Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tuyết Hoa và Cây Quạt Bí Mật - Lisa See

Câu chuyện ám ảnh, đẹp đẽ và buồn khôn xiết về nỗi khao khát khắc khoải, mãnh liệt đến mức sống để bụng chết mang đi này được viết bằng giọng văn mạnh mẽ đặc trưng của See. Với câu chuyện lay động về những người đàn bà viết nữ thư ở một vùng đất xa xôi của Trung Quốc vào thế kỷ XIX, Tuyết Hoa và cây quạt bí mật nhanh chóng cuốn độc giả vào một trải nghiệm đọc giàu có và lộng lẫy. Văn hóa Trung Quốc, những cụm từ hẳn khá quen thuộc với nhiều độc giả: “bó chân”, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, “trọng nam khinh nữ”… bỗng ùa tới trong một không gian khác lạ của Lisa See, một người sinh ra ở Paris, lớn lên ở Los Angeles nhưng mang trong mình một phần dòng máu Trung Hoa. Không có sự phá cách ồn ã, song từ cách tiếp cận gần gũi và đậm sắc thực tế của tác giả lớn lên ở phương Tây với chính vùng đất xảy ra câu chuyện, đã đẩy cuốn sách bước ra khỏi những lối mòn nặng nề định kiến mà người ta vẫn thường hình dung về văn hóa Trung Hoa, với những hủ tục nghiệt ngã cùng thân phận đắng cay của người đàn bà trong xã hội. Trong Tuyết Hoa và cây quạt bí mật, đó là một ám ảnh mạnh mẽ về mối quan hệ lão đồng, mối kết giao đặc biệt giữa hai người con gái nguyện thề với nhau “dù cách xa vạn dặm vẫn như hai dòng suối cùng đổ về một sông, như hai đóa hoa nở cùng một vườn, sẽ ở bên nhau cho đến khi nhắm mắt xuôi tay”. Đó không chỉ là một tình bạn gắn kết và sẻ chia, nó thực sự là một liều thuốc quý, một thứ men khiến hai người phụ nữ - Bách Huệ và Tuyết Hoa - có chỗ dựa duy nhất, trong những lúc cô độc tưởng như không thể chạm vào đâu để bấu víu. Và nữ thư được sống trong những trái tim đầy khao khát của những người đàn bà ít có dịp bước ra khỏi ngôi nhà của mình ấy. Cho dù có những sự thật được che giấu suốt mười năm mới có dịp phanh phui, cho dù sự chênh lệch về địa vị giữa họ sau này, cho dù thời gian không ngừng trôi qua và cả một hiểu lầm đáng tiếc xảy đến… họ đã bằng mọi cách để ở bên nhau, hơn cả những người chị em ruột thịt. Vẻ đẹp của mối thâm tình ấy khiến câu chuyện mang đầy sức nặng trong những khát khao được yêu thương mãnh liệt, giấu mình trong những bản nữ thư, thứ ngôn ngữ độc nhất vô nhị mà người phụ nữ Trung Quốc đã sáng tạo ra để có thể bí mật liên lạc với nhau, thoát khỏi sự kiểm tỏa của nam giới. Trên hành trình mong manh song đầy sâu lắng của những bản nữ thư trên khăn thêu hay viết bằng bút lông trên quạt giấy, người đọc sửng sốt khi khám phá không gian mới mẻ trong Tuyết Hoa và cây quạt bí mật. Vẫn là đau thương bi ai của những cô gái trẻ bước vào thời kỳ đầu bó chân, có cả tiếng thét xé trời trong tiếng xương chân gẫy trước niềm vui hân hoan của người mẹ, những thì thầm an ủi về viễn cảnh có gót sen ba tấc sẽ được lấy một người chồng giàu sang cho dù các cô gái có thể bỏ mạng về điều đó, niềm hạnh phúc nhất đời của người đàn bà là đẻ con trai… Sự mới mẻ được mở ra là vẻ đẹp sâu xa trong những nỗi đau ấy. Bài học đầu tiên của những bé gái là sự cam chịu đến nhẫn nhục thân phận bị khinh rẻ của mình, mà về sau Tuyết Hoa chấp nhận để anh chồng đồ tể đánh đập tàn nhẫn, còn Bách Huệ im lìm trong mọi khoảnh khắc ân ái với chồng. Cả một thế hệ phụ nữ Trung Hoa chịu đựng và truyền lại cho nhau trong những căn buồng phụ nữ dưới sự phong tỏa của hai nguyên tắc Khổng giáo: tứ tức và tam tòng. Không một ai trong số họ muốn vượt khỏi vòng kiểm tỏa khắc nghiệt ấy, vì cho rằng đó là bổn phận, nhưng họ đã chứng tỏ vị trí của mình trong gia tộc, ngay cả anh chồng đồ tể vốn thường xuyên đánh đập Tuyết Hoa đã khóc khi đến phút cuối đời mới nhận ra giá trị của vợ mình. Nó khiến độc giả khi ngoái đầu về những ngày chưa xa ấy, hiểu hơn về những người dân Trung Quốc ấy không phải dưới ánh mắt thương hại về sự mê muội, mà ngập tràn sự chia sẻ, bởi họ thuộc một phần của nền văn hóa trong quá khứ với những nguyên tắc được xã hội chấp nhận và thừa nhận. Có lẽ Lisa See đã đi tìm nữ thư bắt đầu từ một phần dòng máu Trung Hoa chảy trong mình. Rất nhiều tình tiết trong cuốn tiểu thuyết được khởi nguồn từ thực tế, biến thành dòng chảy qua sự tái tạo của một nhà văn, càng khiến câu chuyện trở nên thật sự thuyết phục. Lồng trong bức phác họa thật đẹp về tình bạn và sức mạnh của người phụ nữ, thứ văn phong tao nhã ẩn giấu sự mạnh mẽ đặc trưng của Lisa See đã làm nên một tác phẩm mê hoặc lòng người. Tuyết Hoa và cây quạt bí mật đã được chuyển ngữ sang nhiều thứ tiếng và bản quyền được bán cho 36 quốc gia. Đây cũng là cuốn tiểu thuyết nằm trong danh sách best-seller của New York Times, đồng thời được xem như "lựa chọn số một" của Booksense, giành được nhiều giải thưởng trong nước và quốc tế. *** Tôi là người mà dân trong thôn gọi là "kẻ lọt sổ tử thần" - một bà góa tám mươi. Sống thiếu chồng, ngày đối với tôi thật dài. Tôi chẳng buồn để ý đến những món ăn đặc biệt mà Mẫu Đơn và người khác dọn cho nữa. Tôi cũng không còn mong chờ những sự kiện vui vẻ đã thành lệ của gia đình. Giờ đây, tôi chỉ đăm đăm hướng về quá khứ. Sau ngần ấy thời gian, cuối cùng tôi cũng đã có thể nói ra những điều mà trước đây, khi còn chịu ơn sinh dưỡng của cha mẹ cũng như ơn nuôi nấng của nhà chồng, tôi không thể. Tôi có cả một cuộc đời để kể lại; tôi chẳng còn gì để mất và cũng chẳng có mấy thứ phải kiêng kỵ. Tôi đã sống đủ lâu để hiểu thấu những cái hay cái dở của bản thân, mà cái hay cái dở đó xét cho cùng cũng chỉ là một. Suốt cả cuộc đời tôi luôn khao khát tình yêu. Tôi biết khát khao và mong đợi điều đó thì thực không phải đạo chút nào, cả khi còn con gái lẫn khi đã trở thành đàn bà, nhưng tôi vẫn khao khát, và chính cái khát vọng không chính đáng này là gốc rễ của mọi muộn phiền trong cuộc đời tôi sau này. Tôi từng ước mơ rằng mẹ sẽ chú ý đến tôi, rằng bà và mọi người trong gia đình sẽ dần yêu thương tôi. Để giành được tình cảm của họ, tôi đã tỏ ra biết vâng lời - một phẩm chất lý tưởng cho những người thuộc giới nữ như tôi - nhưng tôi lại quá sẵn sàng làm bất kỳ điều gì họ bảo. Hy vọng họ sẽ tỏ ra ân cần với tôi dù chỉ là chút ân cần nhỏ bé nhất, nên tôi đã cố gắng đáp ứng mong mỏi của họ - phải có được một đôi chân bó vào loại nhỏ nhất vùng - vì thế tôi chấp nhận để cho người ta bóp vỡ xương ra rồi khuôn lại thành một hình dạng đẹp hơn. Khi nhận ra mình không thể chịu đựng thêm một phút đau đớn nào nữa, nước mắt tôi rơi xuống đôi chân bị bó nhuộm máu, mẹ thì thầm vào tai động viên tôi cố vượt qua thêm một giờ, một ngày, rồi một tuần nữa, nhắc tôi nghĩ đến những phần thưởng tôi sẽ được hưởng nếu cố thêm chút nữa. Cứ như thế, mẹ dạy tôi cách chịu đựng - không chỉ những đau đớn về thể xác như việc bó chân hay sinh nở, mà còn là những nỗi đau day dứt hơn trong tâm, trong trí và trong hồn. Mẹ cũng chỉ ra những nhược điểm của tôi và hướng dẫn tôi làm thế nào để biến chúng thành lợi thế. Ở đất nước tôi, người ta bảo những người như mẹ là thống ái. Con trai tôi bảo rằng về chữ viết thì từ thống ái gồm hai chữ, thống nghĩa là nỗi đau, ái nghĩa là yêu. Đó là tình yêu của người mẹ. Việc bó chân không chỉ làm biến đổi đôi chân tôi mà còn biến đổi toàn bộ cá tính của tôi, và theo một cách kỳ lạ nào đó, tôi cảm thấy dường như quá trình đó vẫn tiếp diễn suốt cả đời mình, biến tôi từ một con bé yếu đuối thành một cô gái cả quyết, rồi từ một người phụ nữ trẻ tuyệt đối phục tùng nhà chồng trở thành người đàn bà có địa vị thuộc hàng cao nhất trong huyện, thi hành những luật lệ và tập tục thôn xã hà khắc. Cho đến năm bốn mươi tuổi, sự cứng rắn khi bó chân từ đôi gót sen ba tấc đã ăn sâu vào trái tim tôi, vốn vẫn khư khư giữ lấy những ký ức về sự bất công và lòng oán hận dai dẳng đến độ tôi không bao giờ có thể tha thứ cho những người tôi yêu và cho những người yêu tôi. Sự nổi loạn duy nhất của tôi bộc lộ ở nữ thư, thứ chữ viết bí mật của nữ giới chúng tôi. Vụ vượt rào đầu tiên của tôi là vào lúc Tuyết Hoa - lão đồng của tôi, người bạn viết thư bí mật của tôi - gửi cho tôi một chiếc quạt đang nằm trên bàn của tôi đây, và rồi tiếp tục viết thư cho tôi trên chiếc quạt sau khi chúng tôi gặp nhau. Tuy vậy, ngoài lúc ở bên Tuyết Hoa ra, tôi quyết tâm trở thành người vợ đảm, nàng dâu thảo, và người mẹ hiền. Vào những thời kỳ khó khăn, trái tim tôi trở nên rắn như đá vững như đồng. Tôi có một sức mạnh tiềm tàng để chống chọi với đau khổ và bi kịch. Nhưng giờ tôi lại đang ở đây, là một quả phụ, ngồi im lặng theo truyền thống, và tôi hiểu rằng mình đã mù quáng suốt bao năm ròng. Ngoại trừ ba tháng khủng khiếp vào năm thứ năm thời vua Hàm Phong, tôi sống trong căn buồng phụ nữ ở trên gác. Vâng, tôi đã đi đến Miếu Cô Bà, quay trở lại nơi chôn nhau cắt rốn, thậm chí đến thăm Tuyết Hoa, nhưng tôi chẳng biết gì ngoài địa hạt của mình. Tôi nghe đàn ông bàn luận về thuế má, về hạn hán, về những cuộc nổi dậy; nhưng những chủ đề ấy quá xa vời với cuộc sống của tôi. Những gì tôi có thể làm là thêu thùa, may vá, nấu nướng, chăm lo cho gia đình chồng, con cái, cháu chắt tôi, và viết nữ thư. Cuộc đời tôi là một cuộc đời diễn tiến tuần tự bình lặng - thời ấu thơ, tuổi vấn tóc cài trâm, những tháng ngày gạo muối, và giờ đây là chuỗi ngày ngồi im lặng. Vậy nên, giờ tôi ngồi đây một mình với những ý nghĩ và chiếc quạt trước mặt. Khi tôi nhấc nó lên, thật kỳ lạ, tôi thấy nó nhẹ bẫng trên tay tôi, bởi nó đã ghi dấu biết bao sướng vui, biết bao đau buồn. Tôi xòe nó ra, và mỗi thanh âm mà các nếp gấp tạo ra lại gợi tôi nhớ về những rung động của trái tim. Những ký ức vụt qua trước mắt tôi. Bốn mươi năm nay, tôi đã đọc đi đọc lại biết bao lần đến mức thuộc lòng như những bài hát của tuổi thơ. Tôi còn nhớ cái ngày bà mối đưa nó cho tôi. Những ngón tay tôi run run khi mở các nếp gấp. Rồi tôi thấy một vòng lá giản dị được trang trí ở mép quạt và một dòng thư từ từ lộ ra sau nếp gấp đầu tiên. Lúc đó, tôi không biết nhiều chữ trong nữ thư cho lắm, nên thím tôi đã đọc cho tôi nghe. "Mình được biết trong nhà bạn có một cô bé tính tình thùy mị nết na, hiểu đạo công dung ngôn hạnh. Bạn và mình sinh cùng ngày, cùng năm. Sao chúng ta không trở thành đôi bạn tương giao của nhau nhỉ?" Bây giờ tôi nhìn vào cái nhúm lông mềm mại đã viết nên những dòng chữ này và không chỉ thấy lại Tuyết Hoa thời con gái mà còn nhìn thấy Tuyết Hoa khi đã trở thành một người đàn bà - người đàn bà bền bỉ, thẳng thắn và vị tha. Tôi đưa mắt nhìn theo những nếp gấp và thấy lại sự lạc quan phơi phới và niềm vui của chúng tôi, sự ngưỡng mộ lẫn nhau và những điều chúng tôi đã hứa với nhau. Tôi thấy chiếc vòng đơn giản này đã trở thành một kết cấu tinh xảo bằng những bông tuyết xen kẽ với bông huệ để tượng trưng cho cuộc đời của chúng tôi song hành bên nhau như một cặp lão đồng ra sao. Tôi thấy vầng trăng chênh chếch về bên phải trên bầu trời đang rọi xuống chúng tôi. Chúng tôi tựa như đôi cây dây leo rễ quấn vào nhau, như đôi cây cổ thụ đã đứng đó hàng nghìn năm, như đôi uyên ương làm bạn với nhau suốt cuộc đời. Trong một nếp gấp, Tuyết Hoa viết, chúng ta yêu thương nhau thắm thiết và sẽ mãi mãi không bao giờ lìa xa. Nhưng trong một nếp gấp khác, tôi thấy những hiểu lầm, niềm tin đổ vỡ, và cuối cùng cánh cửa khép lại. Với tôi, tình yêu là thứ tài sản quý báu mà tôi sẽ không thể chia sẻ cho bất kỳ ai, và rốt cuộc chính điều đó đã khiến tôi với người bạn giống tôi ấy chia lìa nhau. Tôi vẫn đang tiếp tục học về tình yêu. Tôi nghĩ là tôi hiểu được nó - không chỉ tình mẫu tử, mà còn là tình yêu với song thân, tình phu phụ và cả tình cảm với lão đồng nữa. Tôi đã trải nghiệm nhiều kiểu tình cảm khác nhau - nỗi trắc ẩn, sự kính trọng, lòng biết ơn. Nhưng nhìn vào những bức thư mà tôi và Tuyết Hoa đã viết cho nhau trên chiếc quạt bí mật trong nhiều năm, tôi nhận ra rằng mình đã không biết quý trọng thứ tình yêu quan trọng nhất - tình yêu từ sâu thẳm con tim. Trong những năm cuối đời này, tôi ghi lại tiểu sử hộ nhiều người phụ nữ khác chưa từng học nữ thư. Tôi lắng nghe mọi nỗi buồn và lời than vãn, mọi bất công và bi kịch. Tôi đã chép lại cuộc đời bất hạnh của những con người khốn khổ theo niên đại. Tôi lắng nghe tất cả và ghi lại tất cả. Nhưng nếu như tôi biết nhiều về chuyện của đàn bà, thì tôi lại hầu như chẳng biết chút nào về chuyện của đàn ông, trừ chuyện họ không phải là anh nông dân chống chọi với thiên nhiên thì là người lính trên chiến trường, hoặc một người cô độc đang tự vấn chính mình... Nhìn lại cuộc đời mình, tôi thấy và con người mà tôi cần phải trở thành. Tôi viết những trang này cho những người đang an nghỉ dưới suối vàng. Mẫu Đơn, cháu dâu tôi, hứa chắc chắn sẽ đốt hết tất cả ngay khi tôi nhắm mắt xuôi tay, vì thế câu chuyện của tôi sẽ đến với họ trước cả linh hồn tôi. Hãy để những lời này giải thích cho hành động của tôi với ông bà tổ tiên tôi, với chồng tôi, nhưng trên hết là với Tuyết Hoa, trước khi tôi gặp lại họ. điều đó được rút ra từ chính những câu chuyện về đàn ông và đàn bà. Tôi chỉ là một người đàn bà hèn mọn với những ta thán đời thường, nhưng trong thâm tâm tôi cũng diễn ra một cuộc vật lộn như cuộc vật lộn của đàn ông, giữa bản chất đích thực của tôi. ... Mời các bạn đón đọc Tuyết Hoa và Cây Quạt Bí Mật của tác giả Lisa See.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đẹp Và Buồn
Kawabata viết tiểu thuyết cuối cùng mang tên Đẹp và buồn như để thêm một lần nữa khẳng định quan niệm mỹ học truyền thống lâu đời của Nhật Bản, và cũng là đúc kết lại toàn bộ tư tưởng sáng tác xuyên suốt trong sự nghiệp văn chương của ông. Câu chuyện chính của Đẹp và buồn kể về mối quan hệ tình yêu tay ba đầy bi kịch và tuyệt vọng của Oki với tình nhân Otoko, và người vợ Fumiko. Những nỗi đam mê, nhục cảm trong mỗi cõi đẹp đẽ đến điên rồ. Cái đẹp nằm trong tình yêu, sự ham muốn, và lòng hận thù, để rồi miên viễn trong một cuộc truy lùng, đeo đuổi, đi đến cái đích tận cùng của chiêm nghiệm, ấy là cái chết. "Chết là vĩnh viễn từ chối mọi lý giải của người khác. Không ai biết lý do hành động tự hủy của một người, cũng không ai có quyền phán đoán người đi tìm cái chết". Câu chuyện đầy trầm mặc được đặt trong bối cảnh chính là cố đô Kyoto, với tiếng chuông chùa cuối năm tĩnh lặng, với ngọn đồi êm ả dưới ánh trăng... Kawabata đã thả bút mà vẽ nên những nét đẹp thuần khiết nhất, nhưng cũng ẩn giấu những bất an nhất, thầm kín nhất của cái đẹp. Độc giả say đắm Kawabata, đi xuống từng tầng sâu cùng cõi đẹp Kawabata, đều sẽ luôn nhận ra rằng, Kawabata giữ gìn khoái cảm về cái đẹp ấy, miên viễn ngay trong sự tàn lụi. Đẹp và buồn chính là một lời tuyên ngôn cuối cùng của Kawabata. Đó là cuốn tiểu thuyết mang đầy dự cảm về một chuyến đi cuối cùng của đời người. Mặc dù trong diễn văn đọc tại buổi lễ nhận giải Nobel, Yasunari đã lên án cách kết thúc cuộc đời con người bằng cách tự vẫn, một cách chết "rất Nhật Bản" đã cướp đi nhiều người thân của ông. Năm 1972, Kawabata đã tự tử bằng khí đốt trong một căn phòng tại Hayama. Vì không để lại thư tuyệt mệnh, nên cái chết của ông vẫn đặt ra rất nhiều nghi vấn và tranh cãi cho những nhà nghiên cứu sau này. *** Kawabata Yasunari (1899-1972) sinh ngày 14.6.1899, là tiểu thuyết gia người Nhật Bản đầu tiên và là người châu Á thứ đoạt giải Nobel Văn chương. Những sáng tác văn chương, những tiểu luận mỹ học và phê bình văn học của Kawabata Yasunari, qua thời gian vẫn luôn đem lại hấp lực mạnh mẽ đối với nhiều nhà phương Đông học trên khắp các châu lục, có sức lôi cuốn rộng rãi độc giả trên thế giới, phản ảnh nhiều phương diện của văn hóa cũng như những rung cảm đầy đam mê mà tinh tế của tâm hồn Nhật Bản. Mồ côi từ năm mới có hai tuổi, Kawabata và chị gái sống cùng ông bà ngoại. Khi ông lên bảy thì bà ngoại qua đời, lên chín thì mất chị, mười bốn tuổi thì mất cả ông ngoại, ông phải về sống với gia đình người dì. Ở tuổi đôi mươi, Kawabata lại đánh mất một người mà ông hết lòng yêu thương, ông đã cùng nàng hứa hôn nhưng khi mọi việc chuẩn bị xong, nàng bất ngờ từ hôn, không một lời giải thích. Kawabata chỉ còn biết tựa mình vào năng lực sáng tạo, phong kín vết thương tâm hồn bằng cuộc tìm kiếm mê mải cái đẹp trong cuộc đời. Cảm thức cô đơn trong văn phẩm Kawabata thường phản ánh từ chính cuộc sống thời thơ ấu và tuổi trẻ của ông. Cái cô đơn ấy bắt đầu với tập Nhật ký tuổi mười sáu, được xuất bản năm 1925, tác phẩm đầu tay này có lẽ đã được viết lại dù trong đó, ấn tượng của một thiếu niên trước cái chết của người thân (ông ngoại) vẫn còn rõ nét. Những ngày cuối cùng khốn khổ của một người già yếu mù lòa, cuộc sống cô độc của một thiếu niên nhỏ bé đối diện với sinh ly tử biệt được thể hiện chân thực. Bên cạnh viết văn, Kawabata còn làm phóng viên cho một số tờ báo. Mặc dù đã từ chối tham gia vào sự hăng hái quân phiệt trong Thế chiến II, ông cũng thờ ơ với những cải cách chính trị của Nhật Bản sau chiến tranh, nhưng rõ ràng chiến tranh có ảnh hưởng lớn lao đối với ông (cùng với cái chết của cả gia đình khi ông còn trẻ). Sau đó, ông nói rằng kể từ đó ông chỉ còn khả năng viết những tác phẩm bi ca mà thôi. Năm 1972, Kawabata tự tử bằng khí đốt. Nhiều giả thuyết đã được đưa ra: sức khoẻ kém, cuộc tình bị cấm đoán, sốc do vụ tự tử của người bạn văn năm 1970. Kawabata không để lại thư tuyệt mệnh, các tác phẩm của ông cũng không có manh mối gì, nên đến nay không ai biết được nguyên nhân thật sự của cái chết đó. Trong diễn văn của Viện Hàn lâm Thụy Điển khi trao giải Nobel Văn chương cho ông vào năm 1968, đã tôn vinh Kawabata: “Ông là người tôn vinh cái đẹp hư ảo và hình ảnh u uẩn của hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và trong định mệnh con người.” *** Keiko tới trà thất Kiyamachi thấy Taichiro đã quần áo chỉnh tề đứng đợi ngoài sân thượng. “Em chào anh ạ. Anh ngủ có ngon không?” Keiko bước lại bên anh. Tựa lan can, cô gái hỏi tiếp: “Anh đợi em?” Taichiro nói: “Tôi dậy từ sớm. Tiếng sông làm tôi thức giấc. Tôi ra đây ngắm mặt trời mọc trên dẫy đồi đông.” “Anh dậy sớm thế à...?” “Đúng vậy. Nhưng dẫy đồi gần quá, nên rạng đông mà không có cảm tường là mặt trời đang mọc. Chỉ khi mặt trời đã lên cao, dẫy đồi mới đột ngột hiện rõ ra màu lục, và nắng mới làm sông sáng lên như bạc...” “Anh ngắm cảnh lâu nhỉ...” “Coi mấy xóm bên kia sông thức giấc và sinh hoạt náo nhiệt trở lại, cũng thú vị lắm.” “Vậy thì anh ngủ đâu có được nhiều. Khách sạn thiếu tiện nghi phải không?” Rồi cô gái thầm thì: “Anh mà bảo tại nhớ em mà mất ngủ thì em sướng lắm...” Taichiro yên lặng. Keiko năn nỉ: “Anh không chịu nói cho em câu đó sao?” “Có chứ. Keiko, tôi ngủ không được là vì nhớ cô.” “Anh nói chỉ vì em van xin anh.” “Nhưng Keiko, đêm qua cô ngủ ngon phải không?” Keiko lắc đầu: “Anh đoán sai rồi.” “Tôi đoán vậy tại mắt cô tươi rói.” “Tại vì tim em tươi rói. Mà tim em tươi rói là tại vì anh. Còn mắt em thì sợ gì một hai đêm không ngủ.” Keiko nhìn Taichiro chằm chặp, đôi mắt ướt long lanh. Anh nắm lấy tay cô gái. Keiko nói: “Sao mà tay anh lạnh thế.” “Còn tay cô thì ấm quá.” ... Mời các bạn đón đọc Đẹp Và Buồn của tác giả Yasunari Kawabata.
Cuộc sống và Thời đại của Michael K - John Maxwell Coetzee
Michael K, đó là tên của nhân vật chính trong tác phẩm đoạt giải Booker năm 1983. Mỗi cái tên thôi cũng đủ nói lên một thân phận mịt mờ. Nhưng sau K của Kafka, lịch sử văn học lại có thêm một nhân vật K kỳ diệu, K của người đoạt giải Nobel văn học 2003 J.M.Coetzee. K, với chiếc môi rách và thân hình mong manh như một đứa trẻ mồ côi, im lặng ngẫm nghĩ và sống trong thế giới của riêng mình - một thế giới may mắn còn màu xanh của bí ngô và mây trời. Nhưng chiến tranh như cái bóng theo đuổi anh đến tận mọi ngõ ngách, ở bất cứ nơi nào anh đến... Với một thân phận chiến tranh, mọi giá trị cuộc sống cũng bị hoán đổi. Thực phẩm, tình dục, sức khỏe, sự liên đới với đồng loại... đều không phải là nhu yếu của K. K hờ hững với tất cả. Trên tất cả là sự thèm muốn “cắn miếng bánh của Tự Do”. Cái tâm nguyên sơ của anh, cách anh tuyệt thực vì không ăn được “thức ăn của con người”, sự hoang mang và ngơ ngác của anh trước sự quan tâm của một người xa lạ... làm người đọc ứa nước mắt. Cuộc sống và thời đại của K đã tước đoạt mất ở anh cả ý niệm về tình thương và lòng trắc ẩn giữa con người với con người! Sự tàn nhẫn của chiến tranh được ẩn giấu khéo léo trong câu chuyện, nhưng tội ác chiến tranh không bao giờ che giấu được. Còn mong đợi nào hơn một thời đại mở ra một niềm tin nhân ái: chiến tranh không tiếp diễn, và không số phận nào có mặt ở cuộc đời này bị lãng quên? *** *** John Maxwell Coetzee (sinh ngày 9/2/1940) sinh trong gia đình gốc Đức tại miền Tây Nam Phi, từ nhỏ đã giỏi cả tiếng Anh và tiếng Đức; học các trường đại học tổng hợp Cape Town và Texas; dậy tiếng Anh và văn học; bắt đầu viết văn từ năm 1969 và ngay lập tức được dư luận chú ý từ cuốc sách đầu tiên, nổi tiếng thế giới với tiểu thuyết Giữa miền đất ấy (In the heart of the country, 1977) viết về tính bạo lực và thói ghẻ lạnh là bản chất của chính sách thuộc địa của người da trắng. “Ruồng bỏ” (Disgrace) của John Maxwell Coetzee – Một nhà văn hai lần đoạt giải Booker: Cuộc sống và thời đạicủa Michael K. (1983) và Ruồng bỏ (1999) – và đoạt giải Nobel Văn học năm 2003. Những tác phẩm của Coetzee được viết bằng giọng văn điềm đạm, ngắn gọn, ít phô diễn kĩ thuật, người mới đọc dễ nắm bắt được mạch tác phẩm của ông và hiểu được cốt truyện. Tất nhiên, để hiểu toàn bộ kĩ thuật hay dụng ý của Coetzee lại không đơn giản lắm. Các tác phẩm của ông thường đi sâu vào cuộc sống và suy nghĩ riêng của một người nào đó đặt trong một bối cảnh có biến động, phức tạp vì chính trị hoặc bị xô đẩy bởi chiến tranh, như trong Cuộc sống và thời đại của Michael K. thì là hành trình của K. Ruồng bỏ là hành trình của David Lurie, hay Tuổi sắt đá là về bà Curren, một giáo sư sống và chết dần vì bệnh ung thư. *** Ăn thêm chút nữa là anh có thể đi dạo được rồi - Tôi dỗ Michaels. Tuy nhiên, thứ anh ta thực sự cần là vật lý trị liệu thì chúng tôi lại không thể có. Anh ta thích một trong những đồ chơi Ịàm bằng cái que và hai sợi cao su. Anh ta cần một chế độ ăn kiêng từ từ, những bài tập nhẹ nhàng và vật lý trị liệu để sớm trở lại với sinh hoạt trại, có dịp diễu hành lên xuống qua trường đua, hô to các khẩu hiệu và chào cờ, rồi đào hố và lấp chúng lại. Tôi tình cờ nghe lỏm ở căngtin “Bọn trẻ thấy khó mà thích nghi với cuộc sống trong nhà. Chúng thực sự buồn nh ớ khu vườn rộng rãi và những con vật cưng của chúng. Chúng tôi phải sơ tán theo cách này: báo trước có ba ngày. Tôi có thể khóc khi nghĩ đến những thứ đã bỏ lại.” Người nói là một phụ nữ có gương mặt hồng hào, mặc bộ váy áo chấm tròn to, tôi cho là v ợ của một trong những NCO [ [4] ] . (Trong các giấc mơ về ngôi nhà bị từ bỏ của bà, một người đàn ông lạ đi cả giày nằm ườn ra trên tấm vải trải giường, hoặc mở tủ lạnh và nhổ bọt vào món kem). ... Mời các bạn đón đọc Cuộc sống và Thời đại của Michael K của tác giả John Maxwell Coetzee.
Những Người Đàn Bà Trong Gia Đình Kennedy - Pearl S. Buck
Những người đàn bà trong gia đình Kennedy (The Kennedy Women) mà các bạn đang cầm trên tay là quyển sách cuối cùng trong đời bà - Pearl S.Buck - hoàn tất vào khoảng tháng Giêng 1972, và ấn hành tháng Bảy cùng năm. Bà không viết gì nữa cho đến khi qua đời. Quyển sách của một trong những nhà văn lớn nhất thế giới, viết về một gia đình nổi tiếng nhất thế giới.Qua những nhận xét sắc bén và thâm trầm rất Đông phương, Pearl S.Buck không chỉ viết về những người đàn bà trong gia đình Kennedy, mà còn là một cái nhìn bao gồm những cá nhân sáng chói: những người đàn ông mang họ Kennedy.“Làm thế nào để trở thành một tổng thống Hoa Kỳ?” Hoặc “Làm cách nào để được như những người đàn ông mang họ Kennedy?” Tất cả sẽ được giải đáp trong quyển sách này. Và nhân đó, chúng ta sẽ hiểu vai trò của người đàn bà quan trọng như thế nào đối với sự thành công của người đàn ông trên cả hai phương diện: chính trị và tiền bạc.Tuy cuốn sách nhỏ này mang tựa đề là “Những người đàn bà trong gia đình Kennedy”, nhưng ở những chương cuối, bà cũng đã dày công nhận xét, phân tích, tình hình xã hội Mỹ, nhất là sau giai đoạn JFK bị ám sát, và đưa ra những lời giải thích cũng như tâm tư, mong muốn của giới trẻ Mỹ , mà đã từng bị coi là giới trẻ nổi loạn thời bấy giờ. *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ; Những mảnh hồn sầu xứ. Khi người con gái lên núi *** Gia đình Kennedy đã làm thay đổi quốc gia của chúng ta, và thay đổi chúng ta, hơn bất kỳ gia đình nào khác trong lịch sử Hoa Kỳ. Dĩ nhiên, thay đổi này cũng phải đơn độc mình họ, thay đổi của đời sống một quốc gia là một sự chuyển biến liên tục và gia đình Kennedy đã lộ diện, đã nhô lên đúng lúc trong lịch sử quốc gia chúng ta và trong lịch sử của thế giới. Chúng ta đang tiến tới gần một thời đại.   Hai cuộc thế chiến và cuộc chiến tiêu hao ở Triều Tiên đã cướp mất của chúng ta biết bao nhiêu nhân tài trẻ tuổi, có thể là những nhà lãnh đạo của quốc gia chúng ta và của thế giới. Sự mất mát lớn nhất trong chiến tranh không phải là tiền bạc. Sự mất mất luôn luôn và mãi mãi vẫn là sự mất mát những thanh niên sáng chói và tài ba trên phương diện lãnh đạo. Trong xứ sở và ở hải ngoại, thế hệ thứ hai hiện thời của chúng ta chỉ còn lại những nhà lãnh đạo hãng nhì .   Dưới thời đại Tống thống Truman và Eisenhower có thể nói là thời kỳ phục hồi. Dân chúng còn kiểm điểm bản thân và xem xét những lĩnh vực quanh đời sống của họ, họ chưa dám nhìn về tương lai xa hơn.   Họ mong muốn được dìu dắt bởi những người mà họ có thế đặt được tính nhiệm của họ.   Nhưng giai đoạn cầm quyền của Eisenhower có thể nói là giai đoạn gây ít nhiều thất vọng. Đồng ý là Eisenhower có nhiều kinh nghiệm và tài ba trên lĩnh vực quân sự, nhưng hiển nhiên, ông không có kinh nghiệm và tài ba trong lĩnh vực chính trị. Đức tính thanh khiết và thẳng thắn của ông phải được công nhận, nhưng sự tiên liệu và chuẩn bị, phải có, đối với một nhà lãnh đạo tài giỏi, ông gần như không có. Tuy vậy theo tôi nghĩ, qua những năm chậm chạp ấy, lại tào ra một môi trường tốt cho dân chúng, để họ có đủ thời giờ chuẩn bị, phản ánh và hiểu thêm các nhu cầu của họ, để họ sắp xếp, tìm kiếm một lối đi mới thích hợp trong đời sống. Việc tìm kiếm này đã dần dần kết tinh được một ước muốn sâu xa hơn, vững chãi hơn, trong tư tưởng non yếu lúc bấy giờ. Tóm lại, tất cả rất, cần thiết cho những kẻ can đảm và anh hùng dấn bước trên hướng đi mới mẻ của họ.   Đúng vào thời gian này, những người đàn ông mang họ Kennedy xuất hiện. Nếu Joseph Patrick Kenned Jr. người anh lớn của họ còn sống, thì sự xuất hiện có thể là quá sớm, và hấp lực của gia đình Kennedy cũng kém hẳn đi, nếu không nói là không có.   John Kennedy đã xuất hiện đúng lúc, đúng con đường cần thiết sự có mặt của ông.   Ông đã đến với sức mạnh truyền thống của Hoa Kỳ , của một giòng họ di trú ba đời ở quốc gia này , của sự giầu có, thành công và quyền thế, qua các hoạt động riêng của ông, ông đã lộ diện như là một vị anh hùng được mong mỏi.   "Những gì đã tạo nên người anh hùng ?" Chưa có ai tìm hiểu một cách rõ rệt. Theo tôi, một hành động liều lĩnh ngắn ngủi của một người, không có nghĩa người ấy là một vị anh hùng. Nhiều người có thể được gọi là anh hùng trong chốc lát, qua hành động can đảm nhất thời của họ. Tôi nghĩ: một vị anh hùng thật sự phải được nhìn qua các hành động liên tục của họ và chính bản thân họ gây ra sự tín nhiệm, lòng tin cậy và tối hậu là sự tôn kính.   Giải thích tốt nhất của hai tiếng anh hùng thường được sử dụng trong ngôn ngữ hiện đại là nên lấy nghĩa nguyên thủy của Hy Lạp: “thiên tài của cái đẹp”.   Trong một bữa ăn: tôi đã thảo luận với một người bạn có quan điểm chính trị độc lập, về hiện tượng Kennedy : "Vâng. đúng là nguy hiểm, ông ta tuyên bố. Một Kennedy này kế tiếp một Kennedy khác bước vào tòa Bạch ốc, chúng ta sẽ có một đế chế. Kennedy chỉ ở Bạch ốc hai nhiệm kỳ, không thể thêm hai nhiệm kỳ nữa. Không, không, tám năm là quá đủ. Tôi bỏ phiếu cho đảng Công hòa tám năm và rồi quay lại đảng Dân Chủ. Nhưng chắc bà công nhận, một Kennedy và tòa Bạch ốc với tất cả ma lực của ông, dân chúng đã bị mê hoặc và họ muốn ông ta ở lại mãi mãi."   Gia đình Kennedy có ma lực, mỗi người trong gia đình này đều có, nhưng John Kennedy và vợ ông, Jacqueline, có ma lực  vô song. Robert Kennedy cũng có ma lực và góp thêm vào ma lực của người anh, sau khi người anh này bị ám sát. Ma lực không luôn luôn có tính chất mời gọi sự yêu thương mà nó còn, thỉnh thoảng, mời gọi sự đố kỵ và bạo hành nữa.   Một chiều ở Arizona, khi tôi đến dự tiệc tại nhà một góa phụ giàu có, một người đàn bà sáu mươi tuổi, thành thật và giản dị, nhưng bà ta đã gây cho tôi sự kinh ngạc. Đó là lúc một thanh niên lên tiếng bàn về Robert Kennedy, và cuối cùng với giọng điệu mến mộ, anh ta cho rằng Robert có thể là vị Tống thống sắp đến của Hoa Kỳ. Khuôn mặt đáng mến của nữ chủ nhân biến đổi luôn luôn. Thật ra, phải nói là một khuôn mặt biểu lộ sự oán ghét vô tả. ... Mời các bạn đón đọc Những Người Đàn Bà Trong Gia Đình Kennedy của tác giả Pearl S. Buck.
Người Xa Lạ - Albert Camus
Người xa lạ (còn được dịch Kẻ xa lạ hay Người dưng; tiếng Pháp: L'Étranger) là một tiểu thuyết của Albert Camus được viết vào năm 1942. Đây là một tác phẩm lạ thường nói về một người đàn ông Pháp bị bệnh tâm thần, người mà cuối cùng đã bị tống giam vì tội giết người, và ngồi chờ bị hành hình. Trong thời gian đó, ông đã suy nghĩ rất nhiều về cuộc đời của ông cũng như nhìn ra được và ao ước có được một cuộc sống an lành trở lại. Đây là một trong những tác phẩm đầu tay của Albert Camus, cũng như những học thuyết cơ bản của ông về những điều phi lý và vô lý (tiếng Anh: absurdism) *** Albert Camus sinh ngày 7 tháng 11 năm 1913 tại Mondovi, một làng ở Constantinois, gần Bône, Algérie. Cha ông, Lucien Camus, một công nhân sản xuất rượu nho vùng Mondovi cho một thương gia thành phố Alger. Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, Lucien Camus bị động viên vào tháng 9 năm 1914, bị thương trong trận chiến Marne và chết tại bệnh viện quân y Saint-Brieuc ngày 17 tháng 10 năm 1914. Về cha mình, Abert chỉ biết qua một bức ảnh duy nhất còn để lại. Albert đến Paris làm biên tập cho tờ Paris-Soir. Năm 1942, ông phát hành cuốn tiểu thuyết L'Étranger (Người xa lạ) và tiểu luận Le Mythe de Sisyphe (Huyền thoại Sisyphe), trong đó ông đã trình bày những tư tưởng triết học của mình. Sisyphe là một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp bị trừng phạt phải lăn một hòn đá lớn lên núi dốc, khi đến đỉnh hòn đá lại rơi trở xuống chân dốc, cứ thế Sisyphe tiếp tục lăn lên rồi rơi xuống theo một chu kỳ vĩnh cửu. Theo hệ sự phân loại của riêng Albert, các tác phẩm đó thuộc "thời kỳ phi lý" (cycle de l'absurde), cùng với các vở kịch Le Malentendu (Ngộ nhận, 1944) và Caligula (1945). Năm 1943, ông làm việc cho nhà xuất bản Gallimard rồi làm chủ biên tập báo Combat, cũng trong năm này ông gặp và làm quen với Jean-Paul Sartre. Những tác phẩm tiếp theo của Camus thuộc "thời kỳ nổi loạn" (cycle de la révolte), trong đó nổi tiếng hơn cả phải kể đến La Peste (Dịch hạch, 1947), kế đến L'État de siège (1948), Les Justes (1949) và L'Homme révolté (Người nổi loạn, 1951). Trong quyển tiểu luận triết học Người nổi loạn, ông đã trình bày tất cả các hình thức nổi loạn (siêu hình, chính trị và nghệ thuật...) qua mọi thời đại. Ông miêu tả con người cảm nhận sâu sắc sự phi lý của cuộc sống, luôn muốn nổi dậy, chống lại nỗi khốn khổ của kiếp người, nhưng cuối cùng vẫn không có lối thoát, mọi cố gắng đều hoàn toàn vô ích. Tình bạn giữa Albert Camus và Jean-Paul Sartre rạn nứt vào năm 1952, sau khi trên tạp chí Les Temps modernes của Sartre, Henri Jeanson đã chê trách sự nổi loạn của Camus là "có suy tính". Năm 1956, tại Alger, Albert công bố "Appel pour la trêve civile". Cũng trong năm đó, cuốn La Chute, tác phẩm quan trọng cuối cùng của Albert Camus được xuất bản. Ngày 4 tháng 1 năm 1960, tại Petit-Villeblevin vùng Yonne, Albert Camus mất trong một tai nạn giao thông. Trên chiếc xe Facel Véga khi đó còn có một người bạn của ông Michel Gallimard và người cháu Gaston. Albert Camus được chôn cất ở Lourmarin, vùng Vaucluse, nơi ông đã mua một căn nhà trước đó. *** Lần thứ ba tôi từ chối linh mục. Tôi không có gì để nói với ông ta, cũng không muốn nói, mà đằng nào thì cũng sắp gặp ông ta. Điều tôi quan tâm khi đó là làm sao thoát khỏi máy chém, liệu có thể có lối thoát nào hay không. Người ta đã chuyển tôi sang phòng giam khác. Tại đây, khi nằm duỗi dài, tôi nhìn thấy bầu trời và không gì khác. Ngày nào tôi cũng chỉ nhìn thấy trên đó những màu sắc tối dần khi ngày tàn và đêm đến. Khi chuẩn bị ngủ, tôi đưa hai tay xuống dưới gáy và nằm chờ. Tôi không nhớ đã bao lần tự hỏi liệu đã có trường hợp nào bị khép tội chết lại thoát được khỏi cỗ máy lạnh lùng sau khi giật đứt tung dây trói của cảnh sát và bỏ chạy hay chưa. Tôi tự trách mình đã không chú ý đến những câu chuyện về hành hình. Đáng lẽ phải quan tâm đến những vấn đề như vậy. Người ta đâu biết được điều gì sẽ đến. Cũng như mọi người, tôi đã đọc những chuyện viết trên báo chí. Nhưng chắc chắn có những tác phẩm đặc biệt mà tôi đã không tò mò xem đến. Ở đó có lẽ tôi đã tìm được những câu chuyện về những vụ tẩu thoát. Biết đâu tôi lại chả đọc được rằng ít nhất có một trường hợp bánh xe của cỗ máy đã dừng lại, và trong tiến trình bất khả kháng này đã xảy ra một sự tình cờ, chỉ một lần duy nhất, khi một cơ cấu gì đó bị trục trặc. Chỉ một lần! Không hiểu sao tôi nghĩ rằng thế là đủ. Trí tưởng tượng của tôi sẽ làm những việc còn lại. Báo chí hay nói về món nợ trước xã hội. Theo họ thì cần phải trả nợ. Nhưng cái đó chẳng liên quan gì đến trí tưởng tượng. Điều tôi quan tâm là khả năng thoát thân, một cú nhảy ra khỏi cái nghi lễ quái ác, một cuộc tháo chạy tạo ra mọi cơ hội để hy vọng. Tất nhiên, như thế cũng có nghĩa là hy vọng sẽ bị bắn chết ở một góc phố, khi đang cắm cổ chạy, và một viên đạn bay tới. Nhưng, nghĩ tới nghĩ lui, chẳng có gì có thể đem lại sự xa hoa đó, tất cả đều bế tắc, và cỗ máy chém sẽ tóm lấy tôi. Mặc dù rất có thiện chí, tôi vẫn không thể nào chấp nhận được phán quyết độc đoán này. Vì rõ ràng có một sự bất tương xứng nực cười giữa bản án và hệ quả không tránh khỏi của nó bắt đầu từ thời điểm tuyên án. Việc bản án được tuyên đọc vào lúc 20 giờ thay vì 17 giờ, việc nó có thể hoàn toàn khác đi, việc nó được quyết định bởi những người ba phải, và nó được đưa ra trên cơ sở một khái niệm mập mờ là “nhân dân Pháp” (là “Đức” hay “Trung Hoa” thì có khác chi?), tất cả làm tôi cảm thấy người ta đã nghiêm trọng hóa quá đáng khi đưa ra một quyết định như vậy. Tuy nhiên, tôi buộc phải thừa nhận rằng một giây sau khi nó được tuyên, các hiệu ứng của nó đã trở nên xác định, nghiêm trọng, và làm tôi cảm nhận được rõ ràng sự tồn tại của bức tường mà tôi đang nằm dài bên cạnh. ... Mời các bạn đón đọc Người Xa Lạ của tác giả Albert Camus.