Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kẻ Vô Luân - André Gide

Cuốn sách này đáng giá bao nhiêu, tôi xin trao cho người với giá đó. Ấy là một Trái Cây chứa chất những tro than chát ngấm. Nó giống như loại Dưa Đắng ở Sa Mạc, mọc tại những vùng khô cằn nung nấu, và chỉ ban cấp cho cơn khát nước của con người một trận cháy bỏng càng thê thảm tàn khốc thêm; nhưng nằm trên mặt cát vàng (hoàng sa) không phải là không đẹp. Nếu như tôi có ý đưa nhân vật mình ra làm gương mẫu (cho người soi) thì phải nhìn nhận rằng tôi đã không thành công chi lắm; một vài kẻ hiếm hoi hỉ hữu nào đã vui lòng chú tâm hữu ý tới trận chìm nổi của Michel, ấy chẳng phải để cảm thông, mà chỉ là để nguyền rủa chàng, với tất cả lòng thiện lương sôi nổi của họ. Tôi đã không hoài công trang điểm Marceline bằng xiết bao đức hạnh; người ta không tha thứ được cho Michel đã vị kỉ không yêu chuộng nàng hơn thân mình. Nếu rằng tôi có ý muốn đưa cuốn sách ra đời nhằm cứu cánh lên án Michel, thì ắt là tôi cũng chẳng thành công gì ráo, chẳng đạt mục đích hơn được chút nào. Bởi vì không một ai người, ai kẻ, ai con, vui lòng cảm tạ tôi vì mối phẫn nộ của họ đối với những nhân vật. Phẫn nộ đối với Michel, và từ Michel cơn phẫn nộ tràn lan tới tác giả. Mép bờ rất mong manh. Một chút xíu thôi, và người ta đã muốn lẫn lộn tôi và nhân vật. Nhưng thật ra tôi không có ý muốn đưa cuốn sách ra đời như một cuộc lên án, mà cũng chẳng phải là trận biện hộ biện minh, và tôi đã tự giữ mình không thôi lời phán đoán. Công chúng độc giả ngày nay không cho phép tác giả được quyền làm khán giả suông. Tác giả sau khi miêu họa cơn kia, cuộc nọ xong, lầm lì không đưa lời nhận định, không bày tỏ lập trường, hoặc đứng phía này hoặc thiên về phía nọ, - đó là điều công chúng khổng thể tha thứ cho... Hà huống...? Hơn nữa, ngay cả trong giờ diễn tiến tồn lưu của tấn tuồng phù động, người ta còn muốn rằng tác giả phải liên tiếp bày tỏ lập trường, phải phán định rõ ràng rành mạch là mình đứng về phía của A hoặc của B, của Bê hoặc của Bối, mình ở bên cánh Philinte hay là bên phe Alceste, mình tán đồng Hamlet hay biểu đồng tình với Ophélie, mình theo chân Faust hay là bén gót theo Marguerite, mình lân mộ Adam hay là sùng mộ Jehovah? Mình tơ tưởng Nausicaa hay là mình nhớ nhung Pénélope? Mình muốn cùng Ulysse vượt trùng dương về trở lại cố hương Ithaque, hay là mình còn lưu luyến mãi cái hương mùi hương dị dị trong lãnh cốc Thần Nữ Calypso? Mình muốn xổ bồ đánh trận vây hãm thành Troie, hay là mình muốn bôn ba lùa bò về lên đầu non đồi sim trái chín? Quả thật, tôi không chủ trương rằng trạng huống trung lập (tôi suýt nói: tình huống lưỡng lự dùng dằng) là dấu hiệu vững chắc của một đầu não hoang viễn huệ năng; nhưng tôi tưởng rằng nhiều bộ óc hoằng đại thông tuệ đã từng chán ghét vô ngần cái lôi kết luận dứt khoát - và: đặt định chính xác một vấn đề, không phải là cho rằng vấn đề đã được giải quyết từ trước. Tiếng “vấn đề” tôi dùng tại đây, là dùng một cách miễn cưỡng. Lòng không muốn, mà buộc phải dùng. Tình phi đắc dĩ... Thật ra, nói cho đúng, thì trong lĩnh vực nghệ thuật, trong miền cõi địa hạt văn chương, không hề có vấn đề nào mà tác phẩm nghệ thuật lại chẳng là lời giải đáp viên túc tự tại tự như. Nếu bằng tiếng “vấn đề” người ta ngụ ý thể hội nghĩa "tấn tuồng” tôi có được phép nói rằng cái tấn tuồng cuốn sách này kể lại, dẫu rằng nó diễn ra trong linh hồn nhân vật của tôi, vẫn cứ là một tấn tuồng quá phổ quát, không thể nào chịu nằm lì giới hạn trong cuộc phiêu bồng chìm nổi dị biệt riêng tây của mình. “Vấn đề” kia, tôi không có ý tự phụ cho rằng mình phát minh ra nó. Nó vốn dĩ đã tồn lưu trước khi cuốn sách này xuất hiện. Thì dẫu... Thì rằng... Rằng Michel thắng cuộc hoặc thua cơn, rằng Michel thong dong duỗi dậy hoặc đồi phế rụng rơi, dù sao thì dù, “vấn đề” vẫn tồn liên tiên trình thị hiện; và cả cơn thắng, cả cuộc thua, tác giả đều không cho đó là một kết quả thu hoạch, vốn dĩ là, đã thế, đã thôi, (đã xong, đã xuôi, đã đành, đã đủ). Nếu rằng một vài tinh thần thông tuệ cao nhã chỉ chấp nhận nhìn thấy trong tấn tuồng kia, bản trình bày một trường hợp oái oăm quỷ dị: và chỉ nhìn thấy trong nhân vật kia, một kẻ bị bệnh hoạn éo le: nếu họ không biết rằng một vài ý tưởng cấp thiết liên can tới cõi chung rất mực rộng tầm, vẫn rất có thể âm thầm cư lưu trong tấn tuồng âm ỉ nọ - vâng, nếu họ quan niệm như thế, thì tội lỗi chẳng phải tại những ý tưởng kia hoặc tấn tuồng kia, mà tại tác giả. Tôi muốn nói: tại chỗ vụng về của tác giả, tại vì tác giả ăn nói không ra câu - mặc dầu y đã đặt vào trong sách này tất cả niềm tha thiết, tất cả những nước mắt sôi cuồng và xiết bao ân cần chăm sóc. Tuy nhiên, ý nghĩa tồn lưu thực tại âm thầm của cuốn sách và cái ý vị lân la mà công chúng tìm ra trong sách, đó là hai sự vụ khác biệt nhau vô cùng. Thiết tưởng: không cần quá nham nhở tự phụ hỗn mang, tôi nghĩ thế, người ta có thể liều chịu trận hững hờ trong buổi mới, không ai thèm ngó ngàng gì đến của lạ ngon ngọt ngẫu nhiên về ngày nhà ma thứ nhất - vâng thà như thế còn hơn là ngẫu nhĩ về gây cuồng hỉ tê mê cho một công chúng thèm ăn những vật đồ lai rai, rồi trôi biệt bỏ xuôi không có một ngày mai tao phùng trong cửa quỷ. Tuy nhiên? Chung quy, tôi chẳng có ý tìm hiểu chứng minh cái gì ráo, mà chỉ duy mong muốn hoạ sao cho nên hình và làm sao cho bức hoạ sáng tỏ với mù sương. TỰA của André Gide *** André Paul Guillaume Gide (22 tháng 11 năm 1869 – 19 tháng 2 năm 1951) là một trong những nhà văn xuất chúng của thế kỷ 20, người đoạt giải Nobel Văn học năm 1947. Sáng tác đầu tay của ông là cuốn tự truyện Les cahiers d'André Walter (Những cuốn vở của André Walter, 1891) viết bằng thơ và văn xuôi đầy chất thơ, kể về sự giằng xé, giày vò giữa thể xác và tâm hồn và sự tìm kiếm lối thoát trong các hình thái thần bí và thanh cao của tình yêu. Do bị bệnh lao không phải chịu quân dịch, những năm 1893-1894 André Gide du lịch sang Algérie và Tunisia, nơi ông phát hiện ra mình là người đồng tính luyến ái. Thời gian khủng hoảng kéo dài được ghi nhận bởi sự bất ổn tinh thần và những kiếm tìm chân lý thể hiện trong truyện vừa Le Retour de l'Enfant prodigue (Cuộc trở về của đứa con du đãng, 1907). Về mặt phong cách, Gide đã khắc phục lối viết cầu kì ban đầu, đến với một ngôn ngữ giản dị rõ ràng. Năm 1908, ông trở thành người đồng sáng lập Tổng quan mới của nước Pháp, một trong những tạp chí có ảnh hưởng đối với sự phát triển nền văn học Pháp và thế giới. Tiểu thuyết châm biếm Les Caves du Vatican (Những động ngầm dưới Vatican, 1914) đặt vấn đề về sự chấp nhận một cách mê muội những tín ngưỡng và lý tưởng. Năm 1926, tiểu thuyết Les Faux-monnayeurs (Những kẻ làm bạc giả) ra đời mang lại nhiều thành công cho ông, đó là một đóng góp thực sự vào sự phát triển thể loại tiểu thuyết. Một năm sau khi xuất bản truyện vừa Thésée (Theseus, 1946) - mà ông coi như một bức di thư văn học - André Gide được bầu làm Giáo sư Danh dự trường Đại học Oxford và được tặng giải Nobel năm 1947. Năm 1950, André Gide xuất bản tập cuối cùng của bộ Journal (Nhật kí). Ông mất năm 1951 ở Paris.   Những nhân vật của Gide đều mang bóng dáng cuộc đời ông, như ông từng viết: “Kẻ khác có thể đã viết nên một tập sách; nhưng câu chuyện tôi kể ra đây, tôi đã hồi tưởng lại bằng cả tâm hồn”. Để hiểu về những tác phẩm gây chấn động của Gide, cần nhìn lại chính đời ông. Gide sinh ra vốn là đứa trẻ nhạy cảm, sống bản năng. Về sau, ông lại gặp thêm quá nhiều bão táp trường đời: Mất cha từ nhỏ, chiến tranh liên miên, bệnh tật và đặc biệt là cú sốc năm 26 tuổi, khi ông phát hiện ra mình là người đồng tính. Trước đó, Gide đã mối tình lãng mạn kéo dài với cô em họ Madeleine Rondeaux từ khi ông mới là cậu bé 12 tuổi (ông đã hồi tưởng lại mối tình đầy ngang trái này trong tác phẩm Khung cửa hẹp). Phát hiện này khiến ông bị rối loạn cảm xúc. Về sau, ông vẫn trân trọng và cưới Rondeaux nhưng đồng thời chạy theo những mối tình đồng giới và thật bất ngờ, lại có con với một người phụ nữ khác. Như con thiêu thân, Gide lao vào những cuộc sa đọa trác táng và không ngần ngại phô bày trên trang giấy. Nhiều người đã lên án Gide kịch liệt, coi những tác phẩm của ông như liều thuốc độc cho người đọc. Bạn bè trong giới văn chương cũng có phần dè chứng ông. Nhưng Gide không vì thế mà chùn bước. Ông vẫn trung thành với bản chất con người, coi thường những hình thức phù phiếm, giả tạo. Ông nâng tầm quan điểm của mình lên thành triết lý trong Kẻ vô luân, kể về Michel, kẻ vượt qua mọi rào cản đạo đức trong hành trình nổi loạn để khám phá con người thật của mình. Mời các bạn đón đọc Kẻ Vô Luân của tác giả André Gide.

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Tiếng Hú Trên Đỉnh Non Chà Hóc
Vũ Hạnh tên thật là Nguyễn Đức Dũng, sinh năm 1926 tại xã Bình Nguyên, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nho học. Ông tham gia Mặt trận Việt Minh huyện Thăng Bình, từ tháng 3-1945 học ban tú tài phần II. Năm 1955, ông tham gia đấu tranh đòi hiệp thương Bắc Nam và bị bắt giam ở nhà lao Thăng Bình rồi nhà lao Hội An. Vũ Hạnh là cán bộ văn hoá Khu uỷ Sài Gòn - Gia Định, hoạt động công khai ở nội thành Sài Gòn (hoạt động đơn tuyến). Trong hoàn cảnh viết trên sách báo công khai dưới chế độ ở miền Nam, ông đã có cách viết khéo léo để vẫn đưa được những thông điệp tiến bộ đến quần chúng mà không bị kẻ thù đàn áp. Sau năm 1975, ông làm Tổng thư ký Hội Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, ủy viên ban chấp hành Liên Hiệp Các Hội Văn Học Nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh." *** Tác phẩm chính;   Các tập truyện: Vượt thác (1963), Mùa xuân trên đỉnh non cao (1964), Chất ngọc (1964), Ngôi trường đi xuống (1966), Bút máu (1971), Con chó hào hùng (1974), Cô gái Xà Niêng (1974), Ăn Tết với một người điên (1985), Sông nước mênh mông (1995),... Tiểu thuyết: Lửa rừng (1972) Hồi ký: Cái tết khó quên (1990), Một chặng đường bút mực (2000) Tiểu luận: Người Việt cao quý (1965), Đọc lại Truyện Kiều (1966), Tìm hiểu văn nghệ (1970),... *** Tiếng hú kéo dài rền rĩ, rồi biến thành một tiếng rống ghê rợn bao trùm những dãy nhà sàn cheo leo ngủ yên ở trên sườn núi Ca-Tha. Ông chúa làng Bu-Then chống tay run rẩy ngồi dậy, chong tai ngồi nghe giữa khoảng tối dày. Từ khi bắt đầu bập bẹ những tiếng đầu tiên cho đến bây giờ, mái tóc bạc phau và lưng còng lại như cây gáo già ở trước cổng buôn, ông chưa bao giờ nghe một tiếng hú lạ lùng như thế. Cố gắng chống lại một cơn cảm sốt làm ông rũ liệt đã nhiều ngày rồi, ông choàng tấm "dồ" lên mình, sờ soạng bước ra đầu nhà. Tiếng hú vẫn cứ vang dài như chạy lông lốc trên đầu các ngọn cây cao, rồi tỏa tứ bề, lẫn lộn những lời khóc than kể lể và khi dịu lại nghe như tiếng rên của một người sắp xuống mồ. Ông Bu-Then quờ quạng bám tay vào tấm phên che, chỗ lối xuống lên, ngồi nhẹ xuống sàn như sợ ngôi nhà sụp đổ, giương đôi mắt đã đục lờ, hõm sâu, thảng thốt nhìn về một hướng núi xa. Có lẽ tiếng hú xuất phát từ đỉnh Chà Hóc cao nghệu, hoang vu, dân làng chưa ai bén mảng đến đấy bao giờ. Những câu chuyện về ma quỉ, về thần núi do lão phù thủy Sa-Keo kể lể khiến họ sợ hãi, chỉ đứng xa nhìn đỉnh núi như ngắm nhìn con quái vật linh thiêng. Gió khuya ướt đẫm mùi sương khua động rạt rào cây lá, bốc thổi từng luồng lạnh ngắt, khiến ông chúa làng co rút mình lại, kéo tấm "dồ" lên phủ kín đôi vai. Mặt trăng đã chìm sau núi, chỉ còn le lói đôi vệt sáng mờ sau rặng cây xa, đẩy vùng bóng tối đen dày của ngọn Ca-Tha phủ kín lấy buôn Nước Ràng. Ông Bu-Then nhướng mắt nhìn quanh, không một bóng người thấp thoáng, không tiếng động nào vang lên giữa cảnh âm thầm. Dân làng có lẽ bị chôn vùi trong giấc ngủ nặng nề sau ngày làm việc nhọc mệt trong rẫy, trên nương, hoặc đang co rúm trên các sàn nhà, nín thở lắng nghe tiếng hú kỳ quái bất thần nổi dậy giữa đêm lạnh lẽo tối tăm. Ông chúa làng nhớ mấy ngày trước đây, khói đen bốc tỏa mờ mịt về phía Chà Hóc như báo một điềm chẳng lành. Tai họa sẽ giáng xuống dân Nước Ràng hay sao? Ông thấy xúc động nghẹn ngào và buông một tiếng thở dài. Tiếng hú, sau hồi thét vang rùng rợn, bỗng như khàn hơi ngừng bặt. Cả vùng núi rừng bao la chìm đắm trong sự câm lặng nặng nề. Tất cả sinh hoạt về đêm thường khi cựa quậy rộn ràng, bây giờ nén lại trong sự chờ đợi hồi hộp. Ông chúa làng nghe rõ tim đập dồn dập trong lồng ngực mình. Lâu lắm ông mới nhận được từ xa tiếng suối Nậm Nui rì rầm luồn qua khe đá. Và chim cheo-meo chiêm chiếp thảm thiết ở trong bụi rậm sau buôn. Khi ông lấy lại được sự bình tĩnh, chống tay lom khom đứng dậy thì tiếng hú lại bắt đầu vang lên. Đó là những tiếng gào khan như thoát ra từ cổ họng của một con người to lớn dị thường, và con người ấy tưởng có thể nuốt dễ dàng được cả cây rừng, đá núi. Rồi tiếng gào ấy chuyển sang tiếng thét dữ dội như muốn phá tung lòng núi thẳm sâu để trút hết nỗi căm hờn chất chứa đời đời kiếp kiếp. Lúc tiếng thét đã dịu lại, trở thành tiếng hú, máu trong người ông Bu-Then như ngừng chảy hẳn. Ông ngã khuỵu xuống sàn nhà, tê lạnh người đi vì nỗi hãi hùng. Tiếng hú thê thảm quái gở như tụ hội hết hồn ma, vía quỉ lạc loài trong chốn rừng hoang. Tiếng hú ghê rợn độc ác như cào cấu trên da thịt con người, xuyên thủng màng tai, xoắn lấy não tủy. Như cây gáo già sống trước cổng buôn gặp cơn bão rừng thổi mẹp vẫn luôn cố gắng chống lại mưa gió phũ phàng, ông đã từng đem sinh lực cường tráng giúp cho dân làng xua rạt bao loài thú dữ để rời lũng sâu ẩm thấp mà về bám trên sườn núi Ca-Tha đất rẫy phì nhiêu. Khi sinh lực ấy mỏi mòn, ông đã đem sự khôn ngoan của kẻ trải nhiều bất trắc gian lao giúp cho dân làng trồng trọt, dạy cho dân làng thuận hòa, biết thương rẫy lúa, nương ngô, suối nước, cây rừng. Bây giờ chúa làng Bu-Then lại để tiếng hú ma quái xô ngã như cành củi mục hay sao? Chúa làng Bu-Then để mặc cho bao nhiêu người run rẩy trong cơn khiếp đảm hãi hùng hay sao? Ông già Bu-Then loạng choạng đứng lên, cố chống lại sự hoảng hốt xáo trộn lòng mình. Bám chặt bàn tay gầy gò vào khung cửa liếp, ông lần mò leo xuống chiếc thang gỗ làm bằng thân cây cốc rừng được đẽo hõm vào nhiều nấc để đặt bàn chân. Gió núi thổi tạt từng luồng lạnh buốt, bật tung tấm "dồ" khỏi cái thân hình xương xẩu, muốn kéo ngã ông xuống dưới sân buôn. Ông đi sờ soạng, nghe chân tê nhức ở trên nền đất khô cằn. Trăng đã chìm hẳn, chút sáng nhợt nhạt trên vùng cây xa cũng tắt từ lâu. Ông già Bu-Then tìm về cuối buôn, chỗ nhà phù thủy Sa-Keo. Phải đi hỏi lão, vì chỉ có lão là biết ý định của loài ma quỉ. Lên đến nấc cuối của cây thang gỗ, ông chúa làng thấy qua tấm liếp che trống trải, Sa-Keo đang ngồi im lặng trước một bếp lửa đã tàn, chỉ còn âm ỉ một ít than hồng đỏ rực. Đầu lão to lớn quấn vành khăn rộng xồ xề, trông như một chiếc cối giã lắc lư nhè nhẹ, trong khi hai cánh tay dài loeo ngoeo quấn chặt lấy cặp đầu gối xương xẩu nhô lên đụng tới chân cằm. Ông già đưa tay đẩy mạnh tấm liếp. Sa-Keo như chợt bừng tỉnh, mở rộng đôi mắt ốc nhồi thao láo nhìn về phía cửa, cất giọng khàn khàn: - Ai đó? Mời các bạn đón đọc Tiếng Hú Trên Đỉnh Non Chà Hóc của tác giả Vũ Hạnh.
Người Đẹp Sao Hỏa
Ở phố Bình Minh Đỏ, xuất hiện một bản thông báo kì lạ: đó là một tờ giấy nhỏ, màu xám, đóng vào bức tường nhiều chỗ đã long hết lớp vữa của một ngôi nhà hoang vắng. Khi đi qua, phóng viên một tờ báo Mỹ là Arsiban Xcail trông thấy một phụ nữ trẻ tuổi, chân đi giầy không bít tất, mặc chiếc áo liền váy bằng vải hoa sạch sẽ đang đứng trước tờ thông báo. Chị mấp máy môi đọc. Gương mặt mệt mỏi và xinh xắn của chị không lộ vẻ ngạc nhiên, đôi mắt lãnh đạm. Chị vuốt mái tóc quăn ra sau tai, nhấc làn rau dưới đất lên rồi sang bên kia đường. Bản thông báo đáng được chú ý nhiều hơn thế. Xcail tò mò đọc một lần, rồi tiến lại gần thêm, đưa một tay lên dụi mắt, đọc lần nữa: Twenty three; - Cuối cùng ông ta nói. Như vậy có nghĩa là: “Quỷ tha ma bắt mình với tuốt tuột mọi thứ của mình đi”. Bản thông báo viết: Kĩ sư M. X. Los mời những người muốn bay lên Sao Hỏa cùng với ông vào ngày 18 tháng tám đến gặp ông để bàn bạc riêng từ 6 giờ đến 8 giờ tối. Đường bờ sông Jdanovxcaia, nhà số 11, ở ngoài sân. Bản thông báo được viết một cách bình thường và đơn giản, bằng bút chì graphít. Bất giác Xcail đưa tay lên tự bắt mạch mình: mạch ông bình thường. Ông nhìn đồng hồ: lúc ấy là bốn giờ mười phút, ngày 17 tháng 8 năm 192... Với một lòng dũng cảm, bình tĩnh, Xcail đón chờ mọi thứ chuyện xảy ra trong cái thành phố điên rồ này. Nhưng bản thông báo đóng trên bức tường vữa tác động đến ông ta cực kì mạnh mẽ. Gió thổi hun hút trên đường phố Bình Minh Đỏ vắng vẻ. Cửa sổ các ngôi nhà nhiều tầng, ô thì bị vỡ kính, ô thì bị bịt kín, bằng những tấm gỗ, trông như bên trong không có người ở - không thấy một cái đầu nào thò ra phố. Người phụ nữ trẻ tuổi đặt làn xuống vỉa hè, đứng bên kia đường nhìn Xcail. Gương mặt xinh xắn của chị trông bình thản và mệt mỏi. Hai gò má Xcail hơi động đậy. Ông ta lấy chiếc phong bì cũ, ghi lại địa chỉ của Los: vừa lúc đó có một người cao lớn, vai rộng dừng lại trước bản thông báo. Người này không đội mũ, căn cứ vào quần áo mà xét, thì đây là một anh lính, anh ta mặc áo nỉ không có đai lưng, chân quấn xà cạp. Hai tay anh ta chẳng biết làm gì nên đút vào hai túi. Cái cổ chắc nịch căng ra khi anh ta bắt đầu đọc bản thông báo. – Gớm nhỉ, bay lên tận Sao Hỏa cơ à! - Anh ta nói với vẻ thích thú, rồi ngoảnh gương mặt vô tư rám nắng về phía Xcail. Thái dương anh ta có một vết sẹo trăng trắng chạy chéo xuống. Mắt anh ta màu nâu và cũng như ở phía người phụ nữ kia, có một ánh tinh nghịch. (Từ lâu, Xcail đã nhận thấy nét đó trong đôi mắt người Nga, thậm chí ông ta còn nhắc tới nét ấy trong một bài báo: “... Mắt họ không biểu lộ một điều gì rõ ràng, khi thì giỡn cợt, khi thì kiên quyết đến táo bạo, và cuối cùng, có khi lại biểu lộ một vẻ bề trên khó hiểu - những cái đó tác động cực mạnh đến người châu Âu”. – Kể bay một chuyến với ông ta cũng đơn giản thôi nhỉ, - người lính lại nói, anh ta mỉm cười hồn nhiên đồng thời nhìn Xcail từ đầu đến chân. Bỗng anh ta nheo mắt, nụ cười tắt hẳn trên môi. Anh ta chăm chú nhìn người phụ nữ bên kia đường vẫn đang đứng không nhúc nhích bên cạnh làn rau. Anh ta hất cằm bảo: – Masa, sao em đứng đó hả? (Chị chớp mắt nhanh một cái). Thôi về nhà đi chứ. (Chị có vẻ bồn chồn, hai bàn chân bé nhỏ đầy bụi bặm đứng không yên, chị thở dài và cúi đầu xuống). Em về đi, về đi, anh sẽ về ngay thôi. Người phụ nữ xách làn lên rồi cất bước. Anh lính nói: – Tôi về lực lượng dự bị là do bị thương. Buồn quá nên đi lang thang đến đây, lại đọc thấy bản thông báo này. – Anh định đến đường bờ sông ghi trong tờ thông báo này đấy à? - Xcail hỏi. – Nhất định tôi sẽ đến đó. – Nhưng bay năm mười triệu kilômet trong khoảng không gian không có không khí thế nào được. Đó là một chuyện nhảm nhí. – Tất nhiên là xa lắm rồi. – Đó là một chuyện bịp bợm hoặc một chuyện mê sảng. – Thì chuyện gì chả có thể xảy ra! Xcail, bấy giờ cũng nheo nheo mắt nhìn anh lính từ đầu đến chân. Anh lính đang nhìn ông ta, đúng như thế: giễu cợt, với một vẻ bề trên khó hiểu. Xcail tức giận đi về phía sông Neva. Ông bước những bước dài, vững vàng. Đến một vườn hoa, ông ngồi xuống chiếc ghế đá, thọc tay vào túi. Như tất cả những tay nghiện thuốc và bận nhiều công việc, ông để thuốc ngay trong túi. Chỉ bằng một động tác của ngón tay cái, ông đã nhồi được thuốc vào tẩu, châm lửa, rồi duỗi thẳng chân ra. Những cây bồ đề già trong vườn xào xạc. Không khí ẩm ướt và ấm áp. Trên đống cát có một cậu bé mặc chiếc áo bẩn thỉu, may bằng vải chấm hạt đỏ, không mặc quần. Có lẽ trong cả vườn hoa này chỉ có một mình cậu, và cậu ngồi đây chắc đã lâu. Thỉnh thoảng, một làn gió lại thổi tung mái tóc mềm mại màu sáng của cậu lên. Tay cậu cầm một đầu sợi dây, đầu dây kia buộc vào chân một con quạ già bù xù. Con quạ có vẻ bất bình và tức giận, nó cũng giương mắt nhìn Xcail như cậu bé. Bỗng nhiên - chỉ trong một khoảnh khắc thôi - dường như có một đám mây mù lướt qua ý thức Xcail, ông cảm thấy chóng mặt: hay ông trông thấy tất cả những thứ vừa rồi chỉ là trong một giấc mơ?... Cậu bé, con quạ, những ngôi nhà bỏ không, những đường phố hoang vắng, ánh mắt kì lạ của những người qua đường và tờ thông báo đóng bằng đinh lên tường mời mọi người bay vào khoảng không gian bao la... Xcail rít mạnh một hơi thuốc. Ông ta mở tấm bản đồ Pet rograd ra, lấy đầu chiếc tẩu dò dẫm tìm đường bờ sông Jdanovxcaia. Mời các bạn đón đọc Người Đẹp Sao Hỏa của tác giả Aleksey Nikolayevich Tolstoy.
Bóng Tối Thiên Đường
Tại Việt Nam, Remarque bắt đầu được bạn đọc biết đến từ năm 1962 qua bản dịch Phía Tây không có gì lạ của Lê Huy, rồi sau đó các tác phẩm khác của nhà văn lần lượt được chuyển ngữ ở cả hai miền Nam, Bắc. Cho đến nay đã có tổng cộng khoảng hai mươi bản dịch của chín tác phẩm Remarque, trong đó có cuốn có tới bốn bản dịch với các tựa khác nhau như Phía Tây không có gì lạ. Qua các tác phẩm này, độc giả Việt Nam đã bị rung động bởi thứ văn chương của những tâm hồn non nớt tinh khôi, chưa kịp trưởng thành đã vội vàng già cỗi, chưa kịp thấy cuộc đời tươi đẹp đã thấu suốt tang thương. Nhiều thế hệ đã cùng bầu bạn và trưởng thành với những nhân vật của Remarque; những nhân vật luôn ấp ủ niềm thương nhớ về một thế gian bất biến, cái thế gian chàng thanh niên Remarque đã vĩnh biệt khi vừa tròn mười tám niên hoa. Để tái hiện lại thế giới ấy của Remarque, chúng tôi quyết định tái bản các tác phẩm tiêu biểu của ông. Đây là tám bản dịch được yêu thích nhất chọn lọc qua toàn bộ các bản dịch đã xuất hiện ở Việt Nam. Bên cạnh đó, cũng nhân dịp này, chúng tôi xin giới thiệu bản dịch Phía Tây không có gì lạ hoàn toàn mới, cùng tác phẩm lần đầu tiên ra mắt ở Việt Nam là Đường về, đều được dịch từ nguyên bản tiếng Đức bởi dịch giả Vũ Hương Giang, người đã chuyển ngữ thành công tác phẩm Ba người bạn. Như thế, với bộ hợp tuyển này, hi vọng bạn đọc sẽ có cơ hội thưởng thức trọn vẹn tài năng văn chương của một trong những nhà văn Đức được yêu mến nhất thế kỉ 20. *** Remarque (1898 – 1970) là nhà văn lừng danh người Đức. Ông nổi tiếng với Phía Tây không có gì lạ, một trong những tác phẩm hay nhất về Thế chiến I. Các tác phẩm tiêu biểu khác của ông như Ba người bạn, Khải hoàn môn, Đêm Lisbon…cũng góp phần không nhỏ trong việc khẳng định tài năng và danh tiếng của ông khắp năm châu. Năm 1931, ông được đề cử cả giải Nobel Văn chương và Hòa bình. Bia mộ đen (Der schwarze Obelisk – 1956) một lần nữa cho thấy thiên bẩm của Remarque trong việc nhìn ra được niềm vui, lạc quan và những điều tốt đẹp giữa khổ đau, tuyệt vọng và xấu xí. Nhận xét về tác phẩm này, cây bút F.T. Marsh của tờ New York Herald Tribune từng viết: “Dí dỏm nhưng đượm buồn, vừa nghiêm túc lại có chút giang hồ, tuyệt diệu trong từng câu chữ nhưng vẫn khó nắm bắt vô vùng”. Những tác phẩm tiêu biểu: Phía Tây không có gì lạ; Khải hoàn môn; Ba Người Bạn Đường về; Tia lửa sống; Bia mộ đen; Chiến Hữu Bản Du Ca Cuối Cùng Lửa Yêu Thương Lửa Ngục Tù Một Thời Để Yêu Và Một Thời Để Chết Bóng Tối Thiên Đường *** Vào thời điểm chiến tranh sắp sửa kết thúc, số phận đã ném tôi sang New York. Phố 57 và vùng phụ cận, đối với tôi - một kẻ bị trục xuất (mấy từ này rất khó giải thích ở xứ sở tôi mới tới) - đã trở thành tổ quốc thứ hai của mình. Tôi để lại phía sau lưng cả một chặng đường dài ẩn chứa đủ mọi hiểm nguy, tai họa - Via Dolorosa* - chặng đường của những kẻ chạy trốn khỏi chế độ của Hitler. Con đường này bắt nguồn từ Đức, sang Hà Lan, qua Bỉ và miền bắc nước Pháp rồi khi tới Paris nó phân ra làm hai ngả: một ngả chạy qua Lyon đến bờ biển Địa Trung Hải, ngả kia qua Bordeaux và Pyrénées dẫn đến Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, đến cảng Lisbon. Via Dolorosa: Chặng đường thống khổ. Là tên con phố ở Jerusalem mà Chúa Jesus đi qua để đến nơi bị đóng đinh (tiếng Tây Ban Nha). Tôi trải qua chặng đường này như những người khác trốn chạy khỏi nanh vuốt của bọn Gestapo*. Ở những nước mà chúng tôi đi qua, chúng tôi không hề cảm thấy yên ổn bởi lẽ chỉ có một số ít người trong chúng tôi có giấy thông hành chính thức hoặc chiếu khán phòng thân. Chỉ cần đụng phải cảnh sát, chúng tôi sẽ bị nhốt sau lưới thép, rồi bị kết án và đưa đi phát vãng. Nhưng dầu sao ở một số nước vẫn còn tồn giữ được cách cư xử theo tình người, dù có bị bắt chúng tôi cũng sẽ không bị trả lại Đức để nhận lấy cái chết cầm chắc trong tay tại các trại tập trung. Gestapo: viết tắt của Geheime Staatspolizei, lực lượng cảnh sát bí mật thành lập năm 1933 của Đức Quốc xã. Chỉ có một số ít trong bọn tôi xoay xở được hộ chiếu, vì vậy cuộc trốn chạy của chúng tôi không bao giờ có điểm cuối cùng. Thêm vào đó, nếu không có giấy tờ hợp thức chúng tôi sẽ không kiếm nổi việc làm ở bất cứ đâu. Phần đông bọn tôi đều trở thành những kẻ đói khát, rách rưới và cô độc. Đấy, vì sao chúng tôi gọi chặng đường những cuộc viễn du của chúng tôi là Via Dolorosa. Những trạm bưu điện tại các thị trấn bé nhỏ và những dãy bờ rào quét sơn trắng dọc theo các con đường trải nhựa đã trở thành nhà ga của chúng tôi. Tại các trạm bưu điện chúng tôi có thể chờ những bức thư của người thân và bạn bè mà chúng tôi đã gửi số hòm thư về, còn những dãy hàng rào đã thay thế cho những chiếc bảng gỗ dán cáo thị. Với phấn và than củi, chúng tôi viết lên đất họ tên của những người bị mất tích, của những người đang tìm kiếm nhau, những dòng địa chỉ, những lời dặn dò cần phải phòng xa, những lời chỉ dẫn. Những lời kêu gọi bị ném vào khoảng không và vào những năm tháng mà sự thờ ơ, bàng quan ngự trị khắp mọi nơi thì nối tiếp theo những lời kêu gọi đó đã xuất hiện ngay một thời buổi hoàn toàn phi nhân tính, thời đại của các cuộc chiến tranh, khi cả bọn Gestapo, cả bọn mật vụ và cảnh sát cùng hùa nhau vào một công việc chung: săn lùng chúng tôi - những người bị trục xuất tội nghiệp. ... Mời các bạn đón đọc Bóng Tối Thiên Đường của tác giả Erich Maria Remarque.
Bạn Trai Chuẩn 5 Sao
Bạn Trai Chuẩn 5 Sao của tác giả Hồng Táo là một cuốn tiểu thuyết viết về câu chuyện tình yêu của một đôi trai gái yêu nhau, câu chuyện kể về sự bất chấp cả việc đánh mất bản thân mình, cô tìm mọi cách rũ bỏ quá khứ bất hạnh để theo đuổi lối sống thượng lưu hằng mong ước.  Mọi thứ giờ đây với cô đều phải có chuẩn nhất định, tất nhiên, bao gồm cả tình yêu. Anh tự tin trở thành “bạn trai chuẩn 5 sao” của bất kì cô gái nào nhưng lại bị cô bỏ rơi vì cho rằng tình cảm của anh vẫn còn khiếm khuyết. Việc cấp bách anh làm hiện giờ là chứng minh rằng cô đã sai. Hai người theo đuổi hai mục tiêu tưởng như khác nhau nhưng lại giống nhau ở một điểm: con người nếu không khoác lên mình chiếc áo không phù hợp thì cuộc sống của họ sẽ đơn giản và dễ chịu hơn rất nhiều. Thật may là cả hai sớm nhận ra điều này. Cô can đảm bước lên con đường tìm lại chính mình. Anh nhờ tình yêu dẫn lối đã kịp nắm lấy tay cô để cùng nhau đi đến bến bờ hạnh phúc. Cuốn tiểu thuyết  này chắc hẳn sẽ mang đến cho bạn những cảm xúc khác nhau cho bạn trả qua cung bậc cảm xúc tình yêu. *** Có những thứ tình cảm một khi đã để trôi qua, ngay cả khi nó trở lại mạn mẽ để thỏa lấp nỗi cô đơn nhưng cũng không có cách nào chấp nhận nó. Cũng giống như một người xuất hiện vào thời điểm cần thiết, nếu như không xuất hiện vậy thì vĩnh viễn đều không cần xuất hiện nữa. --- "Sao em lại đột nhiên bỏ đi, không nói với anh lời nào?" "Đừng nói chuyện cũ nữa, bây giờ em đang cần tuyển người gấp, anh muốn ở lại thì phải làm việc" "Chuyện cũ? em định đơn phương đá anh à?" "Được rồi, vì sao anh lại đến đây?" --- "Còn không phải do em sao! Anh cũng suy nghĩ cả mấy ngày và sẽ gửi thông báo đến nội bộ giới truyền thông để giải thích em là bạn gái anh, hiện tại như vậy, sau này cũng vậy." *** Mở ví ra, tôi vét sạch mấy trăm ngàn, đẩy về phía người đối diện. Đó là một chàng trai vẻ ngoài sáng sủa, phong thái nổi bật, xấp tiền nặng trịch trên tay tôi xem chừng cũng đáng giá với vẻ ngoài của anh ta. Thế nhưng anh ta chỉ đưa mắt hờ hững quét qua một lượt, cái chớp mắt mang theo ý khinh miệt rõ ràng, ngoài ra chẳng còn một cử chỉ nào nữa. Tôi có phần ngạc nhiên, nhưng vẫn tháo chiếc nhẫn trên tay đặt lên xấp tiền: “Viên kim cương này tôi mua ở Italia. Vậy đã đủ chưa?” Lúc này, anh ta mới ngẩng đầu nhìn tôi, nhưng vẫn không nhận. Đưa tay chỉnh lại cổ áo, anh ta cười lạnh lùng. “Cô nhìn thấy không? Bộ vest này là hàng may thủ công số lượng giới hạn của Italia. Cúc áo làm bằng kim cương Nam Phi, hoa văn cũng do nhà thiết kế nổi tiếng tạo ra. Còn tôi, có thể nói câu “Anh yêu em” bằng mười bốn thứ tiếng khác nhau. Cô thấy mớ tiền này đủ sao?” Nói xong anh ta đứng dậy đi về phía tôi, dường như muốn tôi thấy rõ dáng vẻ của anh ta. Rõ ràng chỉ là một tên bám váy đàn bà, chưa kể lúc này còn toát ra mùi lừa đảo. Tôi nén giận, cố kiềm chế: “Bình thường anh tính bao nhiêu một đêm?” Anh ta quay về sofa, trên mặt lộ rõ ý cười nhạo, thậm chí đến tôi còn có thể đọc ra được ý tứ trong mắt anh ta: Không có tiền thì đừng có học đòi người ta gọi trai bao. Tôi chỉ có thể ngậm bồ hòn, vớ lấy chìa khóa xe: “Chiếc xe này anh cầm lấy đi, đủ rồi chứ?” Anh ta vẫn thản nhiên ngồi đó như muốn ăn vạ trong nhà tôi vậy. Tôi bắt đầu cảm thấy đau đầu, lẽ ra không nên uống say rồi mắc kẹt thế này. “Anh nói đi, rốt cuộc anh muốn gì?” Tôi mệt mỏi mở miệng, giọng điệu có chút van nài. Anh ta chớp chớp đôi mắt đẹp, dường như có chút tính toán, lười biếng mở miệng: “Cô vốn cũng biết, tôi đang có biết bao nhiêu là khách?” Bị ánh mắt của anh ta quét trúng, cái đầu vừa chớm tỉnh táo của tôi đột nhiên đau đến choáng váng. Mọi chuyện đêm qua chẳng khác nào giấc mơ, tôi chỉ nhớ mình lao vào một tụ điểm cao cấp – Đế Sắc, đòi ông chủ phải gọi hàng cao cấp. Ông ta từ chối tôi, nhưng tôi biết ông ta nghĩ tôi không phải thành viên ở Đế Sắc nên làm vậy, trong lúc nóng nảy, tôi đẩy ông ta sang một bên, chạy lên phòng trên lầu cao nhất, đá tung cánh cửa. Cảnh tượng hiện ra trước mắt tôi là anh chàng này, ngồi trên bộ sofa giữa phòng, hai bên là ba cô gái trẻ trung xinh đẹp. Đó cũng là ký ức rõ ràng cuối cùng. Khi tỉnh lại, tôi đang nằm trên giường của mình, còn anh chàng kia ngồi kế bên, nhìn tôi bằng ánh mắt oán hận. “Hóa ra cô vẫn còn nhớ! Vậy chắc cô cũng biết mình thô bạo đến mức nào chứ? Cô nỡ lòng nào nắm tóc tôi lôi đi như thế! Cô có biết đó là kiểu đầu mới nhất của tôi không hả? Đó là tác phẩm của nhà tạo mẫu của Nhật đấy! Làm hết bốn tiếng mới xong! Cô nghĩ có thể dùng tiền tống cổ tôi à!” Anh ta dường như đang mường tượng lại sự việc đêm qua, tâm trạng vô cùng kích động, giọng cũng cao dần. “Được rồi, được rồi, vậy trả cho anh số tiền tiếp sáu khách một đêm.” Tôi đứng dậy lấy chi phiếu, viết “roạt roạt” một dãy số sau đó chuyển nó cho anh ta. “Xuống lầu rẽ trái, ở đó taxi nhiều lắm.” Tôi chỉ đường cho anh ta rồi xuống bếp pha cafe. Đến lúc tôi lên lại phòng khách, anh ta vẫn chưa chịu đi! Lẽ nào vẫn chưa thỏa đáng?! “À không, số tiền cô trả đã hợp tình hợp lý rồi.” Anh ta dường như đọc được nghi vấn của tôi, liền tốt bụng giải thích, “Nhưng, tôi là người làm nghề có đạo đức, tối qua chúng ta cũng chưa làm gì cả, nếu lấy của cô tiền bằng sáu khách thì tôi cũng nên cung cấp cho cô gói dịch vụ dành cho sáu người mới đúng.” Tiếp đó anh ta đứng dậy trước mặt tôi, lần lượt cởi bỏ áo khoác, rồi đến cúc áo sơ mi. “Anh lý trí chút đi! Tôi tìm anh không phải vì ý đó, tôi cần anh để dùng cho việc khác.” Lời tôi vừa dứt thì mặt anh ta cũng tối sầm. “Cô chê tôi đúng không?!!” Tôi giải thích: “Không không, lẽ nào các anh có quy định bắt buộc phải cung cấp dịch vụ để phỏng vấn trải nghiệm của khách hàng? Anh yên tâm, tôi sẽ cho anh điểm cao nhất!” Mời các bạn đón đọc Bạn Trai Chuẩn 5 Sao của tác giả Hồng Táo.