngôn dạy đạo làm người, rất nhiều câu trong đó đã đi sâu vào cuộc sống đến mức người không hề học chữ Hán cũng vẫn nhắc đúng được nguyên văn.Sách Minh Tâm Bảo Giám đã được Trương Vĩnh Ký (1837 - 1898) dịch ra Việt ngữ từ cuối thế kỷ XIX. Sang thế kỷ XX có thêm các bản dịch của Tạ Thanh Bạch, Ðoàn Mạnh Hy, Nguyễn Quốc Ðoan, vv... dựa vào những văn bản khác nhau nhưng đều có điểm chung là nguyên tác vốn từng được nhiều thế hệ thuộc lòng trước khi nó được giới dịch thuật chiếu cố (trong khi đại đa số dịch phẩm trên thị trường lại thường nhằm ý đồ giới thiệu những danh tác chưa được nhiều người biết đến nguyên bản).MUA SÁCH (TIKI)

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Cách Trí Phổ Thông PDF (NXB Đuốc Tuệ 1944) - T C Biên
Người ta sở dĩ sai khiến được muôn vật mà trở nên một giống quý nhất ở trên mặt đất này là vì có cái trí khôn. Nhưng gương có lau mới sáng, dao có mài mới sắc ; mình cứ tin rằng trời sinh mình sẵn có tri sáng, không chịu mở rộng thêm ra, thì cái trí sáng ấy nó cũng mờ tối dần đi, cho nên cũng là loài người mà có kẻ khôn người dại kẻ hay người hư là vì đó cả. Vì thế nên xưa nay, bất cứ nước nào, những người hiền-triết đều phải chăm học về khoa cách-trí vậy.Cách Trí Phổ ThôngNXB Đuốc Tuệ 1944T. C. Biên50 TrangFile PDF-SCAN
Triết Học Là Gì - Nghiêm Tử PDF
Chủ nghĩa duy vật là một hình thức của chủ nghĩa duy vật lý (physicalism) với quan niệm rằng thứ duy nhất có thể được thực sự coi là tồn tại là vật chất; rằng, về căn bản, mọi sự vật đều có cấu tạo từ vật chất và mọi hiện tượng đều là kết quả của các tương tác vật chất. Khoa học sử dụng một giả thuyết, đôi khi được gọi là thuyết tự nhiên phương pháp luận, rằng mọi sự kiện quan sát được trong thiên nhiên được giải thích chỉ bằng các nguyên nhân tự nhiên mà không cần giả thiết về sự tồn tại hoặc không-tồn tại của cái siêu nhiên. Với vai trò một học thuyết, chủ nghĩa duy vật thuộc về lớp bản thể học nhất nguyên. Như vậy, nó khác với các học thuyết bản thể học dựa trên thuyết nhị nguyên hay thuyết đa nguyên. Xét các giải thích đặc biệt cho thực tại hiện tượng, chủ nghĩa duy vật đứng ở vị trí đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa duy tâm.Tạp Chí Văn Mới Số 18+19Triết Học Là GìNXB Hàn Thuyên 1943Nghiêm Tử200 TrangFile PDF-SCAN
Triết Học Nhập Môn PDF - Nguyễn Anh Nghĩa - (NXB Tân Việt 1944)
Vào triết học, có nhiều đường: Trình bày những vấn đề triết học, rồi xét qua các nhời giải - Trình bày sơ sài lịch-sử các chủ nghĩa triết học. Đứng giữa mà phân phải trái, mọi bề. Hay, ngả hẳn về một bên mà phê phán các học thuyết. Chúng tôi đã chọn đường sau cùng này, vì nghĩ có lẽ đó là phương pháp hay hơn cả. Chúng tôi đã không băn khoăn đứng giữa mà dám bước hẳn về một phía.Triết Học Nhập MônNXB Tân Việt 1944Nguyễn Anh Nghĩa212 TrangFile PDF-SCAN
Einstein Và Vũ Trụ PDF - Phan Thành Long (NXB Trung Tâm Học Liệu 1972)
Khi bước vào sự nghiệp của mình, Einstein đã nhận ra cơ học Newton không còn có thể thống nhất các định luật của cơ học cổ điển với các định luật của trường điện từ. Từ đó ông phát triển thuyết tương đối đặc biệt, với các bài báo đăng trong năm 1905. Tuy nhiên, ông nhận thấy nguyên lý tương đối có thể mở rộng cho cả trường hấp dẫn, và điều này dẫn đến sự ra đời của lý thuyết về hấp dẫn trong năm 1916, năm ông xuất bản một bài báo về thuyết tương đối tổng quát. Ông tiếp tục nghiên cứu các bài toán của cơ học thống kê và lý thuyết lượng tử, trong đó đưa ra những giải thích về lý thuyết hạt và sự chuyển động của các phân tử. Ông cũng nghiên cứu các tính chất nhiệt học của ánh sáng và đặt cơ sở cho lý thuyết lượng tử ánh sáng. Năm 1917, Einstein sử dụng thuyết tương đối tổng quát để miêu tả mô hình cấu trúc của toàn thể vũ trụ. Cùng với Satyendra Nath Bose, năm 1924-1925 ông tiên đoán một trạng thái vật chất mới đó là ngưng tụ Bose-Einstein của những hệ lượng tử ở trạng thái gần độ không tuyệt đối. Tuy cũng là cha đẻ của thuyết lượng tử, nhưng ông lại tỏ ra khắt khe với lý thuyết này. Điều này thể hiện qua những tranh luận của ông với Niels Bohr và nghịch lý EPR về lý thuyết lượng tử.Khi ông đang thăm Hoa Kỳ thì Adolf Hitler lên nắm quyền vào năm 1933, do vậy ông đã không trở lại nước Đức, nơi ông đang là giáo sư ở Viện Hàn lâm Khoa học Berlin. Ông định cư tại Hoa Kỳ và chính thức trở thành công dân Mỹ vào năm 1940. Vào lúc sắp diễn ra Chiến tranh thế giới lần hai, ông đã ký vào một lá thư cảnh báo Tổng thống Franklin D. Roosevelt rằng Đức Quốc xã có thể đang nghiên cứu phát triển "một loại bom mới cực kỳ nguy hiểm" và khuyến cáo nước Mỹ nên có những nghiên cứu tương tự. Thực sự, nó đã dẫn đến sự ra đời của Dự án Manhattan sau này. Einstein ủng hộ bảo vệ các lực lượng Đồng minh, nhưng nói chung chống lại việc sử dụng phát kiến mới về phân hạch hạt nhân làm vũ khí. Sau này, cùng với nhà triết học người Anh Bertrand Russell, ông đã ký Tuyên ngôn Russell–Einstein, nêu bật sự nguy hiểm của vũ khí hạt nhân. Einstein làm việc tại Viện Nghiên cứu Cao cấp ở Princeton, New Jersey cho đến khi ông qua đời vào năm 1955.Einstein đã công bố hơn 300 bài báo khoa học và hơn 150 bài viết khác về những chủ đề khác nhau, ông cũng nhận được nhiều bằng tiến sĩ danh dự trong khoa học, y học và triết học từ nhiều cơ sở giáo dục đại học ở châu Âu và Bắc Mỹ. Ông được tạp chí Times gọi là "Con người của thế kỷ". Những thành tựu tri thức lớn lao của ông đã khiến tên gọi "Einstein" đã trở nên đồng nghĩa với từ thiên tàiEinstein Và Vũ TrụNXB Trung Tâm Học Liệu 1972Phan Thành Long115 TrangFile PDF_SCAN