Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Làm Giàu Trong Nền Kinh Tế Tri Thức - Lester C. Thurow

Lester C. Thurow là Giáo sư Khoa quản trị và kinh tế của Học viện kỹ thuật Massachusetts ( MIT) từ nǎm 1968. Từ nǎm 1987 đến nǎm 1993 ông là Trưởng khoa Quản trị của MIT. Các tác phẩm tiêu biểu của ông như : The Zero - Sum Society, Head to head và The Future of Capitalisme đều thuộc loại " bestsellers" Không còn nghi ngờ gì nữa, chúng ta đang ở trong thời kỳ quá độ của nền kinh tế tri thức... Những cá nhân, những tập đoàn và tất cả các quốc gia phải làm gì để có thể thành công trong nền kinh tế mới mẻ này của thế kỷ 21? Thay vì chú ý đến những vấn đề tiêu thụ, Lester C. Thurow thuyết phục chúng ta phải đẩy mạnh đầu tư cho lĩnh vực kiến thức cơ bản, giáo dục và cơ sơ hạ tầng. Chỉ bằng cách công khai xây dựng sự giàu có cho cộng đồng, chúng ta mới có thể tối đa hoá các vận hội để làm giàu cho cá nhân. *** Ở mặt trái của tờ giấy bạc một đô la có hình một kim tự tháp chưa hoàn tất, trên đỉnh có một con mắt sáng long lanh, lấy từ mặt trái đã bị quên lãng của đại huy hiệu Hiệp Chủng Quốc và do Tổng thống Roosevelt cho đặt lên tờ đô la vào năm 1935, giữa cuộc đại khủng hoảng khi mà sự giàu có của Hoa Kỳ đang giảm mạnh. Kim tự tháp được sử dụng làm biểu tượng cho sức mạnh và sự trường tồn kinh tế và chính đặc điểm chưa hoàn tất cũng nhằm biểu hiện cho sự giàu có ở Hoa Kỳ ngày càng tăng. Người Mỹ cần đặt hy vọng vào một nền kinh tế đang sụp đổ sẽ được thay thế bằng một nền kinh tế sẽ tồn tại mãi mãi, những ngày tốt đẹp nhất đối với Hoa Kỳ đang ở phía trước, không phải ở sau lưng. Một câu ghi bằng tiếng La tinh (Annuit Coeptis) cho dân Hoa Kỳ biết rằng Thượng đế ủng hộ công việc của họ. Một câu thứ hai (Novos Ordo Seclorum) tiên đoán một trật tự giàu có mới của Hoa Kỳ. Như vậy, trong những ngày đen tối nhất về mặt kinh tế, người Mỹ vừa mượn biểu tượng thành công bền vững của nhân loại, vừa cầu nguyện Thượng đế hỗ trợ. Đằng sau con mắt long lanh, một biểu tượng của sự hướng dẫn thiêng liêng, là chóp chưa hoàn tất của kim tự tháp cần phải xây dựng. Người Mỹ có thể nhìn thấy cần phải làm gì để gặt hái thành công. Họ cần phải khẳng định mình là những người kiến tạo. Ngày nay, người châu Á nhìn thấy thế giới cũng giống như người Mỹ thấy vào những năm 1930. Sự phát triển kinh tế nhanh đã bị phá vỡ. Sự giàu có của cá nhân, của doanh nghiệp và của xã hội nhanh chóng biến mất. Thị trường chứng khoán của Indonesia giảm trên 80%. Điều mà mới đó tưởng chừng như một sức mạnh kinh tế không gì ngăn chặn nổi và sẽ khống chế thế kỷ 21 lại giống như một sự đổ vỡ vĩnh viễn. Sự phát triển kinh tế có vẻ vững như đá bây giờ lại như băng tuyết đang tan chảy. Mô hình tăng trưởng kinh tế châu Á bằng con đường xuất khẩu đã đem hy vọng lại cho hầu hết thế giới thứ ba là sẽ thu ngắn cách biệt kinh tế với các nước đã phát triển, nay đang tả tơi. Những nước thành công đã sụp đổ. Sự tan rã tài chính châu Á đe dọa nền tảng thành công tại các nước trong thế giới thứ ba như Brasil. Vốn và công nghệ từ các nước thuộc thế giới thứ nhất đổ vào nay lại ra đi và các nhà dự báo đánh giá thấp viễn cảnh kinh tế trong tương lai. Con đường cũ đã bế tắc, đâu là con đường đúng để tích tụ giàu có? Lục địa châu Âu nhìn thế giới trong đó mô hình ưa chuộng - nền kinh tế thị trường xã hội - nơi mà phúc lợi được trả cao và nhà nước can thiệp mạnh để phân phối rộng rãi sự giàu có không còn thích hợp. Trong khi có những biến động lên xuống mang tính chu kỳ nhưng xu hướng lâu dài về thất nghiệp ở châu Âu không ngừng tăng lên. Tỷ lệ thất nghiệp 2 chỉ số chưa bao giờ thấy từ những năm 1930 nay được xem như tình trạng thường xuyên. Một châu lục nghĩ rằng có thể đảm bảo việc làm cho công dân của mình nay mới thấy là không thể làm điều đó. Các nhà chính trị đều hứa là sẽ làm điều gì đó nhưng mọi người biết là sẽ chẳng làm gì. Trong nền kinh tế tri thức nhân tạo mới của thế kỷ 21, toàn châu Âu gần như không có lãnh đạo công nghiệp thành công. Công ty sản xuất máy tính địa phương cuối cùng đã bán cho Đài Loan năm 1998. Châu Âu nói đến việc đuổi theo nhưng biết rằng khoảng cách công nghệ giữa họ và Hoa Kỳ ngày càng tăng. Châu lục đã từng sản sinh ra văn hóa nay phải nhập từ Hoa Kỳ. Biểu tượng tương tự như “Intel Inside” có thể được in trên hầu hết những gì mới tại châu Âu. Việc tái cấu trúc, thu gọn và đưa sản xuất ra ngoại biên được xem là mô hình kinh tế tư bản kiểu Hoa Kỳ cần phải tránh xa lại đến. Tại châu Âu, châu Á và phần còn lại của thế giới thứ ba, nỗi băn khoăn kinh tế lên cao. Tất cả đều mong muốn sức mạnh và sự bền vững của kim tự tháp thể hiện trên tờ một đôla của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ không nằm trong những nước có mối lo lắng cao độ này. Hoa Kỳ đã phục hồi! Trong những năm 1990, Hoa Kỳ thành công nhất trong thế giới các nước công nghiệp. Khoảng cách kinh tế giữa Hoa Kỳ và các nước còn lại của thế giới lại gia tăng. Mức gia tăng 2.000 tỷ đô la tổng sản phẩm nội địa trong thập kỷ 1990 của Hoa Kỳ cao hơn tổng sản phẩm nội địa của tất cả các nước trừ Nhật Bản. Thay vì chựng lại hay sụt giảm trước tình hình khủng hoảng ở châu Á, thành tích kinh tế của Hoa Kỳ trong năm 1998 lại đạt tỷ lệ tăng trưởng 4,3%. Thất nghiệp ở mức thấp nhất trong lịch sử và không có lạm phát. Người giàu nhất hành tinh một lần nữa lại là người Mỹ. Sự giàu có của các vua dầu lửa (Trung Đông) đã bị lu mờ. Số tỷ phú người Mỹ đã có hàng trăm. Các doanh nghiệp Mỹ đã chiếm lại vị trí hàng đầu. Trong năm 1990, chỉ có hai doanh nghiệp Mỹ trong số 10 doanh nghiệp lớn nhất thế giới, con số này là 9 vào năm 1998. Tương tự, vào đầu thập kỷ 1990, không có một ngân hàng Mỹ nào trong số 15 ngân hàng lớn nhất, nhưng vào cuối năm 1998 đã có 9 ngân hàng Mỹ lọt vào danh sách. Ưu thế bên dưới đỉnh cao cũng rất lớn. Hai mươi trong số 25 doanh nghiệp to nhất hiện nay là của Mỹ. Nếu không có xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ đang tăng trưởng, một sự suy thoái toàn cầu có thể xảy ra trong năm 1999. Sức mạnh kinh tế của Hoa Kỳ đã được phục hồi và tái thống nhất với quyền bá chủ quân sự của họ. Đây là thời kỳ vàng son của Hoa Kỳ. Nhưng ngay bên trong Hoa Kỳ cũng có những ưu tư. Một nền kinh tế đang tăng trưởng nhưng cũng có những dấu hiệu đi xuống mạnh mẽ đối với nhiều người. Rất nhiều người Mỹ tin rằng con cháu của họ sẽ có mức sống thấp hơn họ - cũng chẳng có gì ngạc nhiên khi mà 2/3 lực lượng lao động có mức lương thực tế thấp hơn mức lương vào năm 1973. Những gì mà họ tin rằng sẽ xảy đến cho con cháu họ cũng đang đến với họ. Thành phần trung lưu đang giảm sụt. Một ít giàu lên nhưng phần lớn đi xuống. Cũng không đáng ngạc nhiên khi nhìn thấy những gì đang xảy ra đối với lương của thành phần thợ trung cấp nhưng cũng rất đáng ngại. Các trang thông tin tài chính hàng ngày đều cho thấy thị trường chứng khoán tăng mạnh nhưng thu nhập bình quân của các hộ gia đình lại giảm thay vì tăng lên và tài sản tài chính của họ dưới mức 10.000 đô la. Số 20% người nghèo nhất có số nợ cao hơn tài sản của họ. Trong khi kinh tế đang tăng trưởng mạnh, hàng năm có đến 500.000 đến 700.000 công nhân bị các công ty đang làm ăn có lãi cho nghỉ việc - trong năm 1998 có đến 680.000 công nhân. Những công nhân bị cho nghỉ việc trên 55 tuổi sẽ khó tìm được việc làm tốt. Những công nhân dưới 55 tuổi phải chấp nhận mức lương thấp hơn để được thu dụng lại. Dự kiến cho một nghề đem lại cuộc sống thoải mái suốt đời đã trở thành một bí ẩn lớn - ngay cả đối với sinh viên tốt nghiệp đại học. Làm thế nào để có sự thành đạt bền vững? Tìm đâu ra sự an toàn về mặt kinh tế? Chúng ta rất thích thú nhìn những nghệ sĩ biểu diễn đi dây trên cao nhưng thật sự không thích thú chút nào nếu mình là người đi trên sợi dây đó. Cũng như trong thời kỳ Đại khủng hoảng, tốt hơn chúng ta nên ở vị trí đỉnh cao của kim tự tháp biểu hiện sự giàu có và sẽ mãi mãi bền vững. Đáng lo ngại nhất là năng suất giảm gấp ba lần kể từ những năm 1960. Vì sau cùng, chính sự gia tăng năng suất (khả năng tạo nhiều sản phẩm hơn trong khi sử dụng ít nguyên liệu hơn) sẽ thúc đẩy việc tạo giàu có thật sự. Những biến động tạm thời trên thị trường chứng khoán có thể đem lại giàu có theo thị trường trong ngắn hạn nhưng nếu không có sự gia tăng mạnh về năng suất sẽ không tìm được của cải của sự giàu có về lâu về dài. Con mắt long lanh trên đỉnh của kim tự tháp trên tờ 1 đôla làm người ta không quan tâm đến phần đáy của nó. Cũng thế, sự sáng chói của mức độ giàu có nằm ở nấc cao nhất trên thang phân bổ giàu có - những tỷ phú mới - làm lu mờ phần đáy của kim tự tháp, là nền tảng của chính sự giàu có. Nhưng cho dù được nằm ở đỉnh là cả một sự hấp dẫn, kim tự tháp thật được xây dựng từ đáy lên chứ không phải từ đỉnh xuống. Vào cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, sáu công nghệ mới - vi điện tử, máy tính điện tử, viễn thông, nguyên liệu nhân tạo mới, rô bốt và công nghệ sinh học - đang tác động qua lại tạo ra một thế giới kinh tế mới và rất khác biệt. Những tiến bộ trong khoa học cơ bản làm nền tảng cho 6 lãnh vực này đã tạo ra những công nghệ đột phá làm nẩy sinh hàng loạt công nghiệp vừa to lớn, vừa mới mẻ: máy tính điện tử, mạch bán dẫn, tia la de... Những công nghệ này tạo cơ hội để cải tiến nhiều ngành công nghiệp cũ: Mua bán qua mạng thay thế mua bán thông thường; điện thoại di động rải khắp nơi. Nhiều sự việc mới có thể thực hiện được: cây và con biến đổi gien xuất hiện; một nền kinh tế toàn cầu hóa lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại trở thành hiện thực. Nói một cách tượng hình, đây là thời kỳ công nghiệp nhân tạo từ tri thức. Nền tảng cũ của sự thành công đã biến mất. Đối với hầu hết lịch sử nhân loại, nguồn gốc của sự thành công là sự kiểm soát tài nguyên thiên nhiên - đất đai, vàng bạc và dầu mỏ. Bất chợt lời giải là “tri thức”. Người giàu nhất thế giới, Bill Gates, không sở hữu bất kỳ vật hữu hình nào - không đất đai, không vàng bạc, không dầu mỏ, không nhà máy, không qui trình công nghệ, không quân đội. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại người giàu nhất chỉ sở hữu tri thức. Tri thức là cơ sở mới của sự giàu có. Điều này chưa bao giờ là một sự thật. Trước đây, khi các nhà tư bản nói về sự giàu có của mình, họ nói về quyền sở hữu nhà máy, máy móc thiết bị và tài nguyên thiên nhiên. Trong tương lai, khi các nhà tư bản nói về sự giàu có, họ sẽ nói về sự kiểm soát tri thức. Ngay cả ngôn ngữ để thể hiện sự giàu có cũng thay đổi. Người ta có thể nói về sở hữu thiết bị hay tài nguyên thiên nhiên. Khái niệm về “sở hữu” ở đây rất rõ ràng. Nhưng người ta không thể nói sở hữu tri thức. Sở hữu tri thức là một khái niệm rất lỏng lẻo. Người có tri thức không thể trở thành nô lệ. Chính xác là làm sao để sở hữu tri thức mới thực sự là vấn đề cốt lõi trong nền kinh tế tri thức. Sự biến đổi hiện nay thường được mô tả một cách sai lầm là cuộc cách mạng thông tin hay là một xã hội thông tin. Nó còn vượt xa hơn thế nữa. Thông tin nhanh hơn hay rẻ hơn tự nó chẳng có giá trị gì. Thông tin chẳng qua là một trong những yếu tố đầu vào mới sử dụng để xây dựng một nền kinh tế khác biệt trong đó có nhiều sản phẩm và dịch vụ rất khác biệt. Thông tin nhiều hơn cũng chẳng có gì quan trọng hơn những loại nguyên liệu mới, những thực thể sinh học mới, hay những loại rô bốt mới trong việc xây dựng nền kinh tế tri thức mới này. Xã hội cần phải tổ chức lại thế nào để tạo môi trường thúc đẩy làm giàu dựa trên tri thức? Điều gì cần thiết để làm cho các nhà doanh nghiệp thay đổi và làm cho sự giàu có nẩy nở? Làm thế nào để cho sự giàu có dựa trên tri thức phát sinh? Đòi hỏi kỹ năng gì? Tài nguyên thiên nhiên và môi trường tham gia vào nền kinh tế tri thức mới này thế nào? Vai trò của việc chế tạo công cụ trong nền kinh tế tư bản tri thức là gì khi mà các công cụ vật chất không còn chiếm vị trí trung tâm của hệ thống? Qui trình nào để sự giàu có có thể mua bán được của tư nhân xuất hiện? Cơ bản là làm thế nào sử dụng “tri thức” để xây dựng một kim tự tháp giàu có mới cho cá nhân, cho công ty và cho xã hội? Đây là những câu hỏi cần phải trả lời nếu muốn thành công trong nền kinh tế tri thức. Điều quan trọng về bất kỳ kim tự tháp nào không phải được khám phá bằng cách trèo lên đỉnh mà chính là các đường hầm dẫn đến các kho tàng ẩn giấu bên trong. Làm thế nào để lợi dụng các công nghệ mới để cải tiến sản xuất các sản phẩm cũ và tạo ra các sản phẩm cải tiến mới? Kỹ thuật xây dựng mới là gì để đưa các tảng đá to hơn (năng suất cao hơn) vào vị trí? Làm thế nào chúng ta có thể sử dụng các công nghệ mới này để xây dựng các kim tự tháp giàu có to hơn và cao hơn trong tương lai? Xây dựng một kim tự tháp giàu có bền vững đòi hỏi trước hết chúng ta phải tìm hiểu khung cảnh kinh tế mới đang hình thành. Nằm đâu đó trong khung cảnh này sẽ là một kim tự tháp biểu hiện sự giàu có mới. Một khi đã khám phá ra nó, các tính chất khảo cổ của nó cần phải được thông hiểu tường tận. Nó đã được xây dựng thế nào? Đâu là các lối vào? Thiếu các thông tin này, các nhà săn tìm kho tàng không thể tìm thấy của cải kinh tế chôn vùi bên trong. Chỉ sau khi là những nhà khám phá, nhà khảo cổ và những người săn lùng kho tàng, con người mới có thể trở về với công việc thực của mình - học cách xây dựng cho bản thân, cho công ty và cho xã hội của chúng ta một kim tự tháp biểu tượng cho sự giàu có vĩ đại, mới và bền vững. Mời các bạn đón đọc Làm Giàu Trong Nền Kinh Tế Tri Thức của tác giả Lester C. Thurow.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Thành Công Có 1% Cách Nghĩ Khác Bạn
Cuốn sách NGƯỜI THÀNH CÔNG CÓ 1% CÁCH NGHĨ KHÁC BẠN, giới thiệu với bạn về quy tắc trí tuệ nhân sinh của Baltasar Gracián, một vị giáo sĩ Tây Ban Nha, sống ở thế kỷ XVII. Ông là người có tri thức uyên bác, đồng thời có trí tuệ và kinh nghiệm nhân sinh vô cùng phong phú. Triết gia nổi tiếng Netzsche từng ca ngợi: “Trí tuệ và kinh nghiệm nhân sinh của Gracián vẫn tuyệt vời cho đến tận ngày hôm nay, và không gì có thể sánh bằng”. Với những quy tắc trí tuệ của Gracián, cuốn sách cho bạn biết về những phép xử thế vô cùng thực tế, giúp bạn hiểu được rằng, bạn sẽ phải cần đến những phương pháp khôn khéo nào để bảo toàn, mở rộng và thực hiện giá trị của chính mình trong cuộc sống. Cuốn sách được biên soạn với hi vọng, độc giả có thể cùng chia sẻ và tập hợp những tinh hoa trí tuệ của Gracián, từ đó có thể nhìn thấy lời khuyên hữu ích của một bậc triết nhân. Đồng thời, để giúp độc giả có thể lĩnh hội dễ dàng hơn những bí mật và tinh túy ẩn chứa trong nó, tác giả cuốn sách còn đặc biệt lựa chọn các ví dụ từ cổ chí kim, phối hợp để làm rõ nội hàm tinh thần trí tuệ của Gracián. Chỉ cần bạn tĩnh tâm lại, bớt một chút thời gian để ghi nhớ và học tập những lời khuyên, bạn sẽ có thể dẫn dắt cuộc sống của bạn, chèo lái con thuyền cuộc đời đi đến bến bờ thành công trong đại dương mênh mông. *** BẬC THẦY TRÍ TUỆ NHÂN SINH - Gracián Biển người mênh mông, mỗi chúng ta chính là một con thuyền nhỏ bé trong đó. Khi bơi thuyền trên biển, bạn không thể biết mình sẽ gặp phải sóng to gió lớn nơi chân trời góc biển nào, liệu có bị nó đánh tan xương nát thịt hay không. Vậy mà biển đời còn khó nắm bắt, khó thấu hiểu hơn nhiều so với biển trong tự nhiên. Nếu muốn con thuyền được thuận buồm xuôi gió trong đại dương mênh mông này, bạn cần phải trở thành một tay chèo cừ khôi, để chèo lái con thuyền cuộc đời của chính mình, phải học cách vượt qua sóng gió, kịp thời điều chỉnh hướng thuyền, tìm vị trí thích hợp cho mình trong đại dương - nơi hàng ngàn con thuyền khác đang tranh đua. Bạn không thể để người khác vượt mặt mình, thậm chí “thôn tính” mình được. Muốn trở thành người lái thuyền tỉnh táo, trước hết cần biết xem xét tình hình, phán đoán những nơi đang tiềm ẩn sự nguy hiểm, tận dụng tất cả các điều kiện và hoàn cảnh ở xung quanh. Gió bão trên biển lớn thường đến một cách đột ngột, đôi khi ở nơi mà ta chưa bao giờ nghĩ tới, lại có những tảng đá ngầm đang lặng lẽ chờ đợi mình. Vì vậy, mỗi người phải có đủ sự hiểu biết để quan sát những mối nguy hiểm có thể xảy ra trên đường đời, đồng thời cần tích lũy tương đối phong phú những kinh nghiệm xử thế và trí tuệ, khéo léo tận dụng tất cả những gì có thể tận dụng được, để giúp cho con thuyền nhân sinh được chèo lái nhanh hơn, an toàn hơn. Vậy thì, bạn còn do dự gì nữa? Hãy hiểu rằng, cũng như các tri thức khác, trí tuệ và kinh nghiệm nhân sinh ngoài dựa vào việc đích thân trải nghiệm và cảm nhận, thì cũng có thể xuất phát từ việc học hỏi kinh nghiệm và tri thức của người khác. Trên thực tế, bạn không thể nào tự mình đi trải nghiệm tất cả mọi việc, bạn cũng không nên chờ đến lúc thực sự “kinh nhất sự” (trải qua một việc), rồi mới “trưởng nhất tri” (thêm một phần hiểu biết). “Kinh nhất sự trưởng nhất tri” thực ra là một kết quả bất đắc dĩ. Cách làm thông minh nhất chính là học hỏi kinh nghiệm thành công của người khác, rút ra bài học từ sự thất bại của họ, sau đó đem những kinh nghiệm và bài học này vận dụng vào thái độ ứng xử và việc chèo lái con thuyền nhân sinh của chính mình. Chỉ có như vậy, bạn mới có thể bỏ ra một cái giá thấp nhất mà đạt được thành công lớn nhất. Khổng Tử nói: “Tam nhân hành tất hữu ngã sư yên” (Ba người đi cùng nhau, tất sẽ có người là thầy ta). Thực ra, không nhất thiết phải là ba người mới có một người đủ khả năng để làm thầy, cũng không nhất định phải trong khi “đi” mới có thể tìm được người thầy. Mỗi một người ở xung quanh mình đều có thể là thầy, những sự việc xảy ra trong lịch sử, những nhân vật từng xuất hiện trong lịch sử cũng đều có thể là thầy của chúng ta. Những nụ cười sau khi thành công, nỗi buồn sau khi thất bại của họ, chúng ta có thể đồng cảm mà không nhất thiết phải đích thân trải nghiệm. Vì vậy, chúng ta hãy dừng lại một lát giữa bộn bề trăm công nghìn việc, tĩnh tâm lại, xem người khác đã làm như thế nào. Đó là một cách nghỉ ngơi, cũng là một cách học tập khác với bình thường. Thật là việc tốt cả đôi đường, cớ gì lại không làm. Trong cuốn sách này, chúng tôi sẽ giới thiệu với bạn về quy tắc trí tuệ nhân sinh của Baltasar Gracián. Gracián là một vị giáo sĩ Hội thánh Chúa Giê-su Tây Ban Nha, sống ở thế kỷ XVII. Ông là người có tri thức uyên bác, đồng thời có trí tuệ và kinh nghiệm nhân sinh vô cùng phong phú. Là một tín đồ và sứ giả của thượng đế, ông vô cùng phẫn nộ trước những tội ác đối với nhân loại, tuy nhiên, Gracián lại là một người có ý thức thực tế vô cùng mãnh liệt, chứ không đơn thuần là một hình tượng giáo sĩ mô phạm cứng nhắc. Ông không có những giáo lí sáo rỗng về nhân nghĩa đạo đức. Ở đây, ông không chỉ nói với bạn về những điều cao thượng mà còn cho bạn biết về những phép xử thế vô cùng thực tế, giúp bạn hiểu được rằng, bạn sẽ phải cần đến những phương pháp khôn khéo nào để bảo toàn, mở rộng và thực hiện giá trị của chính mình trong cuộc sống hiện thực tàn khốc này. Có thể nói, quy tắc trí tuệ mà ông đưa ra có ý nghĩa hiện thực vô cùng sâu sắc và độ tin cậy cần thiết, cũng như khả năng vận dụng lớn. Nhiều nhân vật ưu tú vĩ đại của lịch sử đều bái phục quy tắc trí tuệ của Gracián. Triết học gia người Đức Schopenhauer dịch cuốn The Art of Worldly Wisdom ( Nghệ thuật của trí tuệ) của Gracián sang tiếng Đức, đệ tử của Schopenhauer - triết học gia kiệt xuất Netzsche cũng ca ngợi rằng: “Trí tuệ và kinh nghiệm nhân sinh của Gracián vẫn tuyệt vời cho đến tận ngày hôm nay, và không gì có thể sánh bằng.” Chúng tôi biên soạn cuốn sách đặc biệt này với hi vọng độc giả có thể cùng chúng tôi chia sẻ trí tuệ của Gracián. Đây là nơi tập trung những tinh hoa trí tuệ của Gracián, là nơi chúng ta nhìn thấy lời khuyên của một bậc triết nhân. Đồng thời, để giúp độc giả có thể lĩnh hội dễ dàng hơn những bí mật và tinh túy ẩn chứa trong nó, chúng tôi còn đặc biệt lựa chọn các ví dụ từ cổ chí kim, phối hợp để làm rõ nội hàm tinh thần trí tuệ của Gracián. Có thể nói, châm ngôn và các ví dụ sẽ làm sáng rõ lẫn cho nhau, chiếu rọi cho nhau, giúp cho bạn có thể hiểu chính xác rõ ràng hơn về đạo lí được ẩn tàng trong đó, góp phần dẫn dắt cuộc sống của bạn, giúp bạn chèo lái con thuyền cuộc đời đi đến bến bờ thành công trong đại dương mênh mông. Chúng tôi tin rằng, chỉ cần bạn tĩnh tâm lại, bớt một chút thời gian để ghi nhớ và học tập những lời khuyên, chắc chắn bạn sẽ đạt được những thành quả chưa từng có. *** Phần 1: NHỮNG NGƯỜI THÀNH CÔNG ĐỐI XỬ VỚI BẢN THÂN NHƯ THẾ NÀO? 16 cách nghĩ có 1% khác với bạn Người đồng hành tốt nhất trong cuộc đời không phải ai khác, mà chính là bạn. Nhận thức rõ những điểm mạnh yếu của bản thân, sẽ khiến tôi và bạn trở thành một ngôi sao đặc biệt nhất trong biển người bao la. 1. Để bản thân đồng thời có tính cách của cả loài rắn độc lẫn bồ câu trắng Bạn cần có đồng thời hai loại tính cách này: một nửa là rắn độc, một nửa là bồ câu trắng. Những người quá hiền lành sẽ luôn bị lường gạt, còn những người chưa bao giờ nói dối thì luôn bị bịp bởi những lời lừa dối. Nói như vậy không có nghĩa là bạn đã bị gắn một cái mác là dễ bị lừa, đôi khi bị người khác lừa lại là một việc tốt. Nhưng lòng dạ đừng quá tốt để đến nỗi tạo cơ hội cho người xấu thực hiện dã tâm của họ, đó là nguyên tắc cơ bản! Một nửa là rắn độc, một nửa là bồ câu trắng, bạn không phải là ma quỷ, mà là thiên tài. ------Baltasar Gracián Lịch sử nước Mỹ có “Chủ nghĩa Monroe” nổi tiếng, người tạo ra nó kì thực không chỉ có tổng thống Monroe mà còn có một nhân vật khác ít được biết đến: Ngoại trưởng Mỹ đương thời - John Quincy Amsterdam. Nếu như tiếp tục tìm hiểu kĩ hơn thì có thể thấy rằng, điều này đã ảnh hưởng đến cả chính sách trong lịch sử Mỹ dưới thời các tổng thống của các nhiệm kì trước đây, dẫn đến sự phát triển tính cách của cả dân tộc Mỹ. Tính cách này có thể dùng câu “một nửa là rắn độc, một nửa là bồ câu trắng” để miêu tả và khái quát. Nước Mỹ sau khi thoát khỏi sự thống trị của người Anh, liền bắt đầu mở rộng lãnh thổ và thế lực của mình. Những người đứng đầu nước Mỹ ngay từ đầu đã tràn đầy tham vọng. Họ hiểu rằng, để đưa Mỹ trở thành một quốc gia hùng mạnh, trước hết cần có đủ sức mạnh. Vì vậy, sau khi lập quốc không lâu, Mỹ từ một nước thực dân trước đây đã biến thành “mãnh thú”, luôn ráng sức so bì cao thấp với các nước khác, nhằm mục tiêu trước mắt là: nỗ lực trở thành bá chủ châu Mỹ. Một mặt, chính phủ Mỹ lập tức thiết lập “giá đỡ”, trở thành cứu tinh cho châu Mỹ. Họ lên tiếng nói rằng, các cường quốc khi đó như Tây Ban Nha, Pháp, Anh không nên can thiệp vào việc riêng của nước Mỹ và cả châu Mỹ; đồng thời, họ lại vung cây gậy lớn nhằm vào các nước nhỏ lân cận như Mexico để thị uy, khiến họ phải nằm dưới sự bảo hộ của mình. Đây là chính sách “Cây gậy và củ cà rốt” đã được tổng thống Roosevelt kế thừa sau này, và cũng chính là “một nửa là rắn độc, một nửa là bồ câu trắng” mà Gracián đã nói. Khi đó, các cường quốc như Anh và Tây Ban Nha đang dần xuống dốc, nhưng điều này không có nghĩa là họ chấp nhận bỏ đi lợi ích của mình. Chính phủ Anh liền giở trò phái đại biểu yêu cầu Mỹ - Anh kết đồng minh, cùng nhau đối phó với Tây Ban Nha. Tổng thống Monroe trước khi đưa ra quyết sách, đã hỏi ý kiến của tổng thống nhiệm kì III Jefferson và tổng thống nhiệm kì IV Madison, tất cả đều đồng ý với ý kiến kết đồng minh với Anh. Tuy nhiên, Ngoại trưởng - ngài Amsterdam lại không đồng ý làm như vậy. Ông cho rằng, Mỹ đương nhiên không thể hoàn toàn cự tuyệt hợp tác với Anh, bởi mất đi sự ủng hộ của một nước lớn như nước Anh là một sự thiệt thòi lớn. Hơn nữa, nước Anh dù sao cũng là mẫu quốc của Mỹ, dù cho có bị nước Anh lừa gạt đi nữa, thì về lâu dài mà nói cũng không nên tính toán làm gì. Việc giữ gìn mối quan hệ tốt đẹp với nước Anh, đối với Mỹ là điều quan trọng, mang tính căn bản. Nhưng đồng thời, Amsterdam cũng phản đối mạnh mẽ việc liên minh. Ông cho rằng, nếu Mỹ và Anh liên minh thì sẽ tạo ra cho nước Anh một cái cớ và cơ hội can thiệp vào việc của nước Mỹ và châu Mỹ. Vì vậy ông kiến nghị: Về đối ngoại, Mỹ cần tuyên bố với Anh giữ gìn bảo vệ mục tiêu chung, chính là vì hòa bình của châu Mỹ; về đối nội, cần đưa cả châu Mỹ vào trong phạm vi thế lực của mình. Hai nguyên tắc kết hợp lại, sẽ hình thành nên một chính sách và khẩu hiệu rõ ràng, đó là: 15 “Sự vụ của châu Mỹ do người châu Mỹ tự giải quyết, nguyên tắc này không thể xâm phạm được”. Văn kiện do Amsterdam khởi thảo, được tổng thống Monroe trình bày với quốc hội Mỹ vào ngày 2 tháng 12 năm 1823, nguyên tắc bao hàm trong đó được gọi là “chủ nghĩa Monroe”. “Chủ nghĩa Monroe” đã đem lại cho châu Mỹ lợi ích trực tiếp, về mặt lí luận, các quốc gia châu Mỹ đều có thể giải phóng mình từ thân phận thuộc địa, có quyền độc lập tự chủ. Xét từ góc độ này, nước Mỹ đã mang lại những ảnh hưởng tích cực cho các nước khác trong châu Mỹ, từ đây họ có thể tự tin như nước Mỹ, tuyên cáo mình là quốc gia độc lập, không phải chịu sự khống chế của những nước như Anh hay Tây Ban Nha nữa. Mỹ vừa không hoàn toàn đắc tội với nước Anh, lại vừa phản đối một cách hiệu quả trước chính sách của người Anh, thêm vào đó lại được cả châu Mỹ tôn sùng, trở thành hình tượng “bồ câu trắng” của châu Mỹ. Đương nhiên Mỹ không chỉ đơn thuần là con bồ câu trắng hiền lành, nó còn là một con rắn độc. Để mở rộng phạm vi lãnh thổ và thế lực của mình, trong hàng trăm năm sau khi lập quốc, Mỹ chưa bao giờ dừng việc khống chế các nước châu Mỹ, thậm chí là uy hiếp bằng quân sự. Vào năm 1821, sau khi Mexico chính thức trở thành một quốc gia độc lập, Texas vốn dĩ thuộc về Mexico, nhưng di dân Mỹ đã đuổi quân đội của Mexico, tuyên bố muốn thành lập “Nước cộng hòa Texas” độc lập. Tuy nhiên, đây chẳng qua chỉ là cái cớ, bởi ngay sau đó, người Mỹ liền đưa ra chính sách sát nhập Texas. Đến năm 1847, Mỹ lấy lí do tranh chấp biên giới, trực tiếp xuất binh, dùng vũ lực, chiếm một phần lãnh thổ của Mexico, ép buộc Mexico phải kí điều ước, chính thức đồng ý cắt Texas nhượng cho Mỹ. Từ đó về sau, lãnh thổ mà Mỹ nuốt chửng bao gồm California, bang Nevada, Utal, tổng diện tích của những bang này còn lớn hơn cả lãnh thổ của Pháp và Đức cộng lại, giúp lãnh thổ nước Mỹ tăng thêm cả một vùng đất rộng hơn chín mươi hai vạn dặm Anh. Có thể thấy, rõ ràng nước Mỹ là quốc gia đồng thời mang cả hai loại tính cách của bồ câu và rắn độc. Chính một tính cách dân tộc như vậy đã làm cho nước Mỹ trong những năm tháng sau này nhanh chóng bước tới trung tâm của vũ đài lịch sử thế giới. Nói theo sự đánh giá của Gracián: một nửa là rắn độc, một nửa là bồ câu trắng, đó không phải là ma quỷ, mà là thiên tài.   Mời các bạn đón đọc Người Thành Công Có 1% Cách Nghĩ Khác Bạn của tác giả Chu Châu Bân.
Giao Tiếp Không Chỉ Bằng Ngôn Từ
Đàm phán là một phần cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Đó là điều chúng ta thực hiện mỗi ngày. Nhưng bạn có thường nghĩ kỹ trước khi đàm phán một vấn đề gì đó không? Điều gì là yếu tố quan trọng nhất để tạo nên một cuộc đàm phán thành công? Nếu bạn muốn cách làm thế nào để đàm phán giỏi hơn trong cuộc hội thoại tiếp theo, trong hội nghị sắp tới hay trong một cuộc tương lai với nhà cung cấp hoặc khách hàng hãy cho phép bản thân có được vài giờ nhàn rỗi, yên tĩnh để đọc cuốn sách này. Sau khi đọc cuốn sách Giao Tiếp Không Chỉ Bằng Ngôn Từ: Bạn sẽ hiểu nguyên tắc và bản chất căn bản của đàm phán hợp tác lẫn đàm phán cạnh tranh, cũng như sự khác biệt giữa chúng. Bạn sẽ tự phản ánh – và cải thiện – hành vi đàm phán của cá nhân mình. Bạn có thể đối phó với các đối tác khó nhằn cũng như sự vụ bất công một cách chuyện nghiệp. Đó là tất cả những gì bạn nhận được từ cuốn sách này. Hãy tận hưởng khoảng thời gian đọc sách này và điều này sẽ đưa bạn đến một thời khắc sáng chói. Mời các bạn đón đọc Giao Tiếp Không Chỉ Bằng Ngôn Từ của tác giả Jutta Portner & Quỳnh Mai (dịch).
Sống Đời Giản Dị
Người bệnh bị sốt nóng giầy vò, cổ khô, họng cháy, mơ thấy trong giấc ngủ một dòng suối mát rượi và y ngụp xuống để tắm rửa thỏa thuê, hay một làn nước trong veo mà y cúi xuống để uống cho thỏa thích. Trong cuộc đời hoạt động nhiêu khê của thời đại văn minh này, tâm hồn mệt mỏi của chúng ta cũng ao ước một cái gì giản dị. Có nhiều người nghĩ rằng: “sống cuộc đời giản dị, vậy là lại quay về thời trước, sống như các cụ ta, ăn lông ở lỗ chăng?” Người ta không thể kéo những nền văn minh quay trở về nguyên thủy, cũng như người ta không thể bắt những dòng sông trở về nguồn. Sự giản dị của cuộc đời không phải chỉ bằng cứ vào yếu tố kinh tế này hay điều kiện xã hội kia. Sự giản dị của cuộc đời chính là một ý chí làm hoạt động và thay đổi những cuộc sống khác nhau để tìm ra một lẽ sống cao cả hơn bây giờ. Đi tìm một cuộc sống giản dị, tức là tìm cách làm tròn cái sứ mệnh cao cả nhất của đời người. Loài người vẫn tiếp tục cố vươn lên một cuộc sống nhân đạo hơn, bác ái hơn và tươi sáng hơn, há chẳng là họ đồng thời vươn lên tìm một đời sống giản dị hơn? Sự giản dị cổ xưa, trong phạm vi nghệ thuật, tư tưởng và phong tục, sở dĩ còn giữ được một giá trị tuyệt đối đến bây giờ, chính là vì nó đã làm nổi bật được nhiều tình cảm thiết yếu, nhiều chân lý bất di bất dịch. Chúng ta phải thiết tha trìu mến sự giản dị đó và hình hương, gìn giữ. Song le, cuộc sống đời giản dị không phải chỉ là sống giản dị bề ngoài. Những người chỉ sống giản dị bề ngoài mà không trau dồi lấy một tinh thần giản dị bên trong, là những người mới đi được một trong một trăm phần con đường giản dị. Thực vậy, chúng ta không sống giản dị về hình thức như ông cha ta được nhưng chúng ta rất có thể sống giản dị về tinh thần như các cụ. Bây giờ, chúng ta đi trên những con đường mới, nhưng mục đích của nhân loại xưa và nay há vẫn chẳng có một đó ư? Đi bộ hay đi máy bay rút lại cũng chỉ đi tìm chân lý. Ngày xưa, chưa có xe thì đi bộ; bây giờ phương tiện chuyên chở có nhiều, chúng ta muốn đi xe lửa, tàu thủy hay máy bay tùy ý. Đi tìm chân lý với những phương tiện mà chúng ta sẵn có, đó là điều quan hệ nhất, xưa cũng như nay. Chính bởi vì chúng ta không biết như thế và hành động không đúng như thế mà thành ra chúng ta làm cho cuộc sống rối tung và nhiêu khê vô cùng.   *** Chúng tôi trình bày cuốn sách này ra quốc âm để các bạn cùng với chúng tôi đi tìm một lẽ sống mới: Sống Giản dị. Quan niệm sống giản dị này, một ngày kia, cần phải được xâm nhập vào giáo dục và phong tục của ta. Năm 1901, một tiểu thư Mỹ quốc đã đem trình chính cái triết lý sống giản dị này với công chúng thành New York. Cựu tổng thống Roosevelt tìm đọc và thích thú vô cùng. Trong hai buổi nói chuyện lịch sử, ông thiết tha khuyên người Mỹ nên sống giản dị. Hơn thế, ông lại còn mời tác giả nền triết lý Sống đời giản dị là Charles Wagner sang Mỹ để trình bày về quan điểm “sống giản dị”. Bước lên diễn đàn, cựu tổng thống Roosevelt đã giới thiệu tác giả pho triết lý “sống giản dị” như sau: “Đây là lần thứ nhất, mà cũng là lần độc nhất trong đời làm tổng thống của tôi, tôi giới thiệu một diễn giả với công chúng. Tôi lại càng vui sướng hơn vì đã được làm việc giới thiệu hôm nay, bởi vì, nếu có một cuốn sách mà tôi mong được thấy toàn thể quốc dân ta đọc như một truyền đơn, một truyền đơn bổ ích, thì chính là cuốn sách “sống đời giản dị” này của ông Charles Wagner. Theo ý riêng tôi, trong khoảng những năm gần đây, chưa có một cuốn sách nào ở nước ta cũng như ở ngoại quốc, lại chứa đựng nhiều điều ích lợi mà chúng ta, con dân nước Mỹ, đều phải học lấy làm lòng, như cuốn sách “Sống đời giản dị” này.   *** Trình bày cuốn sách này với bạn đọc thân yêu, chúng tôi thiết tha mong sẽ có nhiều người đọc và cái thuyết “giản dị hóa đời sống” sẽ được áp dụng trong cái thời đại nhiêu khê, náo động này. Do đó, chúng ta sẽ lưu tâm đến một vấn đề quan trọng nhất trong tất cả các vấn đề: Sống và tổ chức cuộc sống của chúng ta. Chúng tôi mong bạn đọc trong khi suy nghĩ về vấn đề tối quan trọng đó sẽ cùng nhận thấy và hiểu biết rằng hạnh phúc, sức mạnh và vui tươi của kiếp sống con người, một phần lớn, bắt nguồn từ tinh thần giản dị. Hiện nay, nhiều sự phiền toái vô ích đã ngăn cách chúng ta với lý tưởng bác ái, công lý và chân lý – mà chính cái lý tưởng đó lại sưởi ấm lòng chúng ta, đem lại cho ta ý chí muốn sống ở đời. Những sự phiền toái, vô ích đó, tiếng là để che chở cho ta và hạnh phúc của ta, nhưng thực tình thì đã ngăn cản mất cả ánh sáng của ta. “Sống đời giản dị” tức là phá bỏ những sự phiền toái, vô ích đó để tìm ánh sáng, để tìm chân lý, để tìm lẽ sống chân chính vậy. NHÀ XUẤT BẢN Mời các bạn đón đọc Sống Đời Giản Dị của tác giả Charles Wagner.
Lời Mời Không Thể Cưỡng Lại
Người ta có thể trình bày một trường hợp gượng ép rằng tiếp thị đang phá hoại hành tinh này. Qua thời gian, các nhà tiếp thị đã nhận ra rằng cách dễ dàng nhất để bán gì đó là lôi cuốn các nhu cầu cơ bản nhất của chúng ta và khai thác các điểm yếu vốn có trong tâm lý chúng ta. Ví dụ, thay vì dẫn khách hàng triển vọng qua một quyết định mua hợp lý và giúp họ mua gì đó mà sẽ giúp họ thật sự, ta lại lừa họ vào suy nghĩ rằng các Widget của ta sẽ cho họ hạnh phúc và cách quyến rũ vô hạn người khác phái. Đây là một trong nhiều mẹo với tay áo nhà tiếp thị được dùng khi gạt người tiêu dùng bình thường để ra quyết định mua phi lý. Người Mỹ bình thường ngập ngụa trong nợ nần vì mua ngớ ngẩn (và đôi khi tác hại rành rành) nhưng thứ mà họ chẳng cần. Quá trình này không chỉ đẩy người tiêu dùng bình thường vào nợ nần mà còn giảm đi các giá trị của họ. Khi hàng ngày bạn bị dội bằng nhiều thông điệp mà thể hiện một thế giới đầy rẫy sự ích kỷ, nông cạn và tham lam là các lý tưởng cuối cùng, thật khó bắt đầu tin nổi thế giới đó cũng là của riêng bạn. Sách này trình bày một phương án tiếp thị thay cho trước đây. Tôi tin rằng một doanh nghiệp có thể lãi vô cùng và vẫn hoạt động với mức độ nhất quán cao. Tôi viết sách này không chỉ nhằm tiết kiệm tâm trí của cộng đồng tiếp thị mà còn giúp doanh nghiệp tránh suy thoái. Tôi dự đoán rằng khi tỉ lệ nợ tăng và người tiêu dùng tự giáo dục tốt hơn qua truy cập thông tin chưa từng có vào Internet, sự khoan dung các phương pháp tiếp thị của quá khứ sẽ ngừng đáng kể. Một người tiêu dùng giận dữ và có hiểu biết là một kẻ thù nguy hiểm cho nhà tiếp thị. Ngay sau đó, các doanh nghiệp sẽ tranh giành với các lựa chọn. Sách này trình bày không chỉ một phương án, mà là phương án. Phương pháp tiếp thị này đã được thời gian chứng minh và nó lại chẳng bao giờ có tên cả. Dùng phương pháp này, bạn có thể đi đến nhất trí theo nghĩa đen trong đầu khách hàng triển vọng của bạn trong vòng ba giây đầu tiên từ khi tiếp xúc với tiếp thị của bạn. Tôi đã đặt tên phương pháp này là Lời mời không thể cưỡng lại và các trang sau mổ xẻ nó để bạn có thể áp dụng ngay nó vào doanh nghiệp của bạn với tác dụng mãnh liệt. Sách này là hướng dẫn cốt yếu của bạn trên thương trường trong thế kỷ hai mươi mốt. Bỏ qua các bài học này thật tiếc rẻ cho bạn. Các cá nhân và người bán hàng cũng có thể hưởng lợi lớn từ những trang này. Trong phụ lục “Tự bán mình trong vòng ba giây”, tôi giải thích bạn có thể áp dụng công nghệ này ra sao với mỗi khía cạnh cuộc sống của bạn. Rồi tôi chứng tỏ với người bán hàng họ có thể dùng thông tin này như thế nào để bán trong phạm vi đạo đức và vẫn thúc đẩy doanh số của họ vượt xa mức họ đang có hiện nay. Trước tiên, với các nhà tiếp thị trực tiếp trường phái cũ mà đã phù hộ tôi bằng sự khôn ngoan: Ted Nicholas, mà đã luôn truyền cảm hứng cho tôi bằng tính nhất quán, kiến thức và tinh thần của mình. Gary Bencivenga, mà tôi chỉ mới tiếp xúc gần đây nhưng đã thổi làn gió mới vào tâm hồn tôi. Gary Halbert, một người thông minh hàng đầu thế giới mà tôi nhiều lần ăn chung và chia sẻ bí mật trong những tiệm cà phê ở South Beach. Kế tiếp, với nhóm nhà tiếp thị lợi hại hay lảng vảng trên Internet: Matt Gill và Kevin Wilke, những người bạn và anh em tốt. Joe Vitale, mà tôi muốn mời vào hố cá nhân để đánh trận, bất cứ ngày nào trong tuần và hai lần vào chủ nhật- anh là người bạn chân tình. Mike Merz, anh chàng có thể dễ thương nhất mà tôi chưa từng gặp mặt. Paul Myers, mà thật ra có lẽ là phần tỉnh táo cuối cùng đang nắm giữ thế giới điên rồ này cùng nhau- cảm ơn anh vì những tranh đấu không mệt mỏi cho chân lý. Chayden Bates, mà đang ẩn náu, nhưng đang âm mưu thầm lặng thâu tóm thế giới và có lẽ rất thành công. Tom Antion, Tom Wood, Mike Filsaime, Russell Brunson, Josh Anderson, Shawn Casey, brett Rademacher, Kimberly Gordon, Craig Perrine, Rob Fighter, Michel Fortin, Jim Fleck, Ankesh Kothari, Nick Temple, Frank Mullen và Corey Rodl có lẽ yên nghỉ trong an bình. Tiếp đến là vài người bạn khác trong kinh doanh… Otto von Schulze, chủ tịch Trường Am nhạc Mỹ, cám ơn vì tình bạn và vì quan điểm chung về tương lai. Mary Mazullo, cám ơn vì lòng nhân hậu vô bờ bến và vì một ví dụ soi sáng. Những người thân tốt tại Waymaker – tầm nhìn quý báu của các bạn có lẽ sớm trở thành thực tế. Richard Webster mà đã tự chứng minh là một người bạn lớn và một người bảo vệ tích cực tất cả các nhà tự quảng bá lớn tiếng khắp nơi. Hội tác giả New Zealand, những người tôi hy vọng sẽ có ngày trở thành những tác giả có tác phẩm bán chạy nhất. Tới cô giáo khiêu vũ Claudia, cô đã biến tôi thành người tốt hơn. *** Nhiều người nghĩ rằng tiếp thị đang phá hoại hành tinh này bởi vì cách các nhà tiếp thị dễ dàng nhất bán hàng bằng cách lôi cuốn các nhu cầu cơ bản nhất và khai thác các điểm yếu vốn có trong tâm lý khách hàng. Ví dụ, thay vì hướng dẫn khách hàng triển vọng đưa ra một quyết định mua hợp lý và giúp họ mua gì đó thật sự hữu dụng cho họ, người tiếp thị lại lừa họ vào suy nghĩ rằng món hàng đó sẽ giúp họ hạnh phúc. Đây là một trong nhiều mẹo mà nhà tiếp thị dùng để gạt người tiêu dùng bình thường đưa ra những quyết định mua phi lý. Nhiều người ngập ngụa trong nợ nần vì mua ngớ ngẩn những thứ mà họ chẳng cần. Quá trình này không chỉ đẩy người tiêu dùng bình thường vào nợ nần mà còn giảm đi niềm tin vào thương hiệu của họ. Với lượng thông tin phong phú trên internet ngày nay, Mark Joyner dự đoán rằng khi khách hàng biết cách tự tìm hiểu phản ứng của những người đã tiêu dùng sản phẩm trước đây nhiều hơn, sự khoan dung dành cho các phương pháp tiếp thị trong quá khứ sẽ giảm đáng kể. Một người tiêu dùng giận dữ và có hiểu biết sẽ là một kẻ thù nguy hiểm thật sự cho nhà tiếp thị. Chính vì thế, các doanh nghiệp sẽ cạnh tranh với nhau bằng cách nghĩ ra những phương pháp tiếp thị mới. Do đó, cuốn sách Lời mời không thể cưỡng lại không chỉ trình bày một phương án chủ đạo, mà đưa ra rất nhiều phương án thay thế. Những phương pháp tiếp thị này đã được chứng minh là có hiệu quả trong thực tế. Áp dụng những phương pháp trong sách, người tiếp thị sẽ có thể thu hút khách hàng triển vọng trong vòng ba giây đầu tiên từ khi họ tiếp xúc sản phẩm. Vì vậy, cuốn sách này là hướng dẫn cốt yếu không thể thiếu cho những người làm công việc tiếp thị trên thương trường trong thế kỷ 21. Mời các bạn đón đọc Lời Mời Không Thể Cưỡng Lại của tác giả Mark Joyner.