Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Pháo Đài Cấm

Chuyện kể về Billy, một cậu bé mười bốn tuổi nghịch ngợm, chán học, tò mò về sự phát triển cơ thể phụ nữ. Cậu lên kế hoạch cùng nhóm bạn thân của cậu cho “cuộc phiêu lưu” trộm tờ tạp chí Playboy tại một tiệm tạp hóa, để ngắm nhìn những bức ảnh nóng bỏng của cô người mẫu Vanna White và photo những bức ảnh đó để bán cho các bạn trong trường. Từ đó, những chuyện dở khóc dở cười xảy ra xung quanh “cuộc phiêu lưu” của cậu và nhóm bạn. Một điều trớ trêu trong “cuộc phiêu lưu” ngốc nghếch này, cậu lại phải lòng chính cô con gái ông chủ tiệm bán tờ tạp chí mà cậu có ý định lấy cắp và cũng là một “chuyên gia” trong lập trình trò chơi máy tính. Điều này khiến cậu gặp không biết bao nhiêu rắc rối, những nút thắt khó gỡ làm đảo lộn cuộc sống của cậu, nhưng cũng là lần đầu trong đời cậu hiểu được tình yêu thực sự. Cuốn tiểu thuyết lấy bối cảnh thập niên tám mươi, thời đại của chiếc máy C64 như một hồi ức mạnh mẽ trong tâm trí của Jason Rekulak. Ông kể về nó, xuyên suốt qua Pháo đài cấm theo dòng cảm xúc, suy nghĩ nội tâm và những tình cảnh éo le của Billy trước những nhập nhằng giữa cái tốt đẹp và cái xấu xa, giữa tự do và khuôn khổ, giữa sa ngã trong sự trụy lạc và sự thức tỉnh nhân tâm, giữa sự tha hóa các giá trị đạo đức và sự cố gắng cứu vãn các giá trị ấ qua tình cảm Billy dành cho cô bạn Mary như thanh sô-cô-la mùi bạc hà có vị ngọt ngào, thơm tho nồng nàn. Pháo đài cấm – cuốn tiểu thuyết của Jason Rekulak lấy cảm hứng từ lĩnh vực lập trình máy tính mang đậm những cá tính độc đáo của những đứa trẻ vị thành niên. Câu chuyện mang thông điệp rất đặc biệt về sự giáo dục con trẻ. Tất cả được thể hiện tự nhiên, trần trụi mà không kém phần tinh tế qua ngòi bút “đậm bản năng về sự tò mò tính dục” ở Jason Rekulak. Tác giả Jason Rekulak là một nhà văn người Mỹ. Ông sinh ra và lớn lên tại New Jersey. Ông làm biên tập cho dòng sách hư cấu và phi hư cấu tại Nhà xuất bản Quirk Books trong nhiều năm. Pháo đài cấm là cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông. *** Câu chuyện kể về Billy, Alf và Clark là những cậu bé mười bốn tuổi sống ở cuối thập niên 80. Khi mấy câu chàng nhìn thấy tin tức từ gameshow “The Wheel of Fortune” về hình ảnh “lộ hàng” của nữ nghệ sĩ Vanna White có trên trang bìa của tạp chí Playboy, họ đã quyết định phải có bằng được quyển tạp chí này dù ở độ tuổi của mấy cậu này thì không được phép mua loại tạp chí đó. Khi nỗ lực đầu tiên của họ trong việc mua tạp chí thất bại, họ đã nghĩ ra một kế hoạch để đánh cắp nó. Họ có thêm động lực sau khi thu tiền từ các bạn cùng lớp – những cậu chàng mới lớn cũng đang tìm cách xem hình của Vanna White. Kế hoạch đã được triển khai với việc đột nhập vào cửa hàng tiện lợi sau nhiều giờ và điều kiện để thành công đều phụ thuộc vào việc Billy có thu hút được con gái của chủ cửa hàng tên là Mary hay không. Và kỳ ngộ đã xảy ra khi cả hai cô cậu này rất đều đam mê với việc lập trình máy tính. Mary thích một trò chơi do Billy tạo ra và khuyến khích cậu tham gia vào một cuộc thi từ một công ty game uy tín, cùng với đó là sự hỗ trợ của cô nàng. Chính trong thời gian này, Billy thấy mình đang ở ngã tư đường và phải lựa chọn giữa Mary và Vanna White. Trong khi Alf và Clark làm công việc hậu cần cho kế hoạch của bọn họ thì Billy rất vui khi dành thời gian mỗi buổi tối với Mary, làm việc trong trò chơi của họ. Trong lòng Billy biết rằng cậu cảm thấy điều gì đó hơn cả tinh thần đồng đội và tình bạn đối với Mary và cậu nghĩ Marry cũng có cảm giác đó nhưng cậu ta không biết phải làm gì hoặc làm thế nào cả. Khi trò chơi đã được tham gia vào cuộc thi và mọi thứ trở nên hơi rắc rối, Billy phải đối mặt với một tình huống khó xử là liệu cậu có nên nói với bạn bè về cảm giác của bản thân với Mary và thuyết phục họ dẹp đi cái kế hoạch vớ vẩn kia hay vẫn giữ lời hứa thực hiện kế hoạch?! “Pháo đài cấm” đã miêu tả xuất sắc sự tò mò cũng như thiếu chín chắn của những cậu bé tuổi teen và sự theo đuổi tiền bạc, sự nổi tiếng và những bức ảnh khỏa thân của phụ nữ. Đó là một câu chuyện thú vị về lòng trung thành với bạn bè, sự bùng nổ của tình yêu đầu đời, những mong muốn tạo ra một cái gì đó của chính mình và sự phấn khích của trí tuệ sáng tạo ở người trẻ. Jason Rekulak gợi lên khoảng thời gian của những năm 80 cực kỳ tốt. Thật đáng ngạc nhiên khi mọi thứ trở nên khác biệt, khi bạn không thể dựa vào internet để biết thông tin, khi chỉ một số người nhất định có lập trình riêng để giao tiếp qua email một cách chậm chạp và khi sự liên lạc chưa phải là một điều dễ dàng trong xã hội. Tôi thực sự rất thích đoạn hội thoại gợi lại những hồi tưởng cùng với nỗi nhớ về thập niên 80. Cảm giác như bản thân đã được đưa trở lại thời của đĩa mềm máy tính và cuộc sống không có mạng xã hội. Tác giả đã hoàn toàn thành công trong việc miêu tả sự tương tác giữa các thanh thiếu niên với các bài học về cuộc sống. Nếu nhìn nhận những khuyết điểm trong quyển sách này thì có thể thấy tác giả Rekulak không thực sự mang đến cho các nhân vật của mình nhiều chiều sâu hay sự hấp dẫn từ trong tính cách. Mọi thứ khác trong cuốn sách đều khá dễ đoán và các nhân vật cư xử đúng như mình mong đợi. Sẽ không là vấn đề gì to tát nếu như được biết thêm về Alf và Clark nhưng chúng ta chỉ thấy họ hành động như những kẻ ngốc và gây áp lực với Billy. Mary là một nhân vật hấp dẫn mà tôi thực sự rất thích vì cô nàng có cá tính riêng. Nếu ai đã từng trưởng thành trong thập niên 80 hoặc thích những câu chuyện giải trí về tình bạn tuổi teen và những thách thức của tuổi dậy thì thì hãy xem “Pháo đài cấm” vì đây chắc chắn là một lựa chọn phù hợp cho bạn. Quyển sách đề cập đến hàng loạt thứ khác nhau như nghèo đói, máy tính, trò chơi điện tử, những người bị ruồng bỏ ở trường trung học, những người mọt sách, nhạc New Wave, những người bạn tốt, những cô gái trường Công giáo, và những bộ phim của John Hughes,… Chi tiết yêu thích của mình là Billy hoàn toàn không phải là một thiên tài máy tính. Cậu ấy không phải là một hacker đáng sợ hay một kẻ thua cuộc trong xã hội. Cậu ấy thực tế hơn nhiều. Cậu ta là người đam mê việc tự học hỏi, người đã mắc phải lỗi lập trình và mơ ước làm game để kiếm sống bằng cách biến những câu chuyện trong đầu thành sản phẩm trên màn hình. Rõ ràng tác giả đã xây dựng một cậu bé bình thường và rất gần gũi với bạn đọc. (Trần Nguyễn Phước Thông, FB Trần Thông, 08-01-2020) *** Mẹ tôi tin rằng tôi sẽ chết trẻ. Mùa xuân năm 1987, vài tuần sau sinh nhật lần thứ mười bốn của tôi, mẹ bắt đầu làm ca đêm ở Food World (Thế giới ẩm thực) vì ca đêm người ta trả thêm mỗi giờ một đô la. Tôi ngủ một mình trong căn nhà trống trải trong khi mẹ nhận điện thoại đặt hàng và lo lắng về tất cả những thứ tồi tệ có thể xảy ra: Lỡ tôi mắc nghẹn món gà viên chiên thì sao? Lỡ tôi trượt té trong khi tắm thì sao? Lỡ tôi quên tắt lò và căn nhà sẽ nổ tung trong một trận hỏa hoạn kinh hoàng thì sao? Cứ mười giờ tối, mẹ sẽ gọi điện xem tôi đã làm xong bài tập và khóa cửa trước chưa, đôi khi bà dặn dò tôi kiểm tra hệ thống báo khói, chỉ là phòng hờ thôi. Tôi thấy mình là đứa học trò lớp chín may mắn nhất. Mỗi đêm, hai đứa bạn tôi, Alf và Clark, đều đến nhà tôi, hào hứng ăn mừng tự do mới có được của tôi. Chúng tôi xem ti vi hàng giờ, pha hàng mấy lít sữa lắc, ngốn bánh Pop-Tart và pizza bagel đến phát ngán thì thôi. Chúng tôi chơi những ván game Rick và Monopoly kéo dài đến mấy ngày, và bao giờ tàn cuộc đứa nào thua cũng nổi giận hất bàn cờ khỏi bàn. Chúng tôi múa miệng nói về âm nhạc và phim ảnh; hào hứng tranh luận rằng ai sẽ là người chiến thắng: Rocky Balboa hay Freddy Krueger? Bruce Springsteen hay Billy Joel? Magnum P.I. hay T. J. Hooker hay MacGyver? Mỗi đêm trôi qua như một bữa tiệc ngủ* vậy, và tôi nghĩ rằng khoảng thời gian tuyệt vời này sẽ không bao giờ kết thúc. Tiệc ngủ (nguyên tác: “slumber party”) tức một buổi tiệc vui chơi kéo dài thâu đêm nhân một dịp nào đó và trẻ con thường ngủ chung ở nhà người tổ chức tiệc. Có nghĩa là “Vòng quay may mắn”. Ở Việt Nam là trò chơi “Chiếc nón kỳ diệu” của Đài Truyền hình Việt Nam, được mua bản quyền từ chương trình “Wheel of Fortune”. Nhưng sau đó, trên tờ tạp chí Playboy có đăng những tấm hình của Vanna White, người dẫn chương trình “Wheel of Fortune”* mà tôi si mê đến cuồng dại, và mọi thứ bắt đầu thay đổi. Alf thấy tờ tạp chí trước tiên, nó chạy hộc tốc từ sạp báo Zelinsky về để kể cho chúng tôi nghe. Clark và tôi đang ngồi trên sofa trong phòng khách, xem top 20 video đếm ngược của MTV thì Alf đâm sầm vào từ cửa trước. “Mông cô ấy ngay trên trang bìa!” Nó thở hổn hển. “Mông ai?” Clark hỏi. “Trang bìa gì vậy?” Alf ngã sấp trên sàn, ôm chặt hai bên sườn và thở dốc: “Vanna White. Tờ Playboy. Tao vừa thấy một bản, và mông cô ấy ở ngay trang bìa.” Rõ là tin sốt dẻo, “Wheel of Fortune” là chương trình nổi tiếng nhất trên truyền hình, người dẫn chương trình Anna White là niềm tự hào của cả nước, cô gái tỉnh lẻ đến từ Myrtle Beach, nhanh chóng nổi tiếng nhờ may mắn khi lật ô chữ trong một cuộc thi giải đố ô chữ. Tin tức về những bức ảnh trên tờ Playboy đã phủ kín những dòng tít của các tờ báo khổ nhỏ phát hành ở siêu thị: VANNA ĐANG RẤT SỐC VÀ NHỤC NHÃ, thừa nhận các BỨC HÌNH HỞ HANG đó được chụp trước đây và chắc chắn không phải cho tờ Playboy. Cô ấy đã đệ trình một vụ kiện 5,2 triệu đô để ngừng phát tán các bức hình này, và bây giờ - sau nhiều tháng râm ran đồn đoán và ngờ vực - tạp chí ấy cuối cùng cũng lên sạp. “Đó là điều đáng kinh ngạc nhất tao từng thấy”, Alf tiếp tục. Nó nhảy lên một cái ghế, bắt chước dáng điệu của Vanna trên tờ bìa. “Cô ấy đang ngồi bên khung cửa, như thế này phải không? Và cô ấy đang nhướng ra ngoài. Như thể đang xem thời tiết nhỉ? Chỉ có điều cô ấy không mặc quần!” “Không thể nào”, Clark nói. Ba đứa chúng tôi sống trong một khu nhà, sau nhiều năm chúng tôi biết Alf rất thích lối cường điệu. Như lần nó nói John Lennon bị ám sát bằng một khẩu súng máy. Trên nóc tòa nhà Empire State. “Tao thề trên mạng mẹ tao”, Alf nói, giơ tay lên như đang thề trước Chúa. “Nếu tao nói láo, mẹ tao sẽ bị máy kéo cán.” Clark kéo tay nó xuống: “Mày không nên nói những điều như thế. Mẹ mày thật may mắn vì bà ấy vẫn còn sống.” “À, mẹ mày thì như cửa hàng McDonald ấy”, Alf búng tay. “Bà ta chiều lòng tỷ tỷ khách hàng.” “Mẹ tao?” Clark hỏi. “Sao mày lôi mẹ tao vào đây?” Alf cãi lại: “Mẹ mày thì giống như thủ môn khúc côn cầu vậy. Ba lần hành kinh mới thay băng một lần.” Nó như một cuốn bách khoa về trò đùa “Mẹ mày…”, và đây là mức trêu đùa nhẹ nhất của nó. “Mẹ mày như một tiệm thịt nướng kiểu Nhật ấy…” Clark ném cái gối tựa trúng mặt Alf. Alf nổi điên, ném trả thật mạnh, nhưng không trúng Clark mà trúng ly nước Pepsi của tôi. Bọt ga và soda loang đầy thảm. “Chết tiệt!” Alf hoảng hốt, bò đến lau dọn. “Tao xin lỗi, Billy.” “Không sao”, tôi nói. “Lấy khăn giấy ra đây.” Làm lớn chuyện cũng chả có ích gì. Không phải tôi muốn đá Alf và Clark để tìm vài đứa bạn mới ý tứ hơn hai đứa chúng nó. Chín tháng trước, ba đứa tôi đến trường và xem đám bạn học gí đầu vào các môn thể thao, câu lạc bộ hay bộ môn học thuật nào đó. Nhưng chúng tôi chỉ đi vòng quanh, vì thấy chẳng cái nào phù hợp. Trong đám lớp chín, tôi là đứa cao nhất, nhưng tôi không thuộc loại cao khỏe; tôi cứ lảo đảo quanh trường như một chú hươu cao cổ con, chân gầy trơ xương, hai cánh tay khẳng khiu, như đang chờ phần còn lại của cơ thể lắp vào vậy. Alf lùn hơn, vâm chắc hơn, nhiều mồ hôi hơn và khổ sở vì trùng tên với nhân vật ngoài hành tinh nổi tiếng trên truyền hình - một con rối cao chừng một mét trong chương trình hài nhộn trên kênh NBC. Cả hai đều mang vẻ bí hiểm. Cả hai tên Alf đều giống như gã khổng lồ vậy, mũi to, mắt nhỏ và sáng, tóc nâu bù xù. Ngay đến giáo viên của chúng tôi cũng đùa rằng họ nhìn như sinh đôi vậy. Vì những nhược điểm lồ lộ ấy, Alf và tôi biết là chúng tôi không thể bì được với Clark. Mỗi sáng, nó ra khỏi giường nhìn như người nổi tiếng xuất hiện trên tạp chí Tiger Beat. Nó vạm vỡ với mái tóc vàng lượn sóng, cặp mắt sâu xanh biếc và làn da hoàn hảo. Mấy cô nàng trong khu mua sắm hễ trông thấy Clark bước đến thì há hốc mồm như thể nó là River Phoenix hay Kiefer Sutherland* không bằng - cho đến khi họ đến đủ gần để thấy cái càng của nó, họ sẽ lập tức quay đi chỗ khác. Một khuyết tật bẩm sinh quái gở đã nối các ngón trên bàn tay trái của Clark thành một thứ giống như càng cua màu hồng. Về cơ bản là vô dụng - nó có thể nắm mở được bàn tay nhưng không thể cầm vật gì to và nặng hơn một tờ tạp chí. Clark thề khi mười tám tuổi, dù phải tốn cả triệu đô, nó vẫn quyết tìm một bác sĩ tách rời các ngón tay ra. Cho đến khi đó, nó tiếp tục sống cúi đầu và giấu cái càng vào trong túi để tránh sự chú ý của người khác. Chúng tôi biết Clark phải sống độc thân cả đời, nó sẽ chẳng tìm được một cô bạn gái bằng xương bằng thịt nào trên quả đất này nên nó cần Vanna White trên tờ Playboy hơn ai hết. Các tài tử nổi tiếng Hollywood. “Có hình cô ấy ở tờ gập giữa không nhỉ?” Nó hỏi. “Tao không biết nữa”, Alf đáp. “Ở sạp Zelinsky nó được bày trên giá đằng sau quầy thu tiền. Kế bên kệ thuốc lá. Tao không lại gần đó được.” “Mày không mua à?” Tôi hỏi. Alf khịt mũi: “Ừ, tao chỉ đến Zelinsky và hỏi mua một tờ Playboy. Lốc sáu gói thuốc. Cả ống điếu nữa, tại sao không chứ? Mày điên à?” Chúng tôi đều biết là không nên hỏi mua tờ Playboy. Mua đĩa nhạc rock đã khó lắm rồi, Jerry Falwell đã cảnh báo về những ảnh hưởng xấu, còn Tipper Gore khuyến cáo các bậc phụ huynh về những ca từ mang tính kích động. Không người bán hàng nào ở Mỹ đi bán tờ Playboy cho một đứa trẻ mười bốn tuổi cả. “Howard Stern bảo những bức hình quả rất đáng kinh ngạc”, Clark giải thích. “Ông ấy nói ta có thể thấy cận cảnh cả bộ ngực khủng. Hai ti, ốn dẫn sữa, đó là cả một tác phẩm nghệ thuật.” “Ốn dẫn sữa?” Tôi hỏi. “Ống dẫn chứ”, Clark sửa lại. “Quầng hồng quanh ti ấy”, Alf giải thích. Clark lắc đầu: “Đó là núm, ngốc ạ! Ống dẫn sữa là phần lõm vào của ti. Nơi mà sữa chảy ra.” “Ti không lõm”, Alf vặc lại. “Chắc chắn có”, Clark khẳng định. “Thế nên chúng rất nhạy cảm.” Alf kéo áo thun, để lộ khuôn ngực và cái bụng nhão nhèo: “Của tao thì sao? Chúng có lõm không?” Clark che mắt: “Cất đi. Làm ơn!” “Ti của tao không lõm”, Alf khăng khăng.   Mời các bạn đón đọc Pháo Đài Cấm của tác giả Jason Rekulak & Minh Hiền (dịch) & Tuyết Vy (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mù Lòa - Jose Saramago
"Mù lòa" giống như câu chuyện ngụ ngôn giàu triết lý. Với lối viết tỉ mỉ, châm biếm, Jose Saramago cuốn hút người đọc vào từng trang sách, cười khóc với các nhân vật trong truyện. Mù lòa là cuốn tiểu thuyết siêu thực, đa nghĩa, đầy ẩn dụ được nhà văn José Saramago viết năm 1995. Năm 2008, Mù lòa được chuyển thể thành phim và chiếu mở màn tại Liên hoan phim Cannes. Đó là câu chuyện hư cấu về một thành phố kỳ lạ - thành phố bỗng dưng hóa mù.  ... Căn bệnh mù trắng đã lan ra ngoài bốn bức tường của phòng giam, vỏ bọc của xã hội thành thị văn minh sụp đổ hoàn toàn và trở về trạng thái nguyên thủy man rợ. Toàn bộ cơ sở hạ tầng của thành phố bị phá hủy, mối liên kết giữa các cá thể trong cộng động sụp đổ hoàn toàn. Xác chết ngập đường, lương thực thiếu thốn, người nọ chiếm cứ nhà của người kia, ai cũng làm đủ mọi cách để sinh tồn, bất chấp việc chà đạp lên đồng loại… Chứng kiến những cảnh tượng kinh hoàng ấy, vợ ông bác sĩ - người sáng mắt duy nhất đã có lúc thốt lên mong muốn được mù như mọi người, “mù nhưng thấy”. Không phải bỗng dưng tác giả mở đầu cuốn sách bằng câu đề từ: “Nếu ngươi có thể thấy, hãy nhìn. Nếu ngươi có thể nhìn, hãy quan sát”. Lời đề từ như tiếng sấm truyền từ một cuốn sách cổ xưa để lại, khiến người đọc không khỏi bàng hoàng, thảng thốt. Thì ra từ “thấy” đến “nhìn” và “quan sát” là cả một chặng đường dài về nhận thức mà không phải kẻ “mắt sáng” nào cũng làm được.  Mù lòa giống như một câu chuyện ngụ ngôn giàu triết lý. Với lối viết tỉ mỉ, châm biếm, Jose Saramago đã cuốn hút người đọc vào từng trang sách, cười khóc với các nhân vật trong truyện. Hơn hết, Mù lòa đặt ra cho người đọc những triết lý nhân sinh cần suy ngẫm qua lời vợ ông bác sĩ nói trong phần kết của tác phẩm: “Em không nghĩ chúng ta đã hóa mù, em nghĩ từ trước đến giờ chúng ta vẫn mù, Mù nhưng nhìn được, Những người mù có thể nhìn được, nhưng không thấy”. *** Jose Saramago sinh năm 1922 tại Azinhaga, thuộc tỉnh Ribatejo, Bồ Đào Nha. Tác phẩm của ông đầy chất huyền thoại và đa nghĩa, gợi lại cổ tích qua cách nhìn độc đáo về lịch sử, xã hội và con người. Văn của ông đi sâu vào chỉ tiết, châm biếm và dí dỏm, siêu thực và đầy ẩn dụ. Mãi đến năm sáu mươi tuổi ông mới được nhiều người biết đến qua tác phẩm Memorial do Convento (Ký ức về nhà tu kín, 1982). Tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi nhất của ông là O Evangelho Segundo Jesus Cristo (Phúc âm theo Chúa Jesus, 1991), bị Thứ trưởng Ngoại giao Bồ Đào Nha loại khỏi danh sách các tác phẩm đề cử giải Văn chương châu Âu. Ông nhận giải Nobel Văn chương năm 1998. Một số tác phẩm của ông gồm có: Manual de Pintura e Caligrafia (Cẩm nang hội họa và thư pháp, 1977), Viagem a Portugal (Du lịch Bồ Đào Nha, 1981) O Ano da Mortc de Ricardo Reis (Năm vua Ricardo băng hà, 1984), A langada de Pedra (Chiếc bè đá, 1986), História do Cerco de Lisboa (Trận bao vây Lisbon 1989), Todos os Nomes (Mọi cái tên, 1997), O Conto da llha Desconhecida (Chuyện hòn đảo vô danh, 1997), A Caverna (Hang động, 2001), O Homem Duplicado (Kẻ giống hệt, 2003), Ensaio sobre a Lucidez (Trong sáng, 2004), Don Giovanni ou O Dissoluto Absolvido (Don Giovanni hay Gã phóng đãng vô tội, 2005), As Intermitências da Morte (Thần chết tạm nghỉ, 2005), As Pequenas Memórias (Kỷ niệm ấu thơ, 2006), A Viagem do Elefante (Chuyến đi của con voi, 2008), Cain (2009). Mù lòa (Ensaio sobre a Cegueira, 1995) dịch từ bản tiếng Anh, Blindness, của Giovanni Pontiero, ông mất trước khi sửa xong bản dịch; Margaret Jull Costa hoàn tất việc sửa bản tiếng Anh; nhà xuất bản Harcourt, Florida, ấn hành năm 1999. “Nếu ngươi có thể thấy, hãy nhìn. Nếu ngươi có thể nhìn, hãy quan sát.” Mời các bạn đón đọc Mù Lòa của tác giả Jose Saramago.
Hội Những Trái Tim Cô Đơn - Elizabeth Eulberg
Dành tặng EEC thân yêu. Dành tặng đặc biệt đến Dav Pilkey, người đầu tiên khích lệ tôi viết cuốn sách này. Đều là lỗi của anh hết đấy nhé! Tớ, Penny Lane, trịnh trọng xin thề suốt cuộc đời còn lại sẽ không hẹn hò với đứa con trai nào nữa. Ừm, có lẽ mươi mười lăm năm nữa tớ sẽ cân nhắc lại lời thề này, khi tớ không còn sống ở Parkview, bang Illinois nữa, hoặc khi tớ học xong tại trường Trung học McKinley, nhưng lúc này tớ sẽ không dính líu gì đến tụi con trai nữa. Tụi nó chỉ biết nói dối, lừa phỉnh. Đấy, tất tần tật. Toàn là quỷ dữ. Đúng là vẫn có vài người tử tế, nhưng ngay khi bọn họ đạt được mục đích, họ sẽ đá đít bạn và chạy theo mục tiêu mới. Vì thế tớ chán ngấy rồi. Không hẹn hò gì nữa. Chấm hết. Yesterday "Love is such an easy game to play…" *** “Hài hước, ấn tượng. Một cuốn sách cần phải đọc và thích hợp với bất kỳ ai đã từng yêu – hay thề sẽ vĩnh biệt tình yêu” (Stephen Meyer). 16 tuổi, hâm mộ ban nhạc The Beatles, Penny Lane phát ốm với đám con trai và chán ngấy việc hẹn hò sau khi mối tình với cậu bạn thanh mai trúc mã tan vỡ, mối tình khiến cô cảm thấy mình thật ngớ ngẩn. Bởi vậy cô nàng thề sẽ từ bỏ tình yêu và thành lập “Hội những trái tim cô đơn”, sẽ chỉ tập trung vào việc học và quan tâm tới bản thân mình. Nhưng Penny chẳng ngờ được là có bao nhiêu cô nàng cũng có tâm trạng giống mình và muốn gia nhập hội. Thậm chí cả những cô nàng trước giờ cô chưa từng nghĩ sẽ quan tâm tới nó cũng muốn tham gia. Và rồi có những điều không tưởng nổi đã xảy ra… Thế còn bạn, bạn sẽ làm gì khi bạn là thành viên sáng lập một cái hội chống-hẹn-hò nhưng lại bắt đầu rung rinh trước một anh chàng đẹp trai, dễ thương và quan trọng hơn cả anh ta rõ ràng là muốn hẹn hò với bạn? Đọc qua “Hội những trái tim cô đơn” thoạt tiên ta sẽ ngỡ cuốn sách viết cho lứa tuổi mới lớn và nó quá “trẻ” đối với những người đã trưởng thành, nhưng không hẳn vậy. Với văn phong thực sự hấp dẫn với những chủ đề xoay quanh tình bạn, tình yêu và cả những giá trị đích thực của bản thân mỗi người, Elizabeth Eulberg đã khiến mọi người cảm nhận được những điều thú vị và hấp dẫn mọi lứa tuổi trong tác phẩm của mình. “Hội những trái tim cô đơn” sẽ làm cho bạn đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác cùng với những chi tiết vui nhộn, đáng yêu. Một cuốn sách thú vị trong mùa Valentine dành tặng mọi lứa tuổi, những ai đã hẹn hò và cả những trái tim vẫn chưa tìm được nửa kia của mình. .... Mời các bạn đón đọc Hội Những Trái Tim Cô Đơn của tác giả Elizabeth Eulberg.
Hành Trình Tình Yêu - Katie Fforde
Lời thề từ bỏ đàn ông nhiều khi lại bị phá vỡ bởi chính những người đàn ông giàu lòng kiên nhẫn. Jo Edwards không bao giờ định sống trên một cái sà lan. Cô thậm chí không chắc là mình có thích thuyền hay không. Nhưng khi chồng cô đổi cô để lấy một một người mẫu trẻ hơn, cô nhận ra các lựa chọn của cô bị giới hạn một cách đáng lo ngại. Dora Hamilton không bao giờ lập kế hoạch trốn chạy trong đám cưới của chính mình. Nhưng khi ngày trọng đại đó đến gần, bàn chân lạnh lẽo của cô chẳng có dấu hiệu gì của sự ấm áp – và việc chấp nhận lời mời ẩn náu của Jo trên con tàu Ba Chị Em dường như là sự lựa chọn duy nhất. Khi Jo và Dora bắt đầu làm mới cuộc sống lộn xộn của họ, họ nhận ra cả hai cần có một cái nhìn thực tế để giúp họ ổn định. Nhưng, bất chấp lời thề từ bỏ đàn ông, họ không thể nào chống lại được sự can thiệp đầy kiên trì của anh chàng Marcus điển trai nhưng bí ẩn, cùng anh chàng Tom quyến rũ và giản dị, những người dường như quyết định giúp đỡ họ cho dù họ có thích hay không… *** Dora đặt mấy cái túi xuống và nhìn người phụ nữ đang vẫy tay với cô bên kia mặt nước. Theo hướng dẫn, cô đã bắt taxi từ nhà ga của cái thị trấn xinh xắn bên bờ sông Thames này và được thả xuống ở cổng bến thuyền. Rồi cô gọi điện thông báo mình đã tới. Bà chủ nhà mới của cô sẽ đón cô và dẫn cô vào trong. Cô vẫn nhận ra bà ấy, dĩ nhiên, nhưng mẹ người bạn thân nhất của cô đã thay đổi đôi chút so với lần cuối cô gặp bà. Bà đang mặc áo sơ mi khoác ngoài dài thòng và quần jeans thụng. Trước kia, bà thường mặc kiểu quần áo mà những phụ nữ tỉnh lẻ như mẹ cô hay mặc: váy, áo lụa, hoặc có thể là một cái áo phông ôm sát người, với áo len casơmia tròng ra ngoài. Tóc bà, vốn được chăm chút gọn gàng vì một tuần đến tiệm làm đầu một lần, bây giờ trông khá bù xù, xơ xác. Tuy nhiên, bà đang mỉm cười ấm áp, và Dora cảm thấy rốt cuộc việc tìm đến bà nương tựa có thể chẳng phải một ý kiến tồi. “Làm thế nào mà cháu xoay xở được với đống đồ này trên tàu hỏa thế?” Bà Edwards hỏi khi băng qua cây cầu tới chỗ Dora. Bà nhấc mấy cái túi “dùng được nhiều lần” căng phồng những chiếc áo len dài tay. “Và tại sao cháu lại cần chỗ áo len này? Đang là tháng Năm mà!” “Mẹ cháu nói ở trên thuyền lúc nào cũng lạnh,” Dora giải thích với vẻ áy náy. “Và những người đi cùng chuyến tàu đã giúp đỡ cháu nhiều,” cô nói tiếp, nhớ lại sự tốt bụng của họ đã gần như khiến cô òa khóc thế nào. Cô rất mong manh, điều nhỏ nhặt nhất cũng có thể khiến cô xúc động. “Cô thực sự nghĩ rằng, nhìn chung thiên hạ vẫn tốt bụng hơn những gì người ta đồn thổi,” bà Edwards nói, lịch sự lờ đi lời nhận xét về cái lạnh và những con thuyền. “Giờ thì theo cô.” Dora đeo ba lô lên lưng và đi theo bà trên con đường dẫn đến một cái cổng thép cao. Bà Edwards rướn người về đằng trước và chạm vào một tấm kim loại. Cánh cửa kêu bíp bíp và bà đẩy nó ra. “Cô cất chìa khóa từ trong áo lót,” bà giải thích. “Tay cô lúc nào cũng bận xách thứ gì đó. Cô sẽ đưa cháu một chìa riêng, để cháu có thể ra vào tùy ý.” Bà liếc nhìn Dora. “Được không?” Dora gật đầu và theo bà Edwards xuôi theo lối đi bộ dẫn đến dãy cầu phao. Mỗi chiếc cầu phao đều cột một con thuyền. Mặc dù rất muốn nhìn chúng, Dora vẫn mừng vì bà Edwards không dừng lại - ba lô của cô quá nặng. Họ đã đi qua khoảng bốn chiếc thuyền, chẳng chiếc nào giống chiếc nào, trước khi bà Edwards dừng lại cạnh một chiếc thuyền lớn sơn màu xanh lá cây đậm. “Đây là chiếc Ba chị em. Ban đầu nó có một cái tên Hà Lan, nhưng chẳng ai phát âm được, vì thế Michael, chủ sở hữu của nó, đã dịch tên nó ra như vậy. Đó là một cái tên phổ biến dành cho những con thuyền Hà Lan.” Bà Edwards quẳng mấy cái túi lên thuyền rồi nhảy phốc qua mạn thuyền với sự lanh lẹ không ngờ. Dora nghĩ mẹ cô sẽ phải cố hết sức mới làm được việc đó, nhưng rồi nhớ lại rằng mẹ cô đã luôn phải nỗ lực trong mọi việc, đó là một phần lý do tại sao cô ở đây. Bà Edwards quay lại, chìa tay cho Dora. “Đưa cô mấy thứ đó, rồi nếu cháu đặt chân ở kia, cháu có thể lên thuyền khá dễ dàng. Chỉ cần luyện tập một chút thì cháu sẽ nhảy lên nhảy xuống con thuyền này như một con cừu non thôi.” ... Mời các bạn đón đọc Hành Trình Tình Yêu của tác giả Katie Fforde.
Dấu Vết Của Mẹ - Marta Dzido
Kịch bản không có gì đặc biệt. Hai cô cậu học trò cuối cấp và cái thai không mong muốn, cuộc trốn chạy của chàng trai vô trách nhiệm. Cô gái cố gắng sống bình thường, quên đi cậu bạn và chạy trốn sự cô đơn… Nhưng Dấu vết của mẹ là một cuốn tiểu thuyết đặc biệt, với một sự già dặn đặc biệt, nhất là khi tác giả viết nó lúc chưa tròn hai mươi. Với dấu vết của mẹ, Marta Dzido đã bước vào hàng ngũ những nhà văn trẻ quan trọng nhất của Ba Lan. *** Năm 1956. Một mùa hè ngột ngạt. Hai người phụ nữ ngồi chờ trước phòng khám phụ sản. Một người rất trẻ, gần như một cô bé, vì ai cũng chỉ đoán cô mười tám tuổi là cùng mặc dầu cô đã hai mươi sáu tuổi - có hẹn đến phá thai. Cô có hai con nhỏ, một ông chồng lao phổi, không việc làm, không kế sinh nhai. Người phụ nữ thứ hai - già hơn, ăn mặc chỉn chu và lịch sự - bị vô sinh, tuy nhiên bà ta vẫn đến bác sĩ với hy vọng được giúp đỡ. Họ bắt đầu nói chuyện. Cô gái chờ làm thủ thuật nói rằng cô ta không thể có đứa con thứ ba, cô không biết phải xoay sở thế nào, rằng chồng cô sắp chết, rằng cô đã kiệt sức và rằng… Người không thể có con nói: - Em cứ để đẻ đi, chị sẽ nhận cháu bé, chị sẽ nuôi dạy nó, yêu thương nó… - Không, không thể như thế được - cô gái muốn bỏ cái thai nói. - Chị sẽ trả tiền cho em - người thứ hai nài nỉ. - Không mà, chị... - Nhưng chị sẽ trả thật mà. Nhiều… - và chị ta rút từ ví ra một tệp tiền. - Đây, em cầm đi, em cứ cầm rồi suy nghĩ, được không? - Xin chị để cho tôi yên - cô gái chờ làm thủ thuật nói. Cô ta đứng dậy rồi chạy khỏi bệnh viện. Sáu tháng sau cô ta sinh một bé gái. Hai mươi bốn năm sau bé gái ấy sinh một bé gái khác.   Năm 2000. Cô gái út trong số ba chị em gái đã lớn. Mặc dù đã hai mươi tuổi nhưng trông cô như một đứa trẻ con và không một ai có thể nghĩ rằng cô lại là mẹ của một bé gái mấy tháng tuổi. Lại một mùa hè ngột ngạt, và cô gái ngồi trong bệnh viện, chờ vào khoa phụ sản. Bây giờ để phá thai phải trả hai ngàn zloty. Ngồi cạnh cô là một phụ nữ ăn mặc chỉn chu và lịch sự, nhưng họ không chuyện trò gì. Cô gái đã hẹn với bác sĩ, người sẽ làm cái việc phá thai. Từ hai ngàn, anh ta giảm xuống tám trăm, có lẽ anh ta thấy thương cho cô. Cô ta đến chỗ bác sĩ với cái thai năm tuần tuổi và một đứa bé ba tháng tuổi trên tay, cô nói là bác sĩ của bệnh viện bảo cho con bú sữa mẹ đều đặn là biện pháp tránh thai tốt nhất. Rằng hoóc môn của thuốc tránh thai sẽ vào sữa và có hại cho đứa trẻ, còn đặt vòng thì lại quá sớm. Cô ta tin, vì bác sĩ cơ mà, nhất định phải biết thế nào là tốt nhất chứ. Và giờ đây cô đang mang thai, cái thai mà chỉ một tiếng nữa thôi sẽ không còn nữa. Khi mọi việc đã xong xuôi, cô gái như trút được gánh nặng, nhưng lại thấy xấu hổ vì không biết sẽ phải kể về chuyện này như thế nào và với ai. Cô không biết cái việc cô vừa làm xong được gọi là gì. Cô im lặng rất lâu, cho tới khi không giữ nổi nữa cô bèn viết sách. Về phá, nạo, vét, về phương pháp hút chân không, về sẩy thai, về tiết dịch và máu. Cô viết cuốn sách mà chỗ này chỗ kia còn khập khiễng, non nớt, lộn xộn, ngây thơ, một số câu bộc lộ vẻ ngoài kiêu căng của một nữ sinh trung học. Cô viết xong và lại thấy nhẹ nhõm. Cô mang cuốn sách đến nhà xuất bản, nhưng giám đốc nhà xuất bản, chị Beata S. nói với cô rằng không thể để thế được, rằng nếu đã viết cuốn sách về nạo phá thai thì cần phải có quan điểm rõ ràng, ủng hộ hay phản đối, và phải nói được điều đó một cách sáng sủa, dễ hiểu. Làm sao để độc giả không phải băn khoăn. Và nói chung là cần phải đầu tư thêm thời gian công sức. Nhưng cô gái đã không còn muốn nữa, cô cứ để cuốn sách nguyên xi như vậy, và mấy năm sau cô viết một cuốn sách khác. Lần này thì cuốn truyện thành công. Viết về thất nghiệp, về dân thủ đô hợm hĩnh ngạo mạn và về những cuộc hôn nhân thất bại. Cô gái xuất hiện trên báo chí và truyền hình, ở đấy cô không biết phải nói gì, mà họ thì hỏi đủ thứ - về nữ quyền, về giáo hoàng và về thế hệ gì gì đấy. Cô cười tươi, rụt rè nói: “vâng, vâng” hoặc là “không, không”. Không được một câu dài hơn. Cuối cùng người xuất bản, ông Piotr M. thuộc công ty đưa ra dự kiến: - Hay là chúng ta in cái cuốn về phá thai ấy? Nhưng cô gái do dự. Vì đã sáu năm rồi và có lẽ bây giờ tốt hơn nên viết cuốn mới chứ đừng có lôi mấy cái chuyện cũ rích ấy ra, không được đâu, mà cô cũng không muốn mất công vào đó nữa… Cuối cùng cô trả lời: - Nhưng đấy đâu có phải là văn chương hay ho gì… - Không sao - tiếng của người xuất bản trong ống nghe - nó chân thực và nói về một vấn đề quan trọng… - Nhưng em sợ - cô gái nói vào ống nghe - là mọi người sẽ hỏi đây có phải là viết về em không và có đúng là em phá thai không? - Đừng sợ, em có con cơ mà, đó là minh chứng tốt nhất cho việc em không phá thai… - Piotr M. nói. ... Mời các bạn đón đọc Dấu Vết Của Mẹ của tác giả Marta Dzido.