Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Namaskar! Xin Chào Ấn Độ

Namaskar! Xin chào Ấn Độ của Hồ Anh Thái được xuất bản lần đầu vào năm 2008, nay được NXB Trẻ tái bản lại cùng lúc với cuốn Salam! Chào Ba Tư - một sáng tác mới của tác giả, làm thành một bộ 2 cuốn về hai nền văn hóa lâu đời của thế giới.Namaska! Xin chào Ấn Độ phác họa đất nước Ấn Độ khái quát từ chiều dài lịch sử đến bề rộng, chiều sâu về văn hóa, tôn giáo,… được trình bày theo lối nghĩ khoa học, sắc bén của một nhà ngoại giao, tiến sĩ văn hóa Phương Đông qua lối viết mềm mại của nhà văn Hồ Anh Thái. Được đánh giá là một cuốn sách độc đáo có ích dành cho những ai lần đầu tiên đến Ấn Độ, hoặc muốn khám phá đất nước - văn hóa - con người Ấn Độ, vì đọc Namaska! Xin chào Ấn Độ có thể tìm thấy ngay những điều cần quan tâm: Lịch sử hay Kinh sách; Tôn giáo hay Văn hóa hay Văn chương… Những khái niệm về Ấn Độ đã được tóm lược một cách súc tích, ngắn gọn nhưng sáng rõ ở mức dễ tiếp nhận nhất, được trình bày theo quan niệm của đạo Hindu: Tư tưởng, sản phẩm văn hóa, biểu tượng ký hiệu, phong tục tập quán... Cuốn sách hấp dẫn hơn một cuốn nhập môn là bởi giọng văn Hồ Anh Thái. Anh sử dụng nhiều thể loại cho từng phần: du ký dành cho các miền văn hóa, tản văn khi viết về tính cách Ấn, khảo cứu, tiểu luận khi đề cập tôn giáo,lịch sử, phong tục tập quán. Sách còn đẹp vì còn có nhiều minh họa - là những bức tranh thần thánh Hindu theo phong cách tranh thờ dân gian hoặc tranh tượng hiện đại, và hình các biểu trưng. *** Vốn có một sự đam mê cuồng nhiệt với Ấn Độ nên chỉ cần có quyển sách nào viết về Ấn là tôi sẽ lôi về đọc thử, có lẽ đó cũng như là một sự thương nhớ Ấn, đọc để soi mình trong đó, để tìm thấy những điểm chung rồi “à, mình biết” hoặc để tìm thấy những điều mình không biết rồi bứt rứt và lên kế hoạch cho những lần đến Ấn Độ sau đó. “Namaskar!” cũng vậy. Hồ Anh Thái là một cái tên lạ lẫm nhưng đọc phần tiểu sử thấy ông đã từng có những năm tháng sống và làm việc ở Ấn Độ nên cũng háo hức mượn Yến về đọc thử. Cảm nhận đầu tiên à, sách dày, giấy nhẹ được bọc rất cẩn thận, khổ cầm vừa tay, các phần tiêu đề khá promising và tràn cảm xúc cũng như suy nghĩ của người Viết. Khởi đầu cũng không tệ. Đọc thử xem sao. Đọc hết quyển rồi đóng sách lại, ấn tượng duy nhất của mình về quyển sách là một mớ kiến thức chen lẫn với những cảm xúc của người viết, một cách lộn xộn. Để rồi đọc xong vẫn không hình dung được Ấn Độ, vẫn thấy những mơ hồ chen lấn, tựa như dòng suy nghĩ của người viết cũng lộn xộn. Theo từ điển định nghĩa “khảo luận” là dạng “nghiên cứu và bàn luận sâu một vấn đề gì, thường là dưới dạng luận, dạng một cuốn sách” Vây mà những kiến thức được trình bài trong này lại không sâu, đọc và có cảm giác như mình đang đọc một mớ kiến thức wiki được tổng hợp lại, những thứ kiến thức bề mặt, chỉ search internet là ra. Những kiến thức không có sự đối chiếu từ nhiều nguồn cũng như sự reflect thông qua những trải nghiệm của bản thân người viết (với dân bản xứ chẳng hạn) để có cái nhìn từ nhiều khía cạnh của vấn đề. Cũng phải thôi, cả một nền văn hóa mà gọi gọn trong mấy trăm trang sách là điều không thể thế nhưng quả thật cách viết một vấn đề theo những thông tin quá bề mặt như vậy thực sự làm mình thấy khó chịu. Là một người đã từng ở Ấn, đã từng đến thăm hàng loạt đền thờ, nhảy múa trong lễ hội với dân địa phương nên những điều tác giả viết về các vị thần ở Ấn thật sự khiến mình thất vọng khi nó cứ đều đều và thậm chí còn chẳng giống những câu chuyện dân gian mà mình từng được nghe các bạn Ấn kể. Thấy đất nước Ấn Độ của Hồ Anh Thái hiện ra xa lạ. Một phần mình thấy không ổn trong cuốn sách đó là sự ưu ái mà tác giả dành cho ngôi chùa Việt Nam cùng sư chủ trì của ngôi chùa ở đất Phật Ấn Độ. Nếu như trong những phần trước, Hồ Anh Thái chỉ đóng vai trò là người gom nhặt, liệt kê các thông tin thì trong những câu chuyện về ngôi chùa, Hồ Anh Thái đã đóng vai trò như một nhân vật của câu chuyện, và cuốn khảo luận trở nên giống một cuốn du ký hơn khi Hồ Anh Thái kể lại những câu chuyện của mình, những mẩu đối thoại, suy nghĩ mang tính cảm xúc hơn là suy luận, phân tích. Nhưng một lần nữa, mình không thấy Ấn Độ của mình trong những câu chuyện này, câu chuyện vậy là cứ trôi tuột. Hơn nữa, mình đọc vì Ấn Độ, để xem con người Ấn Độ, văn hóa Ấn Độ được thể hiện trong từng bữa ăn, nhịp thở, từng cử chỉ hàng ngày. Hoàn toàn không phải để đọc về văn hóa Phât giáo Việt đã được mang vào Ấn như thế nào và phát triển ra sao. Hồ Anh Thái chỉ là không cho người đọc cái quyền lựa chọn ấy. Cứ thê, câu chuyện về ngôi chùa và vị sư chủ trì kéo dài, kéo dài. Cuối cùng là nói về kết cấu cuốn sách. Mỗi phần của cuốn sách được phân ra theo tiêu đề của các chủ đề sẽ được nói đến trong cuốn sách. Chủ đề hay nhưng sắp xếp loạn, không theo một logic nào hết khiến người đọc không tạo được dòng suy nghĩ, không xâu chuỗi được sự việc. Cuốn sách cứ dài thượt mà sau này tìm lai mục phần có thông tin quan trọng chắc là điều bất khả thi lắm. Mình suggest cuốn sách này cho ai nhỉ? Cho những bạn mới biết ít về Ấn Độ hoặc đang thu thập thông tin chuẩn bị cho cuộc dạo chơi ở vùng đất này nhé. Còn với những bạn yêu Ấn, hiểu Ấn, đã từng ở Ấn thì có lẽ cuốn sách là một sự thừa thãi mà bạn chưa chắc đã nhất tiết phải đọc. Cứ giữ Ấn Độ của bạn trong tim thôi/ Review lifeandjourneys.wordpress.com *** Ấn Độ là một bảo tàng sống. Hầu như rất nhiều phong tục tập quán có từ mấy nghìn năm được lưu giữ trọn vẹn cho đến tận bây giờ. Chẳng hạn, hãy nhìn thiếu nữ đi trên đường kia. Tấm sari cô mang trên người cũng chính là tấm sari của mấy nghìn năm trước. Cái dáng đi khoan thai, có phần hơi chậm rãi, đi mà như ngày rất dài, đời rất dài, cũng chính là dáng đi mấy nghìn năm của người Ấn Độ. Bao nhiêu ý kiến của các tổ chức phụ nữ, các đoàn thể yêu cầu cải tiến trang phục cho hợp với đời sống lao động hiện đại, nhưng hầu như rất ít được hưởng ứng... Nhờ thế và nhờ nhiều điều như thế, Ấn Độ luôn luôn là một bảo tàng sống. Đấy là nhận xét của phần lớn những người nghiên cứu văn hóa phương Đông. Lớp chúng tôi ngày ấy đa số là người Âu - Mỹ, khi hỏi vì sao họ chọn Ấn Độ để nghiên cứu, mà không phải là Trung Quốc, không phải là Ai Cập? Họ đều bảo chính là vì Ấn Độ còn lưu giữ hầu như nguyên vẹn mọi thứ. Không phải lưu giữ hiện vật chết trong bảo tàng, mà lưu bằng cả một đất nước, một xã hội sống động. Những cái nôi văn minh khác đều đã bị tàn phá ít nhiều bởi thiên tai và những cuộc cách mạng, bởi những biến động lịch sử. Riêng ở việc bảo tồn sống động này, liệu ta có phải biết ơn tính bảo thủ của người Ấn? Những ngày đầu ở Ấn Độ, tôi như chìm giữa một biển sương mù. Cái nóng làm cho người ta u mê, ý nghĩ chậm chạp, cử động chậm chạp, phản ứng chậm chạp. Một buổi chiều sau giờ học, tôi ngồi một mình ở bến xe buýt, trong cái nóng chỉ chực làm cho mình mê đi, dẫu có tỉnh cũng chỉ là cái tỉnh của cơn mộng du. Chính vào lúc ấy, hình như có một bóng người đi qua trước mặt. Một cánh tay đột ngột chìa tới như định cào vào mặt tôi. Lập tức gạt phắt cánh tay ra. Cánh tay ấy lại cố gắng chìa vào mặt tôi lần nữa. Tôi lại hất ra. Choàng tỉnh từ cơn u mê, tôi thấy một ông già râu dài tóc búi như hiện về từ cổ đại, trên trán quệt mấy vệt màu đỏ màu trắng, cổ đeo tràng hạt, tay cầm cây đinh ba nhỏ bằng đồng sáng bóng, một bình nước cũng bằng đồng sáng bóng. Chính ông vừa hai lần xỉa tay vào mặt tôi và hai lần bị tôi hất tay ra. Ông từ bỏ hành động lạ lùng ấy, lặng lẽ bước đi. Ông đi một lúc rồi mà trống ngực tôi vẫn đập thình thình. Đấy là một kỷ niệm khiến tôi ngượng mãi. Về sau, nghiên cứu tìm hiểu và trải nghiệm trong đời sống Ấn Độ, tôi mới biết ông già gặp ở bến xe hôm ấy là một du sĩ. Những giáo sĩ lang thang như thế ta có thể gặp ở khắp thủ đô New Delhi, khắp Ấn Độ. Ông có thể từng là một công chức, có thể là một doanh nhân thành đạt, sau khi đã gây dựng gia đình, dựng vợ gả chồng cho con cái, tự thấy đã trọn việc đời, thì quyết định xa lánh đời trần tục, lên đường theo đuổi đời sống tinh thần. Hành động chìa tay vào mặt tôi lúc ấy, đơn giản chỉ là ông muốn quệt lên trán tôi một vệt phẩm màu, để ban phước. Một lần khác, tôi đưa một ông sếp đi thăm mấy ngôi đền Hindu và Phật giáo, nhân ông đi công tác ngang qua Ấn Độ. Chuyến tham quan vui vẻ, người hướng dẫn lẫn người đi chiêm bái đều hài lòng. Chỉ có điều, sau khi ra khỏi một ngôi đền, ông đứng trước bậc thềm, vừa xỏ lại đôi giày vừa ngập ngừng hỏi như không tin vào điều ông mới nhìn thấy: Sao đền chùa ở đây nó lại vẽ cả hình thập ngoặc phát xít? Tất nhiên tôi đã giải thích ngay cho ông về cái chữ vạn (swastika), một chữ thiêng của người Aryan, sau này thành thiêng liêng đối với nhiều tôn giáo như Hindu, đạo Phật, đạo Jain và việc vì sao nó lại bị sử dụng thành chữ thập ngoặc phát xít... Nhưng từ đó những chuyện lúng túng khi bất ngờ va phải văn hóa Ấn Độ và đời sống Ấn Độ khiến tôi nung nấu ý tưởng phải làm gì đó giúp cho những người đến sau. Việt Nam được coi là chịu ảnh hưởng của hai luồng văn hóa Trung và Ấn, ta ở trên bán đảo Trung-Ấn, nhưng thử hỏi đã có bao nhiêu phần văn hóa Ấn Độ được phổ cập? Kiến thức của người Việt về Ấn Độ có lẽ không bao giờ so sánh được với hiểu biết về Trung Hoa. Tôi đã tận dụng thời gian để góp nhặt kiến thức về Ấn Độ trong một thời kỳ dài sau đó. Sáu năm trời dọc ngang khắp các vùng miền trên tiểu lục địa Ấn Độ. Nhiều năm sau đó ở các nước khác, nhưng vẫn tiếp tục đề tài, tận dụng những phương pháp của các nước mà soi chiếu ngược trở về Ấn Độ. Tự nguyện xâm nhập vào văn hóa Ấn Độ giống như tự nguyện nhảy xuống biển, cả một đại dương văn hóa khiến cho ta càng bơi càng không thấy bờ. Tôi đã choáng váng mất mấy năm đầu trước một đất nước quá xa lạ. Khác hẳn cảm giác sau này khi tôi lần đầu đến Trung Quốc, cứ như mình trở về nhà sau một chuyến đi dài hàng trăm năm. Trước Ấn Độ ta thấy mình thật nhỏ bé. Ở đó cái gì cũng to, người to tướng, da ngăm đen và da trắng bóc pha trộn; nhà to, đền đài cung điện thành quách... cho đến cây trái đều to. Hình như người Ấn tư duy cái gì cũng lớn, cũng mang tính toàn cảnh bao quát. Lúc không trầm tư mặc tưởng ù trì thì hành động cũng hoành tráng. Còn bí ẩn thì không cần phải nói nhiều, tư tưởng Ấn Độ, tâm trạng Ấn Độ là thứ mà càng tìm hiểu lại càng không hiểu nổi. Dường như vậy. Người ta có thể đi thăm một đất nước bất kỳ trong ít ngày, trở về viết được một bài báo, bài bút ký dày dặn. Tôi thì phải sau bốn năm ở Ấn Độ mới dám viết truyện ngắn đầu tiên, tìm cách lý giải cho mình và cho độc giả về tính cách Ấn Độ. Và bây giờ, sau hai chục năm, sau khi ở Ấn Độ và qua nhiều nước Âu - Mỹ tiếp tục nghiên cứu về Ấn Độ, tôi mới tập hợp những bài viết thành một cuốn sách mang tính biên khảo. Đây là kết quả của những nghiên cứu, những chuyến đi thực địa, những điều lượm lặt từ sách vở và từ những cuộc đàm đạo với các bậc đạo sư, các vị học giả, những cuộc cùng ăn cùng ở cùng làm với người bình dân Ấn Độ. Có những điều khi nghe dân chúng nói, về đối chiếu lại thấy có sai khác, phải sử dụng đến trực giác, thực nghiệm và lý thuyết để phân định. Tuy vậy, như đã nói ở trên, Ấn Độ là như thế mà không phải như thế. Ta đã chấp nhận bơi giữa đại dương thì cũng phải chấp nhận càng bơi càng khó thấy bờ. Những điều tôi ghi lại ở đây, chỉ nhằm giúp cho ai đó muốn có chút kiến thức nhập môn về Ấn Độ. Đại dương Ấn Độ đã được đưa vào trong một cái chai nhỏ. Hay là như một nhà báo Việt Nam đi cùng tôi vào sa mạc Thar ở vùng Jaisalmer, chị đã lấy một ít cát kỷ niệm vào cái lọ nho nhỏ, cả một sa mạc nằm trong lòng tay. Những khái niệm đã được tóm lược và đơn giản hóa ở mức dễ tiếp nhận nhất. Độc giả sẽ gặp những tư tưởng, những sản phẩm văn hóa, những biểu tượng ký hiệu, những phong tục tập quán... được trình bày theo quan niệm của đạo Hindu. Từ đó, người đọc sẽ có điều kiện so sánh ảnh hưởng của chúng đối với các tôn giáo khác như đạo Phật, đạo Jain, đạo Sikh; và ảnh hưởng đối với các nền văn hóa khác, những đất nước khác trong khu vực. Cách trình bày này có thể còn để thiếu nhiều thứ. Cấu trúc của cuốn sách này cũng để mở cho việc bổ sung nhiều vấn đề trong những lần tái bản. Nói tóm lại, tôi mong muốn cuốn sách này có ích cho những ai nhập môn Ấn Độ học hoặc lần đầu tiên đến Ấn Độ. Họ sẽ không lặp lại kỷ niệm vụng về của tôi hai mươi năm trước. Khi một bàn tay thiện chí chìa về phía ta, ta không lo sợ mà gạt phắt nó ra.   Mời các bạn đón đọc Namaskar! Xin Chào Ấn Độ của tác giả Hồ Anh Thái.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lý Lịch Sự Vụ
“Lý lịch sự vụ” được viết từ năm 1822, từ chủ trương của Vua Minh Mạng, cho các quan từng giữ trọng trách trong triều, viết lý lịch sự vụ nạp tại Sử quán để làm tài liệu viết sử. Sách gồm 2 bản, khổ 34 x 28cm, có 148 tờ tức 296 trang. Mỗi trang 12 dòng, mỗi dòng đủ có từ 32 đến 39 chữ, phạm vi ghi chép từ năm 1780 đến 1822. Một bản đã nộp vào Sử quán ngày 22 tháng 6 năm Nhâm Ngọ (1822), một bản lưu chiếu tại nhà riêng. Theo nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh, cách viết của tài liệu này là lối viết biên niên theo trình tự năm tháng ngày. Nội dung bao gồm đủ mọi việc liên quan đến công vụ của Nguyễn Đức Xuyên trong suốt 43 năm. Tính chất quan trọng của bản hồi ký này thể hiện trên nhiều mặt, trong đó nổi bật là việc bảo lưu những văn bản chính thức thời Nguyễn vương còn đóng ở Gia Định, và cả những văn bản triều Gia Long. Tài liệu này cũng bảo lưu những văn thư trao đổi, giao thương giữa các Tổng trấn thành Lữ Tống (Luzon, Philippines), Ma Đa Đạt (Madras, Ấn Độ), Ma Cao, Đông phương Tổng trấn nước Anh, thư của vua Louis nước Pháp với nhà chức trách Việt Nam cũng như phúc tư của Việt Nam. Phần chiếm đa số trong tài liệu là mô tả quá trình chiến đấu của Nguyễn vương, từ năm 1780 cho đến khi chiếm Thăng Long, với những trận chiến cụ thể trên các vùng đất theo cách gọi dân dã ở các địa bàn Nam Bộ, Phú Yên, Diên Khánh, Quy Nhơn, Nam Ngãi… Nguyễn Đức Xuyên sinh năm 1759 là hậu duệ đời thứ XV của dòng họ Nguyễn, khai canh làng Dương Nỗ (xã Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế). Năm 1780, ông theo tòng quân với Nguyễn Ánh, được làm đội viên đội cấm binh bảo vệ Chúa. 2 năm sau do có chiến công cùng toàn đội cấm binh truy kích quân Tây Sơn ở đồng Long Mạt nên được thăng làm nội đội Đội trưởng tòng quân tước Xuyên Đức hầu. *** Nguyễn Đức Xuyên (1759-1824) là hậu duệ đời thứ XV của dòng họ Nguyễn, khai canh làng Dương Nỗ, xã Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế; tổ tiên vốn thừa hưởng được linh khí của núi sông, truyền thống của gia tộc và thời vận của đất nước, đã có nhiều võ công lừng lẫy dưới thời Lê Trung hưng.  Năm 1822, do chủ trương của vua Minh Mạng, cho các quan từng giữ trọng trách trong triều viết lý lịch sự vụ nạp tại Sử quán để làm tài liệu viết sử, Nguyễn Đức Xuyên đã viết bản hồi ký này, gọi tên là Lý lịch sự vụ… Cách viết của tài liệu này là lối viết biên niên theo trình tự năm tháng ngày. Nội dung bao gồm đủ mọi việc liên quan đến công vụ của Nguyễn Đức Xuyên trong suốt 43 năm.  Tính chất quan trọng của bản hồi ký này thể hiện trên nhiều mặt:  Thứ nhất: Trong số các bản Lý lịch sự vụ của các trọng thần thực hiện theo lệnh của vua Minh Mạng, đến nay, chúng ta chỉ mới phát hiện được bản của Nguyễn Đức Xuyên.  Thứ hai: Việc bảo lưu những văn bản chính thức thời Nguyễn vương còn đóng ở Gia Định, và cả những văn bản triều Gia Long. Đó là những tờ truyền, tờ phó của bộ tham mưu Nguyễn Ánh, những chiếu, hịch, văn thệ sư, điều lệnh quân đội của Nguyễn Ánh, đều được viết hầu hết với lối văn Nôm có pha thành ngữ chữ Hán, vào cuối thế kỷ XVIII… Trong sách có chép lại những mật tấu của các cận thần như Nguyễn Đức Xuyên, Lê Văn Duyệt, những mật chỉ, mật chiếu của Nguyễn Ánh. Điều đó có ích cho việc tiếp cận với sự thực lịch sử khi nghiên cứu về Gia Long và vương triều Nguyễn.  Thứ ba: Phần chiếm đa số trong tài liệu là mô tả quá trình chiến đấu của Nguyễn vương, từ năm 1780 cho đến khi chiếm Thăng Long, với những trận chiến cụ thể trên các vùng đất theo cách gọi dân dã ở các địa bàn Nam Bộ, Phú Yên, Diên Khánh, Quy Nhơn, Nam Ngã  Tài liệu này tự nó có giá trị về các phương diện văn học, địa lý, đặc biệt là lịch sử cận đại, về các lĩnh vực quân sự, nội trị, ngoại giao, ngoại thương của buổi đầu thời Nguyễn.  Mặt khác, sách còn chép lại những văn thư trao đổi, giao thương giữa các Tổng trấn thành Lữ Tống (Luzon, Philippines), Ma Đa Đạt (Madras, Ấn Độ), Ma Cao, Tổng trấn phương Đông nước Anh, vua Louis nước Pháp với nhà Nguyễn. Các văn bản này hầu hết do các viên quan người Pháp trong triều Gia Long dịch ra văn Nôm. Điều đó sẽ góp phần tìm hiểu về phương diện ngoại giao cũng như việc buôn bán với nước ngoài, trang bị quân sự và tình hình quan thuế buổi đầu triều Nguyễn.  Cuốn sách này sẽ dành cho độc giả quan tâm đến lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử Việt Nam giai đoạn nội chiến giữa Nguyễn Tây Sơn và Nguyễn Gia Miêu. Đặc biệt yêu mến tìm hiểu về lĩnh vực quân sự, nội trị, ngoại giao, ngoại thương của buổi đầu thời Nguyễn.  Ảnh bìa là một trang trong bản gốc Lý lịch sự vụ của Nguyễn Đức Xuyên.  +TRÍCH ĐOẠN HAY:  10. Trong quân không được đánh bạc, uống rượu. Như ở tại đồn mà đánh bạc thời bất luận quý tiện đều đánh 100 roi, lại thu bao nhiêu tiền mà thưởng cho người đứng ra tố cáo. Uống rượu ở đồn sở thì bị đánh 100 roi, lại truất xuống làm lính bếp. Khi lâm trận đối lũy mà đánh bạc, uống rượu thời bất phân quý tiện đều xử theo quân pháp thị chúng. Bằng như lễ ban thưởng trong quân thời cho tướng sĩ yến ẩm.  11. Gián điệp ở đất địch về, tướng hiệu cũng không được hỏi, gián điệp cũng không được nói, trừ thưa chào mà thôi. Việc không được phép nói mà kẻ ngoại nhân hay đặng, thời gián điệp thám thính đều xử theo quân pháp thị chúng, để nghiêm quân cơ. ”  Mời các bạn mượn đọc sách Lý Lịch Sự Vụ của tác giả Nguyễn Đức Xuyên & Trần Đại Vinh (dịch).
Lính Bay Tập 2
Cả hai tập hồi ký “Lính Bay”, tác giả đã tái hiện lại những trận đánh của Không quân Việt Nam, trung thực, hoàn toàn không tô hồng, không “lên gân”. Trong các trang viết là ngồn ngộn những sự kiện chân thật mà bi tráng của lực lượng không quân Việt Nam non trẻ. Trong những chiến công ấy, hoàn toàn không có cảnh “đã xuất kích là chiến thắng”; đã đánh nhau là “ta thắng, địch thua” Những trang bi tráng rất chân thật ấy khiến bạn đọc càng tin yêu hơn những người lính không quân. Người đọc cảm nhận và quý trọng những chi tiết được coi như “góc khuất” ít được đề cập đến. Lính bay, trong mắt bao người là những “người hùng”, có những “đặc quyền” riêng. Song, trong hồi ký của của Tướng Thái, phi công lái Mic cũng là những người lính như bao người lính trong các quân, binh chủng khác. Họ không phải là “lính cậu” được cưng chiều, vi phạm khuyết điểm là bị “cắt bay”. Trong thời gian bị “cắt bay”, ngoài việc phải kiểm điểm, rút kinh nghiệm, họ vẫn phải lao động, với những công việc nói chẳng ai tin như: đi hốt phân bò, lấy phân bắc để tăng gia sản xuất… Bản thân ông cũng đã từng trải qua những công việc như thế. Tướng Thái đã khắc họa chân thật điều kiện sống, chiến đấu của những người lính không quân nói riêng, của quân đội Việt Nam nói chung, trong những giai đoạn khó khăn của đất nước. *** Chuyện thật như cuộc đời 16 tuổi, chàng thanh niên Phạm Phú Thái được tuyển vào không quân. Gia nhập binh chủng hiện đại bậc nhất của quân đội ta khi mới học hết lớp 8, chỉ sau vài năm học lái cấp tốc Mig21 ở Liên Xô để về quần nhau với những phi công lão luyện của không quân Mỹ, tác giả không nén nổi niềm tự hào của người đã chiến đấu và chiến thắng. Có thể nói, cảm hứng tự hào chính là một âm hưởng thứ hai của bộ sách. Tự hào được tiếp nối thế hệ đàn anh, trước mình chỉ vài ba năm đã trở thành những huyền thoại của không quân Việt Nam, những Nguyễn Văn Bảy, Phạm Ngọc Lan, Trần Hanh… Tự hào được sự chỉ huy của các thủ trưởng đáng kính, và cả đáng yêu nữa, như Trần Mạnh, Chu Duy Kính, Nguyễn Nhật Chiêu… Tự hào được chiến đấu bên cạnh những người đồng đội dày dạn kinh nghiệm và bề dày thành tích, như Nguyễn Văn Cốc, Phạm Thanh Ngân, Nguyễn Hồng Nhị… Tất cả đã làm nên một hào khí xuyên suốt cả ngàn trang sách. Nó mạnh đến mức mặc dù tác giả sớm bị bắn hạ, bị chấn thương, mặc dù ông đã phải tận mắt chứng kiến máy bay ta bị trúng đạn, đồng đội mình bị hy sinh, mặc dù ông cũng như nhiều đồng đội khác đều nghĩ rồi sẽ đến lượt mình, song không bao giờ các ông lo sợ, không bao giờ các ông lưỡng lự dù chỉ một giây trước khi lao vào chiến đấu với quân thù… Và điều tất yếu đã đến, tác giả bắn rơi chiếc máy bay Mỹ đầu tiên như một lẽ đương nhiên, một sự khởi đầu cho những chiến công khác nữa! Tuy nhiên, nếu chỉ dừng ở đó thì bộ sách của tác giả Phạm Phú Thái có lẽ đã không gây được tiếng vang lớn. Ngay khi mới ra tập 1 hồi ký đã được dư luận trong và ngoài quân binh chủng quan tâm tìm đọc. Chỉ sau một thời gian ngắn đã được nối bản, cùng với đó là sự mong chờ của đồng đội, bạn bè, người thân và bạn đọc nói chung đối với tập 2 mà tác giả đã hứa sẽ cố gắng cho ra. Điều làm nên thành công và sức hấp dẫn của bộ sách, trước hết là ở tính chân thực của tác phẩm. Bản thân tác giả cũng rất ý thức được điều đó, khi nhiều chuyện ông viết ra là những sự thực, có thể là trần trụi. Đọc Lính bay, ta mới biết rằng có khi cả một trung đoàn không quân của ta “chỉ còn một chiếc máy bay tốt” (ngày 23-2-1968). Ta mới vỡ ra rằng, không quân ta trong những năm tháng ấy luôn bị thiếu hụt, nếu không muốn nói là khủng hoảng, cả về máy bay và phi công... Cũng vậy, ta mới hiểu phi công của ta nhiều khi phải chiến đấu trong điều kiện khó khăn như thế nào, lâm vào những tình huống éo le ra sao. Chẳng hạn ở Mặt trận Khu 4, có trận máy bay ta bị hỏng tăng lực, có trận máy bay bị trục trặc ở hệ thống vũ khí, không bắn được quả tên lửa bên trái khi đã hai lần đưa được máy bay địch vào tầm ngắm! Đặc biệt, ta còn biết về những phi vụ đặc biệt của không quân Việt Nam khi sẵn sàng bay sang tận đất Lào để tiêu diệt quân Vàng Pao, hay xuất kích cảm tử để ngăn chặn máy bay B-52 của Mỹ trên bầu trời Hà Nội. Qua đó, người đọc có thể hiểu được những cái giá phải trả cho chiến thắng để càng thấy sự lớn lao của chiến thắng! Khó có thể kể hết những khó khăn, vất vả, thử thách mà một phi công chiến đấu như tác giả đã trải qua những năm tháng đó. Chỉ riêng việc trực chiến trên sân bay giữa mùa hè Khu 4 đã đủ một cực hình, khi mà bầu không khí như nung như nấu, sờ vào máy bay như phải bỏng, mà người phi công phải mặc sẵn bộ đồ bay kín mít để chờ có lệnh là cất cánh! Khi lên chiến đấu thì cũng lại cả một sự chênh lệch về tương quan lực lượng. Thường thì chỉ một đội hình hai chiếc hay hai cặp hai chiếc (cũng có khi ba nhưng đó là một thử nghiệm sau xét ra là không phù hợp). Thế nhưng các phi công ta luôn phải chiến đấu với đội hình máy bay đông đảo của địch, được trang bị vũ khí hơn hẳn và phương tiện chỉ huy tối tân, bài bản. Và chính ở đây đã cho thấy không chỉ sự dũng cảm mà cả tài trí của phi công Việt Nam, những người biết tìm cách lấy yếu đánh mạnh, lấy ít địch nhiều, để đạt được mục tiêu chiến thuật. Trước hết là để ngăn chặn sự đánh phá của địch, ngăn chặn âm mưu địch dùng B-52 vào đánh ban ngày… Và sau nữa là bắn rơi máy bay Mỹ, điều khát khao của tất cả các mọi “lính bay”. Nhưng chắc chắn đó là điều không dễ, và người đọc có thể thấy được sự tôn trọng của tác giả khi viết về các đối thủ của mình- họ thực sự là những phi công thiện chiến, đã có hàng trăm, thậm chí cả nghìn giờ bay. Trong khi phi công ta vào năm tăng cường công tác huấn luyện mới đặt mức phấn đấu bay 60 giờ/năm!... Nếu như tính chân thực của tác phẩm khiến cho người đọc yên tâm khi đọc Lính bay, sự say sưa của tác giả khi kể lại quá trình được đào tạo thành phi công và các trận không chiến khiến cho cuốn sách đậm chất “chuyên môn”, thì những trang tự sự của ông về cuộc đời mình, từ tuổi thiếu niên đến khi tham gia quân ngũ, với những chuyện vui buồn của người lính và cả những xốn xang khi bắt gặp một ánh mắt “hút hồn” của người rồi sẽ là vợ mình, đã khiến cho cuốn sách của tác giả Phạm Phú Thái có nhiều tố chất của một tác phẩm văn học đích thực. Hay nói như một đồng đội đàn anh của ông, Trung tướng Anh hùng phi công Nguyễn Văn Cốc, đó là “những trang viết rất chân thực nhưng cuốn hút như tiểu thuyết!”. *** Phạm Phú Thái sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước. Cha anh là cụ Phạm Thuần, tham gia Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội năm 1927, Đảng viên năm 1930. Cụ từng là Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Phú Thọ. Cụ đã từng bị Thực dân Pháp bắt giam và bị tù đày ở nhiều nhà lao lớn như Hoả Lò, Sơn La, Côn Đảo từ những năm đầu của cuộc cách mạng. Về nước năm 1968, anh được làm phi công tiêm kích số 2 cho Đại đội trưởng Phạm Thanh Ngân, bay số1, (là AHLLVT, sau này là Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị  QĐNDVN); còn vị trí số 3 trong phi đội chính là Đặng Ngọc Ngự (sau này cũng là AHLLVT). Cuộc đời sự nghiệp của ông, nhiều người cứ ngỡ rằng chàng phi công đẹp trai, tài cao như Phạm Phú Thái sẽ tiến như diều do có "bệ phóng" của một gia đình truyền thống cách mạng từ những năm 1930. Nào ngờ về nước gần một năm, dù được bay ở vị trí phi công tiêm kích nhưng anh vẫn chỉ đeo lon binh nhất, rất khác mọi người bởi chí ít, lúc đó anh cũng đã có 3 tuổi quân kể từ ngày vào quân đội. Và có lẽ vì anh ra trường quá sớm so với bạn đồng khoá nên thủ tục thăng hàm lại cũng chưa làm luôn cho anh? Sau vài trận không kích, anh đã bị tên lửa  địch bắn trúng và buộc anh phải nhảy dù.  Vị Huyện đội trưởng Thanh Chương ở Nghệ An khi làm biên bản đã hỏi tên, tuổi, cấp bậc, đơn vị... của anh sau khi anh nhảy dù xuống địa phận này, họ đã sững người vì thấy anh mở mắt ngồi dậy rồi báo cáo: "Tôi, Phạm Phú Thái, binh nhất, phi công tiêm kích!". Họ lại cứ tưởng anh giấu, không muốn  lộ bí mật nên cứ "năn nỉ" thuyết phục anh trình báo thật về cấp bậc của mình để còn báo cáo về Hà Nội khiến anh bực mình và cũng không biết nói sao. Thế rồi anh Huyện đội trưởng nọ vẫn không tin, phải ghé tại hỏi thầm "Vậy là anh nói thật đấy à ?". Và, sau khi một lần nữa khẳng định phi công Phạm Phú Thái đã nói đúng sự thực thì anh ta thốt lên: "Lạ thật, cầm cả cái tàu bay đắt tiền là thế, sao lại chỉ binh nhất được cơ chứ? Không thể tin được!". Cuối cùng thì viên Huyện đội trưởng cũng gật gù đỡ anh nằm xuống giường rồi nói: "Nếu đúng là như vậy thì Không quân Nhân dân Việt Nam anh hùng quá !"... Sau trận đánh khiến anh bị thương và buộc phải nhảy dù. Khi nằm Viện Quân y 108, anh đã khẩn thiết "van vỉ "đề nghị bác sĩ đừng làm thủ tục thương binh cho anh để anh còn có cơ hội được trở về đơn vị tham gia chiến đấu ... Thật là thú vị với những trang viết chân thật nhưng lại đầy chất văn học từ một vị tướng đánh trận, rất đáng đọc! Mời các bạn mượn đọc sách Lính Bay Tập 2 của tác giả Phạm Phú Thái.
Lính Bay Tập 1
Cả hai tập hồi ký “Lính Bay”, tác giả đã tái hiện lại những trận đánh của Không quân Việt Nam, trung thực, hoàn toàn không tô hồng, không “lên gân”. Trong các trang viết là ngồn ngộn những sự kiện chân thật mà bi tráng của lực lượng không quân Việt Nam non trẻ. Trong những chiến công ấy, hoàn toàn không có cảnh “đã xuất kích là chiến thắng”; đã đánh nhau là “ta thắng, địch thua” Những trang bi tráng rất chân thật ấy khiến bạn đọc càng tin yêu hơn những người lính không quân. Người đọc cảm nhận và quý trọng những chi tiết được coi như “góc khuất” ít được đề cập đến. Lính bay, trong mắt bao người là những “người hùng”, có những “đặc quyền” riêng. Song, trong hồi ký của của Tướng Thái, phi công lái Mic cũng là những người lính như bao người lính trong các quân, binh chủng khác. Họ không phải là “lính cậu” được cưng chiều, vi phạm khuyết điểm là bị “cắt bay”. Trong thời gian bị “cắt bay”, ngoài việc phải kiểm điểm, rút kinh nghiệm, họ vẫn phải lao động, với những công việc nói chẳng ai tin như: đi hốt phân bò, lấy phân bắc để tăng gia sản xuất… Bản thân ông cũng đã từng trải qua những công việc như thế. Tướng Thái đã khắc họa chân thật điều kiện sống, chiến đấu của những người lính không quân nói riêng, của quân đội Việt Nam nói chung, trong những giai đoạn khó khăn của đất nước. *** Chuyện thật như cuộc đời 16 tuổi, chàng thanh niên Phạm Phú Thái được tuyển vào không quân. Gia nhập binh chủng hiện đại bậc nhất của quân đội ta khi mới học hết lớp 8, chỉ sau vài năm học lái cấp tốc Mig21 ở Liên Xô để về quần nhau với những phi công lão luyện của không quân Mỹ, tác giả không nén nổi niềm tự hào của người đã chiến đấu và chiến thắng. Có thể nói, cảm hứng tự hào chính là một âm hưởng thứ hai của bộ sách. Tự hào được tiếp nối thế hệ đàn anh, trước mình chỉ vài ba năm đã trở thành những huyền thoại của không quân Việt Nam, những Nguyễn Văn Bảy, Phạm Ngọc Lan, Trần Hanh… Tự hào được sự chỉ huy của các thủ trưởng đáng kính, và cả đáng yêu nữa, như Trần Mạnh, Chu Duy Kính, Nguyễn Nhật Chiêu… Tự hào được chiến đấu bên cạnh những người đồng đội dày dạn kinh nghiệm và bề dày thành tích, như Nguyễn Văn Cốc, Phạm Thanh Ngân, Nguyễn Hồng Nhị… Tất cả đã làm nên một hào khí xuyên suốt cả ngàn trang sách. Nó mạnh đến mức mặc dù tác giả sớm bị bắn hạ, bị chấn thương, mặc dù ông đã phải tận mắt chứng kiến máy bay ta bị trúng đạn, đồng đội mình bị hy sinh, mặc dù ông cũng như nhiều đồng đội khác đều nghĩ rồi sẽ đến lượt mình, song không bao giờ các ông lo sợ, không bao giờ các ông lưỡng lự dù chỉ một giây trước khi lao vào chiến đấu với quân thù… Và điều tất yếu đã đến, tác giả bắn rơi chiếc máy bay Mỹ đầu tiên như một lẽ đương nhiên, một sự khởi đầu cho những chiến công khác nữa! Tuy nhiên, nếu chỉ dừng ở đó thì bộ sách của tác giả Phạm Phú Thái có lẽ đã không gây được tiếng vang lớn. Ngay khi mới ra tập 1 hồi ký đã được dư luận trong và ngoài quân binh chủng quan tâm tìm đọc. Chỉ sau một thời gian ngắn đã được nối bản, cùng với đó là sự mong chờ của đồng đội, bạn bè, người thân và bạn đọc nói chung đối với tập 2 mà tác giả đã hứa sẽ cố gắng cho ra. Điều làm nên thành công và sức hấp dẫn của bộ sách, trước hết là ở tính chân thực của tác phẩm. Bản thân tác giả cũng rất ý thức được điều đó, khi nhiều chuyện ông viết ra là những sự thực, có thể là trần trụi. Đọc Lính bay, ta mới biết rằng có khi cả một trung đoàn không quân của ta “chỉ còn một chiếc máy bay tốt” (ngày 23-2-1968). Ta mới vỡ ra rằng, không quân ta trong những năm tháng ấy luôn bị thiếu hụt, nếu không muốn nói là khủng hoảng, cả về máy bay và phi công... Cũng vậy, ta mới hiểu phi công của ta nhiều khi phải chiến đấu trong điều kiện khó khăn như thế nào, lâm vào những tình huống éo le ra sao. Chẳng hạn ở Mặt trận Khu 4, có trận máy bay ta bị hỏng tăng lực, có trận máy bay bị trục trặc ở hệ thống vũ khí, không bắn được quả tên lửa bên trái khi đã hai lần đưa được máy bay địch vào tầm ngắm! Đặc biệt, ta còn biết về những phi vụ đặc biệt của không quân Việt Nam khi sẵn sàng bay sang tận đất Lào để tiêu diệt quân Vàng Pao, hay xuất kích cảm tử để ngăn chặn máy bay B-52 của Mỹ trên bầu trời Hà Nội. Qua đó, người đọc có thể hiểu được những cái giá phải trả cho chiến thắng để càng thấy sự lớn lao của chiến thắng! Khó có thể kể hết những khó khăn, vất vả, thử thách mà một phi công chiến đấu như tác giả đã trải qua những năm tháng đó. Chỉ riêng việc trực chiến trên sân bay giữa mùa hè Khu 4 đã đủ một cực hình, khi mà bầu không khí như nung như nấu, sờ vào máy bay như phải bỏng, mà người phi công phải mặc sẵn bộ đồ bay kín mít để chờ có lệnh là cất cánh! Khi lên chiến đấu thì cũng lại cả một sự chênh lệch về tương quan lực lượng. Thường thì chỉ một đội hình hai chiếc hay hai cặp hai chiếc (cũng có khi ba nhưng đó là một thử nghiệm sau xét ra là không phù hợp). Thế nhưng các phi công ta luôn phải chiến đấu với đội hình máy bay đông đảo của địch, được trang bị vũ khí hơn hẳn và phương tiện chỉ huy tối tân, bài bản. Và chính ở đây đã cho thấy không chỉ sự dũng cảm mà cả tài trí của phi công Việt Nam, những người biết tìm cách lấy yếu đánh mạnh, lấy ít địch nhiều, để đạt được mục tiêu chiến thuật. Trước hết là để ngăn chặn sự đánh phá của địch, ngăn chặn âm mưu địch dùng B-52 vào đánh ban ngày… Và sau nữa là bắn rơi máy bay Mỹ, điều khát khao của tất cả các mọi “lính bay”. Nhưng chắc chắn đó là điều không dễ, và người đọc có thể thấy được sự tôn trọng của tác giả khi viết về các đối thủ của mình- họ thực sự là những phi công thiện chiến, đã có hàng trăm, thậm chí cả nghìn giờ bay. Trong khi phi công ta vào năm tăng cường công tác huấn luyện mới đặt mức phấn đấu bay 60 giờ/năm!... Nếu như tính chân thực của tác phẩm khiến cho người đọc yên tâm khi đọc Lính bay, sự say sưa của tác giả khi kể lại quá trình được đào tạo thành phi công và các trận không chiến khiến cho cuốn sách đậm chất “chuyên môn”, thì những trang tự sự của ông về cuộc đời mình, từ tuổi thiếu niên đến khi tham gia quân ngũ, với những chuyện vui buồn của người lính và cả những xốn xang khi bắt gặp một ánh mắt “hút hồn” của người rồi sẽ là vợ mình, đã khiến cho cuốn sách của tác giả Phạm Phú Thái có nhiều tố chất của một tác phẩm văn học đích thực. Hay nói như một đồng đội đàn anh của ông, Trung tướng Anh hùng phi công Nguyễn Văn Cốc, đó là “những trang viết rất chân thực nhưng cuốn hút như tiểu thuyết!”. *** Phạm Phú Thái sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước. Cha anh là cụ Phạm Thuần, tham gia Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội năm 1927, Đảng viên năm 1930. Cụ từng là Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Phú Thọ. Cụ đã từng bị Thực dân Pháp bắt giam và bị tù đày ở nhiều nhà lao lớn như Hoả Lò, Sơn La, Côn Đảo từ những năm đầu của cuộc cách mạng. Về nước năm 1968, anh được làm phi công tiêm kích số 2 cho Đại đội trưởng Phạm Thanh Ngân, bay số1, (là AHLLVT, sau này là Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị  QĐNDVN); còn vị trí số 3 trong phi đội chính là Đặng Ngọc Ngự (sau này cũng là AHLLVT). Cuộc đời sự nghiệp của ông, nhiều người cứ ngỡ rằng chàng phi công đẹp trai, tài cao như Phạm Phú Thái sẽ tiến như diều do có "bệ phóng" của một gia đình truyền thống cách mạng từ những năm 1930. Nào ngờ về nước gần một năm, dù được bay ở vị trí phi công tiêm kích nhưng anh vẫn chỉ đeo lon binh nhất, rất khác mọi người bởi chí ít, lúc đó anh cũng đã có 3 tuổi quân kể từ ngày vào quân đội. Và có lẽ vì anh ra trường quá sớm so với bạn đồng khoá nên thủ tục thăng hàm lại cũng chưa làm luôn cho anh? Sau vài trận không kích, anh đã bị tên lửa  địch bắn trúng và buộc anh phải nhảy dù.  Vị Huyện đội trưởng Thanh Chương ở Nghệ An khi làm biên bản đã hỏi tên, tuổi, cấp bậc, đơn vị... của anh sau khi anh nhảy dù xuống địa phận này, họ đã sững người vì thấy anh mở mắt ngồi dậy rồi báo cáo: "Tôi, Phạm Phú Thái, binh nhất, phi công tiêm kích!". Họ lại cứ tưởng anh giấu, không muốn  lộ bí mật nên cứ "năn nỉ" thuyết phục anh trình báo thật về cấp bậc của mình để còn báo cáo về Hà Nội khiến anh bực mình và cũng không biết nói sao. Thế rồi anh Huyện đội trưởng nọ vẫn không tin, phải ghé tại hỏi thầm "Vậy là anh nói thật đấy à ?". Và, sau khi một lần nữa khẳng định phi công Phạm Phú Thái đã nói đúng sự thực thì anh ta thốt lên: "Lạ thật, cầm cả cái tàu bay đắt tiền là thế, sao lại chỉ binh nhất được cơ chứ? Không thể tin được!". Cuối cùng thì viên Huyện đội trưởng cũng gật gù đỡ anh nằm xuống giường rồi nói: "Nếu đúng là như vậy thì Không quân Nhân dân Việt Nam anh hùng quá !"... Sau trận đánh khiến anh bị thương và buộc phải nhảy dù. Khi nằm Viện Quân y 108, anh đã khẩn thiết "van vỉ "đề nghị bác sĩ đừng làm thủ tục thương binh cho anh để anh còn có cơ hội được trở về đơn vị tham gia chiến đấu ... Thật là thú vị với những trang viết chân thật nhưng lại đầy chất văn học từ một vị tướng đánh trận, rất đáng đọc! Mời các bạn mượn đọc sách Lính Bay Tập 1 của tác giả Phạm Phú Thái.
Đời Yakuza
Vén bức màn bí ẩn thế giới ngầm Nhật Bản Cờ bạc, buôn lậu, đâm chém… nếu bị đánh bại, hoặc chết hoặc nằm viện, nếu thắng, phải đi tù. Một thế giới khắc nghiệt, không ngừng chống đối luật pháp, đó chính là yakuza. Nhưng, tương trợ lẫn nhau, chỉ một lần được giúp đỡ vẫn sẵn sàng đem cả sinh mạng ra đền đáp… đó cũng là yakuza. Cuốn sách là tập hợp các mảnh hồi ức của một trùm yakuza về thế giới ngầm Nhật Bản. Hiển nhiên đó không phải một cuộc đời “ngay thẳng” theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, mà là một cuộc đời chìm nổi, một cuộc đời đã chứng kiến tất cả: trong quân ngũ, chốn tù tội và những tháng năm u tối của một đất nước bại trận. Những câu chuyện có thực này là một phần của lịch sử Nhật Bản, dù không bao giờ được chính thức ghi nhận, chi tiết và thẳng thắn, không né tránh, không khoe mẽ, không nói quá... Nhận định: “Sống động và chuẩn xác.” -  Los Angeles Times “Cuốn sách kể mọi điều về thế giới ngầm, từ hệ thống thứ bậc trong các băng đảng, mối quan hệ phức tạp giữa giới giang hồ và nhà cầm quyền, cách thức tổ chức bài bạc, đời quân nhân và cuộc sống trong tù.” - Far Eastern Economic Review “Cuốn sách phác họa về một Nhật Bản trái ngược với hình ảnh giàu có thường thấy, mà là Nhật Bản những năm đầu thế kỷ 20, một đất nước đã phải vùng vẫy trong tăm tối với động đất, chiến tranh, cướp bóc và mất mát.” - www.goodreads.com *** Đời Yakuza viết về cuộc đời đầy thăng trầm của ông trùm yakuza Eiji Ijichi. Khi về già, nằm trên giường bệnh, ông đã đem tất cả kể lại với bác sĩ Saga Junichi - tác giả cuốn sách. Thế giới của Yakuza không xấu xa, đen tối như những định kiến mà xã hội áp đặt. Họ cũng là những con người rất bình thường bị thời thế tước đoạt. Bản ngã tốt đẹp cuốn trôi để dành lấy miếng cơm manh áo. Nhưng ấn sau những khuôn mặt lạnh lùng đầy sát khí là một tinh thần trượng nghĩa, hào hiệp, trọng chữ tín, thậm chí là rất đức độ, lương thiện đến lạ lùng. Số phận ban phát cho mỗi con người một hành trình với những khoảnh khắc của sự cay đắng, ngọt bùi đan xen. Eiji cũng không ngoại lệ. Anh chàng được trao rất nhiều cơ hội để chứng tỏ bản thân. Những lần vào tù ra khảm như đi chợ không hề khiến chàng trai nản lòng, từ đó Eiji nhận được sự tín nhiệm và kính trọng rất lớn của ông trùm và các bậc đàn anh.Bỏ nhà ra đi khi mới 15 tuổi, Eiji Ijichi đã rất vất vả để thay đổi số phận.Từ một thằng nhóc chỉ quanh quẩn bên mỏ thổ phỉ, Eiji đã chứng minh được vì sao mình sinh ra để trở thành Yakuza. Trong mắt chúng ta, yakuza tức là xã hội đen, cờ bạc, buôn lậu, ma túy, gái điếm, tàn bạo, cá lớn nuốt cá bé… Nhưng, Họ có một đời sống rất khác, trọng nghĩa khí như cổ trang kiếm hiệp. Các băng đảng sẵn sàng tương trợ lẫn nhau, chỉ một lần được giúp đỡ là nguyện đem cả sinh mạng ra đền đáp… đó cũng là yakuza. Đó là hệ thống thứ bậc trong các băng đảng, mối quan hệ phức tạp giữa giới giang hồ và nhà cầm quyền và cả “lý tưởng” của giang hồ Nhật Bản. Yakuza thời điểm đó khác rất xa đám du thủ du thực bây giờ. Những ông trùm sống bằng tiền kiếm được từ các sòng bạc. Họ có một tư duy kinh doanh linh hoạt và cực kì nhạy bén. Các nhà cái sẽ không ai dồn đến mức chân tường đói khát, nếu ai đó quá túng quẫn, họ sẵn sàng biếu không con bạc khát nước một chút tiền để đổi lấy tiếng thơm, đem về tín nhiệm cho cơ sở mình quản lý. Yakuza cũng hạn chế bạo lực, những vụ thanh toán hay trả thù chỉ nổ ra trong trường hợp bất khả kháng, đương nhiên khi đó cớm sẽ vào cuộc. Những kẻ như Eiji Ijichi sẽ đứng ra làm anh hùng “thí tốt”, chấp nhận “công tác” vài năm khổ cực để anh em tiện đường làm ăn yên ổn. Chìa khóa thành đạt của Eiji không phải là bạo lực hay mưu mẹo mà chính là nghĩa khí. Khi chưa là yakuza anh từng không đồng tình với hành động lấy tiền của xác chết sau thảm họa động đất, mặc dù khi đó cậu cũng rất đói và trắng tay. Để tồn tại ở thế giới nhiễu nhương và vô cùng tàn khốc này, Eiji không phản bội niềm tin của bản thân, sống và cư xử thân thiện, chân thành, lịch thiệp, hòa nhã. Bối cảnh Nhật Bản khi ấy vừa thua đau đớn sau thế chiến thứ hai. Bạo loạn diễn ra liên miên, chính trị đảo điên loạn lạc ảnh hưởng không nhỏ đến sòng bạc của Eiji quản lý nhưng anh chàng vẫn sống tốt, trở thành một ông vua bên lề xã hội. Những cảm xúc vô cùng chân thật tái hiện lại đằng sau một đất nước phải vùng vẫy thoát khỏi bóng ma chiến tranh, bị ràng buộc bởi đủ thứ trách nhiệm và danh dự. Yakuza đại diện phần nào cho những ẩn ức đen tối sâu thẳm đó. Tuy vậy vẫn đẹp một cách lạ lùng, độc đáo, quyến rũ đến ngây ngất bởi cách sống, cách đối nhân xử thế đáng để ngưỡng mộ. Lòng tự trọng bắt nguồn từ những bài học cay đắng, có chết đói cũng không hạ mình van xin lạy lục. Đời yakuza kể toàn những chuyện cánh mày râu, đậm đặc nam tính, đôi khi thoáng qua hình bóng của vài người phụ nữ. Dù vậy những cá nhân này đều tác động không nhỏ đến cuộc sống của Eiji sau này. Nếu không vì một lần say tình bất chấp hiểm nguy mà bỏ trốn anh cũng chẳng thể trưởng thành nổi, hoặc nếu thiếu đi người vợ đứng ra cai quản băng đảng khi Eiji về già hẳn mọi thứ sẽ càng to chuyện và phức tạp hơn. Bác sĩ Saga Junichi viết Đời yakuza theo dạng ghi chép rồi tập hợp lại. Dù thủ pháp nghệ thuật sử dụng không có nhiều nổi bật nhưng những gì mà ông kể lại là một đời sống độc đáo thú vị xoay quanh thế giới ngầm của các băng đảng Yakuza, để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc bởi cảm giác trăn trở về số phận con người, thời cuộc và một chút luyến tiếc, xót xa cho mối tình không bao giờ hoàn chỉnh. Gia Hạ - Zing.vn *** Vào mùa đông vài năm về trước, một người đàn ông lớn tuổi, dáng cao, vai rộng xuất hiện tại phòng khám của tôi ở Tsuchiura, thành phố nhỏ cách Tokyo một tiếng tàu điện. Mặt ông to bè so với người thường, trán hằn sâu những nếp nhăn sậm màu, môi dày thâm sì còn đôi mắt đục ngầu vàng vọt, một gương mặt dù chỉ thoáng gặp trong đám đông cũng khiến người ta thấy nổi bật. Tôi bảo ông cởi áo, để trần nửa thân trên. Lưng ông phủ kín hình xăm “rồng chầu mẫu đơn”, màu xăm trên da đã bợt đi theo năm tháng, móng rồng nhạt nhòa như những đám mây, còn râu rồng bạc phếch như sắp biến mất. Dù vậy, hình xăm trông vẫn rất ấn tượng và tuyệt đẹp theo cách riêng. Chính giữa đài hoa, đứng đó một phụ nữ. Con rồng như định nuốt chửng cả nàng và bông mẫu đơn. Mắt nàng khép hờ, hai tay chắp lại cầu nguyện, trên môi thoáng một nụ cười bí hiểm. Tôi chỉ ước mình được chụp lại hình xăm, nhưng đó là lần đầu tiên tôi gặp ông, chưa kể ở ông toát ra một thứ khí chất đanh thép khiến tôi phải e ngại, rốt cuộc không bao giờ tôi mở lời xin phép chụp hình. Kiểm tra phần bụng dưới của ông, tôi phát hiện gan dã phình khá to. Chắc chắn có dịch thể ứ đọng trong khoang bụng. Tôi chờ ông ngồi dậy khỏi bàn khám bệnh rồi nói: “Tôi sẽ viết đơn giới thiệu bác tới bệnh viện lớn. Ở đó bác sẽ được chữa trị tốt hơn.” Nhưng người đàn ông lại mỉm cười, đáp: “Bác sĩ ạ, tôi đã bảy mươi ba rồi. Cả đời này tôi đã làm được gần hết những việc mình muốn, tới tình trạng này tôi chẳng cầu mong khỏi bệnh nữa đâu.” Khoang miệng người đàn ông thấm đen, có lẽ vì thuốc lá, trông chẳng khác gì một cửa hang nhỏ. Giọng ông trầm và khàn. “Hồi trẻ tôi sống khá điên cuồng, chắc vì thế mà bây giờ cơ thể này chẳng còn nghe theo ý tôi nữa. Tôi quyết định chuyển giao sòng bạc cho một đàn em trẻ hơn để về chốn ngoại ô dưỡng già. Bác sĩ biết cô gái hành nghề mát-xa sống chỗ bờ đê không? Tôi đến chỗ cô ấy hai hay ba lần gì đó, mát-xa tốt lắm. Chính cô ấy đã giới thiệu tôi đến đây.” “Ra vậy.” “Bệnh của tôi có đi chữa khắp nơi cũng vậy, chẳng khá hơn được, đúng không bác sĩ?” “Đi khám ở các nơi khác, người ta đã nói với bác như thế à?” “Tôi tự biết mà. Thực tình, tôi không hy vọng nhiều lắm khi tới đây. Chỉ mong bác sĩ tiêm cho tôi vài mũi khi nào tôi lên cơn đau. Bác sĩ đừng lo, tôi không hỏi xin morphine hay những loại thuốc giảm đau tương tự đâu. Chắc là do bệnh tiểu đường, chân tôi đau khủng khiếp, gần như mọi lúc. Hy vọng bác sĩ giúp tôi, để tôi bớt đau đớn.” Vì người đàn ông từ chối các biện pháp chữa trị chuyên sâu, tôi đành nhận lời để có thể giúp ông. Thực ra, tôi cũng có lý do khác khi đồng ý với đề nghị này. Mỗi ngày, tôi gặp hàng chục bệnh nhân đến khám nhưng người đàn ông này không giống bất kỳ ai trong số họ. Ông có gì đó khiến người ta tò mò. Hơn nữa, tôi dự định rồi một ngày sẽ thuyết phục ông chia sẻ chuyện đời mình. Từ đó, ông bắt đầu đến phòng khám của tôi hai lần một tuần. May mắn là lượng dịch thể trong khoang bụng ông không tăng nhanh như tôi lo ngại, còn hai chân ông chỉ tiếp tục bị đau thêm một thời gian ngắn. Rồi, khoảng một tháng sau, ông mở lời, hỏi liệu tôi có muốn đến thăm nhà ông khi có thời gian. Ông nói: “Nhà tôi tuềnh toàng lắm, nhưng đủ để mời bác sĩ uống trà và sưởi chân. Tôi đoán bác sĩ có một cuộc sống bình lặng và chuẩn mực, nên với những chuyện hơi xa khuôn khổ thông thường một chút, có lẽ bác sĩ sẽ muốn để tâm.” Chạng vạng tối ngày hôm sau, trong màn mưa rào lạnh buốt, tôi đến nhà ông như đã hẹn. Ông bày sẵn trên bàn sưởi một đĩa hoa quả lớn đầy quýt để chờ tôi. Chốc chốc, xen giữa tiếng mưa ồn ã, còn nghe được tiếng đàn shamisen* khe khẽ vẳng tới. Buổi tối ấy, tôi ngồi lắng nghe chuyện của ông khoảng ba tiếng đồng hồ. Cứ nói được ba mươi phút, ông lại lộ vẻ mệt, chúng tôi bèn ngừng cuộc trò chuyện vài phút để uống trà. Ông lịch sự mời tôi ăn quýt, cẩn thận bóc vỏ, ăn sạch sẽ rồi mới cất giọng khàn khàn kể phần tiếp câu chuyện. Cứ như vậy, ba ngày một lần tôi đều đặn đến nhà ông, với máy ghi âm. Tới khi câu chuyện ông muốn chia sẻ kết thúc thì mùa đông cũng đã trôi qua, khắp nơi tràn ngập những làn gió xuân. Những điều xảy ra tiếp đó cũng trở thành một phần trong câu chuyện ông kể cho tôi. Giờ đây khi đặt bút viết lại, tôi chỉ ước giá như khi ấy mình hỏi ông thêm nhiều điều và chi tiết hơn nữa, nhưng ông đã đi rồi, lúc này đã là quá muộn. Mời các bạn mượn đọc sách Đời Yakuza của tác giả Saga Junichi & Thanh Hà (dịch) & Hằng Hậu Lam (dịch).