Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hành Trình Về Phương Đông (Nguyên Phong)

Lời mở đầu

Trong cuộc sống vội vã, quay cuồng hiện tại, nhiều người đã mất đi niềm tin. Họ quan niệm rằng sống để thụ hưởng, thoả mãn các nhu cầu vật chất vì chết là hết. Không có Thượng đế hay một quyền năng siêu phàm gì hết. Các đây không lâu, một tờ báo lớn tại Hoa kỳ đã tuyên bố, “Thượng đế đã chết!”

Tác giả bài báo công khai thách đố mọi người đưa ra bằng chứng rằng Thượng đế còn sống. Dĩ nhiên, bài báo đó tạo nên một cuộc bàn cãi rất sôi nổi. Một nhà thiên văn học tại trung tâm nghiên cứu Palomar cũng cho biết, “Tôi đã dùng kính viễn vọng tối tân nhất, có thể quan sát các tinh tú xa trái đất hàng triệu năm ánh sáng mà nào có thấy thiên đường hay thượng đế cư ngụ nơi nào?” Sự ngông cuồng của khoa học thực nghiệm càng ngày càng đi đến chỗ quá trớn, thách đố tất cả mọi sự. Tuy nhiên, trong lúc khoa học đang tự hào có thể chứng minh, giải thích tất cả mọi sự, thì một sự kiện xảy ra:

Một phái đoàn ngoại giao do Tiểu vương Ranjit Singh cầm đầu sang thăm viếng nước Anh. Trong buổi viếng thăm đại học Oxford, vua Ranjit đã sai một đạo sĩ biểu diễn. Vị đạo sĩ này đã làm đảo lộn quan niệm khoa học lúc bấy giờ. Không những ông ta có thể uống tất cả mọi chất hoá học, kể cả những chất cường toan cực mạnh mà không hề hấn gì, ông ta còn nhịn thở hàng giờ đồng hồ dưới đáy một hồ nước. Sau khi để một phái đoàn y sĩ do bác sĩ Sir Claude Wade khám nghiệm, ông ta còn chui vào một quan tài để bị chôn sống trong suốt 48 ngày. Khi được đào lên, ông ta vẫn sống như thường. Đạo sĩ còn biểu diễn nhiều việc lạ lùng, dưới sự kiểm chứng nghiêm khắc của các khoa học gia. Điều này gây sôi nổi dư luận lúc đó. Hội Khoa Học Hoàng Gia đã phải triệu tập một uỷ ban để điều tra những hiện tượng này. Một phái đoàn gồm nhiều khoa học gia tên tuổi được chỉ thị sang Ấn độ quan sát, sưu tầm, tường trình và giải thích những sự kiện huyền bí. Phái đoàn khoa học đã đặt ra những tiêu chuẩn rõ rệt để giúp họ quan sát với một tinh thần khoa học tuyệt đối. Không chấp nhận bất cứ một điều gì nếu không có sự giải thích rõ ràng, hợp lý. Để soạn thảo bản tường trình, mỗi khoa học gia trong phái đoàn phải tự mình ghi nhận những điều mắt thấy, tai nghe vào sổ tay cá nhân. Sau đó, tất cả cùng nhau so sánh chi tiết và kiểm chứng cẩn thận. Chỉ khi nào tất cả đều đồng ý thì điều đó mới được ghi nhận vào biên bản chính. Điều này đặt ra để bảo đảm cho sự chính xác, không thành kiến đến mức tối đa. Tất cả những điều gì xảy ra mà không có sự giải thích khoa học, hợp lý đều bị loại bỏ.

Khi ra đi, họ không mấy tin tưởng nhưng khi trở về, họ đều đổi khác. Giáo sư Spalding đã cho biết, “Phương Đông có những chân lý quan trọng đáng để cho người Tây phương nghiên cứu, học hỏi. Đã đến lúc người Tây phương phải quay về Đông phương để trở về với quê hương tinh thần.” Điều đáng tiếc là sự trở về của phái đoàn đã gặp nhiều chống đối mãnh liệt từ một dư luận quần chúng đầy thành kiến hẹp hòi. Các khoa học gia bị bắt buộc phải từ chức, không được tuyên bố thêm về những điều chứng kiến. Sau đó ít lâu, trưởng phái đoàn, giáo sư Spalding đã cho xuất bản bộ sách, “Life and teachings of Masters of the East” và nó đã gây ra một dư luận hết sức sôi nổi. Người ta vội tìm đến những người trong phái đoàn, thì được biết họ đã rời bỏ Âu châu để sống đời tu sĩ trong dãy tuyết sơn. Tuy thế, ảnh hưởng cuốn sách này đã tạo hứng khởi cho nhiều người khác trở qua Ấn độ để kiểm chứng những điều ghi nhận của phái đoàn. Thiên ký sự của Sir Walter Blake đăng trên tờ London Scientific cũng như loạt điều tra của ký giả Paul Bruton, Max Muller đã vén lên tấm màn huyền bí của Đông phương và xác nhận giá trị cuộc nghiên cứu này. Tìm mua: Hành Trình Về Phương Đông TiKi Lazada Shopee

Ấn độ là xứ có rất nhiều tôn giáo. Tôn giáo gắn liền với đời sống và trở nên một động lực rất mạnh làm chủ mọi sinh hoạt người dân xứ này. Người Ấn thường tự hào rằng văn hoá của họ là một thứ văn minh tôn giáo và dân xứ này được thừa hưởng một kho tàng minh triết thiêng liêng không đâu có. Vì thế Hội Khoa Học Hoàng Gia đã bảo trợ cho phái đoàn đến Ấn độ để nghiên cứu những hiện tượng huyền bí này.

Tuy nhiên, sau hai năm du hành khắp Ấn độ từ Bombay đến Calcutta, thăm viếng hàng trăm đền đài, tiếp xúc với hàng ngàn giáo sĩ, đạo sĩ nổi tiếng, phái đoàn vẫn không thoả mãn hay học hỏi điều gì mới lạ. Phần lớn các giáo sĩ chỉ lập đi lập lại những điều đã ghi chép trong kinh điển, thêm thắt vào đó những mê tín dị đoan, thần thánh hoá huyền thoại để đề cao văn hoá xứ họ.

Đa số tu sĩ đều khoe khoang các địa vị, chức tước họ đã đạt. Vì không có một tiêu chuẩn nào để xác định các đạo quả, ai cũng xưng là hiền triết (Rishi), sư tổ (Guru), hay đại đức (Swami), thậm chí có người xưng là thánh nhân giáng thế (Bhagwan). Ấn độ giáo (Hinduism) không có một chương trình đào tạo tu sĩ như Thiên chúa giáo, bất cứ ai cũng có thể vỗ ngực xưng danh, ai cũng là tu sĩ được nếu y cạo đầu, mặc áo tu hành, xưng danh tước, địa vị để lôi cuốn tín đồ. Ấn giáo không phải một tôn giáo thuần nhất, mà có hàng ngàn tông phái khác nhau, mỗi tông phái lại chia làm nhiều hệ phái độc lập chứ không hề có một tổ chức hàng dọc như các tôn giáo Âu châu. Các giáo sĩ mạnh ai nấy giải thích kinh điển theo sự hiểu biết của họ. Phần lớn cố tình giảng dạy những điều có lợi cho họ nhất, ngoài ra họ còn tụ họp để phong chức tước lẫn nhau hay chống đối một nhóm khác. Sự tranh luận tôn giáo là điều xảy ra rất thường, nhóm nào cũng tự nhận họ mới là chính thống, mới là đúng với giáo lý của thượng đế. Do đó, cuộc nghiên cứu tôn giáo của phái đoàn không mang lại một kết quả mong ước, nhiều lúc mọi người thấy lạc lõng, rồi rắm không biết đâu là đúng, là sai. Hội Khoa Học

Hoàng Gia chỉ thị việc nghiên cứu phải đặt căn bản trên nền tảng khoa học, hợp lý nhưng lấy tiêu chuẩn này áp dụng sẽ gặp nhiều trở ngại vì văn hoá Ấn độ và Âu châu khác hẳn nhau. Người dân xứ này chấp nhận các tông phái như một điều hiển nhiên, không ai chất vấn khả năng các giáo sĩ hay suy xét xem lời tuyên bố của họ có hợp lý hay không? Họ sùng tín một cách nhiệt thành, một cách vô cùng chịu đựng.

Thất vọng về cuộc du khảo không mang lại kết quả như ý muốn, giáo sư Spalding một mình lang thang đi dạo trong thành Benares. Giữa rừng người hỗn tạp ồn ào, một thuật sĩ cởi trần đang phùng má thổi kèn gọi rắn. Một con rắn hổ to lớn nằm trong sọt ngửng cổ lên cao, phun phì phì. Tiếng kèn lên bỗng xuống trầm, con rắn cũng lắc lư, nghiêng ngã. Đám đông xúm lại xì xầm coi bộ khâm phục lắm. Nếu họ hiểu con rắn đã bị bẻ răng, nuôi bằng bả á phiện và được luyện tập cẩn thận… Khắp xứ ấn, các trò bịp bợm này diễn ra không biết bao nhiêu lần trong ngày, nó sẽ kết thúc khi một vài tên “cò mồi” đứng trong đám đông vỗ tay, ném tiền vào rổ, và khuyến khích dân chúng ném theo… Đang mãi mê suy nghĩ, Spalding bỗng thấy một người Ấn to lớn, phong độ khác thường chăm chú nhìn ông mỉm cười. Người Ấn lễ phép cúi đầu chào bằng một thứ tiếng Anh hết sức đúng giọng, ông cũng đáp lễ lại. Câu chuyện dần dần trở nên thân mật, Spalding bèn lên tiếng hỏi người bạn mới quen nghĩ sao về những trò bịp bợm này. Người Ấn trả lời:

- Các vị minh sư đâu có cư ngụ trong đền thờ lộng lẫy, họ đâu in danh thiếp với các chức tước, địa vị to lớn, trọng vọng. Họ đâu cần phải quảng cáo các quyền năng, đạo quả hoặc in tên trong điện thoại niên giám. Một vị minh sư không nhất thiết phải có đông đệ tử, muốn tìm gặp họ phải biết phân biệt.

Các đạo sĩ mà ông đã gặp, sở dĩ nổi tiếng có đông giáo đồ vì họ biết thu tập đệ tử qua các hình thức quảng cáo, biết hứa hẹn những điều giáo đồ muốn nghe, họ chả dạy điều gì ngoài một số “từ chương” trong kinh sách. Điều này một người thông minh có thể tự đọc sách, nghiên cứu lấy. Phải chăng ông thất vọng vì các đạo sĩ ông đã gặp chưa từng có các kinh nghiệm tâm linh?”

Giáo sư Spalding ngạc nhiên:

- Tại sao ông biết rõ như thế?

Người Ấn mỉm cười:

- Các ông đã bàn cãi với nhau rằng cuối tháng này, nếu không thu thập thêm điều gì mới lạ, phái đoàn sẽ trở về Âu châu và kết luận rằng Á châu chả có điều gì đáng học hỏi. Giai thoại về các bậc hiền triết, thánh nhân chỉ là những huyền thoại để tô điểm cho vẻ huyền bí Á châu.

Giaó sư Spalding mất bình tĩnh:

- Nhưng tại sao ông lại biết những điều này? Chúng tôi vừa bàn định với nhau như thế, ngay trong phái đoàn còn có nhiều người chưa rõ kia mà?

Người Ấn nở một nụ cười bí mật và thong thả nhấn mạnh:

- Ông bạn thân mến, tư tưởng có một sức mạnh thần giao vượt khỏi thời gian và không gian. Thái độ của ông bạn là lý do mà hôm nay tôi đến đây để chuyển giao một thông điệp ngắn ngủi, chắc hẳn ông bạn rất thuộc thánh kinh, “Hãy gõ cửa, rồi cửa sẽ mở. Hãy tìm rồi sẽ gặp”. Đó là thông điệp của một vị chân sư nhờ tôi chuyển giao.”

Sự kiện người Ấn đứng giữa chợ Benares nhắc đến một câu trong Kinh thánh làm giáo sư Spalding ngây ngất như say vừa tỉnh. Toàn thân ông như rung động bởi một luồng điện cao thế.

Ông lắp bắp:

- Nhưng làm sao chúng tôi biết các ngài ở đâu mà tìm? Chúng tôi đã bỏ ra suốt hai năm trời đi gần hết các đô thi, làng mạc xứ Ấn…

Người Ấn nghiêm nghị trả lời:

- Hãy đến Rishikesh, một thị trấn bao phủ bởi dẫy Hy Mã Lạp Sơn, các ông sẽ gặp những đạo sĩ hoàn toàn khác hẳn những người đã gặp. Những đạo sĩ này chỉ sống trong các túp lều sơ sài, hoặc ngồi thiền trong các động đá. Họ ăn rất ít và chỉ cầu nguyện. Tôn giáo đối với họ cần thiết như hơi thở. Đó mới là những người dành trọn cuộc đời cho sự đi tìm chân lý. Một số người đã thắng đoạt thiên nhiên và chinh phục được các sức mạnh vô hình ẩn tàng trong trời đất… Nếu các ông muốn nghiên cứu về các quyền năng, phép tắc thần thông thì các ông sẽ không thất vọng.

Người Ấn im lặng một lúc và nhìn thẳng vào mặt giáo sư Spalding:

- Nhưng nếu các ông muốn đi xa hơn nữa, để tìm gặp các đấng chấn sư (Rishi) thì các ông còn mất nhiều thời gian nữa…

Giaó sư Spalding thắc mắc:

- Ông vừa dùng danh từ Chân sư, vậy chứ Chân sư (Rishi) và đạo sĩ (Yogi) khác nhau thế nào?

- Nếu ông tin ở thuyết tiến hoá của Darwin, thì tôi xin tóm tắt: “sự tiến hoá của linh hồn đi song đôi với thể xác. Chân sư là một người đã tiến rất xa trên mức thang tiến hoá; trong khi đạo sĩ chỉ mới bắt đầu…”

- Như thế thì các vị chân sư có thể làm các phép lạ được chứ?

Người Ấn mỉm cười khẽ lắc đầu:

- Chắc chắn như thế, nhưng phép thuật thần thông đâu phải mục đích tối hậu của con đường đạo. Nó chỉ là kết quả tự nhiên do sự tập trung tư tưởng và ý chí. Đối với các bậc chân sư, sử dụng phép thuật là điều ít khi nào các ngài phải làm. Mục đích của con đường đạo là Gỉai Thoát, là trở nên toàn thiện như những đấng cao cả mà đức Jesus là một.

Giáo sư Spalding cãi:

- Nhưng chúa Jesus đã từng làm các phép lạ.

Người Ấn bật cười trả lời:

- Ông bạn thân mến, bạn nghĩ rằng chúa Jesus làm vậy vào mục đích khoe khoang hay sao? Không bao giờ, đó chỉ là những phương tiện để cảm hoá những người dân hiền lành, chất phác và đem lại cho họ một đức tin mà thôi.

Một lần nữa, người Ấn lạ lùng này lại nói về một đấng giáo chủ mà hầu như mọi người Tây phương đều biết đến. Giáo sư Spalding suy nghĩ và hỏi:

- Thế tại sao các đấng Chân sư không xuất hiện dạy dỗ quần chúng?

Người Ấn nghiêm nghị:

- Ông nghĩ rằng các ngài sẽ tuyên bố cho người đời biết mình là ai chăng?

Nếu đức Phật hay đấng “Christ” hiện ra tuyên bố các giáo điều, liệu ông có chịu tin không? Có lẽ các ngài phải biểu diễn các phép thần thông như đi trên mặt nước hay biến ra hàng ngàn ổ bánh mì cho dân chúng thì các ông mới tin sao? Điều này chắc rồi cũng sẽ có một số đạo sĩ Hắc đạo biễu diễn để lôi cuốn tín đồ nhưng các đấng cao cả đâu có làm thế phải không ông bạn?

- Nhưng….nhưng các ngài sống ẩn dật như thế có lợi gì cho thế gian đâu?

Người Ấn mỉm cười:

- Vì không biết rõ các ngài nên thế gian không thể xét đoán các ngài một cách đứng đắn. Ai bảo rằng các ngài không giúp ích gì cho nhân loại? Nếu tôi quả quyết rằng đấng “Christ” vẫn thường xuất hiện và vẫn giúp đỡ nhân loại không ngừng thì ông có tin không? Có lẽ ông sẽ đòi hỏi một bằng chứng, một hình ảnh hoặc một cái gì có thể chứng minh được. Bạn thân mến, những tư tưởng sâu xa của các đấng cao cả không dễ gì chúng ta hiểu thấu.

Có lẽ câu trả lời giản dị nhất là các ngài phụng sự thế gian một cách âm thầm, lặng lẽ bằng cách phóng ra các tư tưởng yêu thương, bác ái, tốt lành mà sức mạnh có thể vượt thời gian và không gian. Tuy mắt ta không trông thấy nhưng hiệu lực của nó vô cùng mạnh mẽ. Khi xưa, nhân loại còn ấu trĩ nên các ngài đã xuất hiện để đặt một nền móng, căn bản, hướng dẫn loài người. Đến nay, nhân loại đã ít nhiều trưởng thành và phải tự lập, sử dụng khả năng của mình, chịu trách nhiệm về những việc họ làm.

Giáo sư Spalding suy nghĩ và hỏi:

- Lúc nãy bạn nói rằng có một vị chân sư nhờ bạn chuyển giao một thông điệp cho chúng tôi. Bạn có thể cho tôi biết địa chỉ của ngài được không?

- Bạn thân mến, tất cả đều do Nhân Duyên, đến khi nào đủ duyên bạn sẽ gặp các ngài.

Nói xong, người Ấn độ cúi đầu chào và biến mất trong đám người đông đúc, ồn ào giữa ngôi chợ thành phố BenaresDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nguyên Phong":Bên Rặng Tuyết SơnĐường Mây Qua Xứ TuyếtHoa Trôi Trên Sóng NướcMinh Triết Trong Đời SốngNgọc Sáng Trong Hoa SenHành Trình Về Phương ĐôngTrở Về Từ Cõi SángTử Thư Tây TạngMuôn Kiếp Nhân Sinh - Tập 1Dấu Chân Trên CátHoa Sen Trên TuyếtMột Làn Gió Tinh KhôiMuôn Kiếp Nhân Sinh - Tập 2Muôn Kiếp Nhân Sinh - Tập 3

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hành Trình Về Phương Đông PDF của tác giả Nguyên Phong nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Đạo Lý Thực Hành (Thông Thiên Học)
CHƯƠNG THỨ NHỨT Con người là ai? Con người xuống cõi trần làm chi? Chung quanh ta là những Luật Trời Những Luật Trời mà con người cần phải biết Tìm mua: Đạo Lý Thực Hành TiKi Lazada Shopee Làm thế nào học hỏi những luật nầy Những thể của con người hay là những dụng cụ để học hỏi cơ Trời Bảy cõi của Thái dương hệ chúng ta Bảy cõi của không gian Phận sự của bảy thể A. Những thể hư hoại B. Ba thể trường tồn Những thể của ta dùng thường ngày Tại sao gọi con người là Tiểu Thiên Địa Ba Ngôi của con người Ai gây ra tội lỗi 1.- Tánh nết của xác thịt 2.- Tánh nết cái Vía 3.- Tánh nết cái Trí Tam bành lục tặc là chi? Tại sao con người phạm tội? CHƯƠNG THỨ NHÌ Ta phải tự thức tỉnh cách nào? Tại sao phải tinh luyện ba thể: Thân, Vía, Trí? Hậu quả của một tư tưởng lành Tư tưởng biến thành sự hành động Tư tưởng trong 5 phút có thể phá hoại 5 năm công phu luyện tập. Dầu gây dựng lại cũng đã mất thời giờ, hãy giữ gìn cho lắm. Cách diệt trừ tư tưởng xấu Phải làm sao bây giờ? Kiểm soát tư tưởng Tai hại của sự mở trí mà không mở tâm Tham thiền (Méditation) Vấn đề tham thiền Những sự hữu ích của sự tham thiền Mục đích của sự tham thiền Tham thiền mỗi ngày mấy lần Cách ngồi tham thiền Phòng riêng để tham thiền Phải tham thiền luôn luôn đừng gián đoạn Đề phòng Hườn hư Đại định (Contemplation) Hai thứ đại định Trạng thái của cái Trí trống Phương pháp tinh luyện ba thể Thân, Vía, Trí I.- Tinh luyện xác thân. a) Chọn lựa thực phẩm Những món ăn tinh khiết Những món ăn nên dùng Nên tránh Vì sao chúng ta phải tinh luyện xác thân b) Có tiết độ II.- Tinh luyện cái Vía III.- Tinh luyện cái Trí Định trí Nền tảng của sự định trí Những cách định trí Đề phòng Điều cần hơn hết là phải bền chí, thiếu can đảm thì sẽ thất bại. Sự chọn lựa tư tưởng Hậu quả của một tư tưởng xấu không lúc nầy Tiếng Nói Vô Thinh Công phu hằng ngày I.- Tham thiền đặng làm chủ ba thể: Thân, Vía, Trí 1) Xác thân 2) Cái Vía 3) Cái Trí 4) Tôi là Chơn Nhơn II.- Tham thiền một tánh tốt Cách luyện tập một tánh tốt Phải kiên nhẫn, phải bền chí. Đừng sợ thất bại Thời gian tham thiền Trong những giờ làm việc Trưa đúng ngọ Chiều hay tối Tự tỉnh Chí công mài sắt chầy ngày nên kim. PHỤ TRưƠNG Những lời chứng minh về màu sắc của những hình tư tưởng CHƯƠNG THỨ BA Lập hạnh là điều tối cần 1.- Chuyện Socrate thâu Xénophon làm đệ tử NHỮNG ĐỨC TÁNH CẦN TẬP Tháng thứ nhứt Tháng thứ 7 CAN ĐẢM NHỮNG GƯƠNG CAN ĐẢM 1.- Trí, trung, dũng 2.- Bọ ngựa chống xe Tháng thứ 8 THANH KHIẾTĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đạo Lý Thực Hành PDF của tác giả Thông Thiên Học nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Chuyển Pháp Luân (Lý Hồng Chí)
Luận Ngữ Bài giảng thứ nhất 1. Chân chính đưa con người lên cao tầng2. Tầng khác nhau có Pháp của tầng khác nhau3. Chân Thiện Nhẫn là tiêu chuẩn duy nhất để nhận định người tốt xấu Tìm mua: Chuyển Pháp Luân TiKi Lazada Shopee 4. Khí công là văn hoá tiền sử5. Khí công chính là tu luyện6. Luyện công vì sao không tăng công7. Đặc điểm của Pháp Luân Đại Pháp Bài giảng thứ hai 1. Vấn đề liên quan đến thiên mục2. Công năng dao thị3. Công năng túc mệnh thông4. Không trong ngũ hành, ra ngoài tam giới5. Vấn đề hữu sở cầu Bài giảng thứ ba 1. Tôi đối xử với các học viên đều như đệ tử2. Công pháp Phật gia và Phật giáo3. Tu luyện phải chuyên nhất4. Công năng và công lực5. Phản tu và tá công6. Phụ thể7. Ngôn ngữ vũ trụ8. Sư phụ cấp gì cho học viên9. Trường năng lượng10. Các học viên Pháp Luân Đại Pháp truyền công như thế nào Bài giảng thứ tư 1. Mất và được2. Chuyển hoá nghiệp lực3. Đề cao tâm tính4. Quán đỉnh5. Huyền quan thiết vị Bài giảng thứ năm 1. Đồ hình Pháp Luân2. Kỳ Môn công pháp3. Luyện tà pháp4. Nam nữ song tu5. Tính mệnh song tu6. Pháp thân7. Khai quang8. Khoa chúc do Bài giảng thứ sáu 1. Tẩu hoả nhập ma2. Luyện công chiêu ma3. Tự tâm sinh ma4. Chủ ý thức phải mạnh5. Tâm nhất định phải chính6. Khí công võ thuật7. Tâm lý hiển thị Bài giảng thứ bảy 1. Vấn đề sát sinh2. Vấn đề ăn thịt3. Tâm tật đố4. Vấn đề trị bệnh5. Trị bệnh ở bệnh viện và trị bệnh bằng khí công Bài giảng thứ tám 1. Tịch cốc2. Trộm khí3. Thu khí4. Ai luyện công thì đắc công5. Chu thiên6. Tâm hoan hỷ7. Tu khẩu Bài giảng thứ chín 1. Khí công và thể dục2. Ý niệm3. Tâm thanh tịnh4. Căn cơ5. Ngộ6. Người đại căn khí ……… Cuốn «Chuyển Pháp Luân» không đẹp đẽ về văn chương bề mặt, thậm chí không phù hợp với ngữ pháp hiện đại. Tuy nhiên, nếu tôi dùng ngữ pháp hiện đại để chỉnh lý cuốn [sách] Đại Pháp này, thì sẽ xuất hiện một vấn đề nghiêm trọng: quy phạm kết cấu của ngôn ngữ văn chương [dẫu] trau chuốt, nhưng sẽ không có nội hàm cao hơn và sâu hơn. Bởi vì việc sử dụng từ vựng quy phạm hiện đại hoàn toàn không cách nào biểu đạt được chỉ đạo của Đại Pháp tại các tầng khác nhau ở cao hơn và biểu hiện của Pháp tại mỗi từng tầng, cũng như [không thể] dẫn đến diễn hoá [về] bản thể và công của học viên cùng các loại biến hoá về thực chất trong đề cao [tầng]. ……… Lý Hồng Chí5 tháng Giêng, 1996Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chuyển Pháp Luân PDF của tác giả Lý Hồng Chí nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Chuyển Pháp Luân (Lý Hồng Chí)
Luận Ngữ Bài giảng thứ nhất 1. Chân chính đưa con người lên cao tầng2. Tầng khác nhau có Pháp của tầng khác nhau3. Chân Thiện Nhẫn là tiêu chuẩn duy nhất để nhận định người tốt xấu Tìm mua: Chuyển Pháp Luân TiKi Lazada Shopee 4. Khí công là văn hoá tiền sử5. Khí công chính là tu luyện6. Luyện công vì sao không tăng công7. Đặc điểm của Pháp Luân Đại Pháp Bài giảng thứ hai 1. Vấn đề liên quan đến thiên mục2. Công năng dao thị3. Công năng túc mệnh thông4. Không trong ngũ hành, ra ngoài tam giới5. Vấn đề hữu sở cầu Bài giảng thứ ba 1. Tôi đối xử với các học viên đều như đệ tử2. Công pháp Phật gia và Phật giáo3. Tu luyện phải chuyên nhất4. Công năng và công lực5. Phản tu và tá công6. Phụ thể7. Ngôn ngữ vũ trụ8. Sư phụ cấp gì cho học viên9. Trường năng lượng10. Các học viên Pháp Luân Đại Pháp truyền công như thế nào Bài giảng thứ tư 1. Mất và được2. Chuyển hoá nghiệp lực3. Đề cao tâm tính4. Quán đỉnh5. Huyền quan thiết vị Bài giảng thứ năm 1. Đồ hình Pháp Luân2. Kỳ Môn công pháp3. Luyện tà pháp4. Nam nữ song tu5. Tính mệnh song tu6. Pháp thân7. Khai quang8. Khoa chúc do Bài giảng thứ sáu 1. Tẩu hoả nhập ma2. Luyện công chiêu ma3. Tự tâm sinh ma4. Chủ ý thức phải mạnh5. Tâm nhất định phải chính6. Khí công võ thuật7. Tâm lý hiển thị Bài giảng thứ bảy 1. Vấn đề sát sinh2. Vấn đề ăn thịt3. Tâm tật đố4. Vấn đề trị bệnh5. Trị bệnh ở bệnh viện và trị bệnh bằng khí công Bài giảng thứ tám 1. Tịch cốc2. Trộm khí3. Thu khí4. Ai luyện công thì đắc công5. Chu thiên6. Tâm hoan hỷ7. Tu khẩu Bài giảng thứ chín 1. Khí công và thể dục2. Ý niệm3. Tâm thanh tịnh4. Căn cơ5. Ngộ6. Người đại căn khí ……… Cuốn «Chuyển Pháp Luân» không đẹp đẽ về văn chương bề mặt, thậm chí không phù hợp với ngữ pháp hiện đại. Tuy nhiên, nếu tôi dùng ngữ pháp hiện đại để chỉnh lý cuốn [sách] Đại Pháp này, thì sẽ xuất hiện một vấn đề nghiêm trọng: quy phạm kết cấu của ngôn ngữ văn chương [dẫu] trau chuốt, nhưng sẽ không có nội hàm cao hơn và sâu hơn. Bởi vì việc sử dụng từ vựng quy phạm hiện đại hoàn toàn không cách nào biểu đạt được chỉ đạo của Đại Pháp tại các tầng khác nhau ở cao hơn và biểu hiện của Pháp tại mỗi từng tầng, cũng như [không thể] dẫn đến diễn hoá [về] bản thể và công của học viên cùng các loại biến hoá về thực chất trong đề cao [tầng]. ……… Lý Hồng Chí5 tháng Giêng, 1996Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chuyển Pháp Luân PDF của tác giả Lý Hồng Chí nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Chân Phật Pháp Trung Pháp (Đang Cập Nhật)
Có một hôm, khi thiền định, nghe trong không trung có tiếng nói: “Chúng sanh mê muội, con đường tu pháp lắm nẻo đi, khổ luân chưa giải, sao không giáo hóa” Ta hỏi: “Phải giáo hóa như thế nào?” “Sao không thuật lại chi tiết vô thượng khẩu quyết” “Là nói bí mật tất cả các Chư gia ủy thác, sao không cố hết lòng truyền thụ?” Tìm mua: Chân Phật Pháp Trung Pháp TiKi Lazada Shopee “Chính thị chư Phật thương lấy chúng sanh, tâm phát từ bi, khinh nang khẩu thụ.”, “Đã được như thế thì không còn là điều bí mật nữa” “Ngọn nguồn thùthắng, thành tựu Chân Phật, Liên Sanh tốc tả.” Lúc này trong không trung thập phương tam thế chư Phật, ngân vang lời tụng: Liên Sinh Kim Cang Tôn Thượng Sư, Vô Thượng Trang Nghiêm Đại Tổng Trì. Chư Phật thập phương đồng cầu thỉnh. Thuyết pháp cộng quy bản tôn hải. Từ mẫn tỉ thuật đại khẩu quyết. Giải thích Kim Cang đại bí mật. Triển chuyển độ tận hữu tình chúng. Như thị công đức chân bất hư”. Sau khi tôi xuất định, trong long có sự cảm ngộ, biết rằng tôi tuy viết ra các Pháp bản như “Bí trung Chân Phật Bí” và “Mật tạng kỳ trung kỳ”, nhưng chưa hoàn toàn thuật lại một cách tỉ mỉ và chi tiết những câu khẩu quyết trong đó, những khẩu quyết trong đó, tại sao tôi lại chưa nói, chỉ là do “Cảnh giới của Phật (phần Quả) không thể nói.” Nếu muốn mang những điều “không thể nói” cũng viết ra, thì chỉ có dung phương pháp “tượng trưng” mới có thể giải thích rõ ràng được. Ví dụ: Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát dùng “Không” để nói về cảnh giới của Phật. Duy Ma Sĩ dùng “Tĩnh tựa sấm rền” của sự mật bất phát. Ngày nay, Phật sống Liên Sinh muốn dùng “Chân Phật Pháp Trung Pháp” của Thiên Mã Hành Không để “tượng trưng”. Thật ra, các cách thức tu Pháp, rộng lớn như biển cả, cho dù viết lên hơn ngàn quyển sách, cũng không thể viết hết ra được, Pháp bản có pháp đơn giản dễ hiểu, cũng có pháp khá thâm sâu, có pháp thể hiện ra bên ngoài, cũng có pháp ẩn trong nội tại, có pháp sơ sài, cũng có pháp nghiêm mật, có pháp là dòng pháp phụ, cũng có pháp là dòng pháp chính. Ngày nay, muốn tôi nói về “Vô thượng khẩu quyết của việc tu pháp”, thật sự không phải là việc dễ dàng. Những Pháp môn chư Bồ Tát đã truyền mệnh phải viết ra, thì không thể không viết, tôi chỉ mong rằng văn bút và lời khẩu thuật của mình không phải là chiếc bánh vẽ, càng không phải giả danh, không có giả dối, không phải xuyên tạc, không gán ghép gượng gạo. Đệ tử của “Phật sống Liên Sinh", trên thế giới đã có 200 ngàn người, để lại vết tích cả ở Tây Âu, có sự kế thừa mật thiết, được tổng hợp lại trong năm bộ Vạn Pháp Mật Tông, lúc ẩn lúc hiện tựa như Thần Long trên trời, biến hóa khôn lường, biết tất cả mọi Đại Pháp, tựa như kho tàng hư không, cái gọi là hình ảnh Tam Bảo, được hội tụ trong nhất thể. Và hôm nay viết ra “Chân Phật Pháp Trung Pháp”, khẩu quyết vô thượng của việc tu pháp, đây là điều từ bi hỉ xả thật sự, Hành giả tuyệt không thể dựa vào những ngôn từ lí luận và triết học, mà phải dựa vào sự “thực tu” chân chính, chỉ có thực tu mới có thể nhìn thấu hết sự huyền diệu, mới có được sự dung hợp giao lưu với Phật quang. Vô thượng khẩu quyết của “Chân Phật Pháp Trung Pháp”, sẽ tỉ thuật rõ thân thể làm sao có thể biến nhỏ lại, nhỏ đến mức giống như một hạt cát, bất cứ nơi nào nhỏ hẹp nào cũng có thể chui vào được. Làm thế nào để biến thân thể lớn lên, lớn đến nỗi bao trùm cả vũ trụ. Ở trong hư không, cảnh giới tựa mây tựa mưa tựa khói. Vào đến Thiên Cung và sự phân thân biến hóa, thậm chí đến được cảnh giới Bất Khả Thuyết của Phật, Cái không thể nói trong đó thì phải tượng trưng nói ra như thế nào. “Chân Phật Pháp Trung Pháp”, là đại khẩu quyết của việc thực tu tu pháp, tất cả bí mật rõ ràng bên trong đều tồn tại trong đó, tôi cho rằng đây là tâm pháp trân quý, là tâm đắc của bản thân, đạt được nữa là đạt được sự giải thoát hoàn toàn, tôi sẽ thuật lại một cách tỉ mỉ rõ ràng một lần nữa.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Đang Cập Nhật":Thực Hành Lửa TímHãy Có Lý Trí Để Nhận BiếtChân Phật Pháp Trung PhápMục Đích Đời Sống Con Người499 Điều Cấm Kỵ Trong Phong ThủyĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chân Phật Pháp Trung Pháp PDF của tác giả Đang Cập Nhật nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.