Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đêm Lisbon

Trên bến cảng Lisbon sầm uất, có hai con người, với hai con đường khác nhau, đang cùng tồn tại. Một người mong được bỏ lại sau lưng tất cả, rẽ sóng đến chân trời của an toàn và tự do; một kẻ muốn trở về khi còn món nợ chưa nguôi từ chuỗi ngày trốn chạy triền miên khỏi cánh tay bạch tuộc của bọn mật vụ. Định mệnh đẩy họ vào cuộc gặp gỡ không báo trước và người này chấp nhận trở thành nơi lưu giữ những ký ức của người kia, thứ ký ức đớn đau không còn mang theo nổi. “Chúng tôi bám vào nhau trên một bờ vực của thế giới khác. Không có cách nào quay lui, chẳng rõ nơi đến, chỉ biết là bay lên, cùng với nhau, và cùng thất vọng, một nỗi thất vọng trầm lặng, siêu thực: nó uống cạn những giọt nước mắt thầm lặng vì chỉ biết rằng cứ phải đi, không đường trở lại mà cũng chẳng có nơi nào để đến.” *** Review của Phuc Hieu:   Erich Maria Remarque, một bậc thầy kể chuyện người Đức, dường như đối với ông, việc “bịa” ra một cuộc đời ai đó quá sức dễ dàng, mà cũng có thể, chúng là thật. Đêm Lisbon, đêm cuối cùng trước khi chuyến tàu chở những con người trốn chạy khỏi châu Âu tìm đường sang đất Mỹ tự do, có những kẻ đang vật vã khốn cùng tìm cho mình cơ hội lấy một tấm vé hay một con dấu nước Mỹ trên tấm hộ chiếu. Nhân vật kể chuyện của Remarque là một kẻ đang đi tìm chiếc phao cứu sinh đời mình. Anh ta dốc tiền vào canh bạc nhằm tìm vận đổi đời để có thể mua lại chiếc vé tàu từ ai đó, rủi thay, số tiền rơi vào tay kẻ khác. Đen bạc đỏ tình. Có lẽ vậy.   Anh gặp một người đàn ông giữa đêm khuya, người nằng nặc đòi anh phải theo hắn vào quán bar- chỉ để lắng nghe câu chuyện đời hắn và đổi lại – anh sẽ có được chiếc vé hộ mệnh để sang thiên đường Mỹ quốc. Người tị nạn phải đang lâm vào tình cảnh nguy hiểm hoặc là nghệ sĩ, nhà khoa học và trí thức nổi tiếng thì mới mong được chào đón ở nước Mỹ. “Cái lối phân biệt giữa con người tầm thường và con người có giá trị chẳng phải có chút bà con gần xa với cái quan niệm siêu nhân đối lập với lũ người sâu bọ của bọ Quốc xã đó sao?”, Remaque đã mượn nhân vật mình thốt lên những lời cay nghiệt ấy. Cứ như thế trong đêm tối, họ lang thang tới vài quán bar cho đến khi trời sáng để hắn có thể tâm sự hết cuộc đời mình – những tháng ngày tù đày tha hương của một kẻ bị ngay chính người anh vợ George, vốn là một tên phát xít Đức yêu nước điên cuồng tố cáo vùi dập hạnh phúc của chính cô em gái mà hắn yêu thương đến mức đáng sợ. Cuộc đời một người Do Thái như hắn có khác gì người đang ngồi nghe hắn kể lể đâu, nhưng có điều hắn cần phải kể, bởi như thế mới giúp hắn giải thoát khỏi cuộc đời của tấm hộ chiếu mang tên người đàn ông khác Schawarz. Những năm tháng ấy người ta chối bỏ tên thật và khoác lên mình tên kẻ đã chết hòng mong tồn tại. Schawarz thay vì trốn chạy đến hết cuộc đời, hắn đã trở lại quê nhà tìm người vợ thân yêu sau năm năm ròng ly biệt. Các nhân vật nam trong những tác phẩm khác của Remarque đều đau đáu về cố hương và những người phụ nữ yêu dấu. Cặp vợ chồng đã lên kế hoạch trốn chạy khỏi nước Đức, mà kẻ đầu tiên chính là người anh máu mủ của cô vợ Helen. Họ trải qua những tháng ngày đẹp đẽ của dân tị nạn với tình yêu thương nồng nàn và cả sự chia cắt khốn khổ. Thế nhưng giữa lúc hạnh phúc đoàn viên ngập tràn, căn bệnh ung thư của Helen đã bộc phát. Chiến tranh ư? Mặc kệ. Lúc này đối với họ cuộc chiến của một kẻ hăm hở đi Mỹ và một con người đang chờ chết mới tàn bạo làm sao. Đêm Lisbon hôm ấy chào đón một linh hồn phụ nữ quyết định đương đầu với thần chết, một kẻ chối bỏ tương lai để báo thù và một kẻ sẵn sàng đón nhận vận may rủi. Đêm ấy nỗi sầu lắng đọng trong bầu không khí tĩnh mịch, trên những con tàu nằm lặng lẽ ở bến cảng và những kẻ tha hương đang mòn mỏi ngóng chờ một hồi tàu vang lên để giã biệt Lisbon và màn đêm u tối của xứ sở châu Âu lụi tàn. *** Remarque (1898 – 1970) là nhà văn lừng danh người Đức. Ông nổi tiếng với Phía Tây không có gì lạ, một trong những tác phẩm hay nhất về Thế chiến I. Các tác phẩm tiêu biểu khác của ông như Ba người bạn, Khải hoàn môn, Đêm Lisbon…cũng góp phần không nhỏ trong việc khẳng định tài năng và danh tiếng của ông khắp năm châu. Năm 1931, ông được đề cử cả giải Nobel Văn chương và Hòa bình. Bia mộ đen (Der schwarze Obelisk – 1956) một lần nữa cho thấy thiên bẩm của Remarque trong việc nhìn ra được niềm vui, lạc quan và những điều tốt đẹp giữa khổ đau, tuyệt vọng và xấu xí. Nhận xét về tác phẩm này, cây bút F.T. Marsh của tờ New York Herald Tribune từng viết: “Dí dỏm nhưng đượm buồn, vừa nghiêm túc lại có chút giang hồ, tuyệt diệu trong từng câu chữ nhưng vẫn khó nắm bắt vô vùng”. Những tác phẩm tiêu biểu: Phía Tây không có gì lạ; Khải hoàn môn; Ba Người Bạn Đường về; Tia lửa sống; Bia mộ đen; Chiến Hữu Bản Du Ca Cuối Cùng Lửa Yêu Thương Lửa Ngục Tù Một Thời Để Yêu Và Một Thời Để Chết Bóng Tối Thiên Đường Đêm Lisbon *** Tôi chăm chú nhìn con tàu buông neo trên sông Tagus, đèn thắp sáng rực rỡ. Mặc dầu tôi ở lại Lisbon đã được một tuần lễ, tôi vẫn chưa quen được với cái ánh sáng rực rỡ vô tư lự của nó. Ở những miền đất nước mà tôi đã ra đi, thành phố tối đen như hầm mỏ than, và ngọn đèn lồng trong bóng đêm còn kinh khiếp hơn bệnh dịch thời Trung Cổ. Và đó là châu Âu của thế kỷ hai mươi. Đó là con tàu chở hành khách; nó đang được chất hàng. Tôi biết nó sẽ ra khơi vào chiều ngày hôm sau. Trong ánh sáng gay gắt của những bóng điện trần, những thùng thịt, cá, thực phẩm đóng hộp, bánh mì và rau tươi đang được đưa xuống hầm chứa hàng. Công nhân bốc dỡ đưa hành lý lên tàu, nâng những thùng, những kiện hàng lên tàu một cách lặng lẽ, tưởng như chúng nhẹ tênh. Con tàu đang được chuẩn bị để làm một cuộc hành trình - như con tàu cứu rỗi vào thời Hồng thủy. Nó đúng là một thuyền cứu rỗi. Bất kỳ chiếc tàu nào rời châu Âu vào những tháng đó của năm 1942 cũng là một tàu cứu rỗi. Đỉnh Ararat[*] xưa kia nay là nước Hoa Kỳ, và nước lũ dâng cao lên từng ngày. Đã lâu nó ào vào nước Đức và nước Áo, nay nó làm chìm ngập Ba Lan và Praha; rồi đến lượt Amsterdam, Brussels, Copenhagen, Oslo và Paris. Tiếp theo là các thành phố nước Ý đã nghe nó thấm rỉ vào, và cả Tây Ban Nha cũng không thoát được. Bờ biển Bồ Đào Nha trở thành niềm hy vọng cuối cùng của những người tị nạn mà công lý, tự do và lòng khoan dung đối với họ có giá trị hơn cả quê hương và cuộc sống. Nơi đây là cửa ngõ vào Hoa Kỳ. Nếu bạn không đến đó được, tức là bạn hết thời, bạn sẽ phải mòn mỏi tiêu hao trong đám rừng rậm của những tòa lãnh sự, đồn cảnh sát, và những cơ quan chính phủ, nơi đây hộ chiếu bị từ chối, công việc làm ăn và giấy phép cư trú không thể có, cả một rừng chằng chịt những trại tập trung, cả một hệ thống giấy tờ thủ tục hành chánh, nỗi cô đơn, nhớ nhà và sự lãnh đạm khô héo của mọi người. Như thường lệ trong thời chiến, sợ hãi và ưu phiền, cả đến sinh mạng cá thể của con người cũng không còn có nữa. Chỉ một điều duy nhất là đáng kể: một tờ giấy thông hành có giá trị. Tối hôm ấy tôi đến sòng bạc Casino Estoril để đánh bạc. Tôi còn giữ được một bộ quần áo tươm tất nên họ để tôi vào. Đây là cố gắng cuối cùng và tuyệt vọng của tôi để thách đố số phận. Giấy phép cư trú tại Bồ Đào Nha của chúng tôi trong vài ngày nữa là hết hạn, mà tôi và Ruth chẳng có giấy hộ chiếu nào khác. Khi ở Pháp, chúng tôi đã vạch kế hoạch và liệt kê danh sách các chuyến tàu có thể đi New York. Con tàu bỏ neo tại sông Tagus này là chiếc sau cùng có ghi trên danh sách của chúng tôi. Vé tàu thì đã bán ra từ nhiều tháng nay; mà chúng tôi lại không có dấu nhập cảnh Hoa Kỳ, và còn thiếu hơn ba trăm đô la để mua vé. Ít ra tôi cũng cố gắng nâng số tiền này lên bằng cách còn có thể được đối với một người nước ngoài tại Lisbon, đó là đánh bạc. Thật là một ý nghĩ điên rồ vì nếu tôi đánh bạc có ăn đi nữa thì cũng phải có thêm một phép lạ chúng tôi mới lên tàu được. Nhưng trong lúc hiểm nguy và tuyệt vọng, bạn thường tin tưởng vào phép màu, nếu không bạn sẽ chìm luôn. Tôi đã thua mất năm mươi sáu đô la trong số sáu mươi hai đô la chúng tôi còn lại. Đêm đã về khuya và bến tàu thì gần như hoang vắng. Nhưng một lát sau tôi nhận ra có một người đàn ông cách tôi không xa. Lúc đầu thì hắn thả bộ phất phơ, sau đó hắn dừng lại và cũng bắt đầu chăm chú nhìn ra con tàu. Lại một kẻ tị nạn bị bỏ rơi, tôi chợt nghĩ, và không chú ý đến hắn nữa, cho đến lúc tôi có cảm giác là hắn đang nhìn tôi. Dân tị nạn không bao giờ đánh mất nỗi lo sợ đối với cảnh sát, dù là trong giấc ngủ hoặc trong lúc chẳng có gì phải sợ hãi cả. Bởi thế nên tôi quay đi, giả vờ như dửng dưng chán chường và bắt đầu chậm rãi rời khỏi cầu tàu, như một người chẳng có gì phải lo sợ cả. Một lúc sau, tôi lại nghe tiếng bước chân đằng sau. Tôi vẫn tiếp tục đi mà không vội vã, vừa tự hỏi làm sao tôi có thể báo cho Ruth biết tin nếu tôi rủi bị bắt. Những ngôi nhà màu tùng lam ở cuối cầu tàu ngái ngủ như những con bướm đêm, đối với tôi thật vẫn còn quá xa để tôi có thể chạy đến đó và biến mất trong mấy đường phố quanh co chằng chịt. Giờ đây thì hắn đã đứng ngay bên cạnh tôi. — Ông là người Đức? - Hắn hỏi tôi bằng tiếng Đức. Tôi lắc đầu và tiếp tục bước đi. — Người Áo? Tôi cũng không trả lời. Tôi nhìn những ngôi nhà màu tùng lam đang tiến lại gần một cách quá chậm chạp. Tôi thừa biết có những cảnh sát viên người Bồ Đào Nha nói tiếng Đức rất thạo. — Tôi không phải là cảnh sát. - Gã đàn ông nói. Tôi không tin lời hắn. Hắn mặc thường phục, nhưng đã có năm bảy lần những người mặc thường phục bắt tôi ở châu Âu. Tôi có giấy tờ tùy thân, vốn là một tác phẩm không đến nỗi tệ lắm do một giáo sư dạy toán người gốc thành phố Praha ở Paris thực hiện, nhưng nếu bị kiểm tra kỹ thì chắc sẽ không chút giá trị gì. — Tôi thấy ông nhìn con tàu, - Người đàn ông nói, - Điều đó khiến tôi nghĩ rằng… Tôi dửng dưng nhìn hắn ta. Thật tình thì hắn chẳng có vẻ gì là cảnh sát cả, nhưng người đàn ông mặc thường phục mới đây đã tóm cổ tôi ở Bordeaux lần vừa rồi cũng có vẻ thảm hại như Lazarus[*] khi ra khỏi mồ sau ba ngày, ấy thế mà hắn lại là kẻ tàn bạo nhất trong đám. Hắn đã bắt tôi, dẫu hắn biết qua hôm sau quân Đức sẽ có mặt tại đó, và đời tôi kể như chấm dứt nếu không có tên cai ngục tốt bụng thả tôi ra vài giờ sau đó. — Ông muốn đi New York không? - Người đàn ông hỏi. Mời các bạn đón đọc Đêm Lisbon của tác giả Erich Maria Remarque.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đại Tá Không Biết Đùa
Anh tự nghĩ mình không có tội. Nhưng tiếng kêu của người lính trẻ, còn rất trẻ thì không buông tha anh. Ít ra, anh cũng cảm thấy thế trên đoạn đường khoảng trăm rưởi hay hai trăm km gì đấy từ chỗ bị phục kích cho đến khi ngồi vật xuống dưới gốc cây hoa giấy trong viện quân y. Suốt quãng đường không rõ dài ngắn, không để ý đến những cú xe “khục” xuống “ổ trâu” đầu nhao ra khỏi khoang ca-bin đã vỡ, anh chỉ nghe tiếng kêu cứu o...o ở trong đầu mình, tiếng quát lạnh ở gáy và một bãi nước miếng nhổ vào mặt, bất giác anh đưa tay chùi vào má, bàn tay anh ướt nhây nhớt. Cho đến khi của đầu tóc, cả mặt, và khắp người thấm đẫm nước, bụi đường ùa vào như một lớp vỏ cứng đờ hai mi mắt và sàn sạn ở miệng, anh vẫn còn cảm giác những dòng nước cứ túa ra kia là bãi nước miếng người lính trẻ đã nhổ vào mặt mình. Chiếc U-oát từ sở chỉ huy mặt trận lao đến đỗ xịch trước mặt anh, trước cửa phòng cấp cứu. Anh tỉnh lại. Đại tá, người cha của chiến sĩ trẻ lầm lầm đứng trước mặt. Hơn nửa tháng, tiễn anh ở sân bay hai bàn tay ông siết vào nhau giơ lên trước mặt mình quát vui vẻ trong tiếng động cơ ầm ầm của chiếc trực thăng đang tự nâng mình rời khỏi mặt đất. Tôi chờ những nhận xét mới mẻ của anh về cuộc chiến đấu này. Nhất định gặp lại. Cả hai khuôn mặt lúc ấy đều cười lưu luyến. Bây giờ thì hai làn môi ông run run, mặt xám lại, hơi cúi, hai tay chắp sau lưng. Từ lúc đến trước mặt anh, ông vẫn đứng nguyên một chỗ, rồi trầm ngâm buông một câu khiến người nghe tưởng nó thoát ra từ một nào khác. Ở đời, cái gì xảy ra, nó ắt phải xảy ra, không có gì, không có gì hệ trọng cả. Nhưng mà, khác hẳn với thói quen nhìn việc cỏn con cũng biến thành triết lý lớn lao, lần này giọng hơi lạc, chìm dần xuống, ông quay ngoắt đi. Rồi đột ngột ông quay lại hỏi dồn dập, không cho anh kịp trả lời. Anh bình tĩnh để tôi kể lại. Vâng! Nó ngồi ở chòm cây thốt nốt, tựa lưng vào một gốc cây, tay nó còng vào tay người lính trẻ khác như nó hoặc trẻ hơn, không thể đoán được tuổi người chết. Cậu ấy nằm ngửa, hai tay ríu vào tay con anh, giơ lên cho vừa tầm tay con anh lúc nó ngã ngồi như kiểu người ngồi nghỉ để thở. Vì thằng sống còng tay với thằng chết, tôi không làm sao mở nổi cái khóa còng số tám, dù cháu cứ rối rít van lạy tôi. Tôi vác người chết lên vai để cho cháu chạy theo, nhưng chỉ được vài chục mét cả ba cùng ngã vật ra. Nếu không có tiếng còi ô tô và tiếng quát “ông nhà báo ở lại, tôi chạy đây” thì có lẽ tôi không thể nào nâng nổi người chết đè lên mình để bò dậy. Vâng! Lúc tôi vùng dậy và lao như một mũi tên tới mặt đường, thì chiếc ô tô tải đã bắt đầu vào số để vượt ra khỏi ổ phục kích. Không cần biết chuyện ấy, đại tá gầm lên: Có ai cứu nó không? Tại sao lại có thể nổi giận một cách vô lý như vậy. Từ lúc bám vào thành nhảy lên thùng xe, rồi đột ngột xe dừng, người lái xe bảo tôi xuống ngồi ở cabin, có lẽ để anh ta đỡ sợ, rồi cho xe lao đi thục mạng, làm sao tôi có thể biết điều anh cần biết. Dưới áng sáng xanh lét của ngọn đèn cao áp, nhà báo nhìn hai làn môi xanh nhợt nhạt của đại tá đang lật bật, anh bỗng hoảng sợ như kẻ sắp bị trả thù... Lúc đầu trên xe có sáu người, do một thiếu úy trợ lý quân pháp sư đoàn chỉ huy. Thực ra cũng là chỉ huy “ghép”. Mọi sự quyết định số phận của toàn chiếc xe vẫn do người lái xử lý theo nhiệm vụ và kinh nghiệm của anh ta. Xe vận tải do bộ chỉ huy quân sự tỉnh T. hợp đồng với công ty vận tải, tổ chức mười đầu xe thành một đại đội do trợ lý xăng dầu của ban hậu cần chỉ huy, tăng cường cho mặt trận khoảng cuối chiến dịch, nghĩa là mới chạy được hai chuyến dọc biên giới. Chuyến đầu đi cả đoàn, an toàn tuyệt đối. Đến lần này! Người ta điều hai xe chở đạn và xăng tiếp tế cho một đơn vị cách hai mươi lăm kilômét về phía tây bắc. Đến gần nơi giao hàng, nghe đâu chỉ cách độ nửa kilômét, thì xe téc bị bắn, cả người và xe đều cháy. Chiếc xe này trả hàng xong được chặn lại ở barie nhận mệnh lệnh đột xuất của phòng tham mưu sư đoàn đưa hai chiến sĩ phạm pháp về trại giam mặt trận. Một hạ sĩ mang AK cùng một thiếu úy trợ lý quân pháp “hộ tống”. Tôi có điện của tòa soạn yêu cầu về gấp nên được trợ lý câu lạc bộ thương lượng với trợ lý quân pháp cho đi nhờ. *** Nhà văn Lê Lựu sinh ngày 12 tháng 12 năm 1942 tại xã Tân Châu, huyện Khoái Châu - Hưng Yên, là một nhà văn Việt Nam, thành viên của Hội nhà văn Việt Nam từ năm 1974, chuyên về tiểu thuyết và truyện ngắn, tiêu biểu là Thời xa vắng đã được đạo diễn Hồ Quang Minh của Hãng phim Giải Phóng dựng thành phim truyện nhựa và ra mắt công chúng năm 2004. Ông hiện nay đang đảm nhiệm chức Giám đốc của Trung tâm Văn hóa Doanh nhân tại Hà Nội. Mời các bạn đón đọc Đại Tá Không Biết Đùa của tác giả Lê Lựu.
Chuyện Làng Cuội
“ Cũng là lạ. Không biết nội bộ nó là gì mà phổ biến đến tận đứa trẻ con. Ngành nào, cấp nào làm gì cũng làm theo những chỉ thị, nghị quyết nội bộ chứ không làm theo luật pháp. Luật pháp cứ ra, cứ học, cứ thuộc ra rả như con vẹt mà làm gì, xử lý bất kể việc gì, kể cả tội giết người cũng cứ là từng làng, từng xóm, từng ngành, từng giới có cách giải quyết riêng theo những chỉ thị, nghị quyết nội bộ của người ta. ” Trích “Chuyện làng cuội”. Đó là một câu chuyện trải dài mấy chục năm, từ đời ông đến đời con, rồi đến đời cháu, suốt mấy thời kỳ, từ trước Cách mạng tháng tám, đến cải cách ruộng đất, rồi đến những năm đầu chuyển sang cơ chế thị trường. Với một cốt chuyện hấp dẫn, “Chuyện làng cuội” đã tái hiện chân thực về cuộc sống con người và vùng quê sông Hồng trong sự chuyển mình của làng quê, của Đất nước trong thời kỳ đổi mới. *** Nào ai ngờ cái chết của bà Hiêu Đất lại tạo cho làng Cuội ta một khí thế tưng bừng sôi nổi, rất là tự hào. Sau hàng tháng trời lơ lửng trong nỗi buồn ngơ ngác “được phân phối hụt” do huyện chỉ đạo tháo đê quai, cái xác trôi lênh phênh của bà Đất dạt về bến Chợ Quán như nắp thùng tô-nô đựng đầy ám khí được bung ra. Tiết trời mấy ngày nay cũng quang quẻ hẳn. Xa xôi quá thì ít người am tường, chỉ tính năm sáu chục năm đổ lại đây, kể từ năm Quý Dậu, năm cuối cùng của hội thi nói khoác ở miếu Ông Cuội cũng là năm cô Đất bỏ làng đi biệt tăm, đến bây giờ làng mới lại có một vẻ mặt đồng loạt buồn. Nhưng mà sôi động. Khi nào làng có chung một khuôn mặt buồn đều ào ào náo nhiệt và thì thào còn chán. Thế lại hoá vui. “Tuổi Mão đi năm Mùi là đúng cách. “Hợi Mão Mùi”, “Nam xung nữ hợp”, nhất định bà lão phải “đi” vào năm nay. Ông đã biết từ lâu rồi. Nhưng bà lão này thiêng lắm. Không à? Ông dám chắc bà ấy mà dạt về đúng quê, nhất định làng Cuội có sự. Đại sự”. Ông thống Bứt vừa liêu xiêu đi ra phía bờ sông vừa quát lác. Không cần có ai, hoặc giả trong cơn say ông đã nhìn thấy một thằng người cứ theo ông, ông bước bước nào nó bước bước nấy, nên ông cứ tự hỏi rồi tự giả nhời như thế. Hôm nay ông phải làm một việc hệ trọng. Bắc cầu cho mẹ đồng chí Lưu Minh Hiếu phó chủ tịch tỉnh lên bờ. Khổ thân bà lão. Suốt đời long đong tủi nhục, được lúc con cái ăn nên làm ra, đi Tây đi Tàu như đi chợ lại lăn xuống sông mà chết. Cũng là số trời run rủi. Đồng chí Hiếu là hiếu nghĩa với bố mẹ, đời nào để bà lão chết nhục nhã đến nỗi thế này. Xác bà lão được vớt lên từ trưa hôm qua. Một cái xác trương phềnh. Cả mặt và hai cánh tay xước tướp táp, không hiểu do cá rỉa hay mắc mớ vào đâu mà không còn một mảng da nào nguyên. Trưa hôm qua, chiếc tàu chở khách từ Hà Nội xuôi, sóng rào rạt xô vào bờ một người mặc quần đen, áo nái vàng, tóc xoã như là ma nhoài lên nằm nghiêng ở bờ cát một tay dang ra như là cố bám lấy cát để khỏi trụt xuống. Các cô bé đang đập chiếu tàm tạp trông thấy thế, kêu lên thất thanh, chạy lao lên ngã dúi dụi vào quán bà Cu Từ. Tiếp theo là ông Cu Mỡ, em ruột ông Cu Từ, vác một manh chiếu xuống bờ sông đắp lên cái xác cũng với câu: “Đ. mẹ nó, điềm này, làng Cuội lại ăn cứt”. Rồi đám người gỡ dây khoai, những người gieo ngô, đám đốt lò vôi, dân thợ xẻ, lò rèn bỏ hết đồ nghề, giống má, chạy túa lại quán bà Cu Từ và ông Cu Mỡ đứng nhìn xuống sông và nghe các cô gái thuật lại “đầu đuôi”. Mấy anh thợ “phơ” đóng gạch, cầm kéo cắt đất táo tợn chạy đến hất chiếu ra, lấy tay kéo lật ngược mặt bà lão lên nhìn: “Đếch phải người làng này”. “Chắc lại oan khuất gì, tự vẫn đây”. “Có khi bị trấn, lấy của rồi nó cho xuôi”. Khách qua đò ùn tắc lại. Trẻ con tan học hổn hển chạy đến rào rào như gió. Chả mấy chốc bến đò Chợ Quán nghìn nghịt như một cái chấm đen khổng lồ tụ giữa cánh đồng làng Cuội bát ngát phù sa. Quán nhà bà Cu Từ, ông Cu Mỡ nứt nở kẻ đứng người ngồi. Cho đến 10 giờ đêm các đồng chí Đảng uỷ, uỷ ban, hợp tác xã, công an, bàn bạc trong quán bà Cu Từ hết 37 bìa đậu phụ, một bình lạc rang, gọi tròn năm chục chén, mười ba cút rượu, tám gói thuốc lào hội nghị mới ra được một quyết định: lập biên bản báo cáo lên huyện chờ xin ý kiến. Cần nghiên cứu thêm ý kiến của trưởng ban thông tin văn hoá: có thể đưa lên “quảng cáo” trên ti vi. Độ này người ta quảng cáo tất tần tật, không thiếu thứ gì. Dễ lắm. Thân nhân của họ về nhận sẽ phải tính công vớt từ giữa sông lên rồi công của mấy chục con người canh giữ suốt 24 trên 24 không để thi hài thất thoát. Biết đâu lại chả trúng quả đậm. “Có gì ta làm bữa thả phanh cho bõ công đêm hôm lăn lội, ngồi suông”. Mặt khác, ngày mai, uỷ ban thảo một công văn lên phòng thương binh xã hội xin duyệt một cỗ ván. Việc này có trở ngại là: muốn được duyệt nhanh chóng thì phải có dăm bao ba số, thậm chí còn phải kéo ra cửa hàng lòng lợn, hoặc “cầy tơ”. Kinh phí lấy vào khoản nào? Vậy, tất cả cứ chờ ý kiến của huyện và chờ đồng chí chủ tịch đi thăm bố vợ ốm trên tỉnh, nội nhật ngày mai về. Tối mai ta hội ý lại rồi quyết định sau. Đằng nào bà ta cũng rữa ra rồi. Cho anh em bảo vệ hắt mấy xẻng đất xơ xơ cho đỡ bốc mùi, rồi thù lao cho anh em. Cũng chả cần trông nom gì. Ai họ lấy đi cho là phúc. Đúng là cái vạ cho xã ta. Đồng chí Nạc – anh đã đổi cái phụ âm đầu nhưng chỉ có cấp trên gọi anh là Lạc còn bà con trong xã vẫn gọi anh là Nạc. Ở vùng này thường lấy tên con đệm trước tên bố mẹ hoặc đẻ con trai đầu gọi là cu, con gái là đĩ. Anh Cu Từ, cụ Cu Từ, ông Cu Mỡ là thế. Bà Hiêu Đất cũng vì con là Hiếu (họ bỏ dấu sắc đi để gọi cho tiện chứ không hẳn là tin theo kẻ xấu bụng, đổi họ và tên anh từ Lưu Minh Hiếu thành Lưu Manh Hiêu). Đồng chí Nạc cầm quyển sổ có treo bút chì bằng dây gai, ghi các khoản nợ của tối hôm nay. Bà Cu Từ hấp háy đưa ra trước ánh đèn soát lại. Trên mặt chõng cũng nhẵn hoén không còn sót lấy một viên lạc, gói thuốc. Bà yên trí “xin phép các cụ” “cứ tự nhiên” để bà ngả cái nong xuống nằm khoanh tròn trong ấy. Bí thư Đảng uỷ ngồi chồm hỗm trên những đoạn tre đóng vào hai đầu cọc hàng giờ không biết tê, lúc anh thả hai chân xuống, phủi đít quần đứng dậy thì Nạc lại có một sáng kiến mới. Nghiêng tai nghe tiếng ngáy rất dư dật của bà bác dâu, anh vươn người về phía bí thư nói nhỏ nhưng mọi người đều nghe. Anh nói rằng tình hình này sự đồn đại thất thiệt sẽ còn lan đi ghê lắm. Nhưng có lợi cho ta. Ai cũng bịa tạc những tin giật gân, bí hiểm nên người tò mò kéo đến đây xem càng đông. Nhất là cho lên ti vi thì sẽ không biết cơ man nào là người từ các thành phố kéo về đây. Thành phố bây giờ họ có làm gì đâu. Một người ngã xe máy còn xúm đông xúm đỏ lại xem, huống hồ nghe tin có ma hiện lên ở bờ sông làng Cuội. Bí thư cắt ngang. - Lạy bố. Thế thì rách việc lắm. Mà hơi sức đâu lại đi tìm hiểu để báo cáo nguyên nhân từ đâu có cái tin ấy. Rồi còn phải giải quyết tư tưởng cho bà con. Chết, chết! - Thiên hạ họ đồn mắc mớ gì đến mình. Biên bản mình sẽ gửi đi. Pháp y họ về, họ làm gì kệ xác họ. Nhưng vấn đề không phải ở chỗ ấy. Anh không hiểu ý tôi. Tôi hỏi các anh: Các anh có công nhận là mới từ trưa đến giờ đã bao nhiêu người bổ về đây xem thực hư? Đấy là chưa kể bao nhiêu người ở bên kia không có đò sang. - Đúng rồi – Gần như mọi người cùng trả lời. - Tôi quả quyết ngày mai còn đông hơn. - Nhất trí! - Trời nắng này, người như nêm ấy, có cần uống nước, hút thuốc không? - Có quá chứ lị. Mời các bạn đón đọc Chuyện Làng Cuội của tác giả Lê Lựu.
Tỳ Vết Tâm Linh
Vào khoảng đầu thập niên 70, Nguyễn Nam Anh của tạp chí Văn ở Sài Gòn có hỏi Bình-nguyên Lộc trong một cuộc phỏng vấn về tác phẩm ưng ý nhất của ông, Bình-nguyên Lộc cho biết, trong tất cả những gì đã viết, ông thích nhất ba cuốn : Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình-nguyên Lộc, Cuống rún chưa lìa và Tỳ vết tâm linh. „Tại chủ quan tôi thấy nó hay. Nhưng người khác chưa chắc đã thấy như tôi. Tỳ vết tâm linh là cuốn truyện dày về một thiếu nữ bị bệnh tâm trí. Cùng một chủ đề tâm trí, ông còn nhiều truyện ngắn. Cái cảm tình „chủ quan“ của ông đối với cuốn truyện dày kia có chỗ thương tâm.             Chúng ta chắc chắn là chưa kiểm điểm dược mọi nỗi niềm tâm sự của Bình-nguyên Lộc : đời có ai thấu hết được lòng ai. Tưởng không nên tham lam quá. *** Ra khỏi trại bịnh hơn mười phút đồng hồ rồi mà Lưu còn nghe choáng váng bàng hoàng.  Chàng vừa trải qua những phút chấn động tâm thần mãnh liệt, nó suýt dìm chàng vào cõi bất thức giác y như người em gái của chàng, con bịnh mà chàng vừa thăm.  Ba tháng trước, ngày Bích lên cơn điên, chàng ở trên Đà Lạt. Cha mẹ chàng đã đưa Bích vào nhà thương Chợ Quán rồi đánh điện cho chàng hay tin.  Chàng đã thăm Bích hai lần, khi về Sàigòn, lúc ấy thì Bích đập phá, la hét rầm trời nhưng chàng không hề bối rối hay hoảng sợ chút nào. Chàng đã nghe sách vở và bạn hữu của chàng, những người bạn nghiên cứu chuyên khoa về khoa tâm bịnh, nói rằng những con bịnh làm ồn và phá phách, coi vậy mà rất mau khỏi.  Vả lại, lúc ấy Bích còn tươi tốt hồng hào lắm, hồng hào quá, và rất hung hăng, trông Bích như một con ác thú, như một người say rượu, không gợi tình thương xót bao nhiêu.  Rồi thì Bích được đưa lên đây, lên dưỡng trí viện nầy mà tục thường gọi là nhà thương điên Biên Hòa.  Đường xa, chàng bận học, cha mẹ chàng, nhứt là mẹ chàng, cứ giành đi thăm Bích mãi nên chàng không thấy mặt Bích đã hơn mười tuần lễ rồi.  Cứ theo lời mẹ chàng thì Bích đã đỡ nhiều, không la, không cười vô cớ nữa, cũng không đánh đập, cào cấu cắn xé ai nữa. Nhưng chàng ngờ 1ắm. Người ta đưa Bích lên Biên Hòa, sự kiện ấy chứng tỏ một tình trạng ngược lại mà bà cụ không dè.  Chàng thì chàng biết, cũng cứ qua sách vở và lời của bạn hữu. Nhưng chàng chỉ biết vậy... vậy thôi, cho đến cái giây phút đầu mà chàng thấy mặt đứa em gái thân yêu của chàng ở lần thăm đầu, hôm tuần trước.  Lưu trông Bích không khác ngày thường bao nhiêu. Nàng giống một thiếu nữ vừa qua một cơn ốm nặng, cảm cúm, hay sốt rét rừng gì đó, nước da xanh mét, thân thể tiều tụy. Chỉ có thế thôi. Mà với sinh lực hai mươi, sự suy đồi của cơ thể của Bích không đáng ngại, hễ ăn ngon ngủ kỹ vài hôm, hoặc tiêm độ năm bảy mũi thuốc nước cốt gan là lại sức ngay. Nhưng mà …  Bích chỉ còn là một con hình nộm không hồn mà thôi. Đôi mắt lờ đờ, mất thần của nàng trước người anh ruột của nàng, nhìn chàng trân trân mà không thấy, đôi môi cứ mấp máy, lẩm bẩm những gì không nghe được, bốn ngón tay cứ xe mãi một sợi chỉ vô hình rất dài, tất cả những thứ ấy làm cho chàng thấy em gái của chàng xa chàng vạn dặm.  Chàng đã mất Bích rồi, mất hẳn, không sao tìm lại được, vì chàng lo rằng Bích đã bước qua cái giai đoạn khó khăn nhứt trong các chứng bịnh tâm trí, giai đoạn mà bản ngã của con người co rút lại để không bao giờ mở ra được nữa cả.  Lưu đã khóc, đó là những giọt lệ đầu tiên của người con trai nầy, kể từ khi hắn rời bỏ tuổi thơ ấu.  Thật ra thì chàng đã khóc ngày chàng vừa được điện tín của cha mẹ chàng đánh lên Đà Lạt. Chàng biết em chàng đau khổ từ ngày vị hôn phu của nó bỏ rơi nó để cưới con gái một triệu phú.  Cái anh vị hôn phu ấy là bạn của chàng, hắn tới lui nhà chàng thường lắm nên hai đứa nó yêu nhau, và Bích mới yêu vỡ lòng nên yêu nhiều lắm.  Chàng đã khóc hôm ấy, nhưng rồi chàng buồn cười cho chàng lắm, bật cười ra và hết buồn ngay. Chàng cứ ngỡ Bích nó trẻ con nên đau tương tư bậy bạ vậy thôi rồi vài ngày nó sẽ nguôi.  Lần thăm trước thì chàng khóc nghẹn ngào. Và lần nầy nữa, vì đây là lần thứ nhì mà chàng đi thăm Bích. Không dám đứng lâu nơi cửa phòng bịnh để nhìn mãi cái cảnh đau lòng mà chàng hoàn toàn bất lực cứu vãn, Lưu bước ra ngoài, đi thơ thẩn trên con đường viền cỏ vú sữa, bần thần như là chính mình đang đau ốm.  Khi chàng lần bước ra tới ngã ba mà con đường nhỏ nầy gặp con đường lớn, con đường chánh của nhà thương, thì chàng thoáng thấy hai người đi thăm bịnh cũng vừa bước tới đó.  Hôm nay là một ngày thường, tức ngày làm việc, nên người thăm bịnh thưa thớt lắm.    Mời các bạn đón đọc Tỳ Vết Tâm Linh của tác giả Bình Nguyên Lộc.
Nửa Đêm Trảng Sụp
Bình Nguyên Lộc tên thật là Tô Văn Tuấn, sinh ngày 7/3/1914 (giấy tờ ghi  1915) tại làng Tân Uyên, tổng Chánh Mỹ Trung, tỉnh Biên Hoà (nay thuộc huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai); mất ngày 7/3/1987 tại Rancho Cordova, Sacramento, California, Hoa Kỳ. Các bút hiệu khác: Phong Ngạn, Hồ Văn Huấn. Sinh trưởng trong một gia đình trung lưu, mười đời ở đất Tân Uyên, cha là Tô Phương Sâm làm nghề buôn gỗ, mẹ là Dương Thị Mão. Thuở nhỏ học chữ nho với thầy đồ, tiểu học ở trường làng; trung học (1928-1934) Pétrus Ký, Sài Gòn. Rời trường không bằng cấp. 1934, kết hôn với cô Dương Thị Thiệt, 1935, vào làm công chức ở kho bạc Thủ Dầu Một. 1936, đổi về Sài Gòn làm kế toán viên ở Tổng Nha Ngân Khố. Tháng tám 1945, bỏ việc, tham gia kháng chiến. 1946, hồi cư về Lái Thiêu và 1949 rời Lái Thiêu về hẳn Sài Gòn viết văn làm báo. Bình Nguyên Lộc bắt đầu viết từ 1942, cộng tác với tạp chí Thanh Niên của Huỳnh Tấn Phát, nhưng đến 1946, mới thực sự bước vào nghề văn, nghề báo. 1950, in tập truyện ngắn Nhốt gió. 1958, chủ trương tuần báo Vui Sống và nhà xuất bản Bến Nghé. 1985, di cư sang Hoa Kỳ, hai năm sau ông mất. Bình Nguyên Lộc đã viết hàng trăm tác phẩm, nhưng bản thảo bị thất lạc cũng nhiều, phần in trên các báo, chưa xuất bản thành sách cũng lớn. *** Làm xong bài toán hình học không gian, Nhan ngáp dài. Nàng xem lại đồng hồ tay thì thấy đã mười giờ bốn mươi rồi. Cô nữ sinh đệ tứ ấy xếp giấy má sách vở lại, đứng lên toan tắt ngọn đèn tọa đăng rồi đi ngủ, nhưng còn chần chờ đứng lại trước bàn để lắng nghe tiếng mưa đêm xào xạc ngoài vườn, và tiếng gió hú đằng xa, nơi cánh đồng vắng sau nhà. Sanh hứng, cô ngâm lên bài ca dao hay bài thơ của ai, cô không còn nhớ nữa:  Tục truyền tháng bảy mưa Ngâu  Con trời lấy chú chăn trâu cũng kỳ  Một là duyên,  Hai là nợ …  Bỗng tiếng mở cửa buồng bên trái làm Nhan giựt mình. Nàng day lại thì thấy ông Tám Huỳnh, cha của nàng, hiện ra nơi khung cửa buồng ấy, trong ánh mờ của cây đèn dầu bàn học của nàng.  Tám Huỳnh mặc áo mưa, đi giày ống bằng cao su và tay cầm một chiếc nón lá cũ.  Hai cha con lặng lẽ nhìn nhau rồi Tám Huỳnh như sợ con, trốn mắt nó và ngó xuống gạch.  - Ba ! Trời mưa mà ba đi đâu vậy ba ?  Tám Huỳnh ú ớ không nói được, lâu lắm ông mới thốt ra vài tiếng, nhẹ như hơi gió thoảng, Nhan cố lắng tai mới nghe:  - Ba đi, con ở nhà vài bữa với bà Tư.  Nhan châu mày rồi hỏi:  - Có phải ba đi việc đó không ba ?  Tám Huỳnh đưa ngón tay trỏ lên trước miệng ra hiệu bảo con chớ có to tiếng rồi đáp:  - Ừ …  - Con sợ quá ba à ! Nhan nói mà giọng nàng run run.  - Không sao, con cứ an lòng.  - Con không muốn ba đi nữa …  - Ba đã hứa nghe lời khuyên can của con, nhưng còn phải chờ dịp như ba đã cắt nghĩa, mà dịp ấy chưa đến.  Nhan nghẹn ngào, cố nuốt nước mắt, nàng cắn môi dưới lại để khỏi khóc ra tiếng. Ông Tám Huỳnh bước tới và đứng gần con. Ông xẳng giọng, nghiêm mặt lại mà rằng:  - Con biết tánh ba hay tin dị đoan. Người trong nghề, ai cũng thế. Con đừng làm cho ba sợ, con nghe chưa ?  Nhan sợ hãi, lấm lét, liếc lên nhìn trộm cha. Ông Tám Huỳnh ngày thường trông cũng hiền từ, nhưng hễ ông nổi giận thì gương mặt ông hung tợn lạ kỳ, khiến cho người con gái độc nhứt và được thương mến hết sức của ông cũng phải kinh hoảng, không dám hó hé.  Thương con quá, ông Tám dịu mặt và dịu gọng lại rồi nhỏ nhẹ nói:  - Con ở nhà đừng thức khuya, hôm nào mưa thì đừng đi học, kẻo mắc mưa sanh bịnh. Đây, ba cho con tiền chợ và tiền bánh hàng.  Ông Tám vừa nói vừa móc trong túi ra một ghim giấy bạc một trăm, đặt lên bàn học của con và dặn thêm:  - Ai có hỏi, nói ba đi Sài Gòn uống thuốc.  Nhan nhìn xấp giấy bạc rồi nức nở thêm:  - Nín, kẻo bà Tư hay ! Ông Tám lại xẳng giọng.  Nhưng Nhan không còn sợ nữa, nàng nói:  - Con... thương …ba !  - Cố nhiên, ba lại không biết hay sao. Nhưng chính vì ba cũng thương con nên...  - Con đi buôn gánh bán bưng nuôi ba được.  - Đã lỡ rồi con à, đặt lại vấn đề làm gì. Ba có muốn theo nghề nầy đâu, nhưng hoàn cảnh đã đưa đẩy ba tới đó, rồi ba không thoát được nữa. Nhưng ba sẽ cố gắng làm vừa lòng con. Con nên nén lòng đợi một thời gian. Thôi, ba đi con nhé ! Nhớ đóng cửa cẩn thận.  Tám Huỳnh lặng lẽ bước tới mở hé cửa rồi lách mình ra ngoài. Nhan cũng vội bước theo cha, rồi nhìn vào bóng tối. Chớp nhoáng lên và nàng trông thấy bóng dáng dình dàng của cha nàng dưới chiếc nón lá và chiếc áo tơi, bước mau trong mưa gió: ông Tám quẹo ra sau nhà để tiến vào rừng sâu.  Bóng đêm lại tràn ngập không gian, khiến Nhan kinh sợ, vội đóng cửa lại và cài then cẩn thận. Đoạn nàng tắt đèn và đánh diêm lên soi đường để đi vào buồng nàng ở phía hữu.  Ông Tám Huỳnh góa vợ từ lâu, nhưng ông ở vậy để nuôi con. Nhà chỉ có ba người: ông Nhan và bà Tư, một người dì họ của ông. Bà nầy ngủ ớ nhà sau, vì thế mà ông ra đi bằng cửa trước cho khỏi bị một người như bà bắt chợt bí mật của ông.  Bí mật ấy, cách đây một tháng, do một sự tình cờ; Nhan đã khám phá được, sau nhiều năm nghi hoặc. Nàng đã khóc thầm nhiều ngày, rồi rốt cuộc quyết định cật vấn cha.  Thấy không thể chối cãi được, ông Tám đành thú nhận với con rằng ông buôn lậu, hơn thế ông chỉ huy một toán tải hàng lậu từ biên giới Việt-Miên đến một khu rừng gần chợ Trà Võ để giao lại cho đoàn khác đưa về Sài Gòn bằng xe hơi.  Nhan đã khuyên dứt cha, nhưng ông Tám bảo không khá lắm, phải đợi tìm dịp để xoay nghề mới, mới buông nghề cũ được, và nhứt là phải tìm chỗ ở mới cho thật xa, vì hễ cải tà qui chánh thì phải trốn bọn đồng đảng cũ, chúng sợ bị tố cáo, dám thủ tiêu ông lắm.  Chỉ có một đứa con, mà là con mất mẹ, ông Tám cưng Nhan vô cùng, vì thế nên nàng tríu mến cha y như là tríu mến mẹ. Nên chi nàng đã âm thầm đau khổ nhiều sau cuộc khám phá đó, phần lo sợ cho an ninh của cha, phần ngại cho danh dự của gia đình vì ông Tám Huỳnh đă được thiên hạ kính nể bởi nếp sống ra mặt của ông, không có vết nhơ và không ai biết đời sống thứ nhì bí ẩn của ông hết.  Nhan đi nằm nhưng trằn trọc mãi không sao nhắm mắt được. Nàng lắng tai nghe mưa gió và hình dung ra người cha già đang lướt đi dưới phong vũ, trong bóng đêm, có thể lâm nguy bất cứ vào lúc nào.  Nàng xấu hổ mà nghĩ rằng tiền nàng ăn xài từ thuở giờ do một nguồn lợi bất chính mà ra, và thầm trách cha đã làm xằng. Tuy nhiên đêm nay, như bao đêm rồi, rốt cuộc Nhan vẫn tha thứ cho cha vì có bằng cớ hiển nhiên là ông Tám đã không muốn thế và chỉ bị hoàn cảnh đẩy đưa vào đó thôi. Mời các bạn đón đọc Nửa Đêm Trảng Sụp của tác giả Bình Nguyên Lộc.