Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hai làng Tà Pình và Động Hía

“Hai làng Tả Phình và Động Hía” kể về tình bạn của một cậu bé người Mán và một cậu bé người Mèo ở vùng cao Tây Bắc vào những năm 1950. Hai làng có mối hiềm khích không sao hóa giải, nhưng tình bạn trong sáng của tuổi thơ đã kết nối tình thân giữa các gia đình, dân tộc anh em trong những năm tháng kháng chiến. Đây là tác phẩm nổi tiếng một thời được nhà văn Bắc Thôn viết trước ngày lên đường ra mặt trận. Đây cũng là tặng vật gửi tặng bạn độc nhỏ tuổi của người chiến sĩ – liệt sĩ, với ước muốn các em thêm hiểu, thêm yêu đất nước, quê hương. *** Hôm nay, tôi kể cho các bạn thân mến câu chuyện Tà Pình và Động Hía. Trước khi vào chuyện, tốt hơn hết là tôi kể ngay cho các bạn một đoạn cần thiết của câu chuyện. Trên các miền rừng núi, người Mèo và người Mán thường ở rất cao. Mãi tận đỉnh núi hay mãi tít mây xanh cũng được. Người ta gọi đó là những rẻo cao hẻo lánh của Tổ quốc chúng ta. Hồi nước ta chưa độc lập, giặc Pháp còn cai trị, nhân dân các bản ít giao thiệp với nhau. Phần vì đường xa lắm dốc, phần vì cũng chẳng có chợ búa, phố phường gì mà buôn bán, trao đổi. Người Mèo với người Mèo đã như vậy. Người Mèo và người Mán lại càng xa nhau hơn nữa. Thường có những chuyện thù hằn hàng mấy đời để lại. Có khi làm lễ ăn thề cúng ma rừng ma núi mà nguyền rủa lẫn nhau. Tà Pình và Động Hía cũng như vậy. Hai làng cách nhau nào có bao xa. Chỉ bốn khoảnh đồi cỏ là đến. Một con ngựa của người Tà Pình thả ra ăn cỏ thuận chân hoặc chú ngựa mải ăn một tí, chỉ một tí thôi là nhảng vó sang đất Động Hía của người Mán. Làng Mèo Tà Pình và làng Mán Động Hía cũng giống như các làng Mèo làng Mán khác, thường có những người cầm đầu. Người cầm đầu làng Mèo gọi là thống lý. Người cầm đầu động Mán thường là dòng họ Lý, họ Triệu, làm vua các người Mán khắp nơi. Trước khi xảy ra câu chuyện tôi sắp kể vào khoảng hai ba đời gì đó, có một con ngựa của nhà thống lý họ Hoàng. Con ngựa này đẹp thật. Trước kia nó không phải là giống ngựa nhà thống lý họ Hoàng. Nó là của một gia đình họ Vừ. Anh ta có con ngựa đẹp nhưng lại không phải là thống lý nên khó giữ ngựa ở trong nhà. Một hôm, ngựa của anh đi qua nhà thống lý họ Hoàng. Thống lý họ Hoàng đang đứng phanh bụng ở trước cửa. Chòm tóc của lão ta đã bạc nhưng người còn rất khoẻ. Lão ta đứng chống háng, ngậm cái tẩu thuốc bào dài dằng dặc, vừa hút thuốc vừa nheo mắt nhìn con ngựa. Thế là ngày mai, lão ta cho người sang “xin”. Anh họ Vừ bụng tiếc của nhưng miệng vẫn phải cười, dắt ngựa sang nhà thống lý họ Hoàng. Lão gật gật gù gù làm ra chiều đon đả, vui mừng. Thống lý trả cho chén tống muối đem về. Từ đó thống lý rất chăm chuốt con ngựa. Chú ngựa tốt số sang nhà thống lý ngày một khoẻ đẹp. Lông hồng mượt như nhung. Thống lý quý con ngựa như vàng. Một hôm con ngựa được thả ra ăn cỏ. Ngựa lững thững, vẫy đuôi. Đầu nó cúi xuống gặm cỏ soàn soạt. Dáng nó cũng đủng đỉnh như con nhà quan vậy. Ngựa ăn cỏ non ngon miệng đi quá cả gốc cây bứa làm ranh giới chia hai làng Tà Pình và Động Hía. Ngựa đạp bừa, nhai nát nương dưa của vua Mán họ Lý ở Động Hía. Cũng là lúc mẹ vua Mán họ Lý đi thăm nương, thấy vậy đỏ mắt lên. Cái mặt nhăn nheo của người già dúm lại. Con mắt quắc lên như nảy lửa. Mẹ vua Mán rút con dao rừng đeo ở cạnh sườn, chém liền hai nhát vào đầu gối vó ngựa sau. Con ngựa co một chân lọc xọc chạy về tàu. Đầu nó gác lên một gióng gỗ nhưng chân không hạ xuống được nữa, máu chảy ròng ròng. Con trai thống lý thấy ngựa bị người chém què, tiếc ngựa khóc lên hu hu. Hắn ta bảo vợ lấy cái nỏ và mũi tên thuốc độc, giắt lên mang tai lần theo vết máu ngựa mà tìm. Lúc bấy giờ mẹ vua Mán chém con ngựa xong cũng chẳng buồn dọn lại dưa, quay về. Chẳng may có chị con gái nhà thường dân ở Động Hía đi hái chè trong rừng vừa tới nơi thì gặp con trai thống lý bên kia cây bứa. Con trai thống lý tì nỏ vào bụng, dán dây và bật tách một cái trúng ngay ngực chị con gái Mán. Chị ta nghiến răng vừa chạy về vừa rút mũi tên ra. Thuốc độc ngấm trong máu, chạy vào tim. Tới khe nước đầu động, chị uống một hụm, rồi cố chạy được tới động thì lảo đảo ngã gục xuống, tay còn nắm chặt mũi tên của người Mèo. Thế là hai làng thù nhau từ đời này qua đời khác chỉ vì cái chuyện giữa nhà thống lý Mèo và nhà vua Mán mà thôi. Cây bứa lâu đời vẫn chưa đổ, giờ nó già cỗi cao chon von. Cho tới năm 1948. Giặc Pháp chiếm dưới chân núi, bắn súng cối lên nương người Mán, nương người Mèo. Có lần liền mấy nương dưa của người Mán bị đạn phá tung lên hỏng cả. Nương thuốc phiện của người Mèo đẹp như những cánh đồng hoa cũng bị nát. Cả hai làng Tà Pình và Động Hía đều không thích thằng Pháp. Mấy lần liền, cán bộ Cụ Hồ lên dạy người Mán đánh giặc giữ làng, tăng gia sản xuất. Thiếu niên Mán tổ chức thành một đội liên lạc. Cán bộ biết câu chuyện thù hằn giữa Tà Pình và Động Hía, đem ra giải thích, khuyên dân Mán nên đoàn kết với người Mèo. Người Mán mới đầu không nghe, sau dần dần cán bộ nói: Cụ Hồ bảo: Kinh, Thổ, Thái, Mán, Mèo, Mường là anh em một nhà. Câu chuyện thù hằn kia không tốt. Đáng lẽ là việc của hai nhà thống lý Mèo và vua Mán là chính, sao lại liên lụy đến dân hai làng. Chồng nghe được cho là phải, về nói với vợ, vợ về nói với con cái. Thiếu niên nghe được cũng đem ra nói với nhau. Ai cũng khen cán bộ nói phải. Làng Mán đã muốn làm lành với làng Mèo, nhưng họ nhà vua Mán không bằng lòng. Người Mán có người nghĩ rằng: Nếu cán bộ vào được làng Mèo mà nói, thì người Mèo cũng hiểu được như người Mán. Rồi sau đó, cán bộ từ làng Mán sang làng Mèo cũng làm như vậy. Nhưng thống lý dòng dõi họ Hoàng lắc đầu quầy quậy. Hắn hút cái tẩu thuốc lá dài, mắt lim dim, nói: - Mán Động Hía mang cán bộ về, sau này cán bộ đem bộ đội lên bênh nó giết người Mèo ta đó. Có lần hắn nói: - Cán bộ khinh người Mèo, đến với người Mán trước. Người ta bàn tán: - Không biết ông thống lý nói có thật không? Hắn nheo mắt, đập cái trôn chén xuống sàn. - Bảo sao? Bảo sao? Thế là mọi người lại im và quá tin lời thống lý, người Mèo lại đuổi cán bộ, chưa muốn làm lành với người Mán. Câu chuyện tôi bắt đầu sau đây, các bạn ạ, nó vào giữa lúc đó. Và, đây mới thật là câu chuyện mà các bạn cần biết kỹ, nó mới là câu chuyên chính mà tôi kể cho các bạn nghe. Mời các bạn đến Tà Pình trước. * * * Buổi sáng. Mặt trời lên ửng đỏ trên các ngọn núi trước mặt. Nhưng ngọn đồi cỏ lau ngút đầu và con đường đá dăm đất đỏ còn ẩm sương sớm. Vừ A Sình tỉnh dậy. Cậu bé mở hai con mất ra đã nghe thấy tiếng xay ngô ù ù. Cậu nhảy tót ra ngoài cửa, lấy tay hứng vòi nước đắp lên mặt. Bỗng nhiên một đàn chim từ mái nhà bay vù vù về phía Động Hía. Vừa bay vừa hót “Chà chích, chà chích”. Sình khoanh tay trước ngực, đứng phưỡn cái bụng phệ trắng hếu ra nhìn. Sình nói một mình: - Nhiều con chim. Sao nó không ở Tà Pình mà lại bay về phía Động Hía? Tao bắt được một con thì thích quá. Nói một mình như vậy, cậu nâng vạt áo lên lau mặt. Nghĩ một lát, cậu vò chỏm tóc như một chiếc áo búp đa nằm trên đầu, chạy thụt ngay vào trong nhà. Mẹ cậu đang xay ngô. Cái váy hàng trăm nếp của bà rung rinh. Bà thấy con đang xách cái lồng chim từ trên vách xuống. Đó là một cái lồng bẫy. Bên trong con chim mồi nhảy lách cách, lách cách. Bà hét lên cho to hơn tiếng cối xay: - Mày đi chơi à, lại bắt con chim à? Sình vừa sửa cái lồng vừa trả lời mẹ: - Tôi đi bắt con chim chứ! - Dề. Mày bắt chim, Tây nó lên mày chạy sao kịp, Sình à? - Tôi chạy kịp chứ. Nó đến Mán Động Hía trước chứ. - Ờ, mày đi cho gần cũng có con chim đấy. Mày đừng sang quá đất Tà Pình. Mán Động Hía nó giết chết đấy. Nó chém cho đấy. Sình chưa nghe hết lời mẹ, cậu xách cái lồng chạy ton ton về phía có đàn chim bay. Bà mẹ buông tay cối, lật đật ra cửa. Thấy con chạy về phía Động Hía, bà dang thẳng hai tay lên trời, cúi gập người xuống, chân giậm bành bạch, bà hét lên: - Sang phía rừng ăn măng này này. Mày sang Mán nó chém chết. Cậu bé nghe mẹ hét, lảng vảng, đi từ từ sang phía rừng măng. Bà mẹ thấy vậy mới yên tâm quay vào, lại xay ngô ù ù. Cậu bé thấy mẹ vào rồi thì len lén, co chân lên thật cao, rón rén quay lại rồi ù té chạy về phía Động Hía. Bà mẹ cứ tưởng con đi về phía rừng ăn măng nên không nhìn ra nữa. Sình chạy khuất một khoảnh đồi. Cậu yên trí đi từ từ. Miệng cậu chúm lại hót sáo theo tiếng chim. Con chim mồi trong lồng cành cạch nhảy hót theo. Đi được một quãng thì đã vắng tanh. Bờ cỏ lặng lẽ như một nơi bỏ hoang từ lâu đời. Con chim hú hò nào bỗng dưng kêu bạn giữa ban ngay làm cho cậu bắt đầu sợ. Cậu lẩm bẩm một mình: - Thằng Mán nó chém tao thì tao chết à? Tiếng chim trong lồng lại hót lên “chà chích, chà chích”. Tiếng chim trong vắt như khêu gợi làm cho cậu chúm mồm hót theo. Rồi cậu lẩm bẩm: - Tao thấy nó thì tao chạy chứ. Con chim nó bay về phía ấy mà. Nó chỉ ở gần vườn chè của thằng Mán thôi. Thế là Sình lại đi. Cây bứa đã sờ sờ trước mắt. Cây bứa từ mấy đời trước là cái mốc ngăn cách hai láng Tà Pình và Động Hía bây giờ vẫn còn. Cậu bé dừng ngay lại, nhìn quanh. Mấy cây thâm thấp ngay cạnh đường là chỗ Sình có thể treo lồng chim được rồi. Cậu chuẩn bị lạt và buộc lồng chim lên một cành cây. Cậu mở ngăn bẫy ra, rồi thử mấy cái. Cửa lồng vẫn tốt. Cậu liền ngồi núp vào một bụi cây dại. Mồm hót sáo theo tiếng chim. Con chim mồi cũng hót theo. Mấy con chim nghe thấy tiếng hót, từ trên cành cao nhảy dần xuống thấp. Trống ngực Sình đập thình thình. Nhưng lũ chim chẳng vào lồng cho. Chúng cứ nhảy loanh quanh. Bỗng dưng “cách” một cái. Không phải lũ chim dại dột đã mắc cạm của Sình mà chính con chim mồi đã nhoi ra từ lúc nào. Sợi dây buộc chân làm vướng cánh nên nó chỉ nhảy chứ không bay được. Con chim nhảy xuống mặt đường, cố vươn cánh lên mà bay. Cái chân nó chỉ bổng lên chút ít rồi lại sà xuống. Cậu bé Mèo hoảng hốt. Từ trong bụi cây, cậu nhảy xổ ra đuổi con chim. Mấy lần cậu lao cả thân cậu xuống bờ cỏ mà đuổi nhưng con chim chưa bị nắm trong tay cậu. Nó vẫn loạng choạng chưa cất nổi cánh. Cậu vừa đuổi vừa vồ, vừa nói một mình: - Mày bay à, tao bắt mày, tao bắt được mày. Con chim thoắt chốc bỗng lao sang bên kia cây bứa. Thôi thế là đất Động Hía rồi. Sình bỗng dưng thừ người ra. Cậu xoa xoa cái bụng: “Tao sang bắt chim à? Thằng Mán nó chém tao chết. Tao mất chim thì tao tiếc lắm.” Sình định bước bạo sang. Nhưng rồi cậu không dám: Con chim bay loạng choạng vài khúc nhỏ, rồi nằm nép mình trong một bụi cây. Mời các bạn đón đọc Hai làng Tà Pình và Động Hía của tác gải Bắc Thôn.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tiếng Nói Của Con Tim - Danielle Steel
“Nàng cảm thấy rất kỳ cục, khi đã có thai 5 tháng mà làm tình với người đàn ông không phải chồng mình. Nhưng nàng cứ làm thôi, vì nàng đã quá yêu chàng mà không biết bày tỏ tình yêu ấy như thế nào. ... - Anh muốn ghi tên anh trên giấy khai sinh của em bé – Bill cương quyết nói - Ghi Samuel William Thigpen được không? – Nàng nối đầy đủ họ tên, rồi cười e thẹn. Chàng nghiêng qua hôn nàng. - Sẽ ghi đầy đủ như thế - Chàng cười - sẽ ghi như thế - chàng kéo nàng sát vào người chàng, cảm thấy tim nàng đập mạnh bên tim mình, hai trái tim cùng hoà nhịp đập”. *** Danielle Steel, tác giả "Bây giờ và mãi mãi" là tiểu thuyết gia của hơn 500 triệu bản sách được tiêu thụ trên toàn thế giới, đem lại cho bà gia tài trị giá hàng trăm triệu USD. Nhưng khi còn nhỏ, Danielle chỉ mong trở thành người dốc lòng phụng sự Chúa. Kế hoạch triển khai một cuộc sống thanh đạm và khổ hạnh của Danielle Steel sụp đổ hoàn toàn khi bà kết hôn vào năm 17 tuổi và bắt đầu viết lách sau đó hai năm. Đến nay, ở tuổi, ở tuổi 60, nhà văn sắp sửa xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ 72 có tiêu đề Honor Thyself. Danielle Steel sinh năm 1947 tại New York. Bà là nhà văn có bút lực dồi dào và đặc biệt thành công về mặt thương mại. Tác phẩm của bà thường xuyên xuất hiện trên danh sách best-seller của The New York Times. Những tiểu thuyết của Steel đã được xuất bản và dịch tại Việt Nam, gồm có: Now And Forever (Bây giờ và mãi mãi), The Ring (Chiếc nhẫn tình yêu), Second Chance (Cơ hội thứ hai), Five Days In Paris (5 ngày ở Paris) Ánh Sao Chiều Bóng Hình Hẹn Yêu Lối Về Một Thời Say Đắm Ngôi Sao Lầm Lỗi Annabelle Người Phụ Nữ Tuyệt Vời Những Trái Tim Vàng Ba Chàng Độc Thân Tình Khúc Mùa Thu Tiền Chuộc Mạng Sự Huyền Diệu của Tình Yêu Bẫy Tình Muôn Nẻo Đường Tình Thỏa Niềm Nguyện Ước Sóng Tình Phương Nam Bến Cũ Chị Em Gái Tình Yêu Cuối Cùng Hơn Cả Ước Mơ Người Vợ Người Tình Đến Rồi Bến Đợi Một Chặng Đường Dài Bến Bờ Tình Yêu Tiếng Nói Của Con Tim Nối Lại Tình Xưa Những Cánh Hoa Lạc Loài Nỗi Buồn Số Phận Âm Vang Ngày Cũ Cánh Đại Bàng Đơn Độc Quỷ Ám Tình Hè Rực Lửa Căn Nhà Trên Phố Hi Vọng Người Đàn Ông Tuyệt Vời ... Mời các bạn đón đọc Tiếng Nói Của Con Tim của tác giả Danielle Steel.
Nhật Ký Kẻ Mị Tình - Soren Kierkegaard
Bước vào Nhật ký kẻ mị tình là bước vào một biển mơ, đắm đuối trong bầu không khí Tình, ngụp lặn trong Tình, tưởng chừng như con người sống chỉ có một mục đích duy nhất là tình, không có gì cưỡng lại nổi mối tình đang ngày một lớn lên ấy. Johannes vừa là kẻ mị tình, vừa là kẻ bị tình mị, là kẻ đi cám dỗ rồi để bản thân mình bị cám dỗ, lưu đày tâm trí trong cõi yêu đương. Ẩn sâu trong biển tình ấy, tài năng của Kierkegaard còn những kiến thức về văn hóa, triết học, lịch sử bằng một hệ thống ngôn ngữ văn chương thơ mộng. Đó cũng là mầm mống cho những phát triển tư tưởng triết học nghệ thuật của Kierkegaard sau này, và là điểm đặc biệt khiến Kierkegaard luôn được xem là một người làm nên nền triết học chủ quan và nặng tính thẩm mỹ. Kierkegaard được sinh ra tại Copenhagen, Đan Mạch trong một gia đình dòng dõi giàu có. Ông thừa hưởng tính khí u sầu từ cha mình và trải qua một tuổi trẻ bất hạnh. Cả cuộc đời ông chưa từng làm bất kỳ một công việc nào, chỉ tập trung vào sự nghiệp văn chương và triết học. Cả đời Kierkegaard mang trong mình mối si tình lãng mạn với Regine Olsen, nhưng khi đã hứa hôn, ông lại rơi vào trạng thái hoang mang và xin từ bỏ hôn ước, mặc dù cả hai thừa nhận vẫn còn yêu nhau tha thiết. Regine Olsen đi lấy chồng, và Kierkegaard mang trong mình nỗi sầu khổ vĩnh viễn về mối tình dang dở này. *** Soren Kierkegaard sinh ngày 05/05/1813 tại Copenhagen, Đan Mạch. Ông là con út trong một gia đình có 7 người con. Khi S. Kierkegaard ra đời thì cha đã 56 tuổi và mẹ đã 45 nên ông thường nhận mình là một đứa con nít trong một gia đình già.  1830 – 1841: Thời gian học Đại học Copenhagen vật vã kéo dài trong 11 năm, mãi đến năm thứ 10, Kier mới vượt qua được kỳ thi tốt nghiệp môn thần học. Trong thời gian này, lần lượt cha mẹ và 3 anh chị khác trong gia đình Kier qua đời.  1841 từ hôn Regine Olsen và cũng là năm hoàn thành luận văn “On the Concept of Irony with constant reference to Socrates” (Om Begrebet Ironi med stadigt Hensyn til Socrates). Hàng loạt các tác phẩm ra đời bắt đầu từ đây.  1843: Xuất bản “Cũng – Hoặc: Một quãng đời” (Either-Or: A Fragment of Life/Enten-Eller. Et Livs-Fragment).  Ý kiến Kierkegaard chính thức về đời thể hiện lần cuối qua “Khoảnh khắc” (The Instant/jeblikket) với 9 chương, chương thứ 10 đang sẵn sàng đem công bố thì Kierkegaard gục ngã trên đường phố. Ông được đưa đến bệnh viện và chết ngay sau đó trong tình trạng kiệt lực vì công việc. Hôm đó là ngày 11 tháng 11 năm 1855, Soren Kierkegaard hưởng dương 42 tuổi.  Lúc còn sống, không mấy ai biết về ông. Kierkegaard chỉ được nhìn nhận là “Socrate của Đan Mạch”, là thủ lĩnh Anti-Hégel sau khi đã qua đời. Toàn bộ sự nghiệp của Kierkegaard có gần 30 tác phẩm triết học, thần học, tâm lý học cùng khoảng 10 quyển truyện ngắn. Kierkegaard đã làm một cuộc cách mạng về lý luận chống cái “phổ biến”, ‘hệ thống” bằng một sự thể hiện đa dạng và phức tạp về những khao khát và cảm xúc cá nhân.  Tuy nhiên khi còn sống, những đóng góp của Kierkegaard về chính trị và xã hội chẳng được xem trọng. Kier là một nhà tư tưởng phi chính trị, những va chạm của Kier với các hệ thống quyền lực chưa đủ sức gây nên sóng gió trong xã hội như các hậu bối sau này của triết thuyết Hiện sinh. Những va chạm với hệ thống giáo quyền Tin lành Đan Mạch không hề ảnh hưởng đến việc một anh trai của Kier: P.C. Kier trở thành một giám mục.  *** Không, tôi không thể che giấu với chính mình nỗi lo âu khó bề kiềm chế đã bám riết lấy tôi vào giây phút này, khi tôi quyết định vì lợi ích của riêng mình mà viết lại lần nữa cho chính xác và dễ đọc cái bản sao ngày trước tôi có được nhờ chép lại một cách cực kỳ vội vàng và trong trạng thái hết sức bất an. Giờ thì cũng giống như trước đây, tôi vẫn cảm thấy không yên lòng chút nào và như bị ai đó chê trách. Trái với thói quen, anh ta đã không khóa tủ bàn giấy; nhờ vậy mà mọi thứ trong đó tôi có thể tùy nghi sử dụng. Nhưng có ích gì đâu khi muốn che đậy hành vi không mấy hay ho này của tôi bằng cách nhắc nhở trong đầu là tự mình đã không mở ra ngăn kéo nào cả. Một ngăn kéo đã mở sẵn đó mà: cả một đống giấy tờ rời rạc nhưng nằm bên trên là một quyển khổ bốn được đóng rất đẹp. Trang bìa được trang trí với một họa tiết màu trắng, trên đó chính tay anh ta đã viết: Commentarius perpetuus [13] số 4 . Thế nhưng, thật vô ích khi tôi cố gắng tự dối mình bằng cách nghĩ rằng, nếu bìa trước của nó không nằm ở trên, và nếu cái tựa đề nổi bật đó không cám dỗ tôi, thì tôi hẳn đã không sa ngã hay ít ra tôi đã chống chọi lại sự cám dỗ đó. Cái tựa đề tự nó đã là kỳ lạ, song lại còn kỳ lạ vì những thứ xung quanh nó hơn là chính nó. Chỉ cần liếc mắt nhìn vội qua các tờ giấy rời rạc đó tôi biết ngay là chúng bao gồm những ấn tượng đến từ các tình cảnh gợi dục, những lời lẽ gợi ý về mối quan hệ nào đó, những bức thư cùng một loại đặc biệt mới được thảo ra mà sau này tôi trở nên quen thuộc với phong cách của chúng, hờ hững, vô tình một cách có tính toán, và lại được viết có nghệ thuật nữa chứ. Vào giây phút này đây, sau khi thấy hết cái tâm địa ưa bày mưu tính kế của tên đàn ông bại hoại này, khi tôi nhớ lại cái hoàn cảnh đó, đôi mắt mở to cảnh giác với mọi ngón nghề xảo trá, ấy là nói như vậy, khi lại gần cái ngăn kéo đó, tôi có cảm giác giống như một người cảnh sát hẳn phải có khi ông ta vào phòng một tên làm giấy tờ giả, xem xét kỹ đồ này, thứ kia của hắn, và tìm ra trong ngăn kéo một đống giấy tờ rời rạc từng được dùng để viết nháp, vẽ nháp; trên tờ này thì có một hình vẽ trang trí nhỏ, trên tờ kia, hai chữ viết lồng nhau, và trên tờ thứ ba, một hàng chữ viết ngược. Tất cả các thứ này dễ dàng chỉ ra là ông ta đang theo đúng hướng tìm, và ông ta thì vừa thấy thích thú thực sự, vừa thấy thán phục mơ hồ trước những nỗ lực và sự cần cù hiển nhiên ở đây. Vì không quen với việc phát hiện các tội ác và không trang bị với phù hiệu cảnh sát, tôi hẳn sẽ phản ứng khác với ông ta. Cái cảm tưởng mình đang dấn vào một việc bất chính hẳn sẽ đè nặng lên lương tâm tôi. Vào lúc đó, tôi thấy mình thiếu hụt ý tưởng bao nhiêu thì cũng thấy mình thiếu hụt chữ nghĩa bấy nhiêu, thường thường là như vậy đó. Ta bỗng nhiên thấy kinh sợ khi có một cảm tưởng nào đó cho đến khi sự suy nghĩ trong đầu ta được khai thông thêm một lần nữa, và bằng những sự vận động đa dạng và khéo léo, nó trò chuyện, vỗ về người xa lạ không ai biết đó rồi nó len lỏi vào tâm trí người đó. Sự suy nghĩ này càng khai triển hơn thì nó tự trấn tĩnh càng nhanh chóng hơn; tương tự như một viên chức kiểm tra hộ chiếu khách nước ngoài ở cửa khẩu, sự suy nghĩ trở nên quen thuộc với những khuôn mặt hay tính cách lạ lùng nhất, khó tin nhất, đến mức không dễ gì làm cho nó bị ngỡ ngàng nữa. Mặc dù sự suy nghĩ của tôi, thực tình mà nói, là đã phát triển cao độ, thế mà ban đầu tôi cũng bị ngạc nhiên quá cỡ. Tôi nhớ rất rõ là mình đã tái mặt, gần như ngất xỉu, và bởi vậy, tôi đã lo sợ biết bao. Giả dụ là anh ta về nhà lúc này, thấy ra tôi nằm bất tỉnh dưới đất mà tay còn cầm cái ngăn kéo - a! một lương tâm bứt rứt, quả thật, thì có thể làm cho cuộc đời trở nên lý thú đó. ... Mời các bạn đón đọc Nhật Ký Kẻ Mị Tình của tác giả Soren Kierkegaard.
Kẻ Phá Đám - Julie Garwood
Tình yêu giữa Paul và Avery phát triển theo tiến trình của cuộc điều tra và cuối cùng được thăng hoa khi vụ án kết thúc. Tiếng nói của con tim đâu cần lý trí, tình yêu đến với hai con người dám nghĩ dám làm là điều tất yếu. Với những tình tiết hấp dẫn lôi cuốn, tác giả sẽ đưa chúng ta vào những khám phá, những rượt đuổi trốn tìm ngoạn mục. Để khi cuộc chơi kết thúc, người đọc chợt nhận ra: Phải chăng giá trị của con người là những xa hoa phù phiếm hay là một thứ gì khác? *** Đôi điều về tác giả: Julie Garwood là một tác giả người Mỹ khá thành công ở thể loại tiểu thuyết lãng mạn với hơn 27 đầu sách, 35 triệu bản in được phát hành trên khắp thế giới. Các tác phẩm của Julie thường xuyên góp mặt trong danh sách best-seller của New York Times. Julie viết cả tiểu thuyết lịch sử - lãng mạn lẫn hiện đại lãng mạn pha trộn sự hồi hộp, gay cấn. Bên cạnh Gentle warrior (Chiến binh nhân từ); A girl named summer (Cô nàng mùa hè); Prince Charming (Hoàng tử trong mơ); các series: Crown's Spies (Những chàng điệp viên hoàng gia); Lairds' Brides (Những nàng dâu quý tộc); Highlands' Lairds (Những quý tộc miền cao nguyên)...The Secret (Điều bí mật) là một trong những tác phẩm xuất sắc của Julie Garwood. *** Sách đã xuất bản và dịch tại Việt nam: Món Quà Tình Yêu Lâu Đài Hạnh Phúc Thiên Thần Hộ Mệnh Danh Dự Huy Hoàng Cô Nàng Sư Tử Rebellious Desire Kẻ Phá Đám Điều Bí Mật Sizzle The Ideal Man Shadow Music *** Mẹ của Avery Alizabeth Delaney là một người điên loạn. May là mẹ cô, Jilly, đã bỏ đi đâu mất tích sau ngày Avery ra đời ba hôm. Avery được bà ngoại Lola và dì Carrie nuôi nấng. Ba thế hệ đàn bà sống yên lành, đạm bạc trong một ngôi nhà có khung gỗ hai tầng trên phố Barnett chỉ cách quảng trường thành phố Seldon Veach , Florida , hai khu phố. Không khí ở khu phố Barnnett rất khác sau khi Jilly bỏ nhà ra đi. Căn hộ trước đây thường ồn ào náo nhiệt, bây giờ yên tĩnh. Thậm chí Carrie đã biết cười trở lại, và suốt năm năm tuyệt diệu, cuộc sống rất an lành bình dị. Tuy nhiên những năm về trước khi còn Jilly ở nhà, bà ngoại Lola hết sức khổ sở vì chị ta. Bà có con khi đã lớn tuổi, cái tuổi tri thiên mệnh, cho nên bây giờ bà đã già yếu, mệt mỏi. Ngày Avery lên năm, Lola đã bắt đầu đau ngực. Vào ngày sinh nhật của bé, bà phủ cái trứng lên cái bánh sinh nhật cho cháu, nhưng vừa làm được nửa đã phải ngồi nghỉ một lát mới làm tiếp được. Lola không cho ai biết về bệnh tình của mình, bà không đi đến ông bác sĩ quen thuộc của bà ở Sheldon Beach , vì bà không tin ông ta kín miệng. Thế nào ông ta cũng nói cho Carrie biết về bệnh tình của bà. Bà đã hẹn với một ông bác sĩ chuyên khoa về tim mạch ở Savannah , rồi lái xe đến đấy để gặp ông ta. Sau khi đã khám rất cẩn thận, ông cho biết bệnh tình của bà rất nghiêm trọng. Ông kê đơn cho thuốc uống giảm đau và trợ tim, khuyên bà đi đứng chậm lại và với một giọng rất nhẹ nhàng, ông nói rằng bà phải bớt làm việc. Lola không đếm xỉa gì đến lời khuyên của bác sĩ. Ông bác sĩ gà mờ ấy biết gì mà nói? Có thể một chân bà đã nằm dưới mồ, nhưng lạy Chúa, chân kia bà phải cố đứng cho thật vững ở trên mặt đất. Bà còn đứa cháu ngoại phải nuôi, và bà sẽ không đi đâu hết nếu chưa làm xong công việc. Lola có tài giả vờ mình có sức khỏe tốt rất giỏi.Bà đã hoàn thiện cái biệt tài ấy trong những năm rối rắm vì lo kiểm soát Jilly. Khi ở Savannah trở về, bà cố tin mình khỏe như bò mộng.Và quả đúng như thế. Bà ngoại Lola từ chối không nói gì về Jilly, nhưng Avery muốn biết hết những chuyện về chị ta.Bất cứ khi nào cô bé hỏi về mẹ mình, là bà ngoại cô mím môi rồi trả lời như mọi khi: - “Ta ước sao cho nó tốt. Ta ước sao cho nó hoàn toàn tốt”. – Rồi không để cho Avery có thì giờ hỏi tiếp, bà chuyển sang vấn đề khác. Dĩ nhiên đấy không phải là câu trả lời thỏa đáng nhất là đối với một em bé năm tuổi hiếu kỳ.Cách duy nhất mà Avery có thể biết đôi chút về mẹ em là hỏi dì em. Carrie thích nói về Jilly, cô không hề quên bất cứ hành động xấu xa nào của chị cô , và vì thế mà tội lỗi của mẹ Avery chồng chất như núi. ... Mời các bạn đón đọc Kẻ Phá Đám của tác giả Julie Garwood.
Ếch - Mạc Ngôn
“ẾCH” do NXB Văn nghệ Thượng Hải xuất bản, vừa phát hành tại Trung Quốc vào những ngày cuối tháng 12 này, đã nhanh chóng thu hút đông đảo độc giả Trung Quốc và dấy lên làn sóng tò mò háo hức của độc giả nhiều nước vốn mê thích truyện của Mạc Ngôn. Cuốn sách xoay quanh cuộc đời và công việc của nhân vật chính – một nữ bác sĩ chuyên đỡ đẻ ở khắp nông thôn Cao Mật, phải chuyển sang nghề thắt ống dẫn tinh cho nam giới và nạo phá thai. Đây là một đề tài cực kỳ hiếm hoi trong văn học, được nhà văn Mạc Ngôn miêu tả vô cùng khéo léo và đầy kịch tính. Cuốn sách như một bức tranh xã hội sâu sắc ở Trung Quốc, phản ánh được những tác động của chính sách kế hoạch hóa gia đình kéo dài hơn 30 năm tới cuộc sống của người dân nước này. *** Mạc Ngôn, nhà văn giành giải Nobel Văn học 2012, đã sáng tác cuốn “Ếch” như một lời xin lỗi gửi tới vợ vì từng yêu cầu vợ phá thai. Mạc Ngôn đã chia sẻ câu chuyện này trong một cuộc phỏng vấn tại Bắc Kinh với tờ tạp chí của Đức - Der Spiegel. Ngay trước khi cuốn tiểu thuyết “Ếch” được xuất bản tại Đức, đại diện tạp chí Der Spiegel đã tới phỏng vấn Mạc Ngôn để biết thêm thông tin về sự ra đời của cuốn sách. “Ếch” được coi là cuốn sách dữ dội nhất của Mạc Ngôn trong việc khắc họa hình ảnh quan chức Trung Quốc ở vùng nông thôn. Trong quá trình thực thi triệt để chính sách một con tại địa phương mình, họ hiện lên thật đáng sợ. Tác giả cho biết ông đã dùng chính những trải nghiệm của dì ruột (người dì này của ông sinh tới 4 người con) cũng như trải nghiệm của chính vợ chồng ông để viết nên tác phẩm “Ếch”: “Trung Quốc đã trải qua những thay đổi dữ dội trong vài thập kỷ qua, thay đổi đến nỗi nhiều người cảm thấy mình như thể nạn nhân của thời cuộc xoay vần. Tuy vậy, rất ít người quan tâm và tự hỏi: Trong cuộc xoay vần đó, có bao giờ vì những khó khăn của bản thân mà mình đã làm tổn thương người khác. Tác phẩm “Ếch” trả lời cho câu hỏi đó, nó nói về trách nhiệm của mỗi con người trong cuộc sống. Tôi đã có lúc bảo vợ đi phá thai vì tương lai của mình. Hành động đó cho tới nay vẫn khiến tôi cảm thấy mình có lỗi.” Mạc Ngôn cho biết ông viết tác phẩm “Ếch” như một cách để tự dằn vặt, trách cứ mình và xin lỗi vợ. Tuy vậy, vợ Mạc Ngôn chưa từng đọc cuốn sách. “Tôi đã dặn cô ấy đừng đọc bởi nếu thử đọc, cô ấy sẽ lại phát điên lên với tôi vì những gì tôi viết trong đó. Không phải tất cả mọi điều tôi viết trong truyện đều xảy ra trong gia đình nhà dì và nhà tôi. Tôi thêm cả những câu chuyện được nghe chính các bác sĩ kể lại nữa.” Mạc Ngôn đã gián tiếp chỉ trích chính sách một con của Trung Quốc trong tác phẩm này: “Là một người cha, tôi luôn nghĩ rằng mọi người được quyền tự quyết định mình sinh bao nhiêu con. Nhưng là một công chức, tôi phải tuân thủ luật định, chỉ sinh một con thôi, không thể nhiều hơn. Vấn đề dân số của Trung Quốc không dễ gì mà giải quyết được. Và tôi cũng chắc chắn một điều rằng: Không ai được phép sử dụng bạo lực để ngăn một người nào đó sinh thêm con.” *** Mạc Ngôn tên thật là Quản Mạc Nghiệp, sinh năm 1955 tại Cao Mật tỉnh Sơn Đông. Là tác giả tạo nên cơn sốt văn học Trung Quốc tại Việt Nam thông qua một loạt các tiểu thuyết được chuyển ngữ và xuất bản từ thập kỷ trước như Cao lương đỏ, Báu vật của đời, Đàn hương hình, Cây tỏi nổi giận… Mạc Ngôn đã để lại dấn ấn sâu đậm trong lòng độc giả bởi tài năng văn chương không thể phủ nhận. Giải thưởng Nobel Văn học năm 2012 một lần nữa khẳng định địa vị quan trọng của Mạc Ngôn trong nền văn học thế kỷ 20 của Trung Quốc nói riêng và thế giới nói chung. Tác phẩm chính Báu vật của đời, nguyên tác: Phong nhũ phì đồn (丰乳肥臀), (1995) Cao lương đỏ, nguyên tác: Hồng cao lương gia tộc (红高粱家族), (1998) Đàn hương hình (檀香刑). Cây tỏi nổi giận (Bài ca củ tỏi Thiên Đường) Củ cải đỏ trong suốt. Rừng xanh lá đỏ (Rừng vẹt) Tửu quốc (Rượu chảy như suối) Châu chấu đỏ. Tổ tiên có màng chân Con Đường Nước Mắt Hoan Lạc Bạch Miên Hoa Trâu Thiến Sống Đọa Thác Đày Người Tỉnh Nói Chuyện Mộng Du Khác Ma chiến hữu, nguyên tác: Chiến hữu trùng phùng (战友重逢), (2004), một tác phẩm đề cập đến lính Trung Quốc hy sinh trong Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979[2][3]. Giải thưởng Giải nhất về tiểu thuyết của Hội Nhà văn Trung Quốc, tháng 12/1995 cho truyện "Báu vật của đời". Giải Mao Thuẫn cho tác phẩm Đàn hương hình Giải Nobel Văn học năm 2012.[4] Mời các bạn đón đọc Ếch của tác giả Mạc Ngôn.