Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ba Bộ Mặt Của I-A-Nút

Xta-nhi-xlap Ga-ga-rin BA BỘ MẶT CỦA I-A-NÚT Truyện tình báo Liên Xô Người dịch: Nguyễn Thụy Láng NHÀ XUẤT BẢN THUẬN HÓA HUẾ - 1987 Số trang: 240 Dịch từ nguyên bản tiếng Nga BA BỘ MẶT CỦA I-A-NÚT Báo Tiểu thuyết - Tháng 6-1984 àu ngầm «Van-ki-ri-a» mất tích Vào tháng sáu năm 1944, chiếc tàu ngầm của hải quân Đức mang tên Van-ki-ri-a bị mất tích. Khi thời hạn thẩm tra kết thúc, thì ở căn cứ hải quân, nơi chiếc tàu ngầm Van-ki-ri-a có trong danh sách, các tàu khác đã treo cờ rủ và các sĩ quan đều mang băng tang. Ban tham mưu xếp nó vào danh sách các tàu ngầm và thủy thủ bị mất tích, còn người thân của các thủy thủ thì được biết là họ đã hy sinh anh dũng trong một trận chiến đấu với kẻ thù của nước Đức vĩ đại. Ít người được biết số mệnh thật sự của chiếc tàu ngầm này. Hành trình các chuyến đi kéo dài của nó người ta lại càng biết ít hơn. *** Một người dáng vóc vạm vỡ, bắp thịt nở nang, da rám nắng, từ biển bước lên bãi tắm óng ánh cát vàng, gạt những giọt nước đọng trên mình rồi thủng thẳng đi dọc theo mép nước. Giờ này trên bãi tắm Ca-pa-ca-ban ở Ri-ôđơ Gia-nê-rô chỉ có ít người. Từ Đại Tây Dương, từng luồng gió mát thổi vào sâu trong lục địa xô bạt luồng khí nóng oi bức đang bốc lên từ những con đường rải nhựa của thành phố. Hắn ta đứng lại, lấy chân hất chiếc vỏ ốc nửa chìm nửa nổi trong cát. - Chào Ghéc-man! Người đàn ông đứng tuổi có bộ râu hung hung kiểu thủy thủ với thân hình rắn chắc cất tiếng chào. Y đang nằm ngửa cách Ghéc-man chừng dăm bước và bây giờ lật sấp, chống khuỷu tay nhỏm dậy, đưa tay che mắt cho khỏi bị chói nắng. - Chào bác sĩ Dên-khốp! Ghéc-man đáp lại rồi ngồi xuống cát bên cạnh y. - Anh đến muộn 15 phút đấy. - Có một chuyện hoàn toàn tình cờ, thưa bác sĩ. Ghéc-man nói. - Khỏi cần chi tiết. Ta hãy nói vào việc đi. Mong sao anh tránh khỏi được mọi chuyện tình cờ, chàng trai ạ. - Thuyền đã đến vào đêm qua. Đội thủy thủ đã được bố trí ngay tức khắc, và bây giờ chắc là đang vung tiền vào tiệc rượu chè. Trên thuyền chỉ còn lại thuyền trưởng và một gã Mê-hi-cô tên là Pê-rết. - Thế gã Pê-rết này làm việc ra sao? - Một chàng trai đáng tin cẩn. Có thể trông cậy vào anh ta. - Bọn họ chỉ có hai người thì không thể đưa thuyền ra khỏi cảng được! - Vâng, tất nhiên, nhưng tôi đã chuẩn bị thêm hai người nữa. Ghéc-man trả lời. - Hãy thận trọng đấy ! Đừng quên rằng chính phủ nước này, về hình thức, đang theo con đường trung lập. - Tôi hiểu ngài. Thưa bác sĩ. Cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra ở đâu ạ? - Ở vuông 27-15. Các anh cần phải có mặt ở đấy từ 23 giờ đến nửa đêm. Tín hiệu - pháo lửa đỏ để mọi góc độ nhìn thấy rõ và ở phía dưới là những đốm sáng xanh. Anh sẽ bắn pháo hiệu. Họ sẽ tự tìm đến chỗ anh. Mật khẩu của họ «Chào buổi sáng». Anh sẽ trả lời: «Địa bàn bị hỏng, bây giờ đêm nào cũng lạnh». - Tất cả đã rõ. Ngay đêm nay ạ? Ghéc-man hỏi. - Chính đêm nay. Hàng chở trên tàu là bao nhiêu? - Một trăm sáu mươi tấn - Ghéc-man trả lời. - Một trăm tấn ở dạng thỏi, còn lại là tiền đúc. Bác sĩ Dên-khốp cau mày. - Phải đúc lại tất cả. Với những số tiền đúc ấy thì nguy hiểm hơn đấy. Ghéc man nhún vai. - Đấy không phải là điều quan tâm của chúng ta, thưa bác sĩ. - Ghéc-man đáp... - Phải. - Dên-khốp xác nhận. - Thôi, đi đi, Ghéc-man! Trước tiên hãy xuống nước, sau đó lên bờ, ở đâu thì tùy ý. Ban ngày hãy nghỉ ngơi đi. Đêm nay anh phải đứng trước một công việc khó khăn nặng nề đấy. Hãy nhớ nhé: Ô vuông 27-15. *** Con cá Ma-rơ-lin to lớn lao nhanh vào tấn công. Đàn cá chuồn vọt lên, bay trên mặt nước, giương những cặp vây dài lướt sẹt trong màn đêm dày dặc để thoát nạn... Một lúc sau chúng lại hạ xuống nước. Chỉ còn một con vì bay cao hơn cả đàn nên không trở về với biển được. Bị mắc vào kính tiềm vọng, nó rơi xuống dưới chân những người đang đứng trên cầu tàu, chút nữa làm rơi chiếc mũ lưỡi trai của viên chỉ huy tàu. - Đồ dơ dáy! - Viên chỉ huy rủa rồi lấy chân hất con cá chuồn vào một góc. - Nửa giờ nữa là đến hẹn! - Tê-ô-đo Phôn Bết-man nhận định. - Anh tin rằng chúng ta đang ở đúng địa điểm đã định chứ? - Viên chỉ huy hỏi. - Hoàn toàn tin chắc. - Tốt. Chúng ta chờ đợi vậy. Chiếc tàu ngầm Van-ki-ri-a đã tắt đèn, đậu đúng ô vuông 27-15 trong tư thế chiến đấu: thân tàu dài và hẹp ẩn chìm dưới nước, chỉ có buồng chỉ huy, như một mỏm đá ngầm, nổi mập mờ trên mặt nước khó mà đoán nổi trong đêm tối. Địa điểm chúng ta đậu đúng trên chí tuyến Ma-kết. Viên thuyền phó thứ nhất phá tan sự im lặng. Trong khi đó chiếc thuyền «Ô-ri-nô-cô» đang tiến đến địa điểm hẹn. Vài giờ trước, dưới sự chỉ huy của Han-xơ Đrê-vít, một người Đức sinh ra ở Ác-hen-ti-na, con thuyền rời cảng Ri-ô đơ Gia-nê-rô ra khơi. Các nhà chức trách trên cảng theo thông báo của viên thuyền trưởng đã nhận xét trong các giấy tờ: cảng đến là Xan-tô Ca-ra-vê-lốc; hàng chuyên chở là máy khâu, đoàn thủy thủ gồm năm người. Đứng bên cạnh viên thuyền trưởng trên mạn tàu là người giúp việc có vẻ mặt rầu rĩ, đó là Pê-rết, mà trước đây theo lời đồn là một tên cướp sừng sỏ, gốc Mê-hi-cô. Ở đây còn có cả Ghéc-man và hai thủy thủ bỏ trốn từ chiếc tàu thủy Ác-hen-ti-na vì bị cám dỗ bởi viễn cảnh sẽ kiếm thêm chút đỉnh trong chuyến đi này. Tên chúng là Jô và Lu-ít. Trên thuyền gắn một máy nổ công suất lớn. Giờ đây, thuyền Ô-ri-nô-cô đang đi vào ô quy định, viên thuyền trưởng và Ghéc-man nhìn về phía trước. Pê-rết đứng bên tay trái, các thủy thủ đang chơi xúc xắc trong buồng của họ. - Có lẽ ta đã đến địa điểm - Viên thuyền trưởng nói và cho thuyền chạy chậm lại. - Dừng máy và chuẩn bị lửa hiệu. Mười lăm phút nữa chúng ta sẽ bắt đầu. Trên bầu trời, một phát pháo hiệu đỏ bùng lên như một ngôi sao và phía dưới nó nhấp nháy một đốm lửa xanh. *** - Lẽ ra đã đến lúc họ phải xuất hiện. Viên chỉ huy tàu ngầm Van-ki-ri-a vừa càu nhàu vừa đưa chiếc đồng hồ dạ quang lên tận mắt. - Mới quá có 10 phút. Phôn Bết-man trả lời - có thể họ đến muộn. - Thế anh tin chắc rằng chúng ta đang ở đúng vị trí ta phải có mặt chứ? - Viên chỉ huy hỏi lại. Tê-ô-đo Bết-man nói với vẻ bực mình: - Tôi đã đích thân kiểm tra lại những tính toán của hoa tiêu. Chính ông cũng có thể thấy rõ được điều đó. - Tôi đã thấy các đốm lửa rồi! - Tên nhận tín hiệu kêu lên. - Không thể nói khẽ hơn được à! - Viên chỉ huy càu nhàu - các anh không phải đang đi dạo chơi ở ngoại ô đâu nhé. Đứng bên bánh lái đi. Việc chuyển các hòm nặng từ thuyền lên tàu ngầm kéo dài đến tận lúc rạng đông. Tham gia vận chuyển có đoàn thủy thủ của cả hai chiếc tàu và thuyền. Pê-rết đã hai lần xuống tàu ngầm và trở về với một chai rượu vốt-ca chính phẩm trên tay. Trong một lần đi như vậy, chớp lấy thời cơ khi trong khoang không có ai. Pê-rết đã nhanh như cắt rút từ trong áo khoác ra một hộp kim loại dẹt to như hộp thuốc lá, cúi xuống nhét dưới một ống chạy dọc theo boong tàu Van-ki-ri-a. Đến sáng, tất cả các máy khâu đã nằm gọn trong chiếc bụng thép của tàu Van-ki-ri-a. Ghéc-man lên cầu tàu nói thầm vào tai viên chỉ huy khoảng 5 phút, sau đó trở về thuyền Ô-ri-nô-cô. Các thủy thủ tàu Va-ki-ri-a tháo dây buộc, và cả tàu lẫn thuyền đều tiến theo các hướng khác nhau. - Chúng ta đi lên phía bắc chứ, thuyền trưởng? - Ghéc-man nói - đến Rê-xi-phi, Pê-rết hãy đứng lên bánh lái đi. Ta muốn ứng tiền trước cho mấy anh bạn này. Ê! Jô, Lu-ít! Các thủy thủ đang ngồi trong khoang thuyền, buông thõng những cánh tay rã rời vì khuân vác từ đêm đến giờ, nặng nề đứng dậy đi về phía Ghéc-man đang đứng bên cửa buồng điều khiển. - Các chàng trai ơi, các anh giỏi lắm - Ghéc-man nói - các bạn nghĩ sao về một hớp rượu ngon và mấy đồng tạm ứng? Jô, một lên lai lực lưỡng, cười sung sướng và nhảy cẫng lên ở trên boong. - Tốt quá, thưa ông chủ, tốt quá! - Hắn nói. Lu-ít, một tên Ấn Độ bán thuần chủng có thân hình dài ngoằng và gầy gò, mỉm cười rụt rè. - Các bạn, hãy cầm lấy rượu và tiền đây này! Và có thể nghỉ ngơi được! - Ghéc-man nói. Các thủy thủ xoay lưng lại, sánh vai nhau đi về buồng thủy thủ ở phía mui thuyền. Ghéc-man nhìn viên thuyền trưởng đang đứng bên chiếc cửa sổ mở của buồng điều khiển, hắn đưa mắt về phía tấm lưng to bè của Lu-ít và dùng tay trái lấy khẩu súng máy trong chiếc tủ con ra. Những tiếng nổ vang lên liên tiếp. Lu-ít khựng lại, ngã sấp mặt xuống boong, co giật rồi hết cựa quậy: chai rượu từ từ tuột khỏi tay hắn. Viên đạn làm cho Jô sững lại dường như có một bức tường bỗng hiện lên trước mặt hắn. Hắn đứng sững trong giây lát, không nhúc nhích và thế là Ghéc-man lại nâng khẩu súng máy lên một lần nữa. Chỉ có điều hắn chưa kịp bắn thì Jô đã đột ngột quay ngoắt lại, đôi mắt mất hết thần sắc, nhìn thẳng, tiến về phía Ghéc-man đang giương súng. Jô tiến lại gần, còn Ghéc-man thì giật lùi về buồng điều khiển. Cuối cùng, trong buổi sáng yên tĩnh của biển khơi vang lên những tiếng nổ chát chúa của loạt súng máy, những viên đạn từ nòng súng bay ra cắm ngập và xé nát tấm ngực nở nang của tên lai. Hắn bước thêm được một bước cuối cùng, rồi thở khè khè đứt đoạn: - Ông... chủ... sao... lại… *** Hành trình của chiếc tàu ngầm hải quân Đức Van-ki-ri-a trong một thời gian được thực hiện trên mặt nước. Sau đó, viên chỉ huy ra lệnh bắt đầu lặn, vì tàu đi ngang qua khu vực nhiều tàu bè và thủy thủ tàu ngầm Đức không muốn để một ai phát hiện ra mình. - Tê-ô-đo, tôi sẽ ngủ chừng hai tiếng - viên chỉ huy nói với Phôn Bết-man - hãy cho tàu chạy về phía đảo Mác-tin Vác, từ đó ta sẽ rẽ về hướng xích đạo. Hai giờ nữa tôi sẽ thay ca cho anh. Tê-ô-đo suy nghĩ về những điều ngang trái mà số phận đã ném hắn - một sĩ quan tàu ngầm xuất sắc - vào cái hộp thép nhét đầy những máy khâu để thay thế cho những quả thủy lôi khủng khiếp. Tê-ô-đo Phôn Bết-man, tất nhiên hiểu rằng món hàng này quan trọng đối với nước đại Đức biết chừng nào. Nhưng công việc của hắn là đánh chìm các tàu địch chứ không phải là lẩn tránh giữa đại dương trên chiếc tàu ngầm không có máy phóng ngư lôi. Hắn liếc nhìn đồng hồ, mắng nhiếc tên cầm lái đã làm tàu lệch hướng mất 3 độ và lom khom chui qua những chiếc cửa hình ô-van của các ngăn buồng đi đến ca-bin. Song, Tê-ô-đo Phôn Bét-man đã không kịp tới đó. Một luồng khí nén từ phía sau xô hẳn ngã chúi xuống, đập cằm vào khung cửa. Hắn thấy đau ở cằm. Sau đó, viên thuyền phó thứ nhất không còn cảm thấy được gì nữa. Tên cầm lái ở vị trí trung tâm thấy lớp vỏ bọc có một chỗ bị bung vào phía trong và một dòng nước đen ngòm cuồn cuộn chảy về phía hắn rồi cuốn lấy hắn, vò xé hắn và dìm hắn chết ngập. Viên chỉ huy cũng chết ngập trong nước không kịp dậy. Các thủy thủ trong khoang mũi của tàu thì còn sống sót được một ít vì tiếng nổ làm cho chiếc tàu đứt làm đôi, nhưng phần mũi vẫn còn đủ kín. Chiếc quan tài bằng sắt vừa nhào lộn vừa chìm sâu xuống đáy đại dương, và ở đây nó bị một lớp nước dày chừng 300 mét đè lên. Chừng nửa dặm về bên phải, chiếc tàu chở hàng đang chạy từ Ri-ô Grăng đi Môn-rô-via thấy một vòm nước nổi lên lóng lánh dưới ánh mặt trời. Cột nước chùng chình giây lát rồi sau đó vỡ tung ra, gây nên sự kinh hoàng cho đoàn thủy thủ của chiếc tàu Bra-xin mang tên «Xao-pao-lô». Khoảng đen lấp lánh các màu lan rộng ra ở ngay chỗ vòm nước đã biến đi. Con tàu quay mũi đến gần nó, hạ xuồng, bắt đầu lượm lặt những mảnh vỡ và xác chết bị tung lên cùng với những bóng nước bị vỡ ra trên mặt biển. Bấy giờ là thời chiến và thuyền trưởng tàu «Xao- pao-lô» cấm không được báo tin về sự kiện đã xảy ra. Viên thuyền trưởng cố xác minh quốc tịch của những xác người đã được thủy thủ mình vớt lên, nhưng việc đó không thể được. Chẳng có giấy tờ gì, chẳng một dấu hiệu nào ngoài những dấu hiệu về chủng tộc. Ông ta không tìm được gì hết. *** Chiếc tàu ngầm «Van-ki-ri-a» bị mất trong tình trạng bí ẩn đối với các nhà chỉ huy Đức, nó chở 160 tấn ni-ken dưới dạng thỏi cùng với tiền đúc của Mỹ và Ca-na-đa. Ni-ken - một kim loại ánh bạc có giá trị bậc nhất trong bảng tuần hoàn của Men-đê-lê-ép với ký hiệu 28, là kim loại khó nóng chảy, cứng và không bị biến đổi trong không khí. Ni-ken trở thành một vấn đề nan giải đối với nước Đức cũng như nhiên liệu và còn có thể nan giải hơn. Dầu sao thì dầu lửa còn có thể thay thế được. Còn ni-ken thì không. Thiếu ni-ken không thể có vỏ thép. Thiếu vỏ thép không thể có xe tăng. Thiếu xe tăng thì không chiến thắng nổi trên những chiến trường của đại chiến thế giới lần thứ II. Thiên nhiên đã bớt xén, không cho nước Đức đủ ni-ken. Ở thung lũng sông Ranh chỉ có một trữ lượng ni-ken không đáng kể. Phần lớn ni-ken nước Đức phải mua của Ca-na-đa. Chiến tranh bắt đầu và nước Đức bị mất đi nguồn ni-ken từ Ca-na-đa. Hít-le chiếm được Hy-lạp và cùng với nó là các mỏ ni-ken. Nước chư hầu Phần Lan mở rộng cửa các mỏ ni-ken ở miền Bắc tại vùng Pết-xa-mô cho người Đức. Ở đó có các tù nhân và tù binh làm việc. Cả một quân đoàn SS đảm nhận bảo vệ các hầm mỏ và đảm bảo khai thác, liên tục loại quặng pyrit đỏ có hàm lựợng ni-ken và gửi về các nhà máy luyện kim ở Đức. Khi xe tăng T-34 của Liên Xô xuất hiện trên các chiến trường, các chuyên viên Đức kinh ngạc bởi độ bền của vỏ thép các xe tăng dó. Theo mệnh lệnh từ Béc-lin, chiếc xe tăng T-34 đầu tiên chiếm được đã được đưa về Đức. Ở đây, các nhà khoa học đã phân tích vỏ thép của nó. Họ xác định rằng vỏ thép của xe tăng Nga có một tỷ lệ ni-ken cao và do đó vỏ thép này cực kỳ bền vững. Việc thiếu ni-ken trong vỏ thép đã dẫn đến tình trạng là cho đến năm 1944, các nhà máy quốc phòng của Đức quốc xã phải sản xuất xe tăng vỏ dày hơn bình thường. Nhưng ngay vỏ như vậy vẫn dễ bị phá vỡ và các xe tăng «con hổ» «con báo» «phéc-đi-năng» rõ ràng là nặng nề hơn và yếu thế hơn các xe tăng và xe tự hành của Liên Xô. Ni-ken và ni-ken! Cần nhiều ni-ken hơn nữa! Mời các bạn đón đọc Ba Bộ Mặt Của I-A-Nút của tác giả Xta-nhi-xlap Ga-ga-rin.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tiếng Chó Tru Trong Đêm - Erle Stanley Gardner
Truyện rất tuyệt, một trong những #Mason hay nhất tôi từng đọc. Tình tiết hấp dẫn, lôi cuốn, đoạn kết phải nói là: Hảo Hảo - Mỳ tép số 1 VN. *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) *** - Xin mời vào, thưa ngài Cartrait, - Della Street mở cửa. - Ông Mason đang đợi ngài ạ. Người đàn ông cao lớn vai rộng gật đầu và đi vào văn phòng. - Ngài là Perry Mason? - Ông ta hỏi. - Ngài là luật sư ạ? - Vâng, - Mason đáp. - Xin mời ngài ngồi. Người đàn ông ngả xuống ghế bành, rút thuốc lá nhét một điếu vào miệng và chìa bao thuốc cho Mason. Trầm ngâm ngó bàn tay run rẩy, Mason lắc đầu từ chối. - Cảm ơn ngài, tôi thích loại thuốc khác hơn. Người đàn ông hấp tấp nhét bao thuốc vào túi. Quẹt diêm, tựa khuỷu tay vào tay vịn của ghế và châm thuốc hút. - Thư kí của tôi báo với tôi rằng. - Mason thong thả nói. - ngài muốn trò chuyện cùng tôi về con chó và về bản di chúc. - Về con chó và di chúc, - người đàn ông lặp lại như tiếng vọng. - Được rồi. Đầu tiên chúng ta bàn về bản di chúc, bởi vì tôi hiểu biết về chó ít lắm! Mason kéo cuốn sổ tay lại gần mình và cầm lấy bút máy. - Tên ngài là gì? - Artur Cartrait. - Tuổi? - Ba mươi hai. - Địa chỉ thường trú? - 4893, Milpas Draiv. - Có vợ hay độc thân? - Lẽ nào điều đó lại có ý nghĩa gì chăng? - Vâng, - Mason nói, ngước nhìn khách hàng. - Điều đó không quan trọng đối với di chúc, - ông kia cự lại. - Mặc dù thế vẫn cần. - Nhưng tôi đã nói rồi, điều đó không liên quan gì với di chúc của tôi. - Vợ ngài tên là gì? - Paula Cartrait. - Bà ấy sống với ngài chứ? - Không. - Vậy thì ở đâu? - Tôi không rõ. Mason ngẩng đầu lên khỏi cuốn sổ tay. - Được rồi, - ông nói sau một khoảng im lặng ngắn, - trước khi chúng ta quay lại những chi tiết về cuộc sống gia đình ngài, chúng ta hãy nói về việc ngài định làm gì với tài sản của ngài. Ngài có con cái không? - Không. - Ngài muốn để tài sản của mình lại cho ai? - Trước hết hãy nói với tôi, bất kể việc người viết ra di chúc chết như thế nào, nó có còn hiệu lực hay không? Mason im lặng gật đầu. - Chúng ta cứ cho rằng, - Cartrait tiếp tục. - theo phán quyết của toà vì vụ án mạng con người gây ra, y sẽ chết trên giá treo cổ hoặc trên ghế điện. Chuyện gì sẽ xảy ra với di chúc của y? - Con người có từ giã cuộc đời bằng cách nào đi nữa thì cũng không ảnh hưởng đến hiệu lực di chúc về mặt pháp lí, - Mason đáp. - Cần bao nhiêu người làm chứng cho một bản di chúc? - Hai, với một loại tình huống và không cần một ai, với những tình huống khác. - Ngài có ý gì? - Nếu di chúc được đánh máy và ngài kí, thì chữ kí được khẳng định bởi hai nhân chứng. Nếu bản di chúc được viết tay toàn bộ, kể cả ngày tháng và chữ kí, và không có một chữ nào được đánh máy, thì theo luật pháp của bang này, không cần đến nhân chứng. Bản di chúc như thế có hiệu lực pháp lí và việc thi hành nó là một điều tất yếu. Artur Cartrait thở phào nhẹ nhõm. - Gì đi nữa, thì ít nhất với điều này mọi thứ cũng đã rõ. - Ngài muốn để tài sản lại cho ai? - Mason nhắc lại. - Bà Clinton Fouli, sống tại Milpas Draiv, 4889. Mason sửng sốt nhướng lông mày. - Cho bà hàng xóm ư? - Cho bà hàng xóm, - Cartrait khẳng định. - Rất tốt. Nhưng hãy lưu ý, ngài Cartrait, ngài đang nói với luật sư của mình. Ngài không nên có bí mật gì đối với tôi. Xin đừng lo, tất cả những điều nói ra tại đây, sẽ ở lại giữa hai chúng ta mà thôi. - Thì tôi có giấu giếm gì đâu! - Cartrait kêu lên nôn nóng. - Tôi không tin chắc vào điều đó, - Mason nhận xét trầm tĩnh. - Thế nhưng chúng ta quay lại với di chúc của ngài đã. - Tôi nói hết rồi. - Hết là thế nào? - Sở hữu riêng của tôi tôi di chúc lại cho bà Clinton Fouli. Perry Mason đặt bút xuống bàn. - Nếu thế thì chuyển sang chuyện con chó vậy. - Con chó tru. Mason gật đầu vẻ khuyến khích. - Cơ bản là nó tru vào ban đêm, nhưng đôi khi cả ban ngày. Tiếng tru này đẩy tôi đến chỗ phát điên. Thì ngài cũng biết, lũ chó tru khi có ai đó chết. - Con chó này sống ở đâu? - Trong ngôi nhà bên cạnh. - Tức là bà Clinton Fouli sống một phía nhà ngài, còn từ phía khác, con chó đã tru? - Không, con chó tru trong nhà của Clinton Fouli. - Hiểu rồi, - Mason gật đầu. - Hãy kể cho tôi nghe về mọi chuyện đi, thưa ngài Cartrait. Người khách dụi đầu mẩu thuốc lá vào cái gạt tàn, đứng lên, đi đi lại lại trong văn phòng và quay trở lại ghế bành. - Ngài nghe này, tôi rất muốn hỏi ngài thêm một câu về bản di chúc. - Tôi nghe đây. - Chúng ta cứ giả sử rằng, bà Clinton Fouli trong thực tế không phải là bà Clinton Fouli. - Ngài có ý nói gì? - Chúng ta cứ cho là bà ta sống với ông Clinton Fouli như một người vợ chính thức, nhưng đám cưới của họ không có đăng kí hợp pháp. - Điều đó không có ý nghĩa gì, - Mason chậm rãi đáp, - nếu trong bản di chúc của mình, ngài miêu tả bà ta như “bà Clinton Fouli, sống với ông Clinton Fouli, theo địa chỉ Milpas Draiv, 4889”. Nói đúng hơn, người làm di chúc có quyền để lại sở hữu của mình cho bất cứ ai, nếu bản di chúc xác định rõ ràng ý định của người đó. Ví dụ, người đàn ông để tài sản của mình cho vợ, nhưng sau đó hoá ra rằng họ đã không đăng kí một cách chính thức. Đôi khi gia tài được để lại cho các con trai, mà lại không phải là con trai họ... - Tôi không quan tâm điều đó, - Cartrait sốt ruột cắt lời ông. - Tôi muốn biết sự thế sẽ thế nào trong trường hợp cụ thể của tôi thôi. Bà Clinton Fouli có cần phải là vợ hợp pháp của Clinton Fouli hay không? - Điều đó không nhất thiết. - Thế nếu như, - cặp mắt Cartrait biến thành hai khe hẹp, - vẫn tồn tại bà Clinton Fouli đích thực? Nếu Clinton Fouli có vợ và chưa li dị với người vợ hợp pháp của mình, còn tôi di chúc lại sở hữu của mình cho bà Clinton Fouli đang sống với ông ta trong một ngôi nhà? - Tôi đã giải thích với ngài rồi, - Mason nhẫn nại đáp, - điều chủ yếu: Đó là dự định của người lập di chúc. Nếu ngài viết là ngài để lại sở hữu riêng của ngài cho người phụ nữ hiện đang sống theo địa chỉ được nêu như là vợ của Clinton Fouli là đủ. Nhưng như tôi hiểu, ông Fouli vẫn còn sống chứ? - Dĩ nhiên, ông ta vẫn sống. Ông ta là hàng xóm của tôi. - Hiểu rồi. Và ông Fouli có biết ngài sắp để lại tài sản cho vợ ông ấy không? - Tất nhiên không, - Cartrait cắt ngang. - Ông ta chẳng biết gì hết và sẽ không được biết gì cả. - Được rồi, với điều đó mọi sự đã rõ. Chúng ta chuyến sang chuyện con chó. - Ngài phải làm gì đó với con chó này. - Đề xuất của ngài? - Tôi muốn để người ta bắt Fouli vào tù. - Dựa trên cơ sở nào? - Trên cơ sở là tiếng chó tru làm tôi phát điên. Đó như là sự tra tấn. Lão dạy cho nó tru. Trước đây con chó không tru. Nó chỉ mới tru một, hai đêm vừa rồi thôi. Lão cố ý chọc tức tôi và vợ của lão. Vợ lão đang ốm, mà con chó cứ tru như trước cái chết của ai đó vậy, - Cartrait lặng đi, thở nặng nhọc. Mason lắc đầu. - Thật tiếc, thưa ngài Cartrait, tôi sẽ chẳng giúp gì được cho ngài. Trong lúc này tôi rất bận. Thêm nữa, lại vừa kết thúc một vụ tố tụng khó khăn và... - Tôi biết, tôi biết, - Cartrait cắt lời ông. - Và ngài nghĩ rằng tôi là một gã thần kinh. Ngài cho rằng tôi đề nghị ngài một thứ vặt vãnh gì đó. Đâu phải như thế. Tôi đề nghị ngài làm một việc cực kì quan trọng. Và tôi đến với ngài chính là bởi vì ngài đã thắng vụ tố tụng ấy. Tôi theo dõi tiến trình của nó, thậm chí đã đến phòng xử án để nghe ngài. Ngài là một trạng sư chân chính. Lần nào ngài cũng vượt lên trước biện lí tối thiểu là một nước đi. Mason mỉm cười yếu ớt. - Cảm ơn vì những lời tốt lành, ngài Cartrait ạ, nhưng xin ngài hiểu cho. Tôi là luật sư tư pháp. Việc lập các bản di chúc không phải là lĩnh vực của tôi, còn tất cả những gì dính líu đến con chó, thì chúng ta có thể điều chỉnh được mà không cần sự can thiệp của luật sư. - Không! - Cartrait kêu lên. - Ngài chưa biết Fouli đấy thôi. Ngài không tưởng tượng nổi đó là hạng người thế nào đâu. Có thể là ngài nghĩ rằng tôi không có tiền? Tôi có tiền, và tôi sẽ trả rất khá cho ngài, - ông ta lôi từ túi ra cái ví căng phồng, mở nó, bàn tay run rẩy rút ra ba tờ giấy bạc và đặt chúng lên bàn. - Ba trăm đôla. Đó là đặt cọc. Sau này ngài sẽ được nhận nhiều hơn. Các ngón tay của Mason đánh nhịp trên mặt bàn. - Thưa ngài Cartrait, - ông thốt ra dè dặt, - nếu ngài muốn để tôi làm luật sư cho ngài, tôi yêu cầu lưu ý tới điểm sau: Tôi sẽ chỉ làm điều gì mà theo niềm tin của tôi là đem lại lợi ích cho ngài. Chắc ngài hiểu? - Tôi mong được như thế. - Có nghĩa là tự tôi sẽ quyết nên làm gì để bảo vệ trọn vẹn nhất các quyền lợi của ngài. - Tốt, - Cartrait đáp. Mason cầm tiền ở bàn và bỏ chúng vào túi. - Đã thoả thuận xong. Tôi sẽ đại diện cho ngài trong vụ này. Nghĩa là ngài muốn Fouli bị bắt? - Vâng. - Đành thế, điều đó cũng không phức tạp gì lắm. Ngài cần đâm đơn kiện, và chánh án sẽ viết lệnh bắt giữ. Nhưng tại sao ngài lại nhờ cậy tôi? Ngài muốn để tôi giữ vai trò đại diện của nguyên cáo? - Ngài chưa biết Fouli, - Artur Cartrait nhắc lại. - Lão sẽ chẳng để cho yên thế đâu. Lão sẽ đâm đơn ra toà hặc tôi vì sự buộc tội giả trá. Có thể là lão bắt con chó tru, nhằm nhử tôi vào bẫy đấy. - Con chó giống gì? - Bécgiê cảnh sát to tướng. Perry Mason liếc nhìn Cartrait và mỉm cười. - Nếu người đưa đơn kiện đã sơ bộ nhờ đến luật sư, kể hết với ông ta tất cả không che giấu điều gì, và trong tương lai tuân thủ các lời khuyên của luật sư, thì trong khi xem xét tố tụng về sự buộc tội giả trá, điều đó sẽ có lợi cho người kiện. Còn bây giờ, tôi muốn làm để sao cho Clinton Fouli không có nguyên cớ đâm đơn kiện ngài lên toà. Tôi sẽ đưa ngài đến gặp trợ lí ngài biện lí khu, người phụ trách những vấn đề tương tự. Tôi muốn để ngài nhắc lại với ông ấy tất cả những gì liên quan đến con chó. Có thể không nhắc tới bản di chúc. Nếu ông ấy quyết rằng điều ngài nói là đủ để có lệnh bắt giam, thì lệnh sẽ được viết. Nhưng tôi cảnh báo trước, ngài không nên giấu giếm gì cả. Hãy đưa ra trước ông ấy tất cả các cứ liệu, và lúc ấy bất cứ đơn kiện nào của Fouli cũng không làm hại được ngài. Cartrait thở phào nhẹ nhõm. - Giờ ngài mới nói ra vấn đề. Chính tôi cần một lời khuyên như thế. Chúng ta tìm ông trợ lí ở đâu đây? - Bây giờ tôi sẽ gọi điện thoại cho ông ấy và thỏa thuận về cuộc gặp, - Mason đáp. - Xin thứ lỗi, tôi phải ra ngoài một lát. Xin ngài hãy cứ tự nhiên như ở nhà vậy. - Hãy cố thoả thuận với ông ấy vào ngay hôm nay. Tôi sẽ không chịu đựng thêm nổi một đêm nữa với con chó tru đâu. Khi Mason rời khỏi văn phòng, Cartrait lấy thuốc lá ra. Để châm thuốc, ông ta buộc phải lấy tay khác đỡ bàn tay cầm que diêm... Ở phòng tiếp khách Della Street ngẩng đầu lên. - Bị cắm sừng à? - Cô hỏi. - Tôi không biết, - Mason đáp, - nhưng tôi cố làm sáng tỏ điều đó. Hãy nối tôi với Pit Dorcas. Tôi dự định chuyển vụ này cho ông ta. Trong khi Della quay số, Mason đứng cạnh cửa sổ, ngó xuống cái giếng xi măng, từ đó vọng lại tiếng động của xe cộ. Dorcas ở đầu dây. Mason quay lại, đi đến chiếc bàn đặt trong góc phòng tiếp khách và nhấc ống nói. - Chào anh Pit. Perry Mason đây. Tôi sẽ đưa khách hàng của tôi tới chỗ anh, nhưng tôi muốn cho anh biết trước vấn đề nói về việc gì. - Ông ta cần gì? - Ông ta muốn đâm đơn kiện. - Về lí do gì? - Về con chó tru. - Về... - Phải, phải, con chó tru. Hình như trong khu chúng ta đã có một nghị định cấm giữ chó tru sủa trong vùng dân cư. - Đúng là có, nhưng có ai để ý đến nó đâu. Chí ít tôi cũng chưa vấp phải những lời than phiền như thế. - Đây là trường hợp đặc biệt. Khách hàng của tôi đang phát điên hoặc đã điên rồi vì tiếng tru này. - Chỉ vì tiếng chó tru ấy à? - Tôi muốn làm sáng tỏ chính cái điều đó. Nếu khách hàng của tôi cần đến sự giúp đỡ về y tế, hẳn tôi muốn để ông ta nhận được nó. Chính anh cũng hiểu, ở người này tiếng chó tru chỉ gây ra sự bực bội, với người khác có thể làm họ phát điên. - Điều đó là chính xác, - Dorcas đồng ý. - Anh đưa ông ta đến gặp tôi chứ? - Vâng. Và tôi muốn buổi trò chuyện của chúng ta diễn ra với sự có mặt của nhà tâm thần học. Không nên nói với ông ta đó là bác sĩ, anh cứ giới thiệu ông ấy như trợ lí của anh, và cứ để ông ấy đặt vài ba câu hỏi. Lúc đó, chắc chắn chúng ta sẽ rõ ngay trạng thái tâm lí khách hàng của tôi. - Tôi sẽ đợi các anh, - ngừng một chút, Dorcas nói. - Chúng tôi sẽ có mặt sau mười lăm phút. - Mason đặt ống nói xuống. ... Mời các bạn đón đọc Perry Mason #04: Tiếng Chó Tru Trong Đêm của tác giả Erle Stanley Gardner.
Sợi Chỉ Mỏng Manh - Yakov Naumov & Aleksandr Yakovlev
Thiếu tá KGB Andrey Mironov và các đồng sự khám phá ra kế hoạch gián điệp do một nhóm phản động âm mưu thực hiện vào những năm đầu sau chiến tranh vệ quốc. *** Đã một giờ trôi qua và có lẽ là hơn nữa, thiếu tá An-đrây Mi-rô-nốp miệng vẫn không rời điếu thuốc lá – hết điếu này anh lại châm ngay điếu khác. Mi-rô-nốp đi đi, lại lại từ góc này sang góc kia trong căn phòng làm việc. Anh đếm mười bốn bước đi, quay lại mười bốn bước, rồi lại đi mười bốn bước nữa. “Đi bao nhiêu bước rồi: năm trăm, một ngàn, năm ngàn hay mười ngàn?” – ý nghĩ đó thoáng đến rồi vụt biến đi vì nó có nghĩa lý gì đâu. Mi-rô-nốp dừng lại bên cửa sổ, anh mở rộng hai cánh cửa. Không khí mát mẻ mùa thu ùa vào căn phòng. Những làn khói thuốc lá đang luẩn quẩn quanh bàn, xao động và tan dần. Tỳ tay vào khung cửa, Mi-rô-nốp nhìn ra đường. Trước mắt anh là những khung cảnh quen thuộc: bên phải là đường phố hẹp mang tên Đgiéc-gin-xki ngược về phía trước, đường hơi dốc thoai thoải. Về buổi chiều, đường phố náo nhiệt hẳn lên với những ô tô du lịch, tơ-rô-lây-buýt và xe khách loại lớn. Bên trái, trông rõ một phần quảng trường Đgiéc-gin-xki với cửa hàng bách hóa “Thế giới thiếu nhi” đang tấp nập người ra vào. Từ trên tầng năm của tòa nhà Ủy ban an ninh nhà nước, có thể trông rõ dòng người vô tận trên các vỉa hè, đường rẽ… Mi-rô-nốp trầm ngâm ngắm nhìn cảnh người, xe tấp nập, nhộn nhịp. Nhưng khung cảnh gần gũi và quen thuộc thường ngày ấy hôm nay đối với anh không thể gợi lên được một niềm vui nào như mọi hôm. Anh đang bận tâm suy nghĩ một vấn đề quan trọng. Mi-rô-nốp thở dài, đóng cửa sổ lại và quay về bàn làm việc. Ngồi xuống chiếc ghế mềm, Mi-rô-nốp lại kéo cặp tài liệu và dở tập ” Hồ sơ số…” Bìa tập hồ sơ màu nâu mỏng dính. Trong đó chỉ có mười đến hai mươi trang. Chính những vấn đề trong cặp hồ sơ ít ỏi đó đã làm cho người thiếu tá an ninh mất ăn mất ngủ suốt ba hôm nay. Anh mở cặp giấy và lại một lần nữa, không hiểu là lần thứ mấy rồi, chăm chú đọc hết trang này sang trang khác. Nhưng tất cả đều vô ích, vì không có gì sáng sủa hơn. Càng đọc bao nhiêu anh càng thấy bế tắc bấy nhiêu (và quả là Mi-rô-nốp hầu như đã gần thuộc lòng) anh không làm sao lần ra đầu mối của cuốn chỉ để theo đó có thể tiến hành cuộc điều tra. Còn nhiều điều chưa rõ ràng, chưa được xác minh. Phải tập trung chú ý ai trước? Phải nghiên cứu ai trước? Mi-rô-nốp suy nghĩ. Xa-môi-lốp-xcai-a ư? Điều này chẳng cần phải nói vì chính là đã bắt đầu từ mụ ta, tuy nhiên Mi-rô-nốp cũng tin là Xa-môi-lốp-xcai-a chỉ là một con cờ ngẫu nhiên không đáng được các cơ quan an ninh nhà nước chú ý. Trê-nhi-a-ép chăng? Rất mơ hồ. Quả thật nếu như tin vào lời khai của Xa-môi-lốp-xcai-a (nhưng có nên tin mụ ta không?) thì trường hợp của Trê-nhi-a-ép quả là lạ lùng thật. Tại sao ông ta, một con người sống phong lưu, dư dật lại phải đi bán những quần áo phụ nữ nhập cảng. Nếu quả như vậy thì dù chỉ là một giả thuyết tồi nhất: điều đó có khác gì một kẻ đầu cơ. Bản thân Trê-nhi-a-ép lại là một đảng viên, từng tham gia cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại, một trung tá kỹ sư, một người đã được thưởng nhiều huân chương, một nhà xây dựng cỡ lớn. Không thể nào ông ta lại giống một kẻ có thể gây nên những tội lỗi chống Tổ quốc, chống Nhà nước xô-viết. Vậy thì là ai bây giờ? Tác giả của mẩu thư còn sót lại chăng? Cũng có thể lắm. Nhưng, nên bắt đầu với anh ta như thế nào nếu như chưa biết rõ anh ta, hay đúng hơn là cô ta, là ai? Phải tìm tác giả bức thư đó ở đâu? Tìm như thế nào? Nếu như trong tay Mi-rô-nốp đã có được một mối chỉ nào đấy thì nó cũng rất mỏng manh, rất rời rạc… ... Mời các bạn đón đọc Sợi Chỉ Mỏng Manh của tác giả Yakov Naumov & Aleksandr Yakovlev.
Tiền 2: Tiền! Tiền Mặt Trả Ngay - Paul Loup Sulitzer
Cậu chàng Frank Cimballi, 19 tuổi, con nhà tỉ phú chỉ biết ăn chơi, bỗng rơi tõm vào một cảnh ngộ bi đát: Bố, mẹ chết, người yêu tự sát, gia tài khổng lồ được thừa kế bị cưỡng đoạt sạch sành sanh. Bị đẩy đến xứ Kenya Châu Phi xa lạ với hai bàn tay trắng - theo đúng nghĩa đen, cậu chàng bắt buộc phải sống, phải làm lại cuộc đời mình. Thế mà chỉ năm năm sau, Cimballi đã trở thành triệu phú, lần luợt đánh bại tất cả những kẻ độc ác đã “gây nên cuộc lừa đảo có tầm cỡ thế kỷ”, kể cả tên trùm tư bản tài chính Martin Yahl. Đánh bại, không phải bằng vũ lực mà bằng chính sức mạnh của đồng tiền, bằng các mánh lới, các thủ đoạn kinh doanh. Và rồi chính Cimballi, đang ngất ngưởng trên đỉnh cao chót vót thắng lợi huy hoàng, lại một lần nữa bị lôi tuột xuống vực cũng bằng những cái “bẫy” nghề nghiệp... Dịch và giới thiệu “Tiền!...” vào lúc này, chúng tôi hy vọng có thể giúp bạn đọc tiếp cận với “thế giới kinh doanh”, với “nghệ thuật làm giàu”, và còn hơn thế nữa, có một cái nhìn đầy đủ, xác thực về thời đại mình đang sống. *** Sòng Bạc là tập thứ 3 của series tiểu thuyết Tiền của tác giả Paul Loup Sulitzer. Bộ Tiền gồm có: - Tiền! Niềm Vui Sướng - Tiền! Tiền Mặt Trả Ngay - Sóng Bạc *** Tác giả Paul L. Sulitzer trước khi trở thành nhà văn đã là một chuyên gia kinh tế, tham vấn cho nhiều công ty lớn. Nhờ thế ông đã có thể đi sâu vào gan ruột “giới làm ăn”, nắm được tối đa những lắt léo, những bí mật mà chỉ người trong cuộc mới biết. Có lẽ đó là lý do chủ yếu khiến "Tiền!..." có sức hấp dẫn lạ lùng của một cuốn truyện trinh thám. Nhưng khác với loại truyện ấy, vẫn là một cuốn tiểu thuyết tâm lý xã hội, một bức tranh thu nhỏ của thời hiện đại, với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, của tốc độ chuyển dịch, sức mạnh ma quái của đồng tiền, với lý tưởng, tình yêu, hạnh phúc, và khổ đau của con người... *** Ngày 7 tháng năm. Ngày hôm ấy, sáng hôm ấy tôi ở Amsterdam. Từ London tới, sau đó phải đi ngay Frankfurt, Cộng Hòa Liên Bang Đức. Có hẹn trong buổi chiều và ngay tối hôm đó đi Paris ở độ ba bốn ngày, rồi từ Paris bay đi California, qua New York để gặp Catherine. Đây không phải chuyến đi đặc biệt. Trong mấy tháng gần đây tôi đã đi mười lăm hai mươi chuyến như thế này rồi. Ngày 7 tháng năm này cũng không phải là một ngày khác thường. Tôi không hề mường tượng đến điều đang đợi mình. Không một chút linh cảm nào. Cuộc gặp gỡ bên Hà Lan chán phè. Một người không nhìn được đã nhận xét: “Anh còn rất trẻ!” Còn tôi vẫn đưa ra câu trả lời quen thuộc: “Xin yên tâm, điều đó không lây sang ông đâu mà lo”. Sau các thủ tục xã giao đó, chúng tôi vào việc. Họ cho biết có chuyện làm ăn muốn bàn với tôi. Nói với tôi chuyện đó, họ đề phòng cẩn thận như những tên trộm cắp. Tuy chuyện của họ thật đơn giản: Họ có tiền (không ít) và muốn có nhiều hơn (tất nhiên), họ muốn bỏ vốn vào một công ty đầu tư tư nhân thật hoàn toàn ẩn danh đặt trụ sở ở Curacao trong quần đảo Antilles thuộc Hà Lan cũ, hoặc ở Panama, hoặc Caiman, hoặc Bahamas, hoặc Liechtenstein, hoặc bất cứ đâu cũng được miễn là giữ được bí mật triệt để. Họ mong đợi công ty sẽ thu được lợi nhuận cao nhờ tài quản lí tinh ranh của Franz Cimballi. Franz Cimballi chính là tôi. Tóm lại, một chuyện làm ăn kinh điển. Tiếp theo là bài vè cổ truyền về thuế má. Tôi ngồi nghe nhưng đầu nghĩ đến việc khác, cuối cùng tôi bảo: “Tôi hiểu ý mấy ông, xong rồi, mọi việc sẽ tốt đẹp”. Tôi chia tay với họ sau độ một tiếng bàn bạc. Lúc ấy vào khoảng mười một giờ mười lăm. Tôi đi dọc bến Singel, những chiếc xuồng kết hoa đầy ắp hàng chở đi chợ, nhẹ nhàng lướt trên sông. Đến tận hôm nay trong mũi tôi vẫn còn phảng phất hương thơm những bó hoa ấy, trước mặt vẫn còn hiển hiện sắc mầu của chúng. Đi qua quảng trường Rembrandt[1], có lẽ thời tiết tốt nên xung quanh tượng đài nhà danh họa mới đông người thế kia. Việc tôi đi bộ ngày hôm ấy chắc hẳn là một điều gì đó. Tôi vẫn thường đi bộ khi bàn luận, khi muốn thuyết phục người đối thoại, tôi ít khi ở yên một chỗ, nhưng đi như thế này ngoài đường giữa một thành phố, chứng tỏ tôi đang băn khoăn về một điều gì đó tôi không nhớ lại được. Đến trưa tôi về khách sạn Amstel. Tay phóng viên Mỹ đã đợi tôi trong đại sảnh. Tôi không nhớ ra anh ta. Anh ta nói: - Anh quên tôi rồi hả? - Đừng nghĩ bậy! Tôi đã nhớ tới anh ngay. Tên anh là gì tôi cũng quên mất rồi: Mac Quelque gì đó. Anh ta cất công từ New York tới chỉ để gặp tôi, rất sung sướng, và phỏng vấn để viết bài cho tạp chí của anh ta đang có ý định dành hẳn một hoặc hai trang nói về tôi. - Tại sao lại nói về tôi? - Vì không có mấy người làm nổi một trăm triệu đôla ở tuổi hai lăm. - Tôi đâu có làm ra một trăm triệu đôla! Một nửa? - Một nửa cũng được. Một nửa chừng đó cũng giật gân lắm rồi, anh Cimballi. Gọi anh là Franz dược chứ? Vả lại anh còn chưa đến hai lăm nữa kia. Trông mới độ mười tám đôi mươi. Bất thình lình tôi nhớ ra tên anh ta: MacQueen. Michael MacQueen. - Nào ta đi, Mike. - Anh không bằng lòng khi nghe nói mới độ mười tám? - Còn đỡ hơn nếu anh bảo tôi trông như ông cụ năm mươi. ... Mời các bạn đón đọc Tiền 3: Sòng Bạc của tác giả Paul Loup Sulitzer.
Kẻ Mạo Danh - Erle Stanley Gardner
Một hộp giầy đựng đầy tiền, một ông chủ mỏ đột nhiên biến mất.... khiến cô thư ký bị ghép vào tội giết người......   *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [The Case of the Queenly Contestant]   13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) *** Sue chờ đợi ngày nghỉ cuối tuần nhưng có điện tín cho biết bà Amelia Corning ở Nam Mỹ dự trù sẽ về tới công ty vào sáng thứ hai, do đó cô phải hoàn tất một số báo cáo và kết toán tài khoản vào phút chót mà Sue chưa kịp hoàn tất đêm thứ Sáu. Vì vậy cô hứa với Endicott Campbell, Giám đốc công ty Mỏ Corning và Đầu tư Smelting, cô sẽ đến sở sáng thứ Bảy và đánh máy tiếp bản báo cáo và soạn đầy đủ hồ sơ trên bàn làm việc của ông, để sẵn sàng các kết toán tài khoản vào sáng thứ Hai. Tình trạng sức khỏe của bà Amelia Corning thật khó khăn vì bị thấp khớp nên phải ngồi trên xe lăn và càng trở ngại hơn nữa là mắt bà càng ngày càng bị giảm thị lực. Ở Nam Mỹ người ta còn đồn rằng mắt bà đã bị mờ hẳn, chỉ còn phân biệt được ban ngày và ban đêm mà thôi, bà nhìn người ta chỉ thấy lờ mờ và không phân biệt được các cử chỉ của họ. Sue Fisher đã làm việc với công ty trên một năm và chỉ được biết bà Amelia Corning qua chữ ký cứng nhắc và khó đọc xuất hiện ở cuối các lá thư ngắn gọn và thường hay cáu giận để chỉ thị các công việc làm ăn. Mười giờ ba mươi, Sue Fisher đang vùi đầu trong công việc, bỗng nghe tiếng chân chạy, sau đó có tiếng gõ cửa và một giọng con nít vang lên. - Cô Sue! Cô Sue! Sue hơi bực mình nhưng rồi dịu mặt lại. Sau đó cô nhíu cặp lông mày tò vẻ khó chịu. Carleton Campbell, cậu bé bảy tuổi con trai của ông giám đốc, cậu yêu thích cô và coi cô như thần tượng và ngược lại cô cũng bị lôi cuốn bởi cậu bé. Nhưng còn Elizabeth Dow, cô bảo mẫu, theo Sue nghĩ thì cô ta càng ngày càng có khuynh hướng đưa đẩy trách nhiệm cũng như các vấn đề dạy dỗ cậu bé sang cho Sue. Sue tắt điện cơ chạy máy đánh chữ, bước ra khỏi phòng thư ký sang bên phòng tiếp khách và mở cửa. Carleton Campbell với cặp mắt sáng rỡ, ôm một hộp đựng giầy định khoe với cô. - Chào cô Sue, chào cô Sue. - Cậu bé nói. Elizabeth Dow còn ở ngoài hành lang đang cố ý chậm rãi đi tới. Sue đưa hai tay ra trước ôm cậu bé nhấc bổng lên và hôn trên má rồi đứng đợi Elizabeth Dow. Cô bảo mẫu vẫn không hề rảo bước và cũng chẳng thèm chào hỏi từ xa mà vẫn bình thản tiến lại gần đến đúng khoảng cách mà cô không cần phải cất cao giọng để chào hỏi : - Chào cô Sue. - Cô bảo mẫu nói. - Chào cô Elizabeth. - Tôi ghé vào đây vì họ nói cô có mặt ở đây sáng nay. - Vâng, tôi có việc phải làm - Sue nói, và ngừng một chút rồi tiếp - Công việc rất quan trọng. Chúng tôi phải tranh thủ đúng thời gian. - À ra vậy - Elizabeth Dow nói với giọng hoàn toàn lãnh đạm không liên quan gì đến vấn đề khẩn cấp đó cả. Elizabeth Dow chỉ quan tâm đến những gì liên quan tới Elizabeth Dow mà thôi. Còn những vấn đề của người khác thì chẳng hề mảy may quan trọng đối với Elizabeth Dow cả. - Sue - Cô ta nói - Cô có thể vui lòng trông giùm Carleton hộ tôi ba mươi phút được không? Tôi có hẹn và không thể đem theo em bé được… và cô thấy đấy, em chỉ theo có một mình cô thôi. ... Mời các bạn đón đọc Perry Mason #64: Kẻ Mạo Danh của tác giả Erle Stanley Gardner.