Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ám Ảnh Đen

Ba giờ sáng, khi những ồn ào của thành phố khép lại, những con phố bao trùm bởi bóng tối. Đó cũng là thời điểm thích hợp nhất cho những chuyến “săn đêm". Ám ảnh đen mở ra bằng một màn quảng cáo giật gân: một nữ ca sĩ dắt báo đen đi diễu phố. Nhưng rồi con vật ấy vùng chạy và mất hút trong lòng Ciudad Real, một thành phố Nam Mỹ rộng lớn. Chẳng bao lâu sau, người ta phát hiện ra thi thể một cô gái trẻ bị xé xác, rồi một cô gái khác… Cả thành phố chìm trong sợ hãi. Nỗi ám ảnh đen rình rập đâu đó trong các ngõ ngách và bụi rậm, với bước chân êm như nhung và móng vuốt sắc tựa dao cạo, sẵn sàng vồ lấy những nạn nhân xấu số. Trong khi cảnh sát mải mê tìm kiếm con báo “cuồng mồi” nguy hiểm kia, một người đã quyết định đào bới sâu hơn - truy lùng một sinh vật còn khủng khiếp hơn bất cứ loài dã thú nào…Một kế hoạch “đi săn” mới được vạch ra… *** Review Quynh Anh Thi Dang (Điền Yên) -------------------------- Lúc nhận được sách, tôi nghe nói nó giống Dolocher. Tôi hơi chờn chờn vì tôi xem Dolocher mãi không hết. Một ngày nắng như đổ lửa nọ, tôi mở Ám ảnh đen ra coi cho đời bớt chói. Và thế là bị hút vào luôn. Mở đầu giới thiệu hoàn cảnh không có gì lắm: một nữ diễn viên muốn chơi trội bằng cách dắt báo đi chơi. Ngờ đâu con báo lồng lên rồi chạy mất hút. Sau đó, liên tiếp các vụ án mạng khủng khiếp xảy ra. Nạn nhân đều là các cô gái trẻ, vì lý do gì đó, ở ngoài đường vào ban đêm vắng vẻ. Thảm trạng của nạn nhân rất kinh khủng: đều bị móng vuốt xé xác tơi tả nhưng không bị ăn thịt. Tràn ngập truyện là bóng tối - kẻ bất khả chiến bại, cứ 24 giờ một lần, đánh bại mọi đối thủ. Tác giả mô tả quá hay. Ví dụ như lúc Teresa đi trong hầm tối, bị bủa vây bởi nỗi sợ hãi, cô bé muốn chạy nhưng chân tay bủn rủn, chỉ còn cách chờ cái chết đến. Tôi nhớ đến những giấc mơ của tôi. Rất nhiều lần, tôi nằm mơ thấy mình rơi vào hiểm cảnh, lẽ ra tôi phải chạy thục mạng nhưng toàn thân tôi đơ cứng, không sao cử động nổi. Tim tôi đập thình thịch. Có lúc tôi còn nghĩ trong giấc mơ rằng Adrenalin quái quỉ gì, nghe nói sẽ khiến con người làm được những việc phi thường cơ mà, tại sao mình lại không chạy được? Và khi cái chết trùm bóng đen lên tôi thì tôi choàng tỉnh vì quá sợ hãi. Tôi chưa bao giờ chết trong mơ. Tiếp đến vụ Conchita. Chất điện ảnh của Ám ảnh đen hay kinh khủng. Những chi tiết đủ nhỏ để người đọc tự vẽ trong đầu cảnh tượng của truyện, cũng đủ uớc lệ để cảnh tượng đó của mỗi người sẽ khác nhau, tuỳ vào nỗi sợ hại của họ. Cùng một sự vật đó, dưới ngòi bút của tác giả, nó hiện lên khác hẳn bình thường, mà lại giống với cảnh phim kinh dị nào đó ta đã từng xem qua. Cô gái cuối cùng, trời, tôi muốn yêu cô ấy vì lòng can đảm tuyệt vời. Tôi là người đọc mà còn thấy hồi hộp đến mức mồ hôi lạnh ướt cả tay, thế mà cô ấy lại có thể chế ngự được nỗi sợ hãi, diễn vai mồi nhử từ đầu đến cuối không hề sai sót. Cái kết khá bất ngờ. Ngay từ đầu tôi đã không nghĩ là con báo vì nó sổng khi bị rọ mõm. Nó không bị giết thì cũng chết đói, sức đâu đi vồ người rồi bỏ đi. Nhưng tôi không nghĩ ra cái kết của tác giả. Cái bìa nhìn cũng hay đấy, nhưng không giống mô tả trong truyện, hoặc ít nhất là không giống tưởng tượng của tôi về hoàn cảnh trong truyện. Được cái lần này, tôi không nhớ mình có gặp lỗi chính tả nào không :))) Chấm điểm: 8.25/10 *** Cornell Woolrich (1903-1968) là một trong những nhà văn “trinh thám đen” vĩ đại nhất thế kỷ XX. Ông để lại một kho tàng đồ sộ gần 200 truyện ngắn hình sự. Nhưng tiểu thuyết trinh thám mới là lĩnh vực ông để lại dấu ấn lớn hơn cả. Truyện của Woolrich không có một hình mẫu thám tử cố định, nhưng vẫn cuốn hút độc giả bởi hình ảnh những con người bình dị phải vùng vẫy thoát khỏi định mệnh nghiệt ngã bủa vây. Văn phong tinh tế, tình tiết đầy ám ảnh, kết thúc bất ngờ, tất cả đã tạo cho Woolrich một phong cách rất riêng. Ông được mệnh danh là “Poe của thế kỷ XX”. Cornell Woolrich cũng là một trong những nhà văn trinh thám có nhiều tác phẩm được dựng phim nhất: gần 60 lần chuyển thể lên màn ảnh rộng, trong đó có ba bộ phim gần chạm ngưỡng kinh điển là Phantom Lady, The Window và No Man of Her Own. Đạo diễn danh tiếng Alfred Hitchcock đặc biệt ưu ái khi chọn đến 5 truyện ngắn của ông để chuyển thể, nổi tiếng nhất là Rear Window. *** Trong khi người người dạo phố thì cô ngồi bên cửa sổ, đắn đo giữa một chùm nho pha lê và một bông dành dành tươi, không biết nên gài món đồ nào lên vai áo. Đúng lúc ấy, có tiếng ai đó gõ lên cánh cửa căn phòng nằm đối diện phòng lễ tân. Cho dù chọn món đồ nào, cô cũng biết nó sẽ trở thành một trào lưu lan khắp thành phố. Hàng trăm cô gái trẻ sẽ đua nhau đeo nho pha lê hoặc hoa dành dành tươi những tuần sau đó. Khó mà tin nổi mới mấy năm trước, chẳng ai quan tâm cô gắn thứ gì lên vai. Thật ra thì chẳng ai đoái hoài đến cô chút nào. Hồi ấy, cô vẫn còn đi đôi giày bệt mòn vẹt và liên tục bị mấy hàng ăn ven đường xoàng xĩnh tại Detroit cho thôi việc. Còn giờ đây… Cô không thể ngừng quay đầu lại để ngắm nó ngoài cửa sổ. Đó là minh chứng, là biểu tượng cho thấy cô quan trọng nhường nào, cho dù địa vị này có ngắn ngủi đến đâu. Chính cái hình bóng ngoài kia. CASINO HẠNG SANG KIKI WALKER en la gran revista de arte “TRIC-TRAC” Biển quảng cáo ấn tượng nhất thành phố nổi trên nền trời xanh cobalt của buổi chiều muộn. Trong buổi diễn mở màn tuần sau, khi dòng điện truyền vào, đến cả những người sống ở đầu kia quận Alameda cũng sẽ thấy được tên cô trên màn đêm. Đã có nhãn hiệu nước hoa và sơn móng tay đặt theo tên cô rồi, tất nhiên họ phải trả tiền mới được lãnh vinh dự ấy, và cả thức uống mới nhất tại quán bar Inglaterra sang trọng nữa, cocktail Kiki Walker (đầu đỏ rực và thấu tận óc, theo như cách giải thích của người pha rượu). Suốt mùa đông vừa rồi (từ tháng Sáu đến tháng Chín), cô đi diễu như nữ chúa khắp thành phố lớn thứ ba miền Nam kênh đào Panama này, với xe hơi và tài xế riêng, người hầu riêng và phòng khách sạn hạng sang. Đối với một cô gái đàn ca mua vui cho mấy quán xá Detroit bỗng vụt tỏa sáng thành một ngôi sao sau một tour diễn rong, điều đó không tệ. Không tệ chút nào. Cô vẫn chưa hiểu lắm là nhờ đâu mà mình được như thế này. Một chút tài năng nhảy múa, một xíu tài nghệ ca hát và cực kỳ nhiều may mắn đã hỗ trợ cô. Chủ yếu là cô đã vô tình ở đúng nơi, đúng lúc và không có đối thủ cạnh tranh. Hồi làm tại Detroit, bài hát của cô bị coi là rẻ tiền, nhưng tại đây thì chẳng ai hiểu ca từ nên thành ra chúng nghe có vẻ sâu sắc. Hồi ở Detroit, mái tóc đỏ của cô xuất hiện nhan nhản khắp nơi, nhưng ở đây nó lại trở thành mặt hàng hiếm. Và cô cũng phải thừa nhận rằng có khả năng, khả năng nhỏ thôi, là Manning cùng mấy cái trò điên rồ của anh ta đã góp phần be bé trong việc thu hút sự chú ý của công chúng về phía cô. Kiki không muốn nhớ về cuộc gặp đầu tiên của họ. Khi ấy Manning ngồi tại một quán cà phê ven đường, râu ria chưa cạo và cổ áo thì dơ dáy; còn cô thì tạt qua quán xem họ có cần tuyển thu ngân, hay thậm chí bồi bàn không. Anh ta mời cô một tách cà phê, bởi vì vẫn còn đủ tiền mua thêm một tách; còn cô trông có vẻ đang cần đến cà phê. Nửa tiếng sau, lúc cả hai rời bàn đứng lên, anh ta đã trở thành đại diện truyền thông của cô. Hai tuần sau, Kiki có công việc đầu tiên và Manning có một cái cổ áo sạch. Mình đã giúp anh ta thành danh, cô hay ngắt quãng dòng hồi tưởng khó chịu kia ở đoạn này. Chuyện anh ta góp phần tạo nên thành công của cô nghe thật không tưởng, chẳng đáng nghĩ đến dù chỉ một giây. Bất kể ai đã giúp ai thành danh, chỉ có điều này là chắc chắn: Giờ cả thành phố đang phát điên lên vì cô. Tiếng gõ cửa lại vang lên. “Maria, chắc là Senor Manning đấy,” cô gọi chị người hầu. “Cho ông ấy vào đi.” Cô nghe tiếng then kéo được mở ra, nhưng thay vì câu chào khe khẽ quen thuộc, chị hầu gái lại rú lên chí mạng. Có tiếng bước chân chạy rầm rập, tiếng ghế đổ cái rầm, như thể ai đó vừa ngã lăn ra. Kiki vội xoay người trên băng ghế, tò mò đứng dậy. Trước khi cô kịp làm gì khác, nó đã lộ diện. Cảnh tượng đáng kinh ngạc đến độ tâm trí dứt khoát không tin nổi vào hình ảnh mà cặp mắt thu được, ngay cả khi nó đang lồ lộ trước mặt. Một cái đầu áp sát mặt đất, bấy giờ đang chui qua cửa, tiến về phía cô. Trong khoảnh khắc hoảng loạn đầu tiên, cô chỉ có thể nhận ra đây là đầu của một con vật họ mèo. Mấy từ báo đốm, báo hoa nối đuôi nhau lướt qua bộ óc đờ đẫn vì sốc của cô. Bộ lông đen thẫm, cặp tai nhọn ép phẳng, mõm gí sát thảm, con vật bước đến rất nhanh, tấm thân thuôn dài gợn sóng một cách uyển chuyển. Cô chỉ nhịn được đến lúc ấy trước khi la hét thất thanh, hòa cùng tiếng hét của chị hầu gái. Cô quay lại và nhảy vọt lên bàn trang điểm với sự nhanh nhẹn đầy bản năng của một vũ công. Nước hoa, phấn hộp và đồ trang trí rơi tứ tung xuống khắp sàn nhà, một hộp nhạc nhỏ lập tức ngân nga ngay khi chạm đất. Cô đứng tít trên đó múa may loạn xạ, tóm lấy phần váy gần đùi và vung vẩy nó lia lịa để xua đuổi nỗi kinh hoàng kia. Chỉ đến khi ấy, cô mới để ý cái rọ mõm siết chặt bộ hàm con vật cùng sợi dây buộc đang căng ra, và cả gương mặt đậm chất Trung Tây quen thuộc của Jerry Manning đang nhòm cô từ phía sau. Tiếng la hét trở nên tròn vành rõ chữ hơn, nhưng không giảm âm lượng chút nào. Chắn giữa họ là cái thân mình duyên dáng, uyển chuyển, uốn éo chẳng khác nào loài bò sát của con vật. Bấy giờ nó đang kéo căng dây buộc, bụng áp sát sàn, các thớ cơ vai mạnh mẽ nổi gồ lên dưới lớp lông đen mượt mà, đuôi giật liên hồi, chân tìm cách vồ lấy cái hộp nhạc đang phát ra một giai điệu trong trẻo như tiếng sáo. “Lôi nó ra khỏi đây!” Kiki rú rít như đang ngân quãng tám. “Manning, anh mắc chứng quái gở gì thế, sao lại mang cái thứ đó vào trong này?” “Nó sẽ không làm hại cô đâu,” Manning tìm cách giải thích, đẩy cái mũ cối lên qua vầng trán. “Chẳng việc gì phải sợ cả. Ban nãy, chính tôi đã ngồi cùng nó trong xe chở nông sản suốt chặng đường đến đây. Con báo đã được thuần hóa hoàn toàn. Nó vốn được một tay sống ở ngoại ô nuôi dưỡng từ khi còn bé tí mà.” “Rồi, thế anh mang nó đến chỗ tôi làm gì?” Ít nhất cô cũng đã ngừng la hét. “Tôi tin là trong lúc thực hiện chuyến ngao du hàng ngày quanh khu Alameda, sẽ là ý hay nếu cô dắt theo con vật này.” “Dắt theo cái thứ đó ấy hả? Không bao giờ! Còn lâu tôi mới đi cùng nó ra cửa, chứ đừng nói là ngồi cùng một xe với nó rong ruổi khắp Alameda! Giờ nghe cho rõ đây, Manning, tôi bắt đầu thấy mệt mỏi với sóng não nhà anh…” Anh ta tranh thủ đưa một tay lên châm điếu thuốc. “Hãy nghĩ thử mà xem, cô sẽ gây dậy sóng cỡ nào? Chỉ cần bước xuống khỏi xe với con báo bên cạnh, ghé vào quán Globo nhấm nháp vài hớp Martini trong mấy phút thôi. Chuyện ấy có gì khó khăn nhỉ? Tôi đã cài cắm nhiếp ảnh gia khắp quán để chụp cảnh cô dắt theo nó rồi. Tôi có thể giúp cô độc chiếm toàn bộ trang đôi của tờ Grafico Chủ nhật tới này, lão Herrera đã bật đèn xanh. Nguyên hai trang ảnh in ống đồng xanh, chỉ dành riêng cho cô. Nhìn này, tôi còn kiếm cho cô cả một cây roi vàng để mang cho đủ bộ.” “Anh tử tế với tôi quá!” Cô giận dỗi nói. “Chuyện này chỉ tốt cho cô, chứ không phải cho tôi,” anh ta dỗ ngon dỗ ngọt. “Tuần tới cô diễn mở màn rồi. Dân Mỹ Latin thích các siêu sao trông phải thật khác biệt. Cô muốn tour diễn thành công vang dội phải không?” “Tôi muốn tham gia biểu diễn, chứ không phải nằm băng bó đầy người trong một bệnh viện nào đó,” cô nói. “Mọi thứ đã chuẩn bị xong xuôi hết rồi, giờ tôi còn cần chiêu trò làm gì nữa? Nếu là lúc mới bắt đầu sự nghiệp thì lại khác.” “Chẳng bao giờ cô xong xuôi trong cái ngành này được đâu. Thôi nào, Kick, chịu chơi đi. Xem này, nhìn tôi một tí nhé.” Con vật đang nằm ườn một bên, lười nhác liếm láp bên chân. Anh ta cúi xuống, gập ngón trỏ lại và nhẹ nhàng vuốt lớp lông mượt dưới bụng nó mấy lần. Nó lập tức lật ngửa lên theo đúng kiểu bọn mèo nhà, bốn chân giơ trên không, khẽ khàng tìm cách gạt ngón tay anh ta ra. “Cô không thể kiếm được con báo nào thuần hơn con này đâu. Cứ thử dắt nó xem. Chỉ cần thử thôi, xem cảm giác thế nào.” Anh ta vươn ra và chộp lấy bàn tay hãy còn ngại ngần của cô, luồn vòng dây buộc qua mấy ngón tay. Kiki vẫn đứng im trên bàn, trong lòng đã bắt đầu xuôi xuôi, dù không biểu hiện đồng tình ra mặt. Váy cô đã được thả xuống như cũ. Anh ta buông tay, sợi dây dắt nằm hoàn toàn trong lòng bàn tay cô. “Tôi sẽ ngồi trong một cái taxi ngay đằng sau và theo sát cô suốt cả chặng đường.” Riêng việc này thì cô kiên quyết rắn mặt, “Ồ không, anh sẽ không làm vậy. Hoặc anh đi cùng xe với tôi và ngồi trên ghế trước, hoặc là tôi sẽ ở lì trong này không thèm ló mặt ra đường.” Anh ta để dành lập luận hiệu nghiệm nhất của mình vào phút chót. Bằng kinh nghiệm bản thân, Manning biết chắc nó sẽ thuyết phục được cô ngay lập tức. Anh chàng này quả là một nhà tâm lý học ranh mãnh. “Cô nhìn mà xem, con báo hợp với bộ đồ cô đang mặc chưa kìa! Cô phải tận mắt thấy mình với nó hợp thành một bộ đôi ấn tượng ra sao! Xuống dưới này một phút thôi, Kick, đứng cạnh nó và nhìn vào gương đi! Đến cả hai vị nữ hoàng Zenobia và Cleopatra cũng không thể sánh được bằng cô!” Anh ta giơ tay lên đỡ cô xuống. Có vẻ đòn tấn công đã phát huy tác dụng. Tiếp tục liếc con báo đầy ngờ vực, Kiki dè dặt chúc mũi chân xuống, chuẩn bị đặt chân lên sàn một lần nữa. “Chết tiệt,” cuối cùng cô thốt ra, chút bỗ bã từ những tháng ngày lăn lộn ở Detroit tái trỗi dậy, “tôi thật đúng là biết hi sinh vì nghệ thuật!”   Mời các bạn đón đọc Ám Ảnh Đen của tác giả Cornell Woolrich.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lửa Hoang - Nelson DeMille
Chào mừng đến với Câu lạc bộ đồi Custer -  Câu lạc bộ của những người đàn ông nằm trong một khu vực sang trọng dành cho những người đi săn. Thành viên của câu lạc bộ này có những lãnh đạo doanh nghiệp quyền lực nhất nước Mỹ, những lãnh đạo của giới quân sự, những quan chức chính phủ. Bề ngoài đây là nơi để xả hơi cùng bạn bè cũ. Song một ngày cuối tuần, Ban lãnh đạo câu lạc bộ nhóm họp để bàn về sự kiện 11-9, và cuối cùng đã vạch ra một kế hoạch trả đũa mang mật danh: Lửa hoang. Cuốn sách được đánh giá là “hay đến nỗi không thể đặt xuống một khi đã bắt đầu đọc”. Tác phẩm khắc hoạ hình ảnh cựu thám tử của Cục cảnh sát New York tham gia vào một âm mưu của lực lượng cánh tả nước Mỹ muốn tấn công 2 thành phố của Mỹ. Cuốn tiểu thuyết trinh thám này được nhà văn hư cấu dựa trên tin đồn được đăng trên mạng internet. ... Khủng khiếp hơn những chủ đề hôm qua và những dự đoán cho ngày mai, Lửa hoang sẽ thách thức bạn với câu hỏi về tất cả mọi thứ mà bạn nghĩ mình biết về những thế lực lãnh đạo thế giới, trong khi vẫn kích thích bạn bằng sự hồi hộp được dựng lên trên mỗi trang sách. Nelson DeMille là một trong những tác giả nổi tiếng và có lượng sách bán chạy nhất nước Mỹ, với hơn 30 triệu bản bán ra trên thế giới. Là một cựu binh Mỹ ở Việt Nam, ông đã cho ra đời 10 cuốn tiểu thuyết nổi tiếng bao gồm: Plum Island, The General Daughter, Night Fall... Bắt đầu từ tháng 10 năm 2002, cuốn tiểu thuyết trinh thám thứ tư mang tên “Lửa hoang” của nhà văn ăn khách này đã ra mắt bạn đọc. ** Khi sự thực và hư cấu hoà trộn trong tiểu thuyết, không phải lúc nào độc giả cũng nhận biết đâu là thực, đâu là hư cấu. Những người đọc bản thảo “Lửa Hoang" đã hỏi tôi đâu là chuyện thật, đâu là sản phẩm của trí tưởng tượng, do đó tôi sẽ đề cập vấn đề này ở đây. Thứ nhất, Lực lượng chống khủng bố liên bang (ATTF) trong cuốn sách này được xây dựng chủ yếu dựa trên Lực lượng phối hợp chống khủng bố (JTTF) có thật; việc khai thác một số thông tin đã được cho phép. Cụ thể, trong cuốn sách này, có rất nhiều thông tin về ELF (viết tắt của một thứ mà khi đọc sách các bạn sẽ biết). Tất cả những thông tin về ELF đều chính xác, trong phạm vi hiểu biết của tôi. Còn về kế hoạch bí mật của chính phủ mang mật danh ”Lửa Hoang" nó dựa trên một số thông tin mà tôi tình cờ thu lượm được, hầu hết trên mạng, có thể coi như tin đồn, sự thật, tưởng tượng hoàn toàn hay đại loại như vậy. Cá nhân tôi tin rằng có tồn tại một kế hoạch tương tự “Lửa Hoang", với mật danh khác. Những nội dung khác trong cuốn sách này mà nhiều người đã hỏi tôi như NEST, Xương Bánh Chè hay các tên khác đều có thật. Nếu những điều bạn đọc có vẻ như thật, có lẽ nó có thật. Thực ra thì sự thật còn lạ lùng hơn những điều tưởng tượng, và lại thường đáng sợ hơn. Còn một câu hỏi được nhắc tới nhiều nhất mà tôi quên mất là “BearBanger có thật không?” Có. Thời gian diễn ra câu chuyện này là tháng 10 năm 2002, 1 năm 1 tháng sau sự kiện 11-9-2001; những câu chuyện và tít của tờ Thời báo New York đều thật. Tương tự, bất kỳ sự đề cập nào về các thủ tục an ninh của chính phủ hay việc thiếu các quy trình này cũng đều thật ở thời điểm tôi nghĩ ra câu chuyện. Một vài độc giả làm việc trong lĩnh vực thực thi pháp luật nghĩ rằng thám tử John Corey sẽ gặp khó khăn trong phạm vi quyền hạn của mình. Tôi thừa nhận đã “cho” nhân vật tự do hơn để câu chuyện hay. Một John Corey tuân theo các luật lệ thông thường và hành động theo sách vở không phải là hình ảnh của một người anh hùng chúng ta muốn thấy. Những người đọc bản thảo “Lửa Hoang" nói rằng sau khi đã bỏ sách xuống, họ thao thức rất lâu. Nó thật là một cuốn sách đáng sợ cho những thời kỳ đáng sợ; nhưng nó cũng là lời cảnh báo cho một thế giới hậu 11-9. *** Tôi là John Corey, cựu thám tử điều tra án mạng thuộc NYPD. Tôi bị thương trong khi thi hành nhiệm vụ, nghỉ hưu với mức thương tật 75% (con số này khai chỉ để lĩnh tiền thôi chứ 98% cơ thể của tôi vẫn hoạt động bình thường); hiện tại làm đặc vụ hợp đồng đặc biệt cho Lực lượng chống khủng bố liên bang. Anh bạn Harry Muller ở phòng đối diện hỏi tôi: — Cậu đã bao giờ nghe thấy Câu lạc bộ đồi Custer chưa? — Chưa, nhưng sao? — Cuối tuần này tớ sẽ đến đó. — Vui vẻ nhé! — Đó là một lũ điên theo cánh hữu sở hữu khu vực săn bắn nằm ở vùng nông thôn của bang. — Đừng có mang về cho tôi con thú nào nhé, cũng đừng mang về chim chết. Tôi đứng dậy và bước về quầy lấy cà phê. Trên tường phía trên các bình cà phê là danh sách truy nã của Bộ Tư pháp. Chiếm phần lớn danh sách này là đàn ông theo đạo Hồi, trong Đó có trùm khủng bố Osama Bin Laden. Trong danh sách gần hai chục tên tội phạm còn có một cái tên người Libya - Asad Khalil mang biệt danh “Sư tử”. Tôi chẳng cần phải động não ghi nhớ hình ảnh của hắn bởi dù chưa một lần giáp mặt, tôi thuộc mặt hắn như gương mặt của chính mình. Tôi biết về Khalil cách đây khoảng hai năm, khi tôi săn đuổi hắn, nhưng cuối cùng thì hắn cũng đang săn đuổi tôi. Hắn trốn thoát còn tôi cũng thoát chết với một vết thương nhẹ. Như người Ảrập thường nói: “Định mệnh buộc chúng ta gặp lại nhau để quyết định số phận của mình”. Tôi mong chờ ngày đó. Tôi đổ chỗ cà phê còn lại vào một chiếc cốc và lướt qua tờ Thời báo New York nằm trên quầy. Tít của tờ báo hôm nay, thứ sáu ngày 11 tháng 10 năm 2002 chạy một dòng: “Quốc hội cho phép Bush sử dụng vũ lực đối với Iraq, tạo quyền ủy thác rất lớn". Bên dưới là tiêu đề: “Theo thông tin từ các quan chức, Mỹ có kế hoạch chiếm đóng Iraq". Dường như cuộc chiến là một kết cục được báo trước, chiến thắng cũng vậy. Vì thế nên có một kế hoạch chiếm đóng. Tôi tự hỏi liệu có ai ở Iraq biết về điều này không. Tôi mang cà phê về bàn và bật máy tính, đọc một lượt những bản ghi nhớ. Chúng tôi làm việc trong một tổ chức hầu như không dùng đến giấy, tôi thực sự nhớ việc lập những bản ghi nhớ; tôi muốn viết tắt tên mình vào chiếc máy tính bằng một chiếc bút đầu, song cuối cùng lại dùng tới bút điện tử. Nếu tôi là lãnh đạo tổ chức này, tất cả các bản ghi nhớ sẽ viết bằng bút điện tử. Tôi liếc đồng hồ, đã 4 giờ 30 phút chiều và các đồng nghiệp của tôi ở tầng 26 toà nhà liên bang số 26 đang rời công sở rất nhanh. Cũng như tôi, các đồng nghiệp của tôi là thành viên của Lực lượng chống khủng bố liên bang - ATTF, một cơ quan viết tắt bang 4 chữ cái nằm trong vô vàn tổ chức viết tắt bằng 3 chữ cái. Đây là thế giới hậu sự kiện 11-9 nên về lý thuyết đối với ai thì cuối tuần cũng là hai ngày làm việc thêm. Trên thực tế, truyền thống nghỉ việc sớm vào ngày thứ sáu vẫn không thay đổi nhiều. Vì vậy NYPD, vốn là một bộ phận của ATTF và đã quen với những thời điếm đầy rắc rối, cung cấp người cho pháo đài này vào dịp cuối tuần và những ngày nghỉ. Harry Muller hỏi tôi: — Cuối tuần này cậu làm gì? Bắt đầu kỳ nghỉ cuối tuần dài ba ngày nhân kỷ niệm Ngày Columbus, thế nhưng thật đen đủi là theo lịch tôi phải làm việc vào thứ hai. Tôi trả lời: — Tớ định tham gia buổi diễu hành vào Ngày Columbus nhưng lại phải đi làm vào thứ hai. — Thế à? Cậu định tham gia diễu hành hả? — Không, nhưng tớ đã nói với đại uý Paresi thế. Tôi nói thêm: Tôi bảo mẹ tôi là người Italia, tôi sẽ đẩy xe lăn cho bà ấy trong buổi diễu hành. ... Mời các bạn đón đọc Lửa Hoang của tác giả Nelson DeMille.
Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm - Erle Stanley Gardner
NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN (Xuất hiện theo thứ tự thời gian) DELLA STREET - Nữ thư ký thân tín nhất và bạn đồng minh tín nhiệm nhất của Perry Mason. PERRY MASON - Luật sư đại hình xuất sắc, trong truyện này bị một khách hàng bí mật làm cho ông có cảm tưởng mình như “một cậu bé với một trò chơi mới.” ELLEN CALVERT (tức Adair) - Đường hoàng, xinh đẹp, và lạnh lùng, tìm đến Mason để cố chạy trốn quá khứ. JARMEN DAYTON - Một thám tử tư được phái đến từ miền Trung Tây nước Mỹ để tìm tung tích Ellen Calvert nhưng lại "không thể che được chỗ phòng lên do khẩu súng giấu bên dưới cánh tay trái". PAUL DRAKE - Bạn thân của Mason và là giám đốc Hãng Trình thám Drake, chuyên cung cấp các dịch vụ “theo giá biểu.” JESSIE ALVA - Một nữ thám tử khôn khéo của Paul Drake, chỉ phạm mỗi một sai lầm là "mở cửa căn hộ ra". STEPHEN L. GARLAND là một «nhân viên giao tế” nhưng thật ra là một chuyên gia gỡ rối siêu đẳng mà Mason nghĩ là một con người sòng phẳng và quá khôn khéo. DUNCAN L. LOVETT - - Một luật sư ở miền Trung - Tây cũng đi tìm Ellen Calvert, phạm sai lầm vì đã đánh giá thấp Perry Mason. MAXINE EDFIELD - Một người bạn cũ của Ellen Calvert, không được cuộc đời ưu đãi và hy vọng được đến bù bằng một chuyến đi đến Los Angeles.         AGNES BURLINGTON - Nữ y tá chuyên đi tống tiền và cuối cùng đã mất mạng. TRUNG ÚY TRAGG - Thuộc Ban Điều tra Án mạng - Vị sĩ quan cảnh sát bình thường rất cẩn thận nhưng lại bỏ qua một chi tiết quan trọng trong cuộc điều tra án mạng này. WIGHT BAIRD - Con trai của Ellen Calvert, khá đẹp trai, có cuộc sống hơi phóng đãng, nhưng có lẽ còn tệ hại hơn thế. CHÁNH ÁN DEAN ELWELL - Vị chánh án khá sáng suốt, quyết tâm tìm ra sự thật trong một vụ án mạng, đưa phiên tòa tới hiện trường của tội ác. STANLEY CLEVELAND DILLON - ủy viên công tố, nổi danh là một người khoác cho nhiều bị cáo bản án tử hình. BÁC SĨ LELAND CLINTON - Vị bác sĩ đã thực hiện cuộc nghiệm thi, một nhân chứng đúng đắn và nghiêm túc một cách quá đáng. CÔ DONNA FINDLEY - Nữ thu ngân ở một siêu thị, vẫn còn nhớ rõ một cuộc chuyện trò đúng lúc với Agnes Burlington. *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [Perry Mason #78 - The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) *** DELLA STREET, thư ký riêng của Perry Mason, trả lời điện thoại, nói vắn tắt với cô nữ tiếp tân, rồi quay sang Perry Mason. - Có một người đàn bà hiện ở trong văn phòng phía ngoài chỉ cho biết tên là Ellen Adair. Bà ta bảo bà ta biết đây là một sự đòi hỏi quá đáng khi cố tìm cách gặp ông mà không hẹn trước, nhưng bà ta sẵn sàng trả ông mọi chi phí thích đáng. Bà ta cần phải gặp ông ngay bây giờ về một vấn đề hết sức khẩn cấp, và bà ta rất bối rối. Mason liếc mắt lên chiếc đồng hồ đeo tay và các thứ giấy tờ ông đang giải quyết. Della Street xem lại sổ ghi các cuộc hẹn, nói với vẻ đầy hy vọng: - Ông còn được hai mươi tám phút mới tới cuộc hẹn kế tiếp. - Tôi muốn có thời giờ suy nghĩ kỹ vấn đề pháp lý này – Ông nhún vai tiếp: - Thôi được, tôi nghĩ ta cần chăm sóc các chuyện khẩn cấp. Cô hãy ra xem, Della, cố đánh giá qua bà ta. Cô hãy tìm hiểu bà ta cần gặp tôi về chuyện gì. Della gật đầu, nói vào máy điện thoại: - Chị hãy nói với bà ta tôi sẽ ra ngay, Gertie. Della Street rời văn phòng và trở vào trong vòng hai phút. - Sao  ? - Mason hỏi. - Tôi đành chịu không biết gì nhiều về bà ta, - Della Street nói. - Bà ta là một người đàn bà cao lớn dưới bốn mươi tuổi. Y phục đơn giản, khiêm tốn, và đắt tiền. Tác phong như một bà hoàng theo kiểu một người đã quen ra lệnh. Bà ta cao hơn tôi khoảng bảy tám phân và có hình dáng khá đẹp. - Thế bà ta muốn gặp tôi về chuyện gì  ? - Mason hỏi. - Bà ta muốn hỏi ông một số vấn đề về pháp luật, - Della đáp. - Bà ta bảo các vấn đề sẽ có tính chất hoàn toàn lý thuyết và khách quan. Mason thở dài. - Lại thêm một trường hợp khách hàng cố tìm cách ẩn mình phía sau một tấm chắn nặc danh. Bà ta sẽ bước vào và nói: “Giả sử A kết hôn với B và B thừa kế tài sản của mẹ anh ta ở New Mexico. Giả sử A và B đang xin ly dị. Phải chăng A có thể được hưởng một nửa tài sản  ?” Ồ, Della, tôi thừa biết toàn bộ câu chuyện vô nghĩa đó  ! Della đưa ra một tờ giấy bạc năm mươi đô la. - Bà ta đã ứng trước năm mươi đô la. Mason do dự một lát rồi bảo: - Cô hãy trả lại cho bà ta. Nói với bà ta rằng tôi sẽ nói chuyện vắn tắt với bà ta: nếu tôi quyết định trả lời các câu hỏi của bà ta, tôi sẽ tính chi phí phải chăng, còn nếu tôi không thể đồng ý việc bà ta chơi trò lật úp bài trên bàn, thì tốt hơn hết bà ta nên đi tìm một luật sư khác. - Bà ta bảo không có thời giờ đi tìm một luật sư khác, bà ta chỉ muốn gặp ông và công việc này cần được tiến hành ngay tức khắc. - Tôi hiểu, - Mason nói. - Bà ta muốn hỏi tôi một số vấn đề luật pháp lý thuyết để rồi phát đơn kiện. Thôi được rồi, Della, bà ta là một con người, bà ta đang lâm vào một tình thế rối ren nào đó, vậy ta hãy thử tìm hiểu xem đó là cái gì. Cô hãy đưa bà ta vào đi. Della Street gật đầu rời khỏi văn phòng và trở lại trong vòng mấy giây sau với một người đàn bà đứng thẳng băng, ngẩng cao đầu, chìa cái cằm ra theo một điệu bộ hống hách. Bà ta cúi chào Mason, rồi nói: - Ông Mason, tôi xin cám ơn ông đã bằng lòng tiếp tôi. ... Mời các bạn đón đọc Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm - Erle Stanley Gardner.
Bản Đồng Ca Chết Người - James Hadley Chase
James Hadley Chase là bút danh của tác giả người Anh – Rene Brabazon Raymond (24/12/1906 – 6/2/1985), người cũng đã viết dưới tên James L. Docherty, Ambrose Grant và Raymond Marshall. Ông được sinh ra ở Luân Đôn, là con của một đại tá người Anh phục vụ trong quân đội thuộc địa Ấn Độ, người dự định cho con trai mình có một sự nghiệp khoa học, bước đầu đã cho học tại trường học Hoàng gia, Rochester, Kent và sau đó học ở Calcutta. Ông rời gia đình ở tuổi 18 và làm nhiều công việc khác nhau, một nhà môi giới trong nhà sách, nhân viên bán sách bách khoa toàn thư của trẻ em, người bán sách sỉ trước tập trung vào sự nghiệp viết lách, đã sản xuất hơn 80 cuốn sách bí ẩn. Năm 1933, ông đã cưới Chase Sylvia Ray và có một con trai. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, với khoảng 90 tiểu thuyết, hầu như câu chuyện nào của James Hadley Chase cũng có một nhân vật chính muốn làm giàu nhanh bằng cách phạm tội ác - lừa gạt, cướp bóc hay ăn trộm. Nhưng kế hoạch của họ luôn thất bại, phải giết người để gỡ bí, và càng bí thêm. *** Các tác phẩm của James H. Chase đã được xuất bản tại Việt Nam: Cái Chết Từ Trên Trời Cả Thế Gian Trong Túi Ôi Đàn Bà Cạm Bẫy Gã Hippi Trên Đường (Frank Terrell #5) Thằng Khùng Cạm Bẫy Bản Đồng Ca Chết Người (Frank Terrell #1) Tỉa Dần Hứng Trọn 12 Viên Đam Mê và Thu Hận Tệ Đến Thế Là Cùng Mười Hai Người Hoa và Một Cô Gái Buổi Hẹn Cuối Cùng Trở Về Từ Cõi Chết Không Nơi Ẩn Nấp Đồng Tiền và Cạm Bẫy Lại Thêm Một Cú Đấm Đặt Nàng Lên Tấm Thảm Hoa Cành Lan Trong Gió Bão Những Xác Chết Chiếc Áo Khoác Ghê Tởm Món Quà Bí Ẩn Âm Mưu Hoàn Hảo Cướp Sòng Bạc Cạm Bẫy Dành Cho Johnny Những Xác Chết Câm Lặng Em Không Thể Sống Cô Đơn Thà Anh Sống Cô Đơn Buổi Hẹn Cuối Cùng Mùi Vàng Phu Nhân Tỉ Phú Giêm Tình Nhân Gã Vệ Sĩ Dấu Vết Kẻ Sát Nhân Trong Bàn Tay Mafia Này Cô Em Vòng Tay Ác Quỷ Thiên Đường của Vũ Nữ Châu Dã Tràng Xe Cát .... *** ắt nhắm, gáy đặt vào cái dựa đầu bằng men bóng loáng, Valérie Burnett tận hưởng những giây phút thư giãn trong bồn tắm. Nơi cửa sổ hé mở vọng vào những tiếng thì thầm từ tầng trệt. Valérie thích thú lắng nghe. Nàng cũng đánh giá cao cái khách sạn ở Spanish Bay này: thật danh bất hư truyền. Nàng cho rằng nó là khách sạn tốt nhất mà nàng đã đến ở. Nàng mở mắt ngắm nghía thân hình thon thả với đường nét tuyệt vời của mình, đôi đồi trọc hào phóng cùng với làn da trắng ở đùi non tương phản với màu rạm nắng bên ngoài của nàng. Họ mới chỉ ở Spanish Bay được một tuần, nhưng dưới những tia sáng tốt lành của mặt trời nóng bỏng, da nàng bắt nắng rất nhanh. Bằng bàn tay ướt, nàng với chiếc đồng hồ vàng và bạch kim mà Chris đã tặng nàng ngày cưới. Đã mười hai giờ kém hai mươi, nàng đủ thời gian mặc quần áo trước khi xuống thềm ngoài của khách sạn để uống một ly rượu Martini. Lúc nàng để đồng hồ trên bàn phòng tắm thì điện thoại reo. Nàng lau tay rồi nhấc ống nghe. - New York muốn liên lạc. - Cô điện thoại viên thông báo. - Bà muốn nghe chứ, thưa bà Burnett? Chỉ có cha nàng mới biết vợ chồng nàng đang ở khách sạn này. Đúng ông ấy! Val tự nhủ. - Được rồi để tôi nghe. - Nàng vừa trả lời vừa hơi chau mày vì lo lắng và bực bội. Nàng đã xin cha để cho hai đứa yên thân. Ông đã chấp nhận lời yêu cầu ấy trong một tuần. Vậy mà ông phone tới thì có nghĩa là gì? Nàng đã không viết thư mà lẽ ra nàng phải viết vì nàng biết cha quan tâm lo lắng cho mình biết chừng nào. Nàng nghe giọng cha ở đầu dây bên kia, ông có một giọng nam trầm khá ấn tượng. - Val! Con đấy à? - Vâng! Xin chào ba. Thật tốt khi... - Val! Tại sao con không cho ba biết tin tức? - Con xin lỗi. Ba biết đấy. Trời tuyệt dẹp. Con biết lẽ ra con phải... - Không quan trọng. Chris có khỏe không? - Ồ! Anh ấy vẫn khỏe. Chúng con có nói về ba tối qua và anh... - Nó sao rồi? Nghe này, Val, năm phút nữa ba phải họp rồi. Đừng mất thì giờ. Nó có thật sự khỏe không? - Nhưng thưa ba, - nàng tức mình phản đối, - con xin nhắc lại... anh ấy vẫn bình thường. - Ba cho rằng con đã sai lầm khi đến ở một mình với nó trong khách sạn này. Nó đang bị bệnh, Val, cho ba biết nó có còn chứng giật giật ở khóe miệng không? Val nhắm mắt lại. Nước trong bồn tắm bất ngờ trở nên rất lạnh. ... Mời các bạn đón đọc Bản Đồng Ca Chết Người của tác giả James Hadley Chase.
Tháng Tám Không Vua - Kiutzo Kobayasi
Phóng viên Iximôri trên đường đi công tác từ Fukuoka về Tokyo. Tại ga Hacata anh đọc báo và biết tấm vé tàu của mình mua qua hệ thống bán vé tự động đã bị bán nhầm, nghĩa là có một người khác cũng mua tấm vé với chỗ ngồi của anh. Nhưng vì nghĩ lên tàu sẽ có nhân viên tàu sắp xếp nên anh bỏ qua, không đổi lại. Cùng lúc đó, anh có cảm giác mình bị theo dõi, và sau đó là 2 nhân vật bặm trợn tiếp cận anh để đòi mua lại vé. Cảm thấy có gì bất ổn, anh nhất định không nhượng lại. Anh không biết rằng, tấm vé định mệnh ấy đã đưa anh gặp lại người yêu cũ trên cùng chuyến tàu, đồng thời rơi vào một âm mưu đảo chính tồi tệ của Lực lượng phòng vệ... *** Trong biển sương mù dày đặc, hoàn toàn không thể trông thấy gì cả. Sinh ra không biết ở đâu, từng đám hơi nước nặng nề và xám xịt như những đợt sóng đập vào tấm kính chắn gió, chảy tụ thành từng dòng và chậm chạp tan dọc theo hai bên thành xe. Một sự chuyển động đơn điệu, tẻ ngắt... Đèn pha chiếu không xa hơn một mét đường, những luồng ánh sáng vấp phải bức tường dày của bóng tối, phản chiếu lại rồi tan biến đi trong sương mù. Tầm nhìn xa gần như bằng không. Nếu như đây không phải là xe hơi, mà là máy bay, chắc từ lâu đã phải chuyển sang bay bằng thiết bị thăm dò tự động. Còn về tốc độ thì không cần phải nói. Thậm chí chỉ với hai mươi cây số một giờ, cũng không thể bảo đảm an toàn được. “Đã lâu không có sương mù như thế này...” - Mitiô Ximauti, cảnh sát trưởng khu Trung tâm của quận Aômôri, nhìn qua tấm kính chắn gió của chiếc xe tuần tra và nghĩ thầm. Chốc chốc, trong ánh đèn pha, những chiếc xe hơi ngược chiều, giống như những cái bóng đột ngột xuất hiện và chạy vụt ngang qua. Sự đột ngột đó làm cho Ximauti lo lắng. Hơi nhổm người lên, anh quay sang phía viên cảnh sát trẻ tuổi Muracami đang ngồi sau tay lái ở bên cạnh: - Hay là ta giảm bớt tốc độ đi ? - Để làm gì ? - Muracami hỏi lại. - Đi thế này cũng đã chậm lắm rồi. Không hơn hai mươi kilômét giờ. - Ừ, thôi được, - Ximauti lẩm bẩm và ngồi lại cho thoải mái hơn. Chỉ còn một quãng nữa là đến chỗ rẽ từ quốc lộ số Bốn vào thành phố. Anh nhìn đồng hồ. Đã quá nửa đêm. “Hừ, tìm ra được tên giết người trong sương mù thế này thật không phải dễ, - Ximauti nghĩ. - Có lẽ, bóng tối đã giúp tên tội phạm đi lọt qua các bót kiểm soát của cảnh sát”. Từ một nơi nào đó trong đáy sâu của ý thức chợt hiện lên những đặc điểm của tên tội phạm đã được thông báo cho tất cả các đồn, trạm cảnh sát. Gần hai mươi lăm tuổi. Cao một mét bảy mươi, gầy. Áo khoác màu sáng. Tóc dài. Qua hình dáng bên ngoài có thể đoán được là làm ở quán bar hay khách sạn. Một vụ trấn lột tắcxi bình thường. Vào hồi hai mươi ba giờ, một viên cảnh sát, trong khi đi tuần quanh khu vực của mình trên phố Hasucamati, thấy bên vệ đường, cạnh công viên, một chiếc xe tắcxi đứng tại chỗ nhưng đèn hiệu trên nóc nhấp nháy liên hồi. Khi viên cảnh sát đi đến, một thanh niên từ trong xe nhảy bổ ra, bỏ chạy. Viên cảnh sát đuổi theo, nhưng chỉ thoáng sau tên kia đã mất hút. Lái xe tắcxi, một người đàn ông đứng tuổi, nằm trên ghế, cổ bị thắt bằng sợi dây thừng nilông, đã tắt thở. Tiền thu được trong ngày cũng đã biến mất. Trực ban ra lệnh báo động, các trạm kiểm soát lập tức được đặt khắp mọi ngả đường thành phố. Mười phút sau sự kiện xảy ra, hai chục chiếc xe tuần tra phóng vào màn đêm dày đặc sương mù để truy tìm thủ phạm. -  Chúng ta loanh quanh đã gần hai tiếng đồng hồ rồi đấy. - Không hiểu sao, Ximauti cứ có linh cảm rằng cuộc truy lùng sẽ thất bại. Hình ảnh tưởng tượng của tên giết người bị truy lùng bỗng đột nhiên nhòa mờ đi; thay vào đó, khuôn mặt vợ và đứa con trai của anh hiện ra, mỗi lúc một rõ nét hơn. Mới hôm qua con anh vừa chẵn hai tuổi - cái tuổi tuyệt diệu nhất của đứa trẻ. Bây giờ có lẽ nó đang ngủ. Và Ximauti hình dung ra khuôn mặt say sưa của con anh đang áp vào bộ ngực trần của mẹ nó. Anh lắc mạnh đầu, cho tay vào túi lấy thuốc. Bao thuốc rỗng không. -  Này, Muracami, cho xin điếu thuốc. Tớ hết mất rồi. -  Chờ một tí. - Muracami rời tay khỏi cần lái và hơi nghiêng người, rút bao thuốc từ trong túi đưa cho Ximauti. Đúng vào khoảnh khắc đó, Ximauti trông thấy trước mặt mình hiện lên một bóng đen khổng lồ. Khối thép lớn, từ trong màn sương bay vụt ra, chắn ngang đường của họ. -  Cẩn thận !  - Nhưng tiếng phanh đã rít lên, trước cả khi Ximauti kịp mở miệng kêu. Trong luồng ánh sáng của hai ngọn đèn pha, một khối đen lao tới, như sắp đè cả sức nặng đáng sợ của nó lên chiếc xe tuần tra cảnh sát. Ximauti nghe ớn lạnh toàn thân. Ngay bên cạnh, một luồng ánh sáng chói chang quét vụt qua. Và liền đó, tiếng rú của động cơ đập vào tai. -  Qua rồi !  Chỉ cần một phần mấy giây nữa là... - Cùng với cảm giác nhẹ nhõm, một đợt máu nóng dồn lên mặt Ximauti. Quay đầu lại, anh chỉ kịp nhận ra thùng xe của một chiếc ô tô vận tải rất lớn. Với tiếng gầm nhức óc, nó phóng vụt qua và biến mất trong màn sương tối. -  Đuổi theo !  - Ximauti đập tay lên vai Muracami, ra lệnh. - Nhanh lên ! -  Có ngay !  - Sau một giây lúng túng, viên cảnh sát trẻ đáp. Cuộc chạm trán với chiếc xe tải điên rồ kia đã làm cho anh mất bình tĩnh. -  Nhanh lên !  - Ximauti quát. Bây giờ tất cả mọi nghi ngờ của anh đều tập trung vào chiếc xe khổng lồ vừa chạy lướt qua. Điều này gần như là một linh cảm được sinh ra bởi kinh nghiệm của mười năm làm nghề điều tra. -  Đồ mất dạy !  - Cuối cùng Muracami đã bình tĩnh lại. Anh mở máy, quay gấp tay lái và phóng xe vụt đi. Ximauti chẳng còn nhận ra đồng đội của mình nữa. Nét mặt Muracami - anh đang dồn hết sức dấn ga - biểu lộ một sự tập trung căng thẳng. Tiếng còi rú dài. Cứ mỗi lần trên đường xuất hiện và lớn vụt lên ánh đèn pha của những chiếc xe ngược chiều, Ximauti cảm thấy mồ hôi trên tay mình rịn ra vì sợ hãi. - Chiếc xe kì quái, - Muracami căng mắt nhìn về phía trước, lẩm bẩm. - Hình như chột mắt. “Một đèn pha trước bị vỡ”, - Ximauti giải mã trong đầu lời của Muracami. Chiếc xe tải nặng với một bên đèn pha bị vỡ phóng trong đêm sương mù dày đặc với tốc độ mà họa chăng chỉ những kẻ điên mới dám. Không thể xác định được chính xác, nhưng chắc phải đến bảy-tám mươi kilômét một giờ. Phóng xuyên qua đêm tối, không chọn đường. Một thằng muốn tự tử ngồi sau tay lái chắc ? “Không biết nó vội đi đâu thế nhỉ ? - Ximauti lẩm bẩm, cố nhìn cho được một cái gì đó trong bóng tối. - Đến Môriôca, Xendai hay Tôkiô ?” Đột nhiên ngay trước mũi Ximauti hiện ra thành sau của chiếc xe tải. Trong lần gặp gỡ thứ nhất, Ximauti bị bất ngờ đến nỗi ngoài khối vỏ thép, anh không kịp nhìn ra gì hết. Bây giờ anh mới thấy rõ chiếc thùng xe vận tải có mui rất lớn màu bạc trắng. Ô tô kéo moóc mười tấn bịt kín. Muracami mở còi hết công suất, ra lệnh cho người lái chiếc xe tải phải dừng lại. Nhưng nó vẫn cứ tăng thêm tốc độ, rõ ràng là muốn tìm cách tẩu. - Nó đang cố chạy trốn, - Muracami nói giọng khàn khàn và lại nhấn mạnh thêm chân ga. -  Đuổi nhanh lên !  - Ximauti nghiến chặt hai hàm răng. Ý nghĩ về sự nguy hiểm của cuộc đuổi bắt trong đêm sương mù không còn làm anh sợ nữa. Đuổi kịp !  Đuổi kịp bọn chạy trốn !  Cái máu say mê săn đuổi đã hoàn toàn xâm chiếm Ximauti, nó lây sang cả Muracami đang ngồi bên cạnh, sau tay lái. Động cơ rú mạnh, chiếc xe rung lên trước luồng không khí ngược chiều. Thậm chí cả sương mù cũng bắt đầu loãng ra, để lộ dải sơn trắng giữa tâm đường. Chiếc xe tải phía trước chạy ngoằn ngoèo, từ bên này sang bên kia trên toàn bộ nửa bề mặt rộng của con đường, cố tìm cách chặn không cho những người đuổi theo vượt lên. Đúng là tiết mục của dân Tôkiô. Muracami chúi người về phía trước chờ thời điểm thuận lợi. Cần phải biết chắc rằng phía trước không có xe ngược chiều, và lúc đó có thể vòng sang phía bên kia tâm đường, phóng vượt qua chiếc ô tô vận tải. Nhưng để nhận ra những chiếc xe ngược chiều trong bóng tối dày đặc này đâu phải dễ, nhất là khi phía trước lại còn cả một cỗ xe khổng lồ hết lượn sang phải lại sang trái để tìm cách chặn đường. -  Hừ, cứ đợi đấy, - Muracami khẽ lẩm bẩm và đột ngột đánh quặt tay lái sang phải. Ximauti bị hất đổ nghiêng sang một bên, dải sơn trắng giữa lòng đường như treo trong không khí ở phía trên con đường. Tiếng bánh xe cọ lên mặt nhựa kêu rít, mùi cao su cháy xộc vào mũi. Khi Ximauti lấy lại được thăng bằng, phía bên phải anh hiện lên một bức tường trắng bạc. Chiếc xe của họ đang chạy song song với cỗ xe vận tải. Ximauti có cảm giác như đã qua rất nhiều thời gian, nhưng thực ra tất cả chỉ mới có năm - sáu giây đồng hồ. Chiếc xe tuần tra dồn hết sức lao như tên bắn về phía trước. Bức tường màu trắng bạc nằm lại sau và bắt đầu lùi nhanh ra xa. Sau khi vượt được cỗ xe vận tải, chiếc xe cảnh sát quay trở về bên trái của đường, chạy thêm một quãng rồi bắt đầu phanh lại. Ximauti nhảy vụt xuống đường - chiếc xe ô tô vận tải đang lao tới như một con voi điên có thể đè nát xe của họ như đè một vỏ trứng mỏng manh. Muracami cũng nhảy theo ra. Đường của chiếc xe tải đã bị chặn. Và nó, dường như đành chịu thuần phục, dần dần giảm tốc độ và dừng lại, thanh chắn trước thiếu tý nữa thì đâm vào chiếc xe cảnh sát. Ximauti chạy bổ tới bên cabin chiếc xe tải. Anh đã nổi điên đến mức sẵn sàng bắn chết lái xe. Cần phải biết điều khi nói chuyện với cảnh sát chứ ! Viên cảnh sát trưởng leo lên bậc lên xuống và nhìn vào cabin. Sau tay lái là một thanh niên còn trẻ. Tóc cắt ngắn - theo mốt mới bây giờ, trông hơi là lạ. Qua tấm cửa kính của cabin, Ximauti bắt gặp ánh mắt nhìn sắc nhọn và thù địch. Người ngồi bên cạnh lái xe có vẻ già hơn nhiều. Tóc cũng cắt ngắn, cái nhìn cũng như thế - lạnh lùng và sắc nhọn. Muracami leo lên đứng bên cạnh Ximauti, lấy tay gõ vào kính. Chiếc cửa sổ nhỏ hé mở ra. -  Bằng lái của anh đâu ? - Ximauti ra lệnh. Lái xe lấy bằng lái từ trong túi ra và đưa cho Ximauti, đôi mắt cảnh giác theo dõi từng cử chỉ của hai viên cảnh sát. “Chẳng lẽ bọn này giấu tên giết người lái xe tắcxi hay sao ?” - Ximauti vừa xem xét kĩ lưỡng bằng lái vừa căng thẳng nghĩ. Tên: Côiti Tatzima, thành phố Murôman, phố Vanixi, số... Anh nhìn ảnh, rồi nhìn lái xe. Vừa giống vừa không giống... Nỗi nghi ngờ càng tăng thêm. Cần phải xem xét xe kĩ lưỡng. -  Các anh chở gì ? - Ximauti hỏi. -  Máy móc... về nhà máy, ở Tôkiô, - lái xe ấp úng đáp. -  Để rồi xem !  - Không trả lại bằng, Ximauti ra hiệu bảo người lái ra khỏi cabin. Mặt lái xe lập tức sầm lại. Anh ta quay sang phía người nhiều tuổi hơn ngồi bên cạnh - từ lúc đầu tới giờ người này chưa hề thốt lên một lời nào - và nhận được một tín hiệu gì đó bằng mắt. Lái xe ngoan ngoãn mở cửa cabin. Hai viên cảnh sát nhảy xuống đường. Lái xe cũng bước xuống, để cánh cửa cabin hé mở. Và lúc đó Ximauti, đang chuẩn bị nhổm vào thùng xe, chợt trông thấy một vật mà anh không thể nào ngờ tới - đó là nòng súng đen ngòm đang chĩa thẳng vào anh từ phía trong cánh cửa không đóng kín. Ngay trong khoảnh khắc ấy, lái xe xô mạnh hai viên cảnh sát rồi nhảy lên cabin. Bị bất ngờ, Ximauti và Muracami bắn ra giữa đường. Theo bản năng, Ximauti liếc nhìn về phía cabin. Nòng súng trường !  Ximauti không thể nào hiểu được cái người già hơn kia đang làm gì. Một ánh lửa lóe lên đầu nòng súng. Một tiếng kêu ngắn đập mạnh vào mang tai. Thân người Muracami nhảy dựng lên, ngã vật xuống đất. Mấy giọt chất lỏng ấm dính bắn vào mặt Ximauti. Chúng đã bắn chết Muracami ! Chỉ vừa mới nhận thức ra điều đó, Ximauti đã trông thấy nòng súng trường quay sang chĩa vào anh. Ánh thép lạnh lấp lánh. Và bộ mặt lầm lì của người đang ngắm bắn. Ximauti vụt nhảy tránh sang một bên và bỏ chạy, người cúi rạp xuống sát đất. Ở một nơi nào đó, dường như xa lắm, vang lên tiếng nổ khô khốc, giống như tiếng roi quất mạnh. Và có một cái gì đó đánh vào thắt lưng anh. Ximauti cảm thấy hơi lạnh của thần chết làm cứng đờ cả người mình. Anh không thể bước đi thêm bước nào nữa. Một cơn đau co giật lan truyền khắp thân thể. Quằn quại vì đau đớn khủng khiếp, anh đổ vật xuống mặt đất. Tất cả nhòa đi trước mắt. Thấp thoáng bóng tên lái xe nhảy vội vào cabin. Tiếng động cơ rú lên. Chiếc ô tô vận tải rời chỗ. Cần phải báo động !  Ý nghĩ đó khoan sâu vào ý thức đã bắt đầu tắt của viên cảnh sát. Nhưng thân thể anh không còn tuân lệnh nữa. Phải hết sức vất vả, đau đớn, anh mới trở mình nằm úp lại được. Ximauti đưa mắt nhìn theo cỗ xe đang chìm dần trong màn sương mù, cố đoán ra hướng đi của nó. Chiếc ô tô vận tải vòng qua xe kiểm tra của cảnh sát, đi chệch sang phía phải của vạch tâm đường. Vừa lúc đó, một chiếc xe tải khác đi ngược chiều phóng tới. Một ngọn lửa khổng lồ lao vụt lên trời, xé tan màn sương dày đặc. Khối hàng chở trên chiếc ô tô vận tải thứ nhất đã bốc nổ. - Cháy !  - Ximauti thì thào, anh không còn nghe thấy những tiếng nổ nữa. "Chúng mang gì thế nhỉ ?” - Ximauti vật vã cố sức hiểu, nhưng một màn đen đã trùm lên đôi mắt anh. Bằng sự cố gắng cuối cùng của ý chí, Ximauti ngẩng đầu lên nhìn. Ý thức của anh đang run rẩy trên điểm cuối cùng của sự sống. Và anh bỗng cảm thấy như có một trận mưa vũ khí đang rơi xuống quãng đường nhựa - đó là những thứ chở trong thùng xe bị bắn lên không: súng cacbin, súng máy M.1, súng phóng lựu M79. - Một sự điên rồ thế nào ấy !  - Ximauti rên rỉ. Sương mù trên quốc lô số Bốn lại bắt đầu trở nên dày đặc.  ... Mời các bạn đón đọc Tháng Tám Không Vua của tác giả Kiutzo Kobayasi.