Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

T Mất Tích

Không hài lòng với những Chinatown - Phố Tàu và Paris 11 tháng 8,  hai tiểu thuyết nổi bật của văn học Việt Nam năm 2005, chỉ một tháng sau, Thuận trở lại với những thay đổi đáng kể trong giọng văn và đề tài. T mất tích đẩy xa hơn, một bước rất dài, ngưỡng cửa của bất an và hoang vắn của con người hiện đại, trong các xã hội hiện đại. Con  người trong T mất tích không còn mang thân phận của kẻ tha hương bơ vơ trong một bối cảnh xa lạ, mà lâm vào một tình thế khác, không kém phần tuyệt vọng: bị kết án biến mất, nhân vật của Thuận thậm chí không còn chỗ đứng dưới chân, quá khứ nhạt nhoà và tương lai đơn giản là không tồn tại. Với cuốn tiểu thuyết mới, Thuận tiếp tục khẳng định sức viết dồi dào và khả năng chạm đến những ngõ ngách đặc biệt của cuộc sống hiện đại chúng ta. "...T là ai? Chắc hẳn trước hết là cái tôi. Cái tôi sau khi tràn ngập từng trang, trong những đoạn văn dài hàng trang không ngắt dòng ở ba tiểu thuyết trước, đã phải gánh chịu hậu quả của chính sự tràn đầy đó: nó không trụ nổi lại trên trang giấy. Nó phải chấp nhận số phận mờ ảo hiện diện sau những nhân vật khác. T, điều này quan trọng hơn rất nhiều, còn là Thuận, là nhà văn. Nhà văn Thuận đang tiến hành một thao tác, một thao tác quan trọng với một dải văn chương cá nhân...". *** T mất tích của nhà văn Thuận là một trong những tác phẩm đáng chú ý của văn học Việt Nam đương đại. Khi hai từ “mất tích” xuất hiện trong nhan đề một cuốn tiểu thuyết dễ khiến ta nghĩ rằng đó là một cuốn trinh thám. Chẳng hạn, nếu bắt gặp một cuốn tiểu thuyết có tên là Sherlock Holmes mất tích, thì bạn còn mong đợi gì hơn ngoài việc người ta truy tìm vị thám tử lừng danh như thế nào, tại sao anh ấy lại mất tích, và một câu hỏi hết sức kinh điển: thủ phạm là ai? Thế nhưng, không phải bất kỳ sự mất tích nào cũng dẫn đến một câu chuyện trinh thám. Nhà văn đương đại nổi tiếng Nhật Bản Haruki Murakami bắt đầu cuốn Biên niên ký chim vặn dây cót bằng sự mất tích của một con mèo, rồi từ cuộc tìm kiếm mang tính chất trinh thám ban đầu, dần dần đưa người đọc bước vào cuộc phiêu lưu mang tính chất siêu thực trong thế giới tiểu thuyết của mình. Tương tự, Hãy chăm sóc mẹ Shin Kyung-Sook (vừa đoạt giải Man Asian 2011) mở ra với sự mất tích của một người mẹ, nhưng hơn ba trăm trang sách không để trả lời câu hỏi mẹ đang ở đâu, mà thông qua cuộc tìm kiếm và góp nhặt ký ức của những đứa con về mẹ, cho ta biết bà là ai. Tiểu thuyết luôn cần có một ngòi nổ để bắt đầu, và các nhân vật mất tích là một trong những ngòi nổ như vậy. Nhân vật mất tích có thể hoàn toàn mờ nhạt (như con mèo), hoặc không trực tiếp xuất hiện nhưng lại được tô đậm rõ nét thông qua những nhân vật khác (như người mẹ). Cuốn tiểu thuyết đó cũng có thể là trinh thám (Sherlock Holmes mất tích), hoặc siêu thực (Biên niên ký chim vặn dây cót), hoặc không siêu thực mà cũng chẳng trinh thám (Hãy chăm sóc mẹ). Nhưng nếu không có một nhân vật nào đấy tình nguyện mất tích, thì thế giới sẽ vẫn trôi lăn theo cái vòng tuần hoàn của nó, còn người đọc thì chẳng thể có được những cuốn tiểu thuyết tuyệt vời như trên. Ở đây, T mất tích lại là một nhan đề nửa rõ ràng nửa không rõ ràng. T là ai? T, hiển nhiên không phải là tên của một vị thám tử lừng danh, cũng không phải tên của diễn viên, ca sĩ nổi tiếng nào cả. T có thể là một con mèo, cũng có thể một người mẹ. Nhưng chắc chắn một điều, T chính là viết tắt của Thuận, tên tác giả. Người đọc có quyền đoán định: phải chăng T chính là Thuận? Sự việc chưa rõ ràng trở nên rõ ràng hơn khi đến trang 57 có một đoạn như sau: “Tôi chưa bao giờ đọc đúng tên T. Những cái dấu trong tiếng Việt nghe nói rất rắc rối mà tên của T ghi trong hộ chiếu gốc thì gồm những hai dấu, cái trên cái dưới, lâu ngày tôi đã quên rằng chúng dành cho chữ U hay chữ A hay mỗi chữ một dấu.” Vậy là ngay từ nhan đề, ta đã có thể thấy được sự hài hước vốn là điều quen thuộc trong văn chương của Thuận. Nếu T là Thuận, chị tuyên bố với độc giả ngay từ đầu rằng tôi – tác giả, sẽ hoàn toàn mất tích trong tác phẩm này. Điều đó đồng nghĩa với việc chị đã thẳng thừng bác bỏ luận điểm trên. Tiểu thuyết chẳng cần tới bất cứ cái ngòi nổ quái quỷ nào cả, mà không ai khác, nhà văn chính là nhân vật quan trọng nhất trong việc hình thành một cuốn tiểu thuyết. Trong một tác phẩm, nhà văn có thể hoàn toàn “mất tích” từ đầu đến cuối, thay vào đó sẽ là anh A chị B hay một “tôi” nào đó kể tiếp câu chuyện. Nếu T không là Thuận, chị phủ lên độc giả một bức màn khơi gợi sự tò mò: T, thực ra là ai, và T mất tích có phải là một cuốn tiểu thuyết trinh thám hay không? Ngay từ trang đầu tiên, Thuận đã đặt người đọc vào trong một không gian hết sức trinh thám: đồn cảnh sát. “T mất tích… trong một buổi tối, tôi phải qua hai cuộc thẩm vấn”. “Tôi” không ai khác chính là chồng của T, một phụ nữ Việt Nam lấy chồng và sinh sống tại Pháp. Như vậy, T chỉ là một con người bình thường, bình thường đến độ sẽ chẳng ai biết cô mất tích nếu chồng cô không gọi điện báo cảnh sát. Lý do là vì cô không có gia đình lẫn bạn thân ở Pháp, đám cưới cũng không ai hay biết. Mà thực tế là cũng chẳng có cái đám cưới nào được tổ chức, hai vợ chồng chỉ đơn giản nắm tay nhau đến tòa thị chính ký giấy kết hôn rồi đi ăn nhà hàng. Từ cái không gian trinh thám đó, ta cũng bắt gặp một nhân vật hết sức trinh thám: đại úy Delon. Nhưng đại úy Delon không phải là Sherlock Holmes của tác phẩm, mà nhiệm vụ ấy sẽ được đặt lên vai của “tôi”, nhân vật chính. Trước hết, ta có thể dễ dàng thấy được chồng của cô T vốn có sẵn máu thám tử trong người. Hãy chú ý đến những suy luận hết sức logic của anh ta về từng vấn đề xung quanh, từ sự mất tích của T cho đến việc đại úy Delon tìm cách do thám mình như thế nào. Hai lần điển hình là khi Delon gọi điện đến cơ quan dò hỏi người bạn đồng nghiệp Paul và khi Delon nói chuyện với vợ chồng ông gác cổng nơi “tôi” ở. Cũng dễ hiểu vì khi T mất tích thì chồng cô nhanh chóng trở thành nghi can số một. Thế nên, “tôi” quyết định tự mình đi tìm vợ, thay vì trông chờ vào những nỗ lực không mấy khả quan của cảnh sát Pháp. Cuộc tìm kiếm T mất tích dẫn người đọc đi qua ba cuộc ngoại tình hết sức dữ dội mà thực tế đều bắt nguồn từ những suy luận đầy tính thám tử của “tôi”. Nhân tiện, ngoại tình vốn là một chủ đề ưa thích của Thuận, và sẽ còn bùng nổ hơn ở cuốn tiểu thuyết kế tiếp của chị, Vân Vy. Ở T mất tích, ngoại tình, hay cụ thể hơn là tình dục, trở thành một nỗi ám ảnh thường trực đối với nhân vật chính. Anh có thể dễ dàng nhận ra mối quan hệ mẹ con bất chính của vợ sếp với đứa con nuôi, hoặc chỉ cần quan sát cô y tá cũng đoán được cô ả đã mây mưa với bố mình như thế nào. Giọng văn hóm hỉnh cùng lối viết chắc tay của Thuận khiến cho việc ngoại tình cũng trở nên hết sức thú vị. Nhưng căn nguyên do đâu người chồng lại có những suy nghĩ như vậy, đầu tiên phải nghĩ đến người vợ. T, tuy mất tích nhưng cũng được miêu tả đủ cho người đọc hình dung về một tính cách: “T không lãng mạn”, “tính kín đáo quá mức của T làm tôi ngần ngại”. Một người chồng Pháp lấy phải cô vợ Việt như vậy mà không ly dị không ngoại tình thì quả là có sức chịu đựng, chịu đựng đến mức dửng dưng. Sự dửng dưng của anh chồng Pháp không chỉ giới hạn ở đó. Anh không nhảy vào tám chuyện với đồng nghiệp, anh chẳng buồn quan tâm đến chuyện chia chác tài sản mà bố để lại, và xem chuyện của chị hàng xóm chỉ “như cơm bữa trên một nửa trái đất”. Cuối cùng, sau tất cả những dửng dưng, anh cũng đành buông xuôi trước sự mất tích của người vợ. Sự mất tích của T hóa ra lại là một ẩn dụ, ẩn dụ cho cái sự dửng dưng và buông xuôi của con người. Người chồng Pháp có thể tiếp tục dửng dưng nhưng người vợ Việt thì đã đủ mỏi mệt. Cuộc sống như một vở kịch mà các nhân vật vô cùng lạc lõng giữa sân khấu. “Thử nhìn xung quanh, có ai dám thay đổi điều gì?” T mất tích hóa ra lại là sự dũng cảm, muốn phá vỡ cái dửng dưng đó… T mất tích dẫu có những yếu tố trinh thám rất Trần Dần (Thuận là con dâu Trần Dần, vợ Trần Trọng Vũ) nhưng không phải là sách trinh thám. T mất tích rất gần với Biên niên ký chim vặn dây cót của Murakami, từ giọng văn rất Tây (Thuận đang sinh sống tại Pháp) cho đến nỗi cô đơn của con người hiện đại, cụ thể hơn là xã hội tư bản phương Tây. Nhưng gần không có nghĩa là giống, ta hoàn toàn có quyền tự hào về một tác giả người Việt viết tiểu thuyết chắc tay và đầy bản lĩnh, ngay từ cách đặt nhan đề cho tác phẩm của mình. Còn một điều hài hước nữa, chính người đọc cũng bắt đầu vào một cuộc tìm kiếm. Ban đầu, ta đọc tiểu thuyết để đi tìm lời giải T là ai. Trải qua từng trang sách, ta cứ đoán già đoán non, T là Thuận hay T không phải là Thuận. Cuối cùng, T vẫn còn là một ẩn số. *** Câu chuyện bắt đầu ngay bằng sự vắng mặt của T. Tôi, một người đàn ông Pháp một chiều bỗng không thấy người vợ Việt Nam (T) trở về nhà. Sau khi báo cảnh sát, tìm kiếm ở một người quen biết, và tin rằng vợ mình không về nước, cũng chẳng có người thân nào để đến, ông quyết định: T mất tích. Cuộc sống biến động với sự kiện đó. Đã bao năm, một cuộc sống lặng lẽ trôi đi và họ chưa hề có một lần nào nhìn bản chất thực của nó. Cả hai người đều có rất ít người quen, sống giữa chốn đô thị mà không khác gì nơi hoang đảo. Họ không còn liên lạc nào với cha mẹ, họ hàng. Đều đặn ngày nào cũng như ngày nào, đến nơi làm việc, về nhà vào tối mịt, đón con rồi ăn tối, ngủ trên hai chiếc giường đơn trong phòng ngủ, chung hay riêng tùy lúc. T đi đâu, phải chăng sự ra đi đó là để dứt khỏi cái nhịp điệu buồn tẻ kia. Hay đó là sự lạc lõng của một bản thể, đi vào cõi hư ảo, tìm sự giải thoát cho kiếp sống ngột ngạt? Vào vai một nhân vật đàn ông khá nhuyễn, nhà văn Thuận mang đến T mất tích như một món ăn tinh thần lý thú mà văn đàn Việt Nam bấy nay chưa có. *** T mất tích. Cảnh sát, sau bốn mươi tám tiếng đúng qui định hình sự, đã khẳng định như vậy và tung kế hoạch truy tìm trên phạm vi toàn quốc. Ngay trước đó, trong một buổi tối, tôi phải qua hai cuộc thẩm vấn, cuộc đầu tiên vào sáu giờ là của thanh tra phó đồn cảnh sát địa phương, cuộc thứ hai một tiếng rưỡi sau là của thanh tra trưởng đồn cảnh sát địa phương. Tôi tỏ ra bình tĩnh và kiên nhẫn, các lời khai có lẽ khớp nhau nên sau đó, người ta hứa để cho tôi yên. Thực ra cũng không thể khác được, các câu hỏi của cả hai thanh tra khá đơn giản và tôi đã nói sự thật một cách mạch lạc, họ có vẻ tin lời tôi và chưa một lúc nào tỏ ý muốn vặn vẹo hay đánh bẫy. Nhìn chung, các vị ấy có tác phong nhã nhặn, thậm chí lịch thiệp, bằng chứng đầu tiên là cả hai đều gọi tôi đến vào những giờ ít ảnh hưởng tới công việc của tôi và lần nào cũng tự tay mang cho tôi một tách cà phê nóng kèm đường viên đựng trong một hộp nhỏ, lấy từ góc bếp chỉ dành cho nhân viên trong đồn. Biên bản của các cuộc thẩm vấn ghi theo lời tường trình của tôi, dường như cả dấu phẩy cũng không khác nhau, tôi cảm giác đã học thuộc ngay sau khi ra khỏi đồn cảnh sát, giờ đây vẫn có khả năng nhắc lại không mấy khó khăn: T thường rời công sở  lúc 5h15, đến mẫu giáo đón Hanah con gái của chúng tôi lúc 6h kém 5 vì đúng 6h là trường đóng cửa, nội qui được hiệu trưởng thông báo ngay từ buổi họp phụ huynh đầu tiên. Hôm kia khoảng 7h tối, khi tôi đang còn ở văn phòng thì cảnh sát gọi điện yêu cầu tôi đến gặp gấp, lý do là Hanah không có ai đến đón nên đã bị đưa ra đồn và đang ngồi đợi người thân. Lúc tôi tới nơi, Hanah vừa được một nữ cảnh sát cho ăn tối, tôi trình chứng minh thư và kí vào giấy nhận con, chúng tôi về tới nhà chừng 8h30, cho đến lúc đi ngủ cũng không có một tin tức nào của T. Tôi đã gọi điện báo cho công an, cũng là nơi đã giữ Hanah lúc nãy. Hôm sau, tôi tự đưa Hanah đến mẫu giáo và tới văn phòng muộn mười lăm phút, buổi chiều xin phép nghỉ sớm một tiếng. Ngay trong ngày, tôi tranh thủ gọi điện đến chỗ làm việc của T, thường trực và hai đồng nghiệp cùng phòng đều khẳng định nhìn thấy T ra khỏi cơ quan lúc 5h10 chiều hôm trước. Vợ tôi không có cả gia đình lẫn bạn thân ở Pháp. Người duy nhất mà T đôi khi gặp gỡ là chị Xuân, cùng theo học lớp tiếng Pháp ở một tổ chức Thiên chúa giáo khi cả hai mới đặt chân đến Paris. Trong danh bạ điện thoại Paris, tôi tìm được số của chị Xuân. Chị Xuân đang vội đi làm và trả lời ngắn gọn từ nửa năm nay không nhận được điện thoại của T. Rất ít khả năng là T về Sài Gòn thăm gia đình. Một chuyến đi xa như vậy, dù thế nào đi nữa, cô ấy cũng phải báo cho tôi một câu. Tôi cũng trao đổi với ngân hàng và được biết từ đợt trả tiền nhà lần cuối, tài khoản của chúng tôi không có thất thoát quan trọng, người phụ trách ngân hàng còn nhiệt tình gửi qua fax bản kê những món chi tiêu được trả bằng séc và các Visa ba tuần qua. Sau đó tôi đã kiểm tra cặn kẽ, không thấy có dấu hiệu đặc biệt, nói chung là những khoản nhỏ dưới một trăm euro, chủ yếu là tiền đi chợ và tiêu vặt trong nhà. Mời các bạn đón đọc T Mất Tích của tác giả Thuận.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mộng Kinh Sư - Phan Du
"Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân." - Chỉ một lời điểm chỉ của Trạng Trình đã biến Nguyễn Hoàng đang hoang mang như “chó nhà có tang” thành Chân chủ một phương, vạch đôi sơn hà. Ngôi cổ tự linh thiêng mang tên Linh Mụ đã gắn liền với chín chúa mười ba vua nhà Nguyễn như thế nào? Truyền thuyết về Trích tiên của xứ này không phải ai cũng biết! "Bắc Tuyên phi, Nam Tống thị" - Đặng Thị Huệ dùng nhan sắc khuynh đảo Phủ chúa Đàng Ngoài như thế nào, thì nàng Tống thị Đàng Trong với tuyệt chiêu "vòng kết trăm hoa" hút hồn nam nhân từ nam chí bắc. Hai bên kẻ hô người ứng, nhất tiếu khuynh thành, tái tiếu khuynh quốc, gây nên bao nỗi đoạn trường ra sao? Quyền thần Trương Phúc Loan để sổng một Giáo Hiến, mà di lại cái họa Tây Sơn; Quận công Hoàng Ngũ Phúc bỏ sót Hoàng tôn Dương, nên Gia Long có cơ quật khởi. Bánh xe lịch sử xoay vòng lặp lại thế nào? Mộng Kinh Sư sẽ đem lại cho độc giả câu trả lời đầy đủ! Gói gọn trong hơn 200 trang sách, Mộng Kinh Sư tái hiện những bước hưng vong thăng trầm của dòng họ Nguyễn ở Đàng Trong qua các đời chúa, mỗi chúa với những đặc điểm và công trạng riêng; song song với quá trình hình thành và phát triển của ngôi chùa Thiên Mụ (Linh Mụ) được cho xây cất bởi Nguyễn Hoàng. Tác phẩm ngoài giá trị khảo cứu còn có giá trị lớn về mặt văn học. Một tác phẩm mà những người đam mê lịch sử, những bạn yêu thích tiểu thuyết, những tín đồ của tò mò chủ nghĩa sẽ không thể bỏ qua! *** LINH MỤ TỰ VÀ DÒNG HỌ CHÂN CHỦ PHƯƠNG NAM Khắp cả một vùng Hương Ngự non thanh, nước đẹp, thắng cảnh thực chẳng hiếm gì và chùa chiền không phải là ít ỏi. Trong số trên tám mươi đền chùa có tên tuổi tọa lạc đó đây trong toàn tỉnh, vẫn còn có nhiều danh lam có thể chinh phục được lòng ái mộ và tình lưu luyến của du khách hoặc bằng cảnh trí đặc sắc, hoặc với lối kiến trúc quy mô hay với những kỳ tích về nguồn gốc, chứ không riêng gì Linh Mụ tự. Nhưng dù sao, Linh Mụ tự vẫn chiếm được cái ưu thế trội vượt hơn hết, không những vì cái cảnh trí thơ mộng nơi này, nhưng còn vì một đặc điểm mà các danh lam khác không làm sao có được. Đó là những yếu tố phong thủy của cuộc đất nó chiếm cứ, yếu tố đã tạo nên một liên hệ thiêng liêng, mật thiết và bền bỉ, giữa ngôi chùa với dòng họ chân chủ phương Nam. Số là xưa kia, Tiên Chúa Nguyễn Hoàng, tức Thái Tổ Gia Dũ Hoàng đế (1558 -1613)[1] sau khi vào trấn đất Thuận Hóa - bắt đầu từ tháng Mười năm Mậu Ngọ, tức năm Chính Trị nguyên niên thời Lê (1558), với niềm tin tưởng vững chắc ở sức bảo trợ huyền nhiệm của một dãy Hoành Sơn hùng tráng theo lời truyền bảo của Bạch Vân cư sĩ - tuy lập Dinh ở làng Ái Tử, thuộc huyện Đăng Xương, phủ Triệu Phong (nay thuộc tỉnh Quảng Trị), nhưng cặp mắt yêu chuộng phong thủy của Tiên Chúa lại thường soi rọi địa hình, địa vật khắp cả một vùng Thuận Hóa[2]. Chẳng có núi nào, sông nào, chẳng có những cuộc đất lạ nào mà Tiên Chúa không tìm đến, không thăm dò, vì mục đích chiêm ngoạn cái khí tượng vạn thiên của các nơi danh thắng cũng có, mà phần chính là vì cái chủ đích khám phá những địa thế có khí mạch của núi non ngưng kết, cần cho công cuộc khai cơ, hưng nghiệp. Gót phiếm du của vị chúa phương Nam, một hôm, đã dừng lại trước một ngọn đồi đột khởi giữa một cánh đồng ở thôn Hà Khê, xã An Ninh, huyện Hương Trà[3]. Đồi có hình rất lạ. Giữa khoảng bình địa, nó hiện ra như một con rồng quay đầu nhìn lại dãy núi chính, nơi nó phát xuất. Phía trước, ngay dưới chân đồi, là một dòng sông uốn khúc uyển chuyển, xinh mềm như vòng tay ngọc nữ, và, phía sau, đồi tiếp giáp với một cái hồ, mặt nước phẳng lặng như tờ. Dưới cái nhìn sành sỏi của các nhà địa lý, cảnh trí có cái đặc tính giai thắng này nhất định phải là nơi từng có linh khí ngưng tụ. Tiên Chúa lại tiến lên đỉnh đồi, nhìn ngắm quanh vùng. Trước mắt là cả một bức tranh sơn thủy vô cùng ngoạn mục, huyền ảo chẳng kém gì cảnh sắc trong tranh thủy mặc trên quạt của Mã Viễn đời Tống hay trên lụa của Ngô Đạo Tử đời Đường. Trông về phương nam, một vòng sông thanh tú, và bên kia sông, một ngọn gò thuộc xã Nguyệt Biều, gò Thọ Khang - về sau này được mang tên là gò Thọ Xương hay Long Thọ Cang[4] - nơi mà những canh gà từng được coi như là một trong những yếu tố đã tạo thành cái nguồn thi vị bàng bạc khắp cả một bầu trời Hương Ngự: Gió đưa cành trúc la đà. Tiếng chuông Linh Mụ, canh gà Thọ Xương[5]. Cùng với gò, một bãi hoang phù sa phô trương cái sức sinh sôi rất mực sung thiệm[6] của loài thảo mộc. Xa hơn là cánh đồng Nguyệt Biều phì nhiêu, êm ả. Trông về phương tây, dòng sông, sau khi vừa rẽ qua một khúc quanh, dàn rộng cõi lòng hầu như mênh mông với mặt nước phẳng lì, bóng bẩy như một bức định kính tráng bằng chất ngọc lưu ly vừa đông lại. Xa xa, án ngữ chân trời, một dãy núi xanh huyền ảo, chạy dài phía sau màn sương thoang thoáng, điểm chuyết, cùng với sông kia, gò nọ, cho cảnh trí nơi này cái vẻ lồng lộng, bao la, sáng lạn và thanh khiết của một cõi trời đã lau sạch bụi trần. Nhưng có thể cặp mắt của vị chân chủ phương Nam đã phải để ý đến một điểm đặc biệt hơn các thức đẹp kết hợp thành cái toàn bộ cảnh trí thơ mộng này. Đó là một đường hào - đào khá sâu - cắt đứt chân đồi tàn nhẫn như dấu vết lưỡi gươm sắc bén của tên đao phủ thiện nghệ còn lưu lại trên cổ tử tù. Bàn tay thô bạo, ngu xuẩn nào đã vô tình làm cái chuyện rất đáng kiêng kỵ về mặt phong thủy đó? Xén ngang chân đồi thì có khác gì là cắt đứt long mạch, làm phân tán cái khí thế của núi non ngưng tụ! Hoặc giả đã có tay tổ nào trong giới phong thủy bày ra cái trò yểm trừ này chăng? Chúa phương Nam liền mở cuộc dò la, thăm hỏi đám bô lão, để tìm hiểu và khám phá cho ra nguyên do. Và quả đúng như điều nghi hoặc của Tiên Chúa, hào đào là nhằm mục đích yểm trừ, và tác giả của cái công trình phá hoại này lại không ai khác hơn là tướng Cao Biền, một tay địa lý đại danh từng có chủ trương triệt tiêu tất cả mọi yếu tố phong thủy có thể giúp cho chân mạng đế vương xuất hiện ở phương Nam.[7] Các vị bô lão hiểu chuyện đã tường trình cùng Tiên Chúa rằng: vì biết được tại đồi này có một nữ thần thường hiện ra, lại xem xét kỹ, thì lòng gò có linh khí đáng ngại, nên Cao Biền đã dùng phép thuật yểm trừ và cho đào hào để dứt tuyệt long mạch. Từ đấy, ngọn đồi vắng bóng nữ thần. Dân làng qua lại đồi này, dù vào lúc giữa trưa đứng bóng hay trong đêm vắng canh khuya, cũng chẳng bao giờ còn được mục kích sự hiển hiện của thần linh như trước. Lạ hơn là cái hồ ở phía sau đồi - về sau được mang tên là Bình Hồ - nước cứ ngày càng đỏ ra như máu[8]. Một hồ máu rõ ràng! Phải chăng là máu của Rồng thiêng? Và như thế rất nhiều năm qua, không ai còn nhắc đến chuyện nữ thần, nhưng rồi, một đêm kia, có đám hành giả, nhân đi ngang qua đồi vào khoảng quá giờ Tý, đã tình cờ trông thấy, dưới bóng trăng khuya mới mọc, một bà lão, tóc và chân mày bạc phơ, ngồi ở chân đồi. Áo dài của bà cụ đỏ chói màu ráng pha, nổi bật trên chiếc quần màu lục rất tươi. Ánh trăng tuy còn lơ mơ, nhưng dường như đã được pha lẫn một nguồn ánh sáng huyền diệu nào đó, để soi tỏ được không những y phục, mà cả cái dáng mạo phúc hậu, trang nghiêm của bà cụ, cùng những đường nét thêu trổ tuyệt mỹ trên đôi hài gấm đế trắng và chiếc nón thúng - cũng cùng một màu trắng - có quai lụa hồng. Bà cụ nhìn vào đường hào, nhìn lên đỉnh đồi, rồi nói lớn, như có ý để những lời tiên tri của mình được lọt trọn vẹn vào tai đám hành giả đã tán loạn cả hồn phách vì cuộc gặp gỡ bất thần và đáng hãi hùng này: “Cao Biền vì ác ý muốn dứt tuyệt long mạch ở phương Nam, nhưng làm sao có thể nghịch lại sự định phận của Thiên Thư. Sơn hà nào có chân chủ nấy. Long mạch tuy bị dứt, nhưng chưa tuyệt. Máu Rồng còn tươi. Một ngày kia chuyện buồn rồi cũng chấm dứt. Bàn tay của chân chủ phương Nam sẽ lấp hào đi để cho linh khí tụ lại, long mạch nối liền. Một con Linh Quy, để được thoát kiếp, sẽ hút sạch máu trong lòng hồ. Nước hồ trong ra, cõi trời Nam càng thêm hưng thịnh, trăm họ vui khúc âu ca.” ... Mời các bạn đón đọc Mộng Kinh Sư của tác giả Phan Du.
Hồng Nhan Thượng Hải - Thời Thanh Xuân - Trương Hiền Lượng & Trần Đan Yến
Hồng Nhan Thượng Hải – Thời Thanh xuân là 2 truyện dài của 2 nhà văn nổi tiếng Trung Quốc – Trần Đan Yến và Trương Hiền Lượng.​ Truyện dài Hồng nhan Thượng Hải (Trần Đan Yến) là một câu chuyện lấy bối cảnh Thượng Hải từ năm 1944 qua lời kể của nhiều người về cuộc đời của Diêu Diêu - ra đời vào mùa hè năm 1944. Diêu Diêu là con gái thứ hai của một ngôi sao điện ảnh nhưng sống hòa đồng với bạn bè và chịu sự giáo dục nghiêm khắc và nóng nảy của mẹ. Cô giống mẹ ở tính muốn có danh tiếng nhưng lại lựa chọn chính trị. Song tiền đồ chính trị của cô luôn gặp khó khăn, trắc trở vì mẹ cô là ngôi sao của giai cấp tư sản vì vậy Diêu Diêu đã phải chịu những hy sinh, mất mát ngay cả những người mà cô yêu thương nhất... Truyện dài Thời Thanh Xuân của nhà văn Trương Hiền Lượng viết về những khoảnh khắc, ký ức và những câu chuyện được định nghĩa là “thời thanh xuân” mà tác giả cũng chính là nhân vật “tôi” đã trải qua, đã cảm nhận được trong thời gian đi cải tạo ở thời kỳ bài trừ phái hữu, cải cách văn hóa của Trung Quốc.​ *** Thưa cụ, cụ có thể kể cho cháu về mùa hè Thượng Hải năm 1944, về những câu chuyện bình thường mà ngày ngày đã xảy ra ở đây. - Tôi tìm đến Ngụy Thiệu Xương, được sinh hạ, lớn lên và gần như cả một đời người đã gắn bó với cái thành phố đông dân nhất này của Trung Quốc. Giờ là mùa xuân, cách năm 1944 phải đến 56 năm rồi, trời mưa và cả Thượng Hải đượm màu xám nhạt, các góc phố có phần tối hơn, giống như tàn thuốc điểm vài chấm đen, bóng những khuông cửa in lên tường mờ nhòa, loang lổ. Những ai chưa quen với Thượng Hải dầm dề mưa xuân thì khó có thể cảm thụ cùng vẻ đẹp mềm mại, mây khói của màu trời mùa này, và tương tự khó lòng thể hội một cái gì đó thương cảm nhè nhẹ ẩn chứa trong hơi mưa ẩm ướt. Mưa rả rích, liên miên, chẳng biết đến lúc nào mới tạnh, và đến lúc nào mới nghe được tiếng sấm đầu xuân. Cụ già Ngụy nhớ như in, thời tiết năm 1944 cũng giống thế này, cụ còn kể chuyện năm 1932, khi người Nhật ném bom Thượng Hải với cảnh tượng ở “Thương vụ ấn thư quán” trên đường Bảo Sơn, thiêu trụi một nhà in và một thư viện lớn nhất Đông Á. Bốn mươi vạn cuốn sách, trong đó có sáu vạn cuốn đặc biệt và toàn bộ số giấy chuẩn bị in sách đều trở thành tro bụi. Trời Thượng Hải ngập trong mưa tuyết, những cánh tuyết màu đen từ Bảo Sơn theo gió mùa đông bắc bay khắp thành phố, rơi xuống, phủ lên áo quần phơi ngoài ban công mọi con đường, nhất là Nam Kinh đông lộ. Ngụy Thiệu Xương có vẻ mỉm cười, thần sắc đổi thay khi kể chuyện cháy sách ở “Thương vụ ấn thư quán”, nhưng khi cụ ngẩng lên, hất mái đầu bạc trắng thì bạn sẽ nhìn thấy một gương mặt gắng gượng, chịu đựng và vô cùng nhẫn nại với dĩ vãng, cụ chẳng cười chút nào, cụ hơi ngạc nhiên vì sao tôi lại muốn biết những gì về năm 1944 ở Thượng Hải. - Dạ thưa, cháu đang viết sách, kể chuyện một người mà năm đó đã sinh ra ở đây, cháu muốn biết những tình tiết chân thực khó có thể tìm thấy trong sử sách, tân văn báo chí, thậm chí cả các truyện ký hay hồi ức của các bậc vĩ nhân, bởi vì nhân vật của cháu là cô gái rất bình thường. - Tôi trả lời và cảm thấy, cô ta như hạt bụi dính trên pho sách sử, nhưng tôi muốn hạt bụi đó vĩnh viễn không bị quét đi, rơi mất. ... Mời các bạn đón đọc Hồng Nhan Thượng Hải - Thời Thanh Xuân của tác giả Trương Hiền Lượng & Trần Đan Yến.
Thiên Thần Nổi Loạn - Anatole France
“Thiên thần nổi loạn” là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của A. France, thời kỳ sau này. Arcade một thiên thần hộ mệnh giáng phàm, trên con đường  tìm kiếm tri thức khoa học và chân lý đã đảo tung một trong những thư viện tư lớn nhất Châu Âu. Anh cùng các đồng bạn thiên thần xây dựng một đạo quân “ô hợp bát nháo” cùng hướng đến một mục tiêu chống lại thiên giới và hệ thống tín điều Ki tô thủ cựu; chống lại sự giam hãm, áp đặt tư tưởng của Thiên Chúa; phá vỡ xiềng xích niềm tin để nhận thức được thăng hoa.  “Thiên thần nổi loạn” như muốn đưa một thông điệp với loài người bé nhỏ: đức tin là cần thiết, nhưng đấy phải là một đức tin được thanh lọc bằng những hoài nghi khoa học, bằng tinh thần thánh thiện, bằng chủ nghĩa nhân văn, bằng một thời đại với sự cải cách phục hưng mới. Với kiến thức uyên bác về lịch sử Pháp, lịch sử tôn giáo, đặc biệt am hiểu về văn chương, hội họa xuyên suốt từ cổ đại, trung cổ, phục hưng tới cận đại, với văn phong trác tuyệt, A.France đã khéo léo lồng ghép cái triết lý hoài nghi của mình vào tiểu thuyết, đưa học thức uyên bác kết hợp với nghệ thuật đả kích châm biếm đưa trí tưởng tượng kết hợp với hiện thực xã hội, đưa biên niên sử tôn giáo kết hợp với phóng tác văn chương, đưa Dionysus gặp gỡ các thánh Tông Đồ, đưa những linh vật giao du cùng ngoại đạo, tất cả những điều ấy đã đưa ông thành một nghệ sĩ bậc thầy về kể chuyện, đưa đến cho người đọc những áng văn tuyệt vời, làm người đọc đắm say. *** Anatole France là một trong những nhà văn lớn nhất của nước Pháp thời cận đại, ông sinh ở Paris ngày 16 tháng 4 năm 1844, ngày 13 tháng 10 năm 1924 ở Tours, Indre-et-Loire, Pháp. Năm 1921 ông được trao giải Nobel Văn học vì "những tác phẩm xuất sắc mang phong cách tinh tế, chủ nghĩa nhân văn sâu sắc và khí chất Gô-loa đích thực"… Đến năm 1922, sách của ông đã nằm trong danh sách cấm của Giáo Hội Công Giáo La Mã, bởi trước tác của ông chống lại sự mê hoặc tôn giáo, giáo điều chủ nghĩa; dưới ngòi bút châm biếm đả kích, trào lộng, A. France mỉa mai những luận điệu thần thánh, những thiết chế Nhà nước, những thối nát của nhà thờ cùng với sự đớn hèn của loài người.  Anatole France sinh ở Paris, là con của một chủ cửa hàng sách, từ nhỏ đã ham mê văn học, nghệ thuật. Học ở trường Collège Stanislas. Trong thập niên 1860, France tiếp xúc với nhóm Parnasse và xuất bản tập thơ đầu tiên (1873). Sau đó ông chuyển sang viết văn xuôi và thật sự có tiếng tăm khi cuốn tiểu thuyết Le crime de Sylvestre Bonnard (Tội ác của Sylvestre Bonnard, 1881) ra đời và được nhận giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp. Trong thập niên 1890, ông viết nhiều bài phê bình văn học cho Le Temps (Thời báo) và in thành 4 tập sách với tên La vie littéraire (Đời sống văn học). Những năm cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, tư tưởng và sáng tác của Anatole France đã có những thay đổi. Ông từ bỏ lập trường người quan sát để trở thành chiến sĩ đấu tranh cho nền dân chủ. Cụ thể là trước kia ông thường miêu tả cuộc sống và con người thời kỳ Trung cổ hoặc thời kỳ suy vong của chế độ phong kiến, thì nay ông viết về các sự kiện lịch sử và xã hội đương đại, đồng thời tiếp tục truyền thống nhân văn chủ nghĩa của Rabelais và Voltaire, phê phán nền cộng hòa thứ ba của Pháp, chế giễu không thương xót những kẻ gây chiến tranh xâm lược tàn khốc. Năm 1921 ông được trao giải Nobel Văn học vì "những tác phẩm xuất sắc mang phong cách tinh tế, chủ nghĩa nhân văn sâu sắc và khí chất Gô-loa đích thực".. A. France là một trong những nhà văn lớn nhất của nước Pháp thời cận đại, trải qua một con đường khó khăn và phức tạp từ chủ nghĩa nhân đạo ảo tưởng đến chủ nghĩa hiện thực cách mạng. Ông mất ở Tours, Indre-et-Loire. Một số tác phẩm của tác giả Anatole France: Sách Của Bạn Tôi Không Đời Nào! Bông Huệ Đỏ Thiên Thần Nổi Loạn Các Hung Thần Lên Cơn Khát ... Mời các bạn đón đọc Thiên Thần Nổi Loạn của tác giả Anatole France.
Vịnh Tokyo - Anthony Grey
Tiểu thuyết lịch sử về các biến động tháng Bảy năm 1853, tàu chiến Mỹ làm chấn động nước Nhât, và gần đưa hai nứơc mỹ nhật tới chiến tranh *** Anthony Gray OBE là một nhà báo và tác giả người Anh. Là một nhà báo của Reuters, ông đã bị chính quyền Trung Quốc cầm tù 27 tháng tại Trung Quốc từ năm 1967 đến 1969. Ông đã viết một loạt tiểu thuyết lịch sử và sách phi hư cấu, bao gồm một số cuốn liên quan đến việc ông bị giam giữ. *** Nửa đêm, 7 tháng Bảy năm 1853 MỒ HÔI TRẮNG XOÁ TÚA RA TỪ LƯNG CON ngựa trạm gần như đang hấp hối khi chàng kị sĩ đội chiếc mũ trụ samurai thúc mạnh cựa giày vào nó và phóng như tên bắn vọt qua chiếc cầu vồng vắt qua vòng thành thứ ba phía trước toà thành trì đồ sộ của Shogun ở Yedo. Tới trước hàng lính gác mặc áo giáp chống giáo chắn ngang cánh cổng sắt nặng nề chàng kị sĩ hô vang: - Chokurei - da! Kinkyu Chokurei - da! Chàng rút ra từ dưới vạt áo chiến bào một cuộn giấy nhỏ được buộc bằng những sợi dây mạ vàng và giơ cao lên quá đầu. Những người lính gác đội mũ sắt mặc áo giáp bằng da và tre đã dợm chĩa mũi dáo về phía chàng, nhưng tiếng hô của chàng trai trẻ có vẻ là một samurai đã khiến họ dừng tay. Những lời chàng vừa hô là mật hiệu báo rằng chàng mang theo một "tin khẩn" do Hoàng đế gửi tới từ cung điện ẩn dật của Người ở Kyoto, cách Yedo ba trăm dặm về phía Tây nam. Và nữa, khi chàng đến gần hơn thì họ nhìn rõ ngôi sao sáu cánh, phù hiệu của thị tộc chàng được thêu bằng chỉ vàng trên vạt áo chiến bào jimbaory chỉ rõ rằng chàng là một nhà quý tộc ở đẳng cấp cao nhất. - Hayaku! Hayaku! Mau lên! Chàng khẩn thiết quát những tên lính gác đang lóng ngóng mở cổng và cố kìm con ngựa đang lảo đảo. Khe hở giữa hai cánh cổng vừa đủ rộng chàng đã thúc cho con ngựa chồm vọt qua hàng lính gác bên trong. Chàng dễ dàng vượt qua vài trạm gác nữa, mỗi lần lại hô vang và vung cao cuộn giấy, tận tới khi lên tới bậc thềm đá dẫn lên cửa chính của toà lâu đài. Đúng lúc chàng quăng người xuống khỏi yên thì con ngựa gục xuống, mép sùi bọt máu. Nhưng chàng samurai không hề liếc mắt nhìn lại, chàng nhảy vội lên bậc thềm đá, đôi song kiếm nhô ra khỏi tấm thắt lưng màu tro nhạt bó chặt lấy tấm kimono. Chàng giơ cuộn giấy có đóng triện của Hoàng đế cho viên chỉ huy đội vệ binh và ngay lập tức được đưa vào. Vừa đi vừa chạy, chàng vượt qua dãy hành lang lợp mái vòm cao, hai bên tường được dát toàn vàng lá. Nhảy ba bậc một, chàng đi sát vào bức tường trên có những hoạ tiết miêu tả cảnh những con chim huyền thoại đậu trên cành trúc và những rặng anh đào núi. Phía trên đầu, hàng xà gồ bằng gỗ được phủ lớp sơn mài hai màu đen và óng ánh vàng đỡ lấy mái vòm được trang trí tuyệt đẹp, nhưng chàng samurai trẻ tuổi chẳng hề liếc mắt đến tất cả những cái đó và chỉ dừng lại để hỏi những tên lính gác mặc đồng phục đứng dọc hành lang xem phải đi lối nào rồi lại hối hả bước đi. Khi đến trước cánh cửa của phòng Hội đồng Tướng quân, chàng tháo mũ trụ và rút cuộn giấy ra khỏi vạt áo chiến bào. Vẻ mặt khẩn cấp chàng trình bày với viên thị vệ trưởng của Hội đồng. Ngay sau đó chàng tháo zori và quỳ tiến vào trên đôi chân trần. Hàng trăm cặp mắt đổ dồn đầy dò hỏi khi chàng bước vào gian sảnh với vẻ mặt xanh tái. Tất cả bọn họ đều mặc những tấm áo daimyo rực rỡ, đó là những quận công đứng đầu các lãnh địa trên khắp đất nước Nhật Bản, tất cả bọn họ quỳ quanh một chiếc bệ cao đặt chính giữa. Shogun ngồi trên chiếc bệ đó. Các daimyo chỉnh tề trong bộ triều phục gồm áo choàng vai, quần lụa buông lá toạ, đầu đội mũ sơn mài sáng lấp lánh, họ kinh ngạc nhìn chàng quý tộc áo quần xộc xệch. Khi chàng phủ phục, đầu cúi xuống tận nền nhà họ mới nhìn thấy búi tóc trên đầu chàng cũng dính đầy bụi bặm và bê bết mồ hôi. Trước khi phủ phục chàng đã tháo hai thanh kiếm ra khỏi thắt lưng áo choàng và đặt chúng cùng chiếc mũ trụ xuống tâm tatami bên mình. Cũng giống như quần áo chàng, hai thanh kiếm cùng chiếc mũ trụ đều bê bết bùn đất. Shogun ngồi trên bục cao, im lặng nhìn và chờ đợi. Ông ngồi xếp bằng, tấm áo choàng bằng lụa xám khiến cho ông có dáng vẻ của Đức Phật. Mặc dù ông vẫn ngồi rất thẳng, nhưng gương mặt gầy của ông vẫn có một vẻ xanh xao khác thường và những giọt mồ hôi ướt đẫm trên trán cho thấy ông tựa như đang bị bệnh nặng. Sự xuất hiện đột ngột của chàng trai đang thở hổn hển kia đã gây nên một chớp nhoáng cảnh giác trong đôi mắt của Shogun, nhưng ông đã nhanh chóng lấy lại được vẻ bình thản và khẽ quay đầu lại. Tiếp nhận hiệu lệnh đó, một vị trong hàng các daimyo đang quỳ trước bệ bèn nhổm lên và cúi đầu xuống thật thấp hướng về phía Shogun. Rồi vẫn tiếp tục cúi đầu thật thấp ông ta lùi tiếp ra xa để người đưa tin trẻ tuổi có thể lách vào quỳ xuống và tự giới thiệu. - Tâu Đại Tướng quân, tôi là Tanaka Yoshio, hoàng tử thuộc thị tộc Kago, tỉnh Kumatore - Chàng samurai nói giọng sang sảng - Tôi được uỷ nhiệm mang tới trình Đại Tướng quân một tin thượng khẩn từ Đức Đại Hoàng đế ở Kyoto. Mời các bạn đón đọc Vịnh Tokyo của tác giả Anthony Grey.