Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Quả Chuông Ác Mộng

Khi nhìn vào sự điên rồ của thế giới và thế giới của sự điên rồ, chúng ta luôn phải đối diện với câu hỏi: “Thực tại là gì và làm thế nào để chấp nhận nó?” Trong Quả chuông ác mộng, áp lực thực tại đã hủy hoại hoàn toàn Esther Greenwood xinh đẹp và tài năng, đẩy cô vào thế giới trầm cảm, chênh vênh giữa biên cảnh của khát vọng sống và ham muốn chết. Tự tử, một trò chơi u tối khó cưỡng của sợ hãi và tội lỗi, gây nghiện như ma túy, ban đầu chỉ mang tính thử nghiệm - nay vài giọt máu, mai một cơn nghẹt thở, chỉ cốt để xem cảm giác ấy ra sao. Dần dà, nó nhanh chóng bùng phát thành khát vọng điên cuồng của niềm tự diệt *** Đã 56 năm kể từ ngày nữ thi sĩ - nhà văn người Mỹ Sylvia Plath cho ra đời cuốn tiểu thuyết định mệnh Quả chuông ác mộng , một tác phẩm bán tự truyện được phát hành trước vụ tự sát của chính cô chưa đầy một tháng khiến nó mang một màu sắc dự báo đầy ám ảnh. Vì lo sợ cuốn tiểu thuyết có thể tác động tới đời sống của các nhân vật ở ngoài đời, nhà văn ban đầu đã xuất bản Quả chuông ác mộng dưới nghệ danh Victoria Lucas; và phải bốn năm sau cái chết của cô cuốn sách mới được tái bản dưới đích danh Sylvia Plath. Kể từ đó, Quả chuông ác mộng lập tức gây chấn động trong giới độc giả, bán được hàng triệu bản trên khắp nước Mỹ và được đưa vào chương trình giảng dạy phổ thông ở nhiều nơi trên thế giới. Câu chuyện kể về Esther Greenwood, một cô gái trẻ dường như đang đứng trước tương lai trải hoa hồng với công việc thực tập tại một tạp chí danh giá ở New York (Mỹ). Tuy nhiên với bao nỗi lo lắng sợ hãi về vai trò được đòi hỏi ở bản thân đối với gia đình và sự nghiệp, Esther ngày càng cảm thấy bị cô lập khỏi thế giới bên ngoài và dần đánh mất mọi hứng thú và hi vọng, cũng như khả năng thực hiện những nhiệm vụ đơn giản trong cuộc sống thường ngày. Cô bỏ học, bắt đầu tìm cách tự sát, và bị đưa đi chữa trị ở nhiều nhà thương điên. Những sự kiện chính trong truyện đều được rút ra từ chính cuộc đời của nữ nhà văn - công việc biên tập khắc nghiệt tại một nhà xuất bản có tiếng ở New York, ám ảnh tự sát, và những trải nghiệm chữa trị bằng sốc điện thiếu quy chuẩn. Khoảng gần mười năm trước khi sáng tác Quả chuông ác mộng, trong một lá thư gửi người bạn thân Sylvia Plath đã bộc bạch về cuộc vật lộn của mình với chứng trầm cảm: “Cái cách tôi quẩn quanh suốt cuộc đời mình trong bầu không khí loãng thếch dưới quả chuông này quả là khó tin". Quả chuông ác mộng được Công ty cổ phần Sách Tao Đàn và NXB Hội Nhà Văn xuất bản tháng 7.2019 Cả trước và sau Quả chuông ác mộng, hiếm có cuốn sách nào phơi bày những bằng chứng đích xác như thế về bản chất của bệnh tâm thần. Từ đầu truyện, trạng thái cách ly của Esther khỏi thực tại thể hiện rất rõ qua cách cô đón nhận các tác động ngoại lai rất bị động: “Bất chợt tôi cảm nhận được mặt đất dâng lên và đập vào mình. Bùn trào qua kẽ ngón tay...”. Đặc biệt ám ảnh là mỗi khi Esther nhìn vào gương, cô lại thấy hình ảnh ánh xạ kia như một cá thể tách biệt và vô hồn: “Khuôn mặt đang nhìn tôi trong gương giống như đang nhìn qua lưới sắt của phòng giam sau khi bị tra tấn lâu ngày”; “Trong gương phản chiếu hình ảnh tôi với đôi cánh trắng, tóc buộc đuôi ngựa, tái nhợt như hồn ma bồng bềnh giữa khung cảnh bên ngoài”. Plath gọi những cảm xúc này là bị nhốt bên trong một “quả chuông” - biểu tượng cho sự cô lập; chúng mạnh đến mức người ngồi bên trong cảm thấy bất lực trước bất kỳ một quyết định hay nhiệm vụ đơn giản nào của cuộc tồn sinh. Trên thực tế, vào những tháng cuối đời, bệnh trầm cảm đã khiến cho Sylvia Plath không còn khả năng sáng tác bất cứ thứ gì và đẩy cô vào trạng thái bất lực đến điên loạn. Cuối cùng cô đã chọn cách tự sát bằng hơi ga và không may mắn như Esther Greenwood trong sách, Sylvia Plath không bao giờ trở lại cuộc sống đời thường được nữa. Thế nhưng chụp lên quả chuông tâm lý là một quả chuông khổng lồ hơn mang tính xã hội. Phụ nữ Mỹ thời hậu Thế chiến thứ hai, giai đoạn đánh dấu bùng nổ dân số và chủ nghĩa tiêu thụ, được đóng khung trong quan niệm cô ta chỉ có thể trở thành một người phụ nữ đáng mơ ước trong vai trò vợ hiền, mẹ đảm, và phục sức những thứ đồ đắt tiền. Trái ngược với đàn ông, người có thể cùng lúc theo đuổi đam mê, thăng tiến trong sự nghiệp lẫn làm chủ một gia đình thì người phụ nữ chỉ có thể chọn một con đường cho chính mình. Đây chính là chỗ thế giới quan của Sylvia Plath mâu thuẫn với thực trạng xã hội, một phụ nữ đã hình thành tư tưởng nữ quyền từ rất sớm trước khi phong trào nữ quyền của thế kỷ 20 thực sự phổ biến rộng rãi. Trong Quả chuông ác mộng, Sylvia Plath đã gói gọn tư tưởng của mình trong hình ảnh ẩn dụ về cây vả: “Tôi thấy đời mình đang đâm cành trổ nhánh như cây vả xanh tươi trong truyện ngắn đã đọc. Ở đầu mỗi cành, như một trái vả tím mọng, một tương lai tươi sáng đang lấp lánh chào đón tôi. Trái đầu tiên là một người chồng, ngôi nhà và những đứa trẻ, một trái khác là thi sĩ nổi danh, một trái khác nữa là giáo sư kiệt xuất [...] Rồi trên cao, vượt lên những trái vả này là những trái khác mà tôi không thể nào nhận ra. Tôi thấy chính mình đang ngồi trên chạc của cây vả này, người đói lả, chỉ vì không thể quyết định mình sẽ chọn trái nào. Trái nào trong số đó tôi cũng muốn, nhưng chọn một trái nghĩa là bỏ lỡ số còn lại, thế nên tôi ngồi trơ đó, băn khoăn chọn lựa, rồi những trái vả bắt đầu nhăn nheo sạm màu, từng trái, từng trái một rụng rơi xuống chân tôi". Bên cạnh đó, Sylvia Plath còn đưa vào Quả chuông ác mộng yếu tố đồng tính nữ như một phản ứng trước sự thống trị của nam giới. Trong truyện, nhân vật Joan Gilling cũng từng hẹn hò với Buddy Willard, bạn trai cũ của Esther Greenwood. Tuy nhiên về cuối tác giả hé lộ Joan là lesbian và giống như Esther, cô chưa bao giờ thực sự thích Buddy Willard. Yếu tố nữ quyền thể hiện rất rõ khi từ đầu câu chuyện, cả Esther lẫn Joan đều từng đụng độ với những gã đàn ông đểu cáng, hung bạo, ve vãn, thì đến cuối truyện, họ đều được bàn tay hiền hậu của phụ nữ che chở, và Joan thậm chí sinh tình cảm với Esther hay với nữ bệnh nhân Dee Dee: “Một người đàn bà tìm thấy điều gì ở một người đàn bà khác mà cô ta không thấy ở đàn ông? Bác sĩ Nolan ngập ngừng. Rồi bà nói: Sự dịu hiền”. Đối với người ở trong quả chuông thủy tinh, trống rỗng và ngưng đọng như một đứa bé chết non, bản thân thế giới là một cơn ác mộng. Sylvia Plath đã sống giữa cơn ác mộng ấy trong 30 năm ngắn ngủi của đời cô và trút hết những nỗi trăn trở miên trường vào tiểu thuyết duy nhất cô từng viết. Không chỉ dẫn ta đi sâu vào những góc khuất tối tăm của bệnh trầm cảm, Quả chuông ác mộng còn là tâm sự của một phụ nữ với tầm tư tưởng vượt trước thời đại, là tuyên ngôn mạnh mẽ về nữ quyền ngày càng có giá trị giữa thời nay. *** Đó là một mùa hè dị thường, ngột ngạt và oi bức, mùa hè mà người ta đưa vợ chồng nhà Rosenberg lên ghế điện, còn tôi thì chẳng biết mình đang làm gì ở New York nữa. Tôi mù tịt về những vụ hành hình. Ý nghĩ phải lên ghế điện làm tôi phát ốm, nhưng đó là tất cả những gì có thể đọc được từ những tiêu đề giật gân trên báo chí cứ đập vào mắt tôi nơi các góc phố và ở mỗi lối xuống ga tàu điện ngầm ẩm mốc bốc mùi đậu phộng. Chúng chẳng liên quan gì đến tôi, nhưng tôi không thể không tự hỏi sẽ như thế nào khi các dây thần kinh bị thiêu sống. Tôi nghĩ đó hẳn là điều kinh khủng nhất trần đời. New York quả thực tồi tệ. Tầm 9 giờ sáng, sự tươi mát ẩm ướt giả tạo rỉ ra trong đêm đã tan biến như đoạn kết của một giấc mơ ngọt ngào. Chỉ còn lại vẻ xám xịt dưới đáy các thung lũng hoa cương, những con đường nóng rẫy loang loáng dưới ánh mặt trời, những mui xe kêu ri rỉ và lấp lánh sáng, bụi khô như than đỏ đâm vào mắt, tràn vào tận họng. Tôi vẫn tiếp tục nghe về nhà Rosenberg trên radio nhiều đến nỗi khi ở văn phòng làm việc tôi không thể dứt bỏ nó ra khỏi tâm trí. Cũng giống như lần đầu tiên tôi nhìn thấy xác chết. Nhiều tuần sau, cái đầu thi thể - hay đúng hơn là những gì còn sót lại của nó - cứ lềnh bềnh lên món trứng và thịt nguội trong bữa sáng và đằng sau là gương mặt của Buddy Willard, người phải chịu trách nhiệm vì đã chỉ cho tôi thấy nó đầu tiên. Ngay sau đó, tôi cảm thấy như lúc nào cũng phải mang bên mình cái đầu lâu lơ lửng trên một sợi dây, tựa như một quả bong bóng màu đen không có mũi, hôi mùi giấm. (Tôi biết mình có gì đó không ổn vào mùa hè ấy, bởi lúc nào tôi cũng chỉ nghĩ tới vụ án nhà Rosenberg và tôi ngu ngốc hết mức khi mua một lô quần áo đắt tiền, nhưng không chút tiện dụng nào chỉ để treo đầy tủ, và tất cả những thành công nho nhỏ mà tôi đã hạnh phúc khi gặt hái được ở trường trở nên vô nghĩa hoàn toàn khi đứng trước những cửa hiệu bằng đá cẩm thạch và kính, dọc theo đại lộ Madison.) Tôi phải tận hưởng thời khắc đẹp đẽ của cuộc đời. Tôi phải trở thành đối tượng ghen tị của hàng ngàn nữ sinh viên đại học ở khắp nước Mỹ, những cô gái không có mong muốn gì hơn là được dạo chơi với đôi giày da bóng cỡ số bảy mà tôi đã mua ở hiệu Bloomingdale nhân một lần đi ăn trưa, cùng với chiếc thắt lưng và túi xách đồng màu da đen bóng. Rồi khi ảnh tôi xuất hiện trên tờ tạp chí, nơi mười hai đứa chúng tôi đang làm việc, uống martini ở Starlight Roof, mình mặc áo yếm lấp lánh ánh kim cùng chiếc váy phồng bằng vải tulle trắng, được vây quanh bởi nhóm thanh niên xa lạ với cấu trúc xương kiểu Mỹ, thuê riêng cho những dịp thế này - hẳn mọi người sẽ cho rằng tôi đang quay cuồng thực sự. Họ sẽ bảo, hãy nhìn xem cái gì đang xảy ra ở cái đất nước này. Một cô gái tỉnh lẻ sống ở vùng sâu vùng xa nào đó suốt mười chín năm trời, nghèo đến nỗi không mua nổi một tờ tạp chí, đột nhiên nhận được một học bổng đại học, rồi giành hết giải thưởng này sang giải thưởng khác, và tạo ảnh hưởng ở New York ngon lành như thể lái chiếc xe riêng của mình vậy. Chỉ có điều tôi chẳng lái cái gì cả, kể cả bản thân mình. Tôi chỉ đi từ khách sạn đến nơi làm việc hoặc các bữa tiệc, rồi lại từ các bữa tiệc trở về khách sạn và tiếp tục đi làm như một chiếc xe điện tê cóng. Tôi nghĩ mình cũng có thể bị kích động như phần lớn những cô gái khác, nhưng tôi không thể tự phản ứng lại được. Tôi cảm thấy rất bình yên và trống trải tựa như mắt bão khi di chuyển một cách chậm chạp giữa tiếng mưa gào gió thét xung quanh. Mười hai đứa chúng tôi đều ở khách sạn. Chúng tôi vừa đoạt giải trong kỳ thi do một tạp chí thời trang tổ chức dự thi những bài luận, truyện ngắn, thơ và quảng cáo thời trang. Giải thưởng là một công việc ở New York trong vòng một tháng, mọi chi phí đều đã được đài thọ, thêm vào đó là hàng lô hàng lốc những món thưởng khác: vé ba lê, xem trình diễn thời trang, làm tóc tại một tiệm danh tiếng và cơ hội gặp được những người thành đạt trong lĩnh vực mà chúng tôi mơ ước, để nhận được những lời khuyên thích hợp với mình. Tôi vẫn còn giữ cái hộp trang điểm mà họ đã tặng, vốn hợp với một cô nàng mắt nâu tóc vàng: một lọ mascara màu nâu với bàn chải nhỏ xíu, một ô phấn mắt màu xanh hình tròn chỉ vừa đủ lớn bằng đầu ngón tay, và ba thỏi son môi từ đỏ đến hồng, tất cả đều đặt trong một cái hộp nhỏ mạ vàng, mặt trong có kèm gương. Tôi cũng có một cái hộp đựng kính mát bằng nhựa trắng, được khảm xà cừ đủ màu và đính một con sao biển bằng nhựa màu xanh lá cây. Tôi nhận ra rằng việc trao tặng những món quà này chính là cách quảng cáo miễn phí của các doanh nghiệp, nhưng tôi không thể không giữ chúng. Tôi từng hất văng tất cả những món quà trong tầm tay. Suốt một thời gian dài, tôi giấu biệt chúng đi, nhưng rồi khi bình tâm lại, tôi lôi chúng ra và bày khắp nhà. Đôi khi tôi dùng son môi, và mới tuần trước tôi đã cắt con sao biển bằng nhựa khỏi bao kính để làm đồ chơi cho một đứa bé. Cả bọn mười hai đứa chúng tôi đều ở khách sạn, cùng một bên dãy ở cùng một tầng gồm các phòng đơn. Phòng nọ kế tiếp phòng kia làm cho tôi nhớ đến các phòng ở ký túc xá. Đây không phải là một khách sạn đúng nghĩa - tôi muốn nói đến khách sạn mà đàn ông và đàn bà ở lẫn lộn trên cùng một tầng. Khách sạn Amazon này chỉ dành cho phái nữ, phần lớn là những cô gái cùng lứa tuổi tôi, gia cảnh giàu có, mong ước cho con gái mình sống ở một nơi mà bọn đàn ông không thể lui tới và lừa dối được: tất cả bọn họ đều theo học những trường sang trọng chuyên đào tạo thư ký như Katy Gibbs, nơi họ phải mang mũ, tất dài và găng tay đến lớp; hoặc những người vừa tốt nghiệp các trường như Katy Gibbs và trở thành thư ký cho các ủy viên cao cấp, và cứ quanh quẩn ở New York mong tìm được một anh chàng thành đạt nào đó để kết hôn. Với tôi, những cô gái này buồn tẻ một cách khủng khiếp. Tôi thấy họ nằm phơi nắng, vừa ngáp vừa sơn móng tay và cố giữ cho làn da Bermuda rám nắng, nom họ nhạt nhẽo chết đi được. Tôi lân la tán chuyện với một người trong đám, cô nàng cho biết đã chán ngấy những chiếc thuyền buồm, chán ngấy những chuyến du hành bằng máy bay, và cả việc đi trượt tuyết ở Thụy Sĩ vào dịp Giáng sinh lẫn cánh đàn ông ở Brazil nữa. Đám con gái đó làm tôi phát ốm. Họ khiến tôi ghen tỵ nhưng không dám nói thành lời. Mười chín tuổi đầu, tôi chưa từng bước chân ra khỏi New England trừ chuyến đi New York này. Đây là cơ hội lớn đầu tiên của tôi, thế nhưng giờ đây, nó đang như những giọt nước dần dần trôi tuột qua kẽ tay. Tôi nghĩ một trong những phiền nhiễu của tôi chính là Doreen. Tôi chưa từng quen một đứa con gái nào như Doreen. Cô nàng tới từ một trường nữ sinh dành cho giới thượng lưu ở miền Nam. Cô có mái tóc bạch kim bồng bềnh như một cây kẹo bông quanh đầu, cặp mắt xanh như hai viên mã não trong trẻo, cô cứng cỏi, thanh lịch và ương ngạnh, nụ cười giễu cợt luôn nhếch trên môi. Tôi không cho rằng đó là sự cay độc, mà là kiểu giễu nhại, pha chút thần bí, như thể tất cả mọi người xung quanh đều ngốc nghếch và cô ta có thể buông lời bỡn cợt họ bất cứ lúc nào. Doreen để mắt tới tôi ngay lập tức. Cô làm tôi cảm thấy mình sắc sảo hơn mọi người, còn cô lại là con người rất hài hước. Doreen thường ngồi cạnh tôi mỗi lần hội họp và khi những vị khách danh tiếng tới thăm phát biểu, cô ta thì thầm vào tai tôi mấy lời nhận xét châm chọc tếu táo. Cô ta bảo với tôi rằng trường của cô ta rất chú trọng chuyện thời trang. Tất cả nữ sinh phải có túi xách may cùng một loại với quần áo, thành thử mỗi lần thay đồ lại phải đổi túi xách cho phù hợp. Kiểu chi tiết tỉ mỉ này khiến tôi rất ấn tượng. Nó biểu thị một cuộc sống tuyệt diệu, xa hoa mà suy đồi, và thu hút tôi như một thanh nam châm. Lần duy nhất mà Doreen hoạch họe tôi là về chuyện hoàn thành công việc đúng thời hạn. “Cậu đổ mồ hôi cho việc đó làm gì?” Doreen hỏi, cô nàng mặc nguyên bộ đồ bằng tơ màu hồng đào ngả ngốn trên giường tôi, lấy một miếng giấy ráp giũa những móng tay dài vàng khè vì nicotin, trong khi tôi đánh máy lại bài phỏng vấn một tiểu thuyết gia thuộc dạng best-seller. Đó lại là chuyện khác - còn thường thì chúng tôi khoác những bộ quần áo ngủ mùa hè bằng vải bông và áo choàng mặc ở nhà, hoặc có thể là những loại áo dài bằng vải kiểu mặc ngoài bãi biển. Duy có Doreen mới mặc những loại áo cực mỏng hay bằng ren gần như trong suốt, hoặc váy áo màu da, khiến người cô lúc nào cũng lách tách tình điện. Ở cô có một điểm thú vị nữa là luôn phảng phất một mùi mồ hôi hấp dẫn gợi tôi nhớ tới mùi hương khi ta vò nát những chiếc lá dương xỉ hình quạt giữa các ngón tay. “Cậu nên biết mụ Jay Cee sẽ không nổi điên lên nếu cậu gác câu chuyện này đến mai hoặc thứ Hai đâu.” Doreen châm một điếu thuốc và nhả khói chầm chậm qua lỗ mũi, khiến đôi mắt cô trở nên mơ hồ. “Mụ Jay Cee xấu như quỷ,” Doreen lạnh lùng nói tiếp. “Mình dám cá là lão chồng già của mụ phải tắt hết đèn trước khi gần gũi mụ, bằng không lão sẽ phát nôn ngay.” Jay Cee là sếp của tôi, và tôi rất quý bà, bất kể Doreen có nói gì đi nữa. Bà không phải là loại người phù phiếm vẫn thường thấy trên các tạp chí thời trang với hàng lông mi giả và đồ trang sức hào nhoáng. Jay Cee là người có đầu óc, nên vẻ xấu xí của bà xem ra chẳng có gì hệ trọng cả. Bà nói được vài thứ tiếng và biết rõ những tay viết cứng cựa trong nghề. Tôi cố hình dung ra cảnh bà Jay Cee cởi bộ đồng phục cứng nhắc cùng chiếc mũ dự tiệc, lên giường với lão chồng béo ị của bà, nhưng không tài nào hình dung được. Tôi luôn luôn rất khó khăn khi phải tưởng tượng ra cảnh người ta đang ngủ với nhau. Jay Cee luôn muốn dạy dỗ tôi, tất cả những bà lớn tuổi khác mà tôi quen biết đều như vậy, nhưng tôi cho rằng họ chẳng có điều gì để chỉ bảo tôi cả. Tôi đóng nắp máy chữ rồi khóa lại. Doreen cười nhăn nhở: “Thông minh đấy!” Chợt có tiếng gõ cửa. “Ai đấy?” Tôi không buồn đứng dậy. “Betsy đây. Cậu có đi dự tiệc không?” “Chắc có đấy.” Tôi vẫn không ra mở cửa. Betsy được đưa thẳng từ Kansas về đây cùng mái tóc hoe vàng tết kiểu đuôi ngựa và nụ cười kiểu những cô nàng thiện tâm. Tôi nhớ một lần hai đứa chúng tôi được mời tới văn phòng của một đạo diễn truyền hình mặc bộ đồ sọc, để xem thử có góc độ nào nơi chúng tôi khả dĩ phù hợp với một chương trình của ông không. Và Betsy bắt đầu nói về loại ngô đực ngô cái ở Kansas. Cô nàng hào hứng với thứ ngô chết tiệt này đến mức nhà đạo diễn phải rưng rưng mắt lệ, nhưng sau đó ông ta nói rằng lấy làm tiếc bởi chẳng có gì hữu dụng cả. Sau này, người phụ trách thẩm mỹ thuyết phục Betsy cắt tóc và cho cô nàng lên bìa báo, tôi thi thoảng còn thấy khuôn mặt của cô đang tươi cười trên mẫu quảng cáo “Vợ của P.Q mặc đồ nhà B.H. Wragge.” Betsy lúc nào cũng rủ tôi làm việc cùng cô và vài cô nàng khác nữa, cứ như thể đang cố cứu vớt tôi không bằng. Cô chẳng bao giờ rủ Doreen cả. Doreen lén gọi riêng với tôi là con nhỏ cao bồi Pollyanna. “Cậu có muốn đi cùng taxi với bọn tớ không?” Betsy hỏi vọng vào. Doreen lắc đầu. “Được rồi, Betsy.” Tôi nói. “Tớ sẽ đi cùng với Doreen.” “Ừ!” Tôi nghe tiếng Betsy đi xuống đại sảnh. “Tụi mình ghé qua một lát, khi nào oải quá thì về.” Doreen bảo tôi, dụi tắt điếu thuốc lá vào đế cây đèn đọc. “Rồi tụi mình xuống phố. Những buổi tiệc tùng ở đây làm mình nhớ lại những lần khiêu vũ trong phòng thể chất ở trường. Tại sao chúng nó cứ phải bám lấy bọn Yale? Chúng ngốc bỏ xừ!” Mời các bạn đón đọc Quả Chuông Ác Mộng của tác giả  Sylvia Plath & Trần Quế Chi (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hắn Và Thằng Bạn
Hắn và thằng bạn là những câu chuyện ngắn nhưng vui, được viết dựa trên những việc thực sự đã xảy ra trong cuộc sống của các tác giả, những người trẻ đang bước những bước đầu tiên vào đời. Hắn và thằng bạn không phải là những con người hoàn hảo: tất cả chỉ là những cô cậu nhóc bình thường với những sai lầm, thiếu sót và những tình huống ứng xử khó đỡ như bất kỳ ai. Nhiều người đề xuất nên xem Hắn và thằng bạn là một quyển sách kinh doanh, nhưng thực ra không phải vậy: nhóm tác giả mong bạn xem đây là những bài viết ghi lại những trải nghiệm riêng của người viết, với những câu chuyện vui vẻ mà thôi. Rất hy vọng bạn đọc thấy hình ảnh của bản thân mình trong Hắn và thằng bạn, cũng như có những giờ phút giải trí thật vui, đồng thời rút ra được nhiều kinh nghiệm sống và kinh doanh cho chính bản thân mình. Mời các bạn đón đọc Hắn Và Thằng Bạn của tác giả Hạo Nhiên & Quốc Khánh.
Con Tiện Thỏ Này Phải Chết
Từ sau khi một con tiện thỏ đến thiên đình, nơi ở của các đại thần tiên trên thiên đình đều giăng biểu ngữ: Phòng cháy phòng trộm phòng con thỏ. Đồng thời, bách khoa toàn thư các cách chế biến thịt thỏ cũng bắt đầu bán chạy. Thường xuyên có thể nhìn thấy một đám thần tiên tay khua các loại pháp bảo, đuổi theo một con thỏ chạy khắp núi, hô hào: “Quần ẩu không quan trọng, da mặt có thể không cần nhưng con tiện thỏ này phải chết!” Người đi đường: "Vì sao con thỏ kia trâu bò như vậy? Cơ hồ tất cả thần tiên đều biết nó, bởi vì đáng yêu sao? Người qua đường Ất: "Không! Bởi vì tiện! Cũng không đúng, phải là rất tiện!" Một giấc chiêm bao Hoàng Lương sau đó 《 lão nạp phải hoàn tục 》 《 vạn giới trực tiếp chi đại thổ hào 》 về sau lại nhất tác phẩm mới, sắp ra mắt đến mọi người! P/s: Tìm kiếm loại mới, không theo khuôn sáo cũ, MỜI NHẬP HỐ *** Không phải một lão quái vật trong làng tiên hiệp, xuyên không. Cũng không phải tác phẩm lừng danh của một vị đại thần nổi tiếng. Vậy điều gì đã khiến cho Con Thỏ Này Phải Chết có sức hút lớn như vậy? Trước tiên phải kể đến là sự thành công của "Lão nạp phải hoàn tục". Cá nhân mình mà nói, xét về một phương diện nào đó "Con thỏ này phải chết" vẫn có một âm hưởng mãnh liệt hơn, sâu sắc hơn, đánh dấu sự trưởng thành trong văn phong của tác giả. Nhân vật chính Tần Thọ vốn là một thanh niên hiện đại, sau khi lập được đại công cứu được một đứa bé, không những không được nhà nước và nhân dân kính mến, ngưỡng mộ, còn vận cứt chó bị xuyên không tới một nơi tên "Cung trăng". Không có bàn tay vàng, không có hệ thống, không có thân phận bối cảnh, hắn thậm chí đến người cũng không làm được, chỉ có thể nhắm mắt hận đời làm một con thỏ. Làm thỏ cũng thôi đi, hắn vậy mà còn là một con thỏ sắp chết. Nhưng xưa nay có câu nhân vật chính ắt tự có lợi hại của riêng mình, nam chính sau khi được Hằng Nga hàng thật giá thật hi sinh bản thân để cứu về, cuối cùng cũng từ bỏ ý định tìm chết. Dù là thỏ, cũng phải là một con thỏ đứng trên vạn người, khiến chúng sinh kinh sợ, khiến toàn cõi thiên ma vì một con thỏ mà loạn lên một trận mưa máu gió tanh. Văn án: Từ sau khi một con tiện thỏ đến thiên đình, nơi ở của các đại thần tiên trên thiên đình đều giăng biểu ngữ: Phòng cháy phòng trộm phòng con thỏ. Đồng thời, bách khoa toàn thư các cách chế biến thịt thỏ cũng bắt đầu bán chạy. Thường xuyên có thể nhìn thấy một đám thần tiên tay khua các loại pháp bảo, đuổi theo một con thỏ chạy khắp núi, hô hào: “Quần ẩu không quan trọng, da mặt có thể không cần nhưng con tiện thỏ này phải chết!” Người đi đường: "Vì sao con thỏ kia trâu bò như vậy? Cơ hồ tất cả thần tiên đều biết nó, bởi vì đáng yêu sao? Người qua đường Ất: "Không! Bởi vì tiện! Cũng không đúng, phải là rất tiện!" Đánh giá: Truyện có điểm cộng là nội dung mới mẻ, độc đáo, không đi theo những lối mòn của đại đa số các bộ truyện tiên hiệp hiện nay. Tác giả viết chắc tay, đặc trưng lối viết hài hước, dí dỏm của Kê Vàng. Theo cảm nhận của mình thì tác phẩm này như một làn gió mới, với những cái "riêng" mà không thể tìm thấy ở bất cứ đâu. Bố cục truyện cũng rất ổn, cách dẫn dắt của tác giả thì khỏi bàn. Tóm lại, đây là một bộ truyện đáng đọc cho những ai cần tìm sự mới mẻ trong thể loại truyện không còn mới này. Điểm trừ duy nhất là một vài những chi tiết không quá quan trọng. Tuyến nhân vật phụ đặc sắc nhưng có phần hơi dài dòng, lan man. Đây cũng là hạn chế chung của các tác phẩm tiên hiệp, cho dù là các đại thần kì cựu nhất. Các lão làng trong thể loại này sẽ nhận ra truyện có một vài lỗ hổng về việc tu luyện của main. Vậy nên nếu các lão quái nếu muốn tìm một bộ truyện siêu phẩm về tu luyện thì đây không phải một lựa chọn tối ưu. Nhìn chung, truyện có một vài khiếm khuyết trong tuyến nhân vật, nhưng không làm mất đi sự cuốn hút đặc biệt của nội dung. Lối hành văn trôi chảy, hài hước cùng cách dẫn dắt truyện, cách khắc hoạ nhân vật rõ nét đã tạo nên một tác phẩm thành công và hấp dẫn. Hãy cùng khám phá xem, liệu một con thỏ cả ngày chỉ ăn rồi ngủ sau đó nằm chờ chết, sẽ làm thế nào để trở thành một con tiện thỏ khiến thần tiên nghe tới cũng phải khiếp sợ trong Con Tiện Thỏ Này Phải Chết nhé. ***   Mời các bạn đón đọc Con Tiện Thỏ Này Phải Chết của tác giả Nhất Mộng Hoàng Lương.
Bến Bờ
Bến bờ là câu chuyên tình nhuốm máu bi tráng của Điền, công an điều tra và Khanh, cô diễn viên xinh đẹp. Cao trào của tiểu thuyết diễn ra khi Khanh suýt bị gã đàn ông con riêng của mẹ kế cưỡng bức. Còn Điền bị ông Hói, thủ trưởng trực tiếp của anh, lộ mặt đê hèn, lợi dụng cơ hội hạ nhục anh. Điền và Khanh sẽ phản ứng và tiếp tục sống ra sao sau những cay đắng ấy? Tâm hồn cao thượng và lòng quả cảm có giúp anh đứng vững và đối mặt với cái ác hiển hiện trong cuộc sống? *** Mưa buông hạt từ lúc con tầu khởi hành. Những hạt mưa cuối thu hiền lành, nhỏ li ti, không trọng lực, bay lơ lửng, kết tụ như bụi, như ở bên kia xứ sở, ở bên ngoài cảm giác. Chúng chỉ hiện diện mỗi khi con tầu tăng tốc độ, hắt số nước tích đọng trên mui sang hai bên, thành những làn nước mỏng tanh; và dựa vào đà chạy của con tàu, chúng quay đảo, đè rạp đám cỏ dại cùng lau lách mọc ở hai bên lề đường. Không gì hắt hiu hơn là những bông lau trắng xám, chúng tự nở hoa, tự bạc đầu. Quẫy động trong luồng gió con tầu tạo ra, những bông lau tỏa ra bóng đêm sớm hơn những ngày thông lệ. Xuất phát từ lúc sáu giờ chiều ở một ga nhỏ biên giới, con tầu cảm nhận ngay được thân phận lẻ loi trên dặm đường xa. Nó hú còi liên tục và dàn bánh xe guồng rối rít tít mù như trốn chạy khỏi ám ảnh của một cuộc đuổi bắt hãi hùng. Nó làm dậy lên cuộc sống hoang dã hai bên đường. Hai bên đường thuần núi đất và rừng cây gỗ tạp chợt như được đánh thức và lập tức náo loạn lên với những tiếng gào thét, rên rỉ hoặc khoái trá của loài rắn rết, lũ côn trùng đang bắt đầu vào cuộc sát hại lẫn nhau hoặc cặp díp nhau, giẫy lên đành đạch vì lạc thú điên rồ khi trời sửa soạn vào phần đêm. Náo động từ hai bên đường, ở trong con tầu. Bao giờ cũng vậy, lộn xộn, hỗn loạn là trạng thái thường tình của con tầu ở mấy ga đầu. Người lên tầu còn chưa ổn định được chỗ ngồi, lại bỡ ngỡ trước môi trường mới. Dọc theo các lối đi xẻ giữa hay ở bên cạnh toa, nầm nập khách ngược xuôi đi lại và chỉ cần một người dừng chân để ngó nghé, hỏi han gì đó là đủ gây nên cảnh ùn tắc và ngay tức khắc ồn lên những lời mắng mỏ tức tối rồi. Cảnh sát dã chiến và người nhà tầu vung vẩy cây đèn pin hoặc đèn hiệu trong hộp kính mầu, nổi bật như các hồng huyết cầu trong dòng người chuyển động này, bao giờ cũng len lách vượt lên trong tinh thần chủ động. Rẽ vào một toa nằm để soát vé, giải quyết khiếu nại về sự trùng lắp của một vé ngồi, nhiều nhất là xử lý tình trạng đi tầu không vé, việc này bao giờ cũng gặp khó khăn, khúc mắc. Cũng giống như việc đi lại trên con tầu, lát sau tuy đã thưa người di chuyển, nhưng mọi việc diễn ra cũng không dễ dàng gì, vì con tầu bắt đầu phóng nhanh hơn. Nhất là khi bóng đêm đen tuyền đã phủ trùm toàn bộ cảnh vật. Không hề biết đến việc gì khác, con tầu dường như chỉ có mỗi một nỗi lo là hoàn thành lộ trình càng nhanh càng tốt. Đầu tầu chắm chúi lao hồng hộc và dàn bánh thép của nó càng lúc càng như tự trôi trượt trên mặt đường ray về đêm đã ướt nhoáng nước mưa. Như không có người lái, nó tự động chạy, vẻ như bất cẩn, ở những khúc quanh, vành xe chỉ còn mớm nhẹ vào mặt ray, như sắp buột ra khỏi khẩu độ, phát ra tiếng thép xiết như liếc dao, nghe ghê cả người. Nhiều đoạn, đường gập ghềnh như đường trâu đi trong làng bản, tầu nhảy chồm chồm, các điểm nối giữa các toa chỉ chực buột ra khỏi khớp khóa. Ngồi trong toa tầu mà dập dềnh như ngồi thuyền đè sóng sang ngang sông mùa lũ, như ngồi võng, như cưỡi ngựa. Đường xấu vì làm ẩu, làm vội để lấy thành tích báo cáo, để kiếm chác là một chuyện. Mặt khác, nó xấu kém còn vì bọn trộm cắp phá phách gần đây bỗng hoạt động rộ lên. Đạo chích là những kẻ nhạy cảm vô cùng đối với các khoản sinh lợi. Mà con đường thì cứ phô ra cả trăm, cả ngàn cây số, toàn bộ số tài sản khổng lồ không người canh giữ của mình. Đá có thể lấy về để rải đường, lát sân, đổ bê tông làm móng nhà, trần nhà. Ray, tà vẹt, lập lách, cóc đều có thể bán được tiền. Còn những chiếc guốc hãm các dàn bánh xe ở các toa tầu thì xứng đáng là nguyên liệu loại một để đúc nồi gang, chảo gang cỡ đại hoặc chân bàn máy khâu Trung Quốc, Nga, Phần Lan, loại máy công cụ khi nhập vào nước này vốn chỉ có mỗi cái đầu máy. Khủng khiếp! Nhiều chỗ đá bị moi, hai thanh ray như hai sợi thép căng giữa khoảng trống không điểm tựa đỡ. Ở những đoạn xuống dốc, con tầu mất lực hãm, lao sầm sập vô phương kìm giữ, nó chỉ dừng lại, khi các toa đang trôi tự do bỗng đâm vào nhau loảng xoảng chùn cả lại, vì sức cản của chiếc đầu tầu nặng như một quả núi đá chẹn đường. Tuy vậy, xóc lắc đều đều thì cũng là một kiểu nhịp điệu. Hiểm nguy liên tục thì cũng trở nên bình thường. Hơn nữa, lúc này vòng bánh xe quay theo cánh tay truyền lực phát tiếng kêu xục xịch đều đặn và tiếng hẫng hụt đứt gẫy cách quãng mỗi khi bánh xe qua điểm nối giữa hai thanh ray đã tạo nên trạng thái điều hòa trong cảm nhận mọi người. Dao động nhịp nhàng tác động vào thính giác hóa ra cũng thành một điệu ru. Hành khách được con tàu ru. Điền được con tàu ru. Duỗi thẳng chân, ở thế nằm nghiêng, úp mặt vào vách ngăn, trong con tầu xóc lắc liên tục, Điền đã tách mình ra khỏi hiện tại, để con người có thói quen đóng kín của mình trở nên trơ trụi, ở ngoài dòng thời gian. Vốn không dễ ngủ, nhưng Điền đã ngủ. Nói đúng hơn là Điền vừa chủ động vừa bị dìm nghỉm vào mớ tạp âm phát ra của con tàu và hơi mưa mát rượi chốc chốc lại tạt nhẹ vào khuôn cửa sổ tối mờ. Hơi mưa giải tỏa oi nồng trong toa tầu. May mà có mưa. Vì toa tầu đã chật hẹp lại đầy người. Mà người thì phát xạ như một hành tinh giầu năng lượng. Đã chật lại oi ngột. May mà có mưa. Mưa tắm mát vỏ con tầu. Mưa xóa nhòa các đường biên không gian, tạo nên cái hư giác là con tầu đang trôi trượt vào bóng đêm mung lung không thanh sắc, hình tướng. Trong mưa, tiếng va đập, rít xiết của con tầu trở nên phẳng bẹt, nhòa mờ, loang rộng. Mưa ru Điền vào giấc ngủ của kẻ lữ hành có cuộc sống phiêu tán đó đây đang rất cần những khoảng khắc tĩnh lặng để nghe được tiếng nói dịu dàng bên trong của một đời sống bình dị, lâu bền. Thiếp đi thật sâu, nhưng lát sau Điền đã thức giấc bất chợt. Nằm yên, lọc qua mớ tạp âm va đập, nhận ra tiếng hạt mưa đậu nhè nhẹ trên mui tầu, Điền có cảm giác như đã chạm tới nỗi quạnh vắng mênh mang của đời người, lòng chợt dịu mềm đi vì như gặp được niềm tâm cảm; nỗi lo âu có sẵn từ sâu xa bỗng chập chờn ẩn hiện. Trong Điền từ lâu rồi đã tồn tại một cơ chế cảnh báo tự động. Đời sống luôn khắc khoải muôn nỗi lo toan. Điền đã thức giấc vì tiếng quát tháo, hò hét vừa chợt rộ lên ở đâu đó trong con tầu. Giữa đêm đen mù mịt, trên con tầu chạy hộc tốc như bị săn đuổi, tiếng người quát tháo, hò hét như được khuếch đại lên nhiều lần, lại như nhiễm thêm nỗi kinh sợ bàng hoàng. Ở ga Phố Lu đã xảy ra một vụ cướp giật. Một viên thiếu tá bị mất chiếc túi dết đựng ba trăm mười lăm triệu đồng tiền lương mới lĩnh của đơn vị. Bọn cướp giật được túi tiền từ toa số 6. Cảnh sát đuổi chúng tới toa số 2, toa Điền nằm, thì mất tích. Chúng đã nhảy xuống tầu hay trà trộn vào mấy chục hành khách cùng toa với Điền vừa thất thần thức giấc? Điền ngồi dậy, nhìn vào khoảng không mờ mờ ánh đèn điện trong toa tầu chỉ thấy những bóng người qua lại mặt mày ngác ngơ hốt hoảng. Người trong khoang tầu nằm cùng Điền đã lục sục thức giấc. Nằm trên chiếc giường cạnh anh, ở tầng dưới cùng là một người đàn ông trung niên. Ông ngáp một cái rõ to rồi nhìn anh, lắc lắc đầu cười: “Thôi, các chú công an chào thua các ông kẻ cướp Việt Nam đi!”. Một người cảnh sát cầm súng ngắn đi qua, lườm người nọ, lướt mắt qua mặt Điền. Mắt anh ta đánh một tia chớp. Hình như anh ta nhận ra nét quen thuộc trên mặt Điền. Hay là đã có hồi anh ta cùng Điền tham gia chiến dịch săn bắt băng cướp trên các chuyến tầu Nam Định - Vinh? Chà, cuộc sống chứa chất bao điều quái dị. Có thể nào tin rằng bọn lưu manh chuyên nghề này xây nhà, sắm đài, mua xe đạp, xe máy... thuần bằng tiền móc ví hành khách? Buồn thay, cả băng hơn hai chục tên toàn là dân cày nghèo khổ và thợ thuyền. Người đàn ông trung niên đã leo lên tầng giường trên, gọi mấy ông bạn mình dạy chơi bài và uống trà. Chả còn ai ngủ nữa. Canh bạc ăn nhau về sáng. Bọn bất lương sang nửa phần đêm còn lại càng hoành hành dữ dội. Ở ga Lâm Giang một bà nạ dòng và một cô thiếu nữ Tày bị giật hai sợi dây chuyền vàng. Tên cướp nhảy tầu thật lành nghề, tầu đang chạy với tốc độ sáu mươi cây số giờ, thế mà nó cũng chỉ hơi chuệnh choạng khi chân chạm đất. Trong ánh đèn pin dọi ngược chiều, còn nhìn thấy cái mặt gồ ghề và bộ râu quai nón lục lâm thảo khấu của nó, thấy nó nhe răng cười và giơ hai sợi dây chuyền lên để giễu cợt những người định đuổi bắt nó thò cổ ra ngó nó từ trên các cửa sổ con tầu. Chuyến tầu đầy những sự cố bất thường. Vì đoạn đường nào cũng có người trình báo mất hành lý, mất ví tiền, sắp vào ga Ngòi Hóp, tầu hãm độc giật cục bất thình lình. Có một người nằm vắt ngang đường tầu. Tài xế phụ và một cảnh sát nhảy xuống. Người nọ là một gã đàn ông trẻ, mặt mũi bặm trợn. Bị dựng dậy, gã nhe răng: “Thằng chủ tịch xã nó chiếm đất nhà em, nó cướp cả vợ em. Em chán đời, em muốn chết. Với lại em muốn thử tài các bác lái đầu tầu anh hùng!”. Đúng là trò lưu manh dở. Anh tài xế phụ túm cổ gã, vung quả đấm: “Tài của tao đây!”. Gã nọ lăn ra đường, giẫy đành đạch, gào: “Ôi giời ơi, nó giết tôi. Mày nôn tiềnđền ông đi không có ốm nặng với ông đấy”. Thật là chẳng còn ra kỷ cương, phép tắc gì! Thật chẳng còn ra kỷ cương, phép tắc gì. Vì từ ga Cổ Phúc tràn lên cả bọn hơn chục tên thiếu niên ngổ ngáo nhất loạt trọc đầu, áo may ô đen bỏ ngoài quần, tay xăm hình đàn bà cởi truồng. Trưởng tầu đeo xà cột đến hỏi vé thì một thằng lên tiếng, rồi cả đám nhao nhao phụ họa: “Tầu của nhà nước chứ của riêng ông à!”. Được giải thích ôn tồn thì đồng loạt giả ngây: “Nhưng mà bố em bỏ mẹ em đi với con bồ nhí của ông, không cho em tiền mua vé”. Các bà buôn đường dài chứng kiến vở bi hài kịch cười ré lên: “Thôi các anh nhà tầu mấy lỵ cảnh sát ơi! Quên cha nó thằng cùn đi”. Trưởng tầu và mấy anh cảnh sát hợp lực kéo đẩy, dồn cả bọn vào một chỗ để lát nữa tới ga gần nhất sẽ đưa xuống. Thì chúng xô họ, ùa sang toa bên, sau khi phanh ngực áo, nghiến răng: “Tao nhớ cái bản mặt chúng mày nhé. Còn gặp nhau nhiều, nghen”. Ngồi ở tầng giường trên, người trung niên ngó xuống, như nói với Điền: “Thời kỳ mạt thế là đây. Đám dân Việt này hỏng từ gốc rồi, đến Khổng Tử cũng chẳng giáo dưỡng được chúng đâu, có phải không, các vị?”.   * *          *   Ngoài trời, bóng đêm đang rã ra từng mảng. Và tình trạng hỗn độn hình như đã bớt đi. Vậy mà con tầu thi thoảng vẫn giật đùng đùng. Có lúc nó như một linh hồn bất an, chợt rít ré lên, chợt hùng hùng hổ hổ rồi sau đó lại uể oải lờ ngờ lê dịch từng vòng bánh xe, như một kẻ kiệt lực. Đèn trong khoang tầu đã tắt. Người trung niên và mấy người ở tầng giường trên sau một hồi uống trà, chơi bài đã nằm ngủ lại. Điền nằm lắng nghe tiếng bánh xe quay vòng, cố tìm thấy ở đó một tiếng nói nội tâm của chính mình. Điền rất thích sự yên tĩnh. Có lẽ vì đối với Điền, sự ồn ào là quá thừa thãi rồi. Điền cần yên tĩnh để thư giãn, để lập lại thế cân bằng giữa thân thể và trí óc. Để có được sự yên hòa giữa cái hỗn tạp, nhộn nhàng, để nhận ra cái mênh mang, thăm thẳm của đời sống tinh thần và cái bến bờ bí ẩn của cuộc đời mỗi người. Điền có cảm giác đã tìm được sự yên tĩnh và thấy mình đang ở trong cuộc phiêu du của con tầu, đang đi tới cái bến bờ xa xăm trừu tượng và rất khó hiểu nọ. Chính lúc ấy, Điền đã phải bật dậy. Ở tầng giường trên Điền, người trung niên vừa giật thột mình, chồm dậy, giọng mê hoảng như vừa qua cơn chiêm mộng. - Cái gì thế? - Tôi... tôi... Mấy người ở tầng giường trên đã thức cả, và sau câu hỏi với người trung niên, họ liền vội vàng kiểm tra mấy bọc hành lý của mình. May, không ai bị mất mát gì. - Tôi nghe thấy, ông kêu la cái gì kinh hoảng lắm? - Tôi mơ mà hình như không phải chỉ là mơ. Tôi thấy, rõ ràng là thấy như là có một con bướm. Một con bướm rất to, lọt qua cửa sổ toa tầu, vào khoang tầu này. Con bướm đậu lên mặt tôi. - Bật đèn lên xem nào! Tiếng công tắc bật khô khan tiếp ngay sau tiếng một ông già. Con tầu vọt tăng tốc trên quãng đường thẳng. Dàn bánh thép dội lên từ nền đường làn âm thanh như đá đổ. Qua môt cây cầu dài, có cảm giác con tầu đang bị hút xuống một chiều dốc thăm thẳm và mọi người như mất tri giác, cũng bị lôi theo và phó mặc. Bóng đêm đã tan loãng trong những dao động nọ. Ngoài cửa sổ đã thấy lờ mờ khung cảnh miền trung du đồi đất trập trùng, cùng những vạt mây xám nặng nề như những nỗi buồn đau vón cục không thể tiêu tan. - Tôi có bà cô chết trẻ thiêng lắm. Cứ mỗi khi tôi sắp gặp tai nạn, bà lại hiện về để báo trước. Lần thì bà hiện thành hoa, lần bà hóa thành bướm. Bà hiền lắm. Từ nhỏ đến lớn không cãi nhau với ai một lời. - Bác năm nay đã bảy mươi chưa? - Tôi già đến thế kia ư? - Xin lỗi bác. - Vừa tròn sáu chục. Nhưng tôi về hưu được năm năm rồi. Vừa rồi là lên Lao Cai thăm đơn vị cũ. Nghề coi tù mệt mỏi, chóng kiệt lực lắm. Anh tính: suốt ngày tiếp xúc với cái bẩn tưởi. Ông Các Mác chia người thành giai cấp, là căn cứ vị trí của mỗi người trong hệ thống kinh tế - chính trị. Đúng! Còn tính khí con người thì có thể chia hai bậc chính: quân tử và tiểu nhân, hiền lành và độc ác. Tôi không phủ nhận hoàn cảnh xã hội. Còn bất công thì còn nổi loạn. Nhưng, có những người tiên thiên hiền hậu, hảo tâm, thánh thiện như bà cô tôi. Lại có những kẻ vốn sinh ra đã ác độc rồi kia. Cạnh nhà tôi có một thằng bé mà từ lúc nó sáu bảy tuổi tôi đã thấy nó là đứa trẻ tàn bạo. Đồ chơi nào vào tay nó, nó cũng đập phá tan tành mới thỏa thích. Không con mèo con nào sống nổi với nó. Lớn hơn gặp dịp là nó đánh đập bè bạn không tiếc tay. Bố nó nuôi một con béc giê để giữ nhà. Mới mười bốn tuổi đầu mà nó đã nhiễm có cái thú tính tàn ác là đánh chó. Nó xích con chó lại rồi cứ cái roi da đầu có mấu quất. Chuých! Bụp! Chuých! Bụp! Trăm phát không sai phát nào! Con chó sợ rúm lại, thậm chí phát điên mà nó cứ lì ra, như không. Ngày nào không đánh con chó một trận là nó ăn không ngon. Sau này, tôi gặp nó ở xà lim tử hình. Tội nó là giết vợ, giết nhân tình. Hỏi nó, nó cứ nhơn nhơn, chẳng chút ân hận. Mặt nó cũng dị hình dị tướng lắm. Độc ác hiện ra từ cái đầu hói khi mới có ba chục tuổi. Mắt thì mắt rắn. Mũi thì khoằm khoặm. Lại rỗ nữa mới kinh! Chết! Chết! Nó thuộc loại nhân chi sơ, tính bản ác, các anh ạ.   * *          *   Vậy là ngay ở trong khoang tầu có mấy người nằm, chạy từ Lao Cai về Hà Nội đêm nay đã có ít nhất là hai người làm công việc có quan hệ hàng ngày với bọn tội phạm, với cái ác. Điền cũng là nhân viên của ngành công an nhưng khác với ông già giám thị trại tù, Điền đóng vai người trinh sát, điều tra các tội phạm hình sự tức bọn cướp của giết người, gây rối loạn trật tự xã hội và gây nguy hiểm cho đời sống người dân. Hai mươi tư tuổi, Điền tốt nghiệp khóa đào tạo đại học chuyên ngành, tới nay Điền đã già hai tuổi nghề. Câu chuyện của người giám thị Trại giam vừa rồi, khiến Điền nhớ đến vụ án giết người mà tội phạm là một kẻ vị thành niên. Đây là vụ án đầu tiên anh giữ vai đảm trách chủ yếu trong đời. Anh đã tóm được nó. Đúng thế! Nó là một thằng nhóc, nói đúng hơn là một thân xác vừa trẻ con vừa còi cọc. Nó mới mười sáu tuổi. Người nhỏ tóp, chân tay ống sậy. Mặt choắt, trán dô, mắt lỗ đáo. Thằng lỏi này gọi người lái xe Honđa ôm tên là Ngạc, hai mươi tám tuổi, bảo anh chở nó từ Gốc Riếu đi Cam Đồng. Đi được chừng tám cây số, nó rút búa đập liên tiếp vào đầu anh. Anh chết, nó hất xác anh xuống vực, lấy xe đem về Yên Bái bán lấy tiền ăn chơi. Điền hỏi. Nó kể, kể rất thản nhiên. Rằng em ngồi sau anh ấy. Đến cây số tám, đường xấu, xe bị xóc, nên đi chầm chậm. Trời lúc này đã tối. Em bảo: “Cho xe dừng lại đi, em đánh rơi dép rồi!”. Xe vừa dừng, em liền rút cái búa để sẵn ở túi áo Natô đập mấy nhát vào sọ anh ấy. Anh ấy kêu ối. Em nghĩ: chưa chết đâu. Thế là em đập mấy cái nữa cho chết hẳn! Uất tức, Điền quát và bật đứng dậy, hai con mắt như hai tia lửa điện phóng thẳng vào mặt tên hung thủ trẻ con. Nó cũng giật mình đứng dậy, sợ hãi run lẩy bẩy. Nó choắt cheo, lép kẹp một khúc xương khô, đứng chỉ đến vai anh. Chỉ cần một quả đấm của anh là nó có thể nằm liệt cả tuần. Thế mà nó lại có thể giết người! Nó cần tiền, nó vốn hư đốn, quen ăn chơi lêu lổng? Không! Không chỉ có vậy! Còn một nguyên nhân nào nữa khiến thằng ranh nổi cơn hung đồ và tợn tạo như thế? Hay nó là đứa lãnh cảm, vô hồn, vì sau khi xác định nó là thủ phạm, theo dõi nó suốt mấy hôm, anh vô cùng kinh ngạc vì thấy nó quá thản nhiên, không hề lộ ra mảy may mặc cảm, áy náy gọi là, điều mà những tên sát thủ già đời cũng khó tránh khỏi. Lúc dẫn nó đi qua mộ người lái xe ôm ở bên đường, anh hỏi nó: “Mộ ai đấy?”. Nó đáp thản nhiên: “Mộ anh lái xe Hon đa ôm đấy mà!”. “Mày có biết là anh ấy người Hải Dương, đi bộ đội về, gia đình nghèo khổ, phải đem thân lên tận miền rừng núi này làm nghề lái xe ômđể kiếm tiền nuôi vợ con không? Tại sao mày lại giết anh ấy?”. Điền đã gào thét và túm cổ áo nó giật. Nó giẫy, nó kêu: Đau quá! Mặt nó nhăn nhúm. Má nó vạc hai nét vạc sâu hoắm. Điền nhìn hai nét vạc ấy, bỗng sợ hãi, buông tay, sờ lên mép mình. Nó ngồi xuống lí nhí: Em không hiểu tại sao em lại giết anh ấy ạ. Nó đã khai thật. Vì lúc ấy, như có một linh hồn xa lạ nào đó nhập vào nó. Nó bỗng thấy người nó nổi gai xù xì rồi phồng lên to tướng và chân tay bỗng ngứa ngáy, bứt rứt, chỉ muốn đập phá giết chóc. Thế là nó rút cái búa đóng đinh buổi chiều đi làm thuê ở phòng triển lãm thị xã còn để trong túi. Giang tay Điền đã cho nó một cái tát. Nó ngã nghiêng xuống đất, tay đưa lên che má, người co rúm lại, không dám đứng dậy. Còn Điền bỗng thấy người rơn rởn như chạm phải lông sâu róm. Thằng khốn! Một hồn ma bóng quỷ đã nhập vào nó, điều khiển nó, xui khiến nó. Nó không nhận thức được nó. Nó chỉ nhận ra cái bóng chạy ở phía trước nó và lưu lại ở sau nó thôi. Nó là một thực thể chưa hoàn chỉnh, một quái trạng, một thai nhi lọt lòng chưa đủ năm đủ tháng, một thể xác lỏng lẻo hồn vía, trống rỗng và bỏ ngỏ. Nó là đứa trẻ bị đẻ non. Nó chưa hoàn thiện. Và anh lái xe Hon đa ôm buồn thay, con người là vậy đó, cuộc đời thì quá ngắn ngủi, bến đợi thì xa tắp mịt mùng mà cái chết lại rập rình ngắt đoạn bất cứ lúc nào. Mời các bạn đón đọc Bến Bờ của tác giả Ma Văn Kháng.
Quãng Đời Đánh Mất
Quãng Ðời Ðánh Mất” là quyển tiểu thuyết thứ ba của Dương Thu Hương do nhà xuất bản Hải Phòng in năm 1989, sau “Bên Kia Bờ Ảo Vọng” (1987) và “Thiên Ðường Mù” (1988) – hai tác phẩm đã đưa tên tuổi của bà lên vị trí sáng chói nhất trên văn đàn Việt Nam suốt mấy năm qua. Bộ ba tiểu thuyết này tạo thành một bức tranh hoành tráng công phu của xã hội Việt Nam ngày nay, với biết bao khung cảnh, hình ảnh, nhân vật, tình tiết…Nghệ thuật miêu tả và phê phán hiện thực sắc bén và can đảm, cùng với nỗ lực phản kháng và giải ảo trong các tác phẩm của Dương Thu Hương, đã giúp bà trở thành nhà văn được tìm đọc nhiều nhất, và nổi tiếng nhất cả trong và ngoài nước… sống cuộc đời mình một cách độc lập, can đảm đối diện và chống lại những quyền lực phi lý, nhìn cho đúng và phá vỡ những ảo tưởng xa lạ, yêu thương cuộc đời và con người chân thành…Ðó là một vài thông điệp chính mà “Quãng Ðời Ðánh Mất” gửi đến người đọc…” Nhà văn Dương Thu Hương sinh năm 1947 tại Thái Bình, cư ngụ nhiều năm tại Hà Nội, sau đó lưu trú tại Paris, Pháp. Dương Thu Hương là đảng viên Ðảng Cộng Sản Việt Nam, nhưng đã bị khai trừ ra khỏi Ðảng năm 1989, vì đấu tranh cho dân chủ, vì phê bình nhà nước. Những tác phẩm của Dương Thu Hương không được phép lưu hành tại Việt Nam, vì lý do chính trị. Bà từng bị vào tù vì viết sách, vì phê bình việc áp dụng chủ nghĩa Marx-Lenin tại Việt Nam, vì phản đối độc quyền của Ðảng Cộng Sản. Năm 1994, Bộ Trưởng Văn Hóa Pháp Jacques Toubon trao tặng nhà văn Dương Thu Hương Huân Chương Văn Hóa Nghệ Thuật Chevalier Des Arts Et Des Lettres. Năm 2008, bốn tác phẩm “Bên Kia Bờ Ảo Vọng, Những Thiên Ðường Mù, Tiểu Thuyết Vô Ðề, Chốn Vắng” của bà được đưa vào bộ sách Bouquins. Năm 2009, Giáo Sư Tiến Sĩ Joseph Pivato dạy môn Văn Chương Anh Ngữ tại Ðại Học Athabasca ở Alberta, Canada, đề cử nhà văn Dương Thu Hương vào danh sách xét duyệt Giải Nobel Văn Chương. Dương Thu Hương nhận định: “Lịch sử cận đại của người Việt Nam đã diễn ra trong khói bom và tiếng nổ của đạn pháo. Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ chia cắt đến tận lòng sâu của mỗi gia đình. Sự nhầm lẫn, sự bất khả tri không chỉ xảy ra giữa hai nền văn hoá Ðông-Tây mà còn xảy ra ngay giữa lòng dân tộc Việt, giữa các thành viên trong một gia đình, một giòng họ, giữa miền Bắc và miền Nam, giữa bên thắng cuộc và bên thua cuộc, giữa người trong nước và những người sống ngoài biên giới. Tóm lại, những người Việt cũng bị chia cách bởi những con sông. Những con sông thiếu vắng những cây cầu. Khoảng cách giữa người với người có thể còn dài rộng hơn sông, sâu hơn vực thẳm, thế nên, dù trên địa hạt văn chương, tôi coi Albert Camus cao hơn hẳn Jean Paul Sartre, tôi vẫn phải công nhận câu nói nổi tiếng của Sartre là một nghiệm sinh có tính nhân loại, “Tha nhân là địa ngục của ta.” [“Sức Mạnh Của Chủ Nghĩa Ngu Dân.”] “Quãng Ðời Ðánh Mất” của hai nhân vật Trọng và Bích để lại âm hưởng vi diệu trong lòng độc giả: “…Khi con người đã quen sống kiếp mù lòa, ai vạch ra sự ngu dốt tối tăm trong kiếp sống của họ sẽ bị họ coi là quỷ dữ, vì điều đó chứng tỏ cái hèn kém của bản thân họ, và đặt ra những lời thách đố nguy hiểm. Mà chắc chắn họ không đủ khả năng vượt qua…Tình yêu cũng cần lòng can đảm. Giữa bao nhiêu dục vọng của đời sống phải chọn lấy một thứ, phải dập tắt mọi đám cháy để nuôi dưỡng duy nhất ngọn lửa của riêng mình. Tình yêu, hơn mọi thứ tình cảm khác, cần lòng hy sinh và sự trung thực…” (trích) *** Mặt trời mù sau lớp mây bạc, nhưng vòm trời và mặt đất trắng ánh lên. Các đồi cây đan tiêu hớn hở nô giỡn trước gió, ném vào không trung ngọn lửa cuồng nhiệt và thất thường của những vòm lá đỏ như đồng. Trên con lộ chạy vắt qua những trái đồi ngoại ô, chợt xuất hiện một cỗ xe thổ mộ. Nó tiến thẳng vào thành phố, tiếng vó ngựa và tiếng lục lạc mỗi lúc mỗi rõ dần. Lão già Ngạn dỏng tai nghe. Rồi từ trong bếp, hấp tấp lao ra sân, đưa mắt dõi theo, cỗ xe ngựa vượt qua tòa biệt thự trắng, xưa là nhà nghỉ của quan công sứ Pháp, nay lũ trẻ đọc sách và chơi đu quay. Rồi cỗ xe lăn qua khuôn viên, khu trường phổ thông, nhà trẻ... Vượt qua hai cánh cổng để ngỏ của lão, nó đi hút về cuối phố. Lão già bất giác thở dài, đôi vai như còng xuống. Từ mảnh sân bên kia, phân cắt bởi hàng đỗ leo, một ông già cao lớn bước sang. Đưa mắt nhìn khuôn mặt ủ ê của lão Ngạn, ông cất tiếng: - Thôi đi, đừng mất công vô ích. Về được, nó khắc về. - Nhưng tôi nóng ruột... Lão Ngạn đáp, vẻ hằn học không che đậy: Ông có con đâu mà ông biết xót?... Ông già hàng xóm không mảy may phật ý, đáp: - Tôi không có con nhưng trên đời này chẳng riêng ông được quyền làm cha. Không người cha nào xử sự như ông cả...Nhưng thôi, đừng cãi cọ nhau buổi sớm. Pha ấm trà đi. Nói xong, ông kéo ghế ngồi, đôi chân bắt chéo lại. Lão Ngạn súc ấm, bỏ trà pha nước mới. Vừa làm, lão vừa nghĩ: Lúc nào hắn cũng đàng hoàng, mạnh mẽ hơn ta. Dù ngồi ở xó rừng hay ngồi trên ghế của người khác...Trông kìa, dường như chính hắn mới là chủ nhân ngôi nhà này, bộ bàn ghế mây đáng tiền này, cả bình trà bằng sứ đời Thanh này nữa. Đến con trai ta cũng thuộc về hắn. Nó tin hắn như dân đạo tin Chúa Jesu. Cái thằng khốn... Ông già láng giềng vẫn ngồi yên lặng, mắt đăm đăm nhìn dãy đồi đan tiêu nơi chân trời. Tóc ông dày và đen, lưng thẳng. Lão Ngạn đặt bình trà xuống bàn: - Được rồi đây. Ông già rót nước: - Ông uống luôn cho nóng. Lão Ngạn gật đầu: - Phải...Nhưng tôi vào bếp đã. Chặn lại cái thớt kẻo sổng mấy con cua. Chúng nó cạo nồi cả đêm, không ngủ được. Lão vào bếp vì không muốn người láng giềng đọc được ý nghĩ của mình. Thực tình, lão căm ghét ông Hai đến mức thầm ước rằng bỗng dưng có cơn gió độc thổi tới, ông Hai trúng phong ngã lăn quay trên mảnh sân này, lão sẽ hả hê bao nhiêu. Trong chiếc nồi đồng lớn, lũ cua biển giương những đôi mắt lồi tí xíu nhìn lão. Móng cua sắc cạo xào xạo nghe rợn tai. Bất chợt, lão già đập chiếc thớt gỗ lên miệng nồi: - Lũ khốn, trưa nay ta đem luộc ráo. Lão quay ra sân. Ông già Hai đã uống xong chén trà, khoan thai bước về mảnh sân bên kia. Lão Ngạn nhìn theo, nghẹn cổ. Trưa hôm ấy, lão luộc cả mớ cua biển. Một mình, ăn mãi tới nửa đêm mới hết. Dù uống nửa lít rượu, lão vẫn bị đau bụng. Từ hai giờ rưỡi đêm, lão chạy đi chạy lại từ nhà trên xuống chuồng tiêu như con thoi. Lũ nhặng đêm kêu như ong trong không, gian hôi thối. Lão đành uống năm viên rửa có á phiện. Rồi sau đó, khoảng bốn giờ sáng, lão ngủ thiếp đi cho tới non trưa ngày hôm sau. Giữa đám sương bồng bềnh, lãng đãng những vệt nắng vàng. Lão già nghe tiếng xe lăn ngoài phố. Lần này, xe dừng lại trước cổng. Đứa con trai bước xuống, nện gót giày trên sân: - Chào ba, con đã về. Nó giơ cao chiếc mũ dạ xanh thẫm, đính mỏ neo vàng. Mắt lão hoa lên. Lão ngắm nghía bộ đồng phục bó sát tấm thân trai trẻ của nó, nước mắt rớt xuống má... - Thình thình...thình...Thình thình... - Ba ơi i i... Hai cánh cửa rung bần bật. Và giọng một người đàn bà: - Chú Hai, ba cháu ốm à? - Không rõ. Đêm qua tao thấy ông ấy chong đèn tới ba giờ sáng. - Mọi ngày ông cụ tỉnh ngủ lắm, ho khẽ đã trở dậy rồi. - Có thể ngủ mệt không nghe được. - Cháu phá cửa đây. - Hãy gọi thêm lát nữa xem sao?... Tiếng gọi cất lên: - Ba ơi, ba ơi i i... Lão Ngạn rùng mình. Không phải tiếng nói của thằng Cường, đứa con trai lão chờ đợi. Giọng của một người đàn bà, như từ cõi âm vọng tới. Lão già cố mở mắt, nhìn thấy cánh tay xanh nhợt của mình vắt trên ngực. Lão cố định thần, lắng nghe tiếng gọi: - Ba ơi... Lão Ngạn thầm kêu: - Con Bích. Rồi chống tay ngồi lên, lão lê từng bước ra mở cửa. Bàn tay lão lạnh ngắt, run run đặt trên quả đấm sứ: - Tao đây. Cánh cửa bật mở. Cô con gái kêu: - Ba làm sao vậy? Thay vì trả lời con, lão Ngạn quay sang người hàng xóm: - Tôi bị tháo dạ, vì lũ cua biển hôm qua. Ông Hai hỏi: - Ông có cần thuốc không? - Không. Giờ cầm rồi. - Có cần gì thì gọi tôi. Người láng giềng quay đi. Lão Ngạn lần về giường nằm, chút nữa bật tiếng rên thất vọng: - Mình mong thằng bé. Lại hóa ra con trời đánh này. Mời các bạn đón đọc Quãng Đời Đánh Mất của tác giả Dương Thu Hương.