Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tuyết Giang Phu Tử Lược Khảo Và Phê Bình PDF

Nguyễn Bỉnh Khiêm (chữ Hán: 阮秉謙; 1491 – 1585), tên huý là Văn Đạt (文達),[1] tự là Hanh Phủ (亨甫), hiệu là Bạch Vân am cư sĩ (白雲庵居士),[2] được các môn sinh tôn là Tuyết Giang phu tử (雪江夫子), là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử cũng như văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 16. Ông được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam – Bắc triều (Lê – Mạc phân tranh) cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam. Sau khi đậu Trạng nguyên khoa thi Ất Mùi (1535)[3] và làm quan dưới triều Mạc, ông được phong tước “Trình Tuyền hầu” rồi thăng tới “Trình Quốc công” (程國公)[4][5] mà dân gian quen gọi ông là Trạng Trình.[6] Dưới thời quân chủ của Việt Nam, ông là một trong số rất hiếm văn nhân thuần túy (tức là những người không phải quan tướng nắm binh quyền và chưa từng cầm quân ra trận) được phong tới tước Công ('Quận công' hay 'Quốc công') ngay từ lúc còn sống. Trình Quốc công là tước phong chính thức cao nhất của vua nhà Mạc ban cho Nguyễn Bỉnh Khiêm gần 20 năm trước khi ông mất.Tuyết Giang Phu Tử Lược Khảo Và Phê BìnhNXB Đại La 1945Chu Thiên160 TrangFile PDF-SCAN

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Một Chuỗi Cười (NXB Hàn Thuyên 1941) - Đồ Phồn PDF
Bùi Huy Phồn (1911-1990) có các bút danh là Đồ Phồn, Bùi Như Lạc, Cười Suông, Việt Lệ, Ấm Hai, Lý Ba Lẽ, BHP. Ông sinh ngày 16-12-1911 tại Phố Đầm, xã Phượng Sơn, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, quê gốc tại làng Liên Bạt, xã Mai Đình, huyện ứng Hoà, tỉnh Hà Tây. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Mất tại Hà Nội năm 1990. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957).Ông thân sinh Bùi Huy Phồn là một nhà Nho, chi trưởng họ "Đại Bùi", thi cử không đỗ, bỏ làng phiêu bạt lên phố Đầm bán chữ nuôi thân. Rồi kết duyên với cô gái Bắc Ninh đảm đang, giỏi nghề buôn bán, sau này là mẹ thân sinh nhà văn. Trước năm 1940 gia đình ông là tư sản thương mại (dân tộc) kiêm địa chủ. Đến những năm 1940-1945, gia đình bị phá sản, bán hết ruộng đất ở phố Đầm trở về quê gốc.Một Chuổi CườiNXB Hàn Thuyên 1941Đồ Phồn158 TrangFile PDF-SCAN
Nghiên Cứu Chữ Hán PDF (NXB Thống Nhất 1955) - Thi Đạt Chí
Nghiên Cứu Chữ Hán là tập sách mỏng song ngữ Hán Việt (45 trang, trong đó phần tiếng Việt 25 trang) của Thi Đạt Chí, năm xb không rõ (bìa sách bị mất, có lẽ cuối 195x), do tiệm sách Thống Nhất (Chợ Lớn) tổng phát hành. Sau phần nói về giá trị của chữ Hán, nguồn gốc chữ Hán, tác giả trình bày 6 cách cấu tạo chữ Hán (Lục thư: tượng hình, chỉ sự, hội ý, hình thanh, chuyển chú và giả tá) Trong khi 4 loại đầu, tác giả phân loại rất chi li (loại tượng hình có 7 biến thể: đơn thể, song thể, hợp thể, trọng thể, .. ; loại chỉ sự chia thành 4 thể: thuần thể, gia thể, hợp thể, biến thể) một cách không mấy hữu ích thì hai loại sau viết quá gọn, đặc biệt loại chuyển chú, sau khi dẫn ý Thuyết Văn Giải Tự, phần giảng thêm khá tối và rối.Nghiên Cứu Chữ HánNXB Thống NhấtThi Đạt Chí45 TrangFile PDF-SCAN
Những Tin Tức Và Dư Luận Về Ông Phan Bội Châu PDF (NXB Thực Nghiệp 1925) - Mai Du Lân
Trong cuộc đời hoạt động yêu nước, chống Pháp sôi nổi của mình, Phan Bội Châu luôn chú trọng đến thanh niên, coi thanh niên là một lực lượng cách mạng đặc biệt quan trọng. Ngược lại thanh niên Việt Nam thủa đó cũng dành những tình cảm đặc biệt cho Phan Bội Châu. Thanh niên Việt Nam đã tích cực ủng hộ, hưởng ứng và tham gia những hoạt động yêu nước, chống Pháp do Phan Bội Châu khởi xướng. Họ tin vào tấm lòng yêu nước trong sáng, tinh thần chống Pháp cứu nước sục sôi của Phan Bội Châu. Họ hết lòng theo Phan Bội Châu trong phong trào Đông Du và tích cực gia nhập tổ chức Việt Nam Quang phục Hội. Mọi hoạt động yêu nước của Phan Bội Châu đều được thanh niên dõi theo, hưởng ứng và hâm mộ.Những Tin Tức Và Dư Luận Về Ông Phan Bội ChâuNXB Thực Nghiệp 1925Mai Du Lân38 TrangFile PDF-SCAN
Hán Học Phổ Thông PDF (NXB Nam Thiên Thư Cục 1942) - Nguyễn Di Luân
Thời nay, học chữ Hán đối với thanh niên trí thức Việt Nam, ngoài mục đích trau dồi tư tưởng, còn là để sử dụng cái lợi khí diễn đạt bằng Việt văn một cách thấu đáo, đầy đủ và tinh vi. Hán tự đối với Việt văn chẳng khác gì chữ La tinh, chữ gờ-réc đối với Pháp văn. Nếu Pháp văn đã gần thoát ly hẳn được với gốc La tinh, gờ-réc, Việt văn còn mật thiết quan hệ với Hán tự vì thời gian ly khai hãy còn ngắn ngủi. Tuy nhiên, ngày nay muốn trở thành một văn sĩ Pháp, người ta còn học La tinh và gờ-réc là thứ chữ chết. Muốn sành Việt văn thì chúng ta làm sao vội bỏ Hán tự là thứ chữ đang còn sống? Huống chi những sách vở tiền nhân chúng ta trong vòng ngót ngàn năm để lại đều viết bằng Hán tự.Hán Học Phổ ThôngNXB Nam Thiên Thư Cục 1942Nguyễn Di Luân100 TrangFile PDF-SCAN