Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Và Chúa Đã Tạo Ra Đàn Bà

"Và Chúa đã tạo ra đàn bà, nhưng quỷ dữ đã tạo nên B.B." – đó là câu quảng bá quen thuộc về bộ phim năm 1956 của đạo diễn Roger Vadim. Điện ảnh đã tạo ra hiện tượng nhục cảm khiêu khích với B.B – Brigitte Bardot – như biểu tượng của thế hệ "Làn sóng Mới" những năm hậu chiến ở châu Âu. B.B đã trở thành liều thuốc độc ngọt ngào hạ gục mọi trái tim đàn ông thế giới. Câu chuyện không thể đặc trưng hơn cho một thế hệ nổi loạn bằng vẻ tự nhiên tươi mát đến choáng váng, chống lại những luân lý và định kiến bảo thủ của một xã hội cũ kỹ. Câu chuyện kể về Juliette Hardy, một cô gái mồ côi khao khát tình yêu, nhưng vấp phải những rào cản định kiến xã hội và những người đàn ông không mấy thực tâm đối xử tốt với cô. Nhưng chính sự hoang dại tự nhiên của cô làm tất thảy không yên ổn với sự đạo đức giả của họ. Như một bài ca lãng mạn không chút bi ai xoa dịu những chấn thương tâm lý, câu chuyện thể hiện truyền thống ái tình hoan lạc rất Pháp. Người ta đã so sánh Bardot với nàng tiên cá cất tiếng hát bằng ánh mắt và diễn xuất tự nhiên trời phú. Giai điệu mà đạo diễn Vadim tạo nên qua Bardot đã định cư trong đầu óc thời đại, bài ca đã dụ được đám kiểm duyệt thời đó va vào những thành vách ẩn sau sương mù và đập vỡ vĩnh viễn cái vỏ nghiêm cẩn của điện ảnh tránh né tình dục. Bộ phim gây nên tranh cãi liệu có phải chính sự đơn giản của cốt truyện lại là đất để cho Vadim khai thác được vẻ đẹp diễn như không diễn của B.B. Sự tinh quái của nhà làm phim nằm ở chỗ không nhọc công biện giải cho vấn đề đạo đức, trưng ra một cô gái đẹp làm sững sờ tất thảy – vốn chẳng xa lạ gì trong kho tàng nghệ thuật nước Pháp, nhưng khác với Victor Hugo cho Esmeralda bị tử hình trong câu chuyện thời Trung cổ thì Juliette Hardy đã được tôn vinh ngầm qua những góc quay đầy khoái cảm của Vadim. Với lối kể hấp dẫn, người đọc vẫn có thể cảm nhận được sức nóng của câu chuyện trên từng câu chữ và những hình ảnh đẹp về B.B in kèm trong cuốn sách. *** Simone Colette là bút danh của Sidonie-Gabrielle Colette - nữ tiểu thuyết gia người Pháp (28.1.1873 – 3.8.1954). Bà nổi tiếng về quyển tiểu thuyết Gigi, mà Alan Jay Lerner và Frederick Loewe đã dựa vào để viết cuốn phim và nhạc kịch mang cùng tên Colette là con gái của viên sĩ quan nghỉ hưu Jules-Joseph Colette và vợ là Adèle Eugénie Sidonie "Sido" Colette (nhũ danh Landoy). Colette sinh tại Saint-Sauveur-en-Puisaye, Yonne, vùng Bourgogne-Franche-Comté của Pháp. Bà học dương cầm từ khi còn nhỏ và đậu bằng tiểu học với điểm cao về môn toán và chính tả. Năm 1906, Colette bỏ ông chồng Gauthier-Villars không chung thủy, tới sống chung với nhà văn nữ người Mỹ Natalie Clifford Barney. Hai người có mối quan hệ tình ái ngắn, và họ giữ tình bạn suốt đời. Colette vào làm việc ở các phòng nhạc Paris, dưới sự bảo trợ của nữ hầu tước Mathilde de Morny, biệt danh Missy, hai người có một mối quan hệ đồng tính lãng mạn. Năm 1907, Colette và Morny cùng diễn xuất trong một vở kịch câm tựa đề Rêve d'Égypte (Giấc mộng Ai Cập) ở Moulin Rouge. Nụ hôn trên sân khấu của họ gần như gây ra một cuộc náo loạn, đến nỗi người ta phải gọi cảnh sát tới để lập lại trật tự. Do vụ bê bối này, buổi trình diễn tiếp theo của vở Rêve d'Égypte đã bị cấm, và họ đã không có thể sống chung với nhau một cách công khai, mặc dù mối quan hệ của họ vẫn tiếp tục trong 5 năm.[9] Trong thời gian này, Colette cũng có quan hệ tình dục khác giới Bà là viện sĩ của Viện hàn lâm Hoàng gia Bỉ về Ngôn ngữ và Văn học Pháp (1935) Nữ thành viên thứ nhì của Hội văn học Goncourt (1945) Chủ tịch Hội văn học Goncourt (1949) Bắc Đẩu Bội tinh hạng Chevalier (1920) Bắc Đẩu Bội tinh hạng Grand Officier (1953) Bà là người phụ nữ đầu tiên được cử hành lễ quốc táng ở Pháp và được mai táng ở Nghĩa trang Père-Lachaise, Paris - mặc dù bị từ chối các lễ nghi Công giáo do đã ly dị - vì đã có công che giấu các người bạn Do Thái và chồng mình trên tầng gác xép sát mái nhà trong thời Đức Quốc xã chiếm đóng Pháp. Nữ ca sĩ kiêm người viết ca khúc Rosanne Cash đã viết ca khúc "The Summer I Read Colette" trong album 10 Song Demo (1996) của mình để tỏ lòng ngưỡng mộ bà. Truman Capote đã viết truyện ngắn "The White Rose" (1970) về bà. Năm 2012, la Monnaie de Paris đã phát hành đồng tiền kim loại 10 euro bằng bạc có hình Colette. Trung tâm nghiên cứu Colette của Pháp có nhiều đề tài liên quan tới cuộc đời của Colette. Tiến sĩ Jane Gilmour đã viết quyển Colette’s France: Her Lives, Her Loves (Hardie Grant Books), nói về cuộc đời của Colette xuyên suốt các nơi mà bà đã từng sống Trường Trung học cơ sở Colette là ngôi trường ở quận 3, thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, có bề dày thành tích trong việc dạy và học không chỉ của quận mà còn của thành phố. *** Và Chúa đã tạo ra đàn bà (tên tiếng Pháp: Et Dieu... créa la femme, 1956) không phải là phim đầu tiên Brigitte Bardot đóng nhưng được xem như cỗ máy đưa Bardot trở thành biểu tượng điện ảnh và văn hóa thế giới. Bardot, với tên gọi âu yếm B.B, đóng đinh vẻ đẹp của mình qua vai diễn Juliette với biệt danh “mèo con nhục cảm” đã làm dấy lên cơn sốt hâm mộ toàn cầu. Khi bộ phim được phát hành ở Mỹ, nó đã vấp phải rào cản kiểm duyệt và trở nên quá phóng túng so với tiêu chuẩn đạo đức xã hội đương thời. Vào thời điểm đó, bộ phim bị Liên đoàn Đạo đức Thiên chúa giáo của Mỹ kết án và cấm đoán. Tuy vậy, năm 1958, bộ phim đã thu được 4 triệu đôla ở Mỹ, trong khi chi phí sản xuất ước chừng 300.000 đôla. Khi bộ phim chiếu ở Mỹ, Bosley Crowther, nhà phê bình phim của tờ The New York Times đã nhận xét: “Bardot chuyển động trong một lối thời trang hoàn toàn làm nổi bật lên vẻ quyến rũ của nàng. Nàng hiển nhiên là kết quả của một sự sáng tạo siêu việt không thể phủ nhận. Nhưng ngoài điều đó ra thì bộ phim khá rời rạc với kịch bản đơn giản. Chúng tôi không thể giới thiệu bộ phim nhỏ này như một sản phẩm hay nhất của phim ảnh xứ Gô-loa. Nó sắp đặt các yếu tố với nhau khá vụng về và được diễn xuất một cách kỳ quặc. Không có gì đáng kể ngoài sức nóng bỏng kinh khủng trong diễn xuất của Cô Bardot.” Gần nửa thế kỷ sau, nhà phê bình phim Dennis Schwartz viết: “Bộ phim khiêu dâm hạng nhẹ được tô điểm thêm tuyến truyện có màu sắc bi kịch song vẫn khó có thể coi là một phim bi nghiêm túc. Nhưng dù cốt truyện mỏng thì nó vẫn luôn sống động và hút mắt, nhờ vào không gì hơn là một chuỗi những cảnh Bardot thể hiện mình như một con mèo con nhục cảm trong các lớp cảnh khỏa thân. Công chúng yêu thích bộ phim và nó đã trở thành một cú đột phá phòng vé, tạo nên làn sóng cho những bộ phim khêu gợi sau này. Bộ phim phơi ra những lời thoại dớ dẩn cùng sự phô trương của Bardot thành một đối tượng tình dục, mà ẩn bên dưới là lời kêu gọi cho sự giải phóng phản kháng lại giáo điều cũng như cái nhìn nhục cảm về tình dục.” Mặc dù đã tham gia đóng phim từ năm 17 tuổi với không dưới 15 phim, nhưng phải đến Và Chúa đã tạo ra đàn bà, B.B mới trở thành ngôi sao thực sự. Lúc này B.B mới 21 tuổi. Bộ phim đầu tay của đạo diễn Roger Vadim ghi dấu ấn quan trọng đến nỗi người ta cứ ngỡ đó là bộ phim đầu tiên của B.B, song trên thực tế khi bộ phim ra mắt cũng là thời điểm hai người chia tay nhau sau 5 năm chung sống. Ông đã viết về người vợ trẻ của mình (ông đã là tình nhân của B.B từ năm nàng 15 tuổi) trong hồi ký: “Cô ấy là vợ tôi, con gái tôi và bà chủ của tôi.” Vốn là một nhà báo của tờ Paris-Match, Vadim (1928-2000) đã sớm phát hiện ra B.B và khi bắt đầu tiến hành thực hiện bộ phim, điện ảnh Pháp cũng đang chấn hưng với phong trào “Làn sóng Mới” (nouvelle vague), đua tranh với “Tân Hiện thực” của Ý, trở thành những ngọn cờ đầu của điện ảnh châu Âu. Ba chục năm sau, Vadim đã nói về sự ảnh hưởng của những bộ phim thời đầu: “Tôi cảm thấy mình như một Bonaparte trẻ trung lúc khởi sự chiến dịch Ý, mà tôi chắc thắng.” (Bardot Deneuve Fonda, hồi ký, 1987). Những bộ phim về sau của Vadim dần chìm vào tâm thế u tối của sự bi quan, không còn vẻ quyến rũ của thời ông liên tiếp là tình nhân và kết hôn với những minh tinh đẹp nhất thế giới. Sau Bardot là Annette Stroyberg (1958-1960), Catherine Deneuve (1962-1964), Jane Fonda (1965-1972). Người ta nhận xét rằng sự xuất hiện của B.B trong bộ bikini bên bãi biển là một hình ảnh xoa dịu sự khắc kỷ hậu chiến của châu Âu - có sức mạnh ma thuật hơn nhiều so với lời lẽ hay một hiệu ứng hào nhoáng - không giống như ảnh hưởng của thuyết tương đối Einstein hay cú lắc hông của Elvis Presley, những biểu tượng truyền thông toàn cầu khi ấy - Bardot đánh bại mọi ký ức văn hóa dễ dàng khi nàng hiện lên màn ảnh. Vadim ca tụng: “Nàng đến từ một chiều không gian khác, ở đâu đó ngoài vũ trụ. Khi người ta phát hiện ra nàng, họ không thể nào rời mắt khỏi nàng nữa.” vẻ đẹp của B.B vừa hoang dại lại vừa siêu thực, và từ Và Chúa đã tạo ra đàn bà, hình mẫu này đã đi trước cách mạng tình dục của thập niên 1970. Trong hình hài một nàng Eva trong vườn địa đàng đầy rắn độc, Bardot đóng vai Juliette, linh hồn tự do bị cầm tù của St. Tropez: một thực thể quá tự nhiên đến nỗi giày dép dường như vướng cẳng nàng, và ngay cả trong thứ lẽ ra không thể bị xem là khiêu dâm như bộ váy cưới, nàng vẫn gây bàng hoàng. Juliette chạy theo bản năng, cự tuyệt những mơn trớn của nhà triệu phú Carradine để theo đuổi gã đê tiện to khỏe Antoine. Khi Antoine từ chối Juliette, nàng miễn cưỡng cưới em trai gã ta, anh chàng Michel nhân hậu nhưng ngây thơ. Cuối cùng; Juliette trút cơn cuồng vọng của mình vào điệu Mambo ma quái. Tạp chí Time viết về khoảnh khắc Vadim giới thiệu B.B đầu phim: “Brigitte nằm đó, trườn dài hết cả màn ảnh, chổng mông lên và trần trụi như con ngươi của nhà kiểm duyệt.” Khi bộ phim được chiếu lần đầu cho các nhà kiểm duyệt Paris, Vadim kể lại, một vị tức giận đến mức ông ta quyết định cảnh Bardot không mặc quần lót diễu trước mặt một cậu trai vị thành niên phải bị cắt bỏ. Vadim cười thầm và cho chiếu lại cảnh đó, và quả nhiên không có vụ khỏa thân nọ. Trên thực tế, Bardot mặc một bộ đồ thể dục màu đen bó sát suốt đoạn đó. Nhà kiểm duyệt khăng khăng cho rằng Vadim đã quay hai bản, và bằng cách nào đó đã đánh tráo khi chiếu. Vadim nhận xét: “Đó là một trong những điều kinh ngạc nhất về sự xuất hiện của Brigitte trên phim. Người ta cứ nghĩ nàng khỏa thân lúc đó trong khi không phải vậy.” Nhà phê bình John Baxtor nhận xét: “‘Mông nàng là một bài ca’, nhân vật nào đó đã thốt lên lời ngưỡng mộ Bardot ngay từ đầu phim. Có lẽ ý họ đó là tiếng hát của mỹ nhân ngư. Từ khoảnh khắc tạo tác đó, Bardot - biểu tượng tình dục, siêu sao, ký hiệu, ảo ảnh - trở thành giai điệu đã định cư trong đầu óc thời đại, bài ca đã dụ được đám kiểm duyệt va vào những thành vách ẩn sau sương mù và đập vỡ vĩnh viễn cái vỏ nghiêm cẩn của điện ảnh tránh né tình dục.” Sau này vào năm 1963, đạo diễn Jean-Luc Godard đã chọn Bardot đóng trong bộ phim Contempt [Sự khinh bỉ, dựa theo tiểu thuyết của Alberto Moravia], được xem như cùng một công thức với Và Chúa đã tạo ra đàn bà, đều khai thác vẻ đẹp bốc lửa hoang dại của B.B. Bộ phim được như một liều thuốc độc ngọt ngào cho khán giả hậu chiến, và người ta tranh cãi rằng chính sự đơn giản của cốt truyện lại là đất để cho Vadim khai thác được vẻ đẹp diễn như không diễn của B.B. Sự tinh quái của nhà làm phim nằm ở chỗ không nhọc công biện giải cho vấn đề đạo đức, trưng ra một cô gái đẹp làm sững sờ tất thảy - vốn chẳng xa lạ gì trong kho tàng nghệ thuật nước Pháp, nhưng khác với Victor Hugo cho Esmeralda bị tử hình trong câu chuyện thời Trung cổ thì Juliette Hardy đã được tôn vinh ngẫm qua những góc quay đầy khoái cảm của Vadim. Người ta vẫn coi năm 1959 như “một năm diệu kỳ” của điện ảnh Làn sóng Mới, khi những đạo diễn mới Truffaut, Camus và Resnais chiếm lĩnh Liên hoan phim Cannes. Nhưng sự khởi đầu thực sự chính là ở vào ba năm trước đó, khi cựu nhà báo 28 tuổi Roger Vadim tung ra sản phẩm đầu tay Và Chúa... Thành công khởi đầu có tính scandal này (succès de scandale) được chứng minh qua cơn sốt phòng vé, và lần đầu tiên những nhà sản xuất độc lập đã mở hầu bao ra đầu tư cho thế hệ đang lên của nền điện ảnh Pháp mới. Sau khi làm trợ lý cho đạo diễn Marc Allegret một thời gian, Vadim cảm thấy đủ tự tin để đạo diễn một bộ phim dành cho người đẹp tính khí thất thường và hay gây sự của mình. Trong dàn diễn viên, có sự tham gia của diễn viên người Đức Curd Jurgens trong vai nhà triệu phú Carradine nhằm đảm bảo sự quảng bá quốc tế. Diễn viên Jean-Louis Trintignant lúc đó hãy còn vô danh, đóng vai người chồng của Juliette, đã mau chóng có mối quan hệ tình ái khá ầm ĩ với cô. Nhà phê bình John Baxter phân tích: “Theo đuổi ý tưởng về một bộ phim kịch tính và dùng màu sắc gây ấn tượng khêu gợi, Vadim dựng bối cảnh cho một Bardot da rám nắng giữa những cảnh nền trắng - cát, vải đũi thô - nhằm khuếch trương hiệu ứng. Hình ảnh cô đang tắm nắng phía sau những tấm ga trải giường phơi bập bồng trong gió và sau đó là cảnh dùng bữa sáng tân hôn quấn mình trong tấm ga trắng, là chứng minh cho dụng công đặc biệt đó của Vadim.” Nữ diễn viên kỳ cựu Jeanne Moreau đã ghi nhận dấu ấn mang tính biểu tượng của bộ phim và Bardot: “Brigitte là một nhân vật cách mạng hiện đại thực sự đối với phụ nữ. Và Vadim, với tư cách một người đàn ông, người tình và một đạo diễn, đã cảm nhận được điều đó. Điều không thể chối cãi trong Làn sóng Mới, đó là bộ phim đột nhiên quan trọng này chứa đầy sự sống, nhục cảm, năng lượng, tình ái và đam mê. Bất kỳ ai cũng phải ghi nhớ rằng Vadim đã bắt đầu mọi thứ, cùng với Bardot.” Năm 1987, đạo diễn Roger Vadim đã một bộ phim cùng tên bằng tiếng Anh song nội dung hoàn toàn khác, bối cảnh New Mexico ở miền Tây nước Mỹ, với diễn viên Rebecca de Mornay và Frank Langella nhưng không thành công. Đơn giản là vì không có Bardot. *** Những câu thoại đáng nhớ [Juliette đang tắm nắng khỏa thân] ERIC CARRADINE: A! Vườn Địa đàng ở Saint-Tropez! JULIETE HARDY: Ôi ông Carradine! Và em chắc ông là Quỷ dữ? ERIC CARRADINE: Có lẽ vậy. Đằng nào thì tôi cũng mang táo đến. *** JULIETE HARDY: Đó là bài hát yêu thích của em! ANTOINE TARDIEU: Lần đầu tiên anh nghe đấy. JULIETE HARDY: Em cũng vậy. *** BÀ VIGIER-LEFRANC: Eric, tôi lo cho anh. ERIC CARRADINE: Lo ư? BÀ VIGIER-LEFRANC: Anh phải lòng cô ả rồi. ERIC CARRADINE: Sao cô chắc vậy? BÀ VIGIER-LEFRANC: Mỗi khi anh nhìn cô ta là trông anh ngốc hẳn đi. *** ÔNG VIGIER-LEFRANC: Đã bao giờ cô nghe đến giày hiệu Vigier chưa? JULIETE HARDY: Rồi. ÔNG VIGIER-LEFRANC: Tôi đấy. Có khi cô cũng đã nghe nói đến máy hút bụi Lefranc rồi? JULIETE HARDY: Rồi. ÔNG VIGIER-LEFRANC: Cũng là tôi. Em có muốn nhảy một bài cha-cha-cha không? JULIETE HARDY: Với máy hút bụi thì không!   Mời các bạn đón đọc Và Chúa Đã Tạo Ra Đàn Bà của tác giả Simone Colette.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Phi Trường Tập 1
Thông qua câu chuyện hồi hộp về quá trình nghi ngờ, điều tra phát hiện, và tìm cách ngăn chặn một vụ âm mưu cho nổ một chuyến máy bay hành khách quốc tế đông người ngay trên không. Arthur Hailey muốn cung cấp cho bạn đọc những hiểu biết tương đối tường tận và lý thú về hoạt động của một sân bay dân dụng vào loại lớn và hiện đại nhất nước Mỹ, sân bay quốc tế Lincoln, với lưu lượng máy bay lên xuống trung bình 30 giây một chiếc. Qua đó, tác giả muốn nói đến những vấn đề xã hội đang đặt ra hiện nay cho nước Mỹ: đó là những mâu thuẫn và bất công không thể tránh khỏi trong cuộc chạy đua theo tiến bộ khoa học kỹ thuật không phải vì hạnh phúc con người, mà trước hết vì lợi nhuận, đẩy con người đi đến chỗ có những hành động mù quáng điên rồ, tìm lối thoát trước cảnh ngộ bế tắc bằng cách tự giết mình và giết oan nhiều người vô tội khác. *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... Mời các bạn đón đọc Phi Trường Tập 1 của tác giả Arthur Hailey.
Chuộc Tội
Vương Hải Yến (dịch) Truyện hấp dẫn, bố cục thực sự lạ lẫm với việc tập hợp các các đoạn "hồi ký". _NQK Emily, Sae, Maki, Akiko, Yuka – năm cô bé cùng nhau đến trường chơi bóng chuyền song chỉ có bốn về được nhà, với tư cách là bốn nhân chứng của một vụ giết người tàn nhẫn gây chấn động. Nhưng trở về an toàn không có nghĩa là bình an sống tiếp. Trước bốn lời khai như một: “không nhớ rõ mặt hung thủ”, người mẹ mất con gái đã phẫn nộ gieo vào đầu bốn cô bé lời nguyền rủa độc địa – bước ngoặt lái bốn số phận mới chớm thành hình vào bốn ngã rẽ bất hạnh khác nhau: “Hãy tìm ra hung thủ trước khi quá thời hạn khởi tố. Nếu không làm được điều đó, hãy tìm ra cách chuộc tội khiến tao có thể chấp nhận. Còn nếu không làm được một trong hai điều trên tao sẽ trả thù chúng mày.” “Căng thẳng từng chữ, đồng thời cũng lay động từng dòng… Minato đã khéo léo viết nên một câu chuyện ớn lạnh của bi kịch, tội lỗi và sự chuộc tội.”       - Publishers Weekly *** Kanae Minato là một nhà văn Nhật Bản về viễn tưởng và phim kinh dị. Cô là thành viên của các nhà văn bí ẩn của Nhật Bản và Câu lạc bộ nhà văn bí ẩn Honkaku của Nhật Bản. Tác phẩm: Thú Tội Những Đứa Trẻ Bị Mắc Kẹt Chuộc Tội Tất Cả Vì N Vòng Đu Quay Đêm ,,, *** Gửi cô Asako, Cảm ơn cô vì hôm trước đã tới dự đám cưới của cháu. Suốt buổi lễ, cháu đã luôn lo rằng khi nhìn những người họ hàng cháu rồng rắn kéo nhau từ thị trấn thôn quê đó lên, cô sẽ nhớ lại sự việc khi ấy để rồi cảm thấy không thoải mái. Bởi đám người đó chẳng hề nhận ra cử chỉ và hành động của mình thiếu tế nhị tới chừng nào. Không khí trong lành. Lần đầu tiên cháu nhận ra rằng, ngoại trừ điều đó, thị trấn ấy chẳng còn gì đáng kể là vào khoảng bảy năm trước, khi cháu tốt nghiệp cấp ba và lên Tokyo theo học trường đại học nữ sinh. Bốn năm trời cháu sống trong ký túc xá của trường. Lúc cháu nói với bố mẹ rằng mình muốn lên Tokyo học đại học, bố mẹ cháu đều đồng thanh phản đối. Lỡ con bị kẻ xấu lừa, bắt làm công việc bán thân thì phải làm sao? Rồi bị lôi kéo vào con đường nghiện ngập thì phải làm thế nào? Bố mẹ biết làm gì nếu con bị người ta sát hại? Một người sinh trưởng nơi đô thành như cô Asako đọc đến đây chắc sẽ phì cười mà nghĩ, rốt cuộc bố mẹ cháu nghe thông tin ở đâu mà lại có những lo lắng kỳ cục như vậy nhỉ. Cháu đã mang chương trình yêu thích của bố mẹ ra mà cãi lại, rằng, “Đấy là tại bố mẹ xem chương trình Hai tư giờ ở đô thị lớn nhiều quá đó thôi”, dù thực ra cháu cũng nhiều lần tưởng tượng tới những chuyện đáng sợ như thế rồi. Dẫu vậy, cháu vẫn rất khát khao được lên Tokyo học. “Trên Tokyo có gì hay đâu? Ngành mà con muốn theo học, mấy trường đại học trong tỉnh mình cũng có. Nếu là các trường đó, thì tuy không thể đi về trong ngày, nhưng giá nhà trọ rẻ, gặp chuyện gì cũng có thể về nhà ngay được. Như vậy cả con và bố mẹ đều an tâm.” Bố cháu đã thuyết phục cháu như vậy. “Sao bố mẹ có thể an tâm được? Không phải bố mẹ chính là những người hiểu rõ nhất, rằng khoảng tám năm trở lại đây, con đã sống trong sợ hãi ở thị trấn này như thế nào hay sao?” Thấy cháu nói vậy, bố mẹ không phản đối nữa. Nhưng bố mẹ cháu ra một điều kiện là, khi lên đó thay vì sống một mình ở phòng trọ hay căn hộ chung cư, cháu phải vào sống trong ký túc xá dành cho sinh viên. Cháu không có ý kiến gì về việc đó. Tokyo trong lần đầu tiên cháu tới thăm giống như một thế giới khác. Bên trong nhà ga nơi cháu bước từ tàu điện cao tốc xuống nhìn đâu cũng thấy toàn người với người, đến mức cháu nghĩ số người bên trong nhà ga này có khi còn nhiều hơn cả dân số của thị trấn quê cháu nữa. Điều làm cháu ngạc nhiên hơn nữa là, dù có nhiều người đến vậy, nhưng mọi người vẫn có thể đi lại bình thường mà không hề đụng vào nhau. Ngay cả cháu lúc đó dù đi loạng quạng do mải nhìn bảng hướng dẫn điện tử để lên tàu điện ngầm mà vẫn không đụng phải ai, vẫn có thể suôn sẻ tới được nơi mình muốn tới. Lên được tàu điện ngầm rồi, lại có một chuyện khiến cháu ngạc nhiên hơn nữa. Đó là, những người quanh cháu dù có vẻ đều đi cùng ai đó, nhưng hầu như không ai nói chuyện với ai cả. Thỉnh thoảng cháu có nghe thấy tiếng cười hay tiếng nói chuyện lớn, nhưng đa phần những âm thanh đó đều do người ngoại quốc gây ra. Cho đến hết cấp hai cháu vẫn đi bộ đi học, lên cấp ba thì đi xe đạp nên cho tới lúc đó một năm cháu chỉ đi tàu điện vài lần, ví như những lần tới các trung tâm mua sắm ở thị trấn khác cùng gia đình hay bạn bè. Và trong khoảng một tiếng trên tàu điện trước khi tới nơi ấy, cháu và mọi người trò chuyện không dứt. Chúng mình mua gì bây giờ nhỉ. À tháng sau có một cái sinh nhật đấy, hay mình mua sẵn quà luôn cho tiện. Trưa nay mọi người muốn ăn ở McDonald’s hay KFC?… Cháu tuyệt nhiên không nghĩ mình làm như vậy là thiếu ý thức. Bởi tiếng nói cười vang lên ở khắp mọi nơi trên tàu, và không ai cau mày khó chịu vì chuyện đó cả, nên cháu đã nghĩ cư xử như thế khi ở trên tàu là bình thường. Đột nhiên cháu nghĩ, phải chăng người Tokyo không nhìn thấy những người xung quanh mình? Phải chăng họ không quan tâm gì đến người khác. Miễn là bản thân không thấy phiền, thì người bên cạnh muốn làm gì cũng được? Phải chăng họ không muốn biết tiêu đề cuốn sách mà người ngồi ở ghế đối diện đang đọc? Phải chăng họ không buồn để ý dẫu cho người đứng trước mặt họ có mang một cái túi xách hàng hiệu cao cấp đến đâu? Lúc nhận ra thì cháu đã đang rơi nước mắt rồi. Nhìn một con bé quê mùa với cái túi hành lý lớn đang khóc, hẳn mọi người sẽ hiểu lầm cháu nhớ nhà nên mới vậy. Hơi xấu hổ, cháu vừa quệt nước mắt vừa nhìn quanh, nhưng chẳng có người nào đang nhìn cháu cả. Cháu cảm động vì nơi đây tuyệt vời hơn cả trong tưởng tượng của mình. Lý do cháu muốn đến Tokyo không phải là vì nơi đây có nhiều cửa hàng tráng lệ, hay nhiều chỗ để đi chơi. Cháu chỉ muốn hòa vào đám đông những người không biết về quá khứ của cháu, để xóa đi hình ảnh của mình. Nói chính xác hơn, cháu muốn trốn khỏi đôi mắt của kẻ sát nhân trong vụ án mà cháu là nhân chứng giờ này vẫn đang ung dung ngoài kia. Cháu ở phòng ký túc bốn người. Mọi người đều là dân tỉnh lẻ, ngày đầu tiên tới ở mọi người tự giới thiệu bản thân và thi nhau khoe về những điều đáng tự hào của quê hương mình. Nào là quê họ có món mì Udon ngon, có suối nước nóng, rồi nhà gần nhà tuyển thủ bóng chày nổi tiếng… Ba người còn lại tuy nói là dân tỉnh lẻ, nhưng tên thành phố, thị trấn quê họ thì cháu đều đã nghe qua. Cháu có nói ra tên thị trấn quê cháu, nhưng cả ba người đều không biết nó nằm ở tỉnh nào. Họ hỏi nơi ấy là nơi như thế nào, cháu trả lời, không khí ở đó rất trong lành. Cháu nghĩ nếu là cô Asako, hẳn cô sẽ hiểu rằng, chẳng phải vì nơi đó không có gì đáng tự hào nên cháu mới miễn cưỡng nói một câu chung chung như vậy. Sinh ra và lớn lên ở thị trấn đó, hằng ngày cháu đều hít thở không khí nơi ấy như một lẽ đương nhiên. Cháu nhận ra không khí nơi đó thật trong lành, vào một ngày khi cháu mới lên lớp bốn, mùa xuân năm vụ án đó xảy ra. Trong giờ học môn xã hội, thầy Sawada giáo viên chủ nhiệm đã nói thế này: “Các em đang sống ở vùng quê có khí hậu trong lành nhất Nhật Bản. Các em có biết tại sao thầy có thể nói như vậy không? Những máy móc chính xác được dùng trong các bệnh viện và phòng nghiên cứu phải được chế tạo ở môi trường mà không khí không lẫn bụi bẩn. Vì thế, nhà máy sản xuất những máy móc ấy cũng phải được xây dựng ở nơi có không khí trong lành. Và trong năm nay, nhà máy mới của công ty chế tạo máy Adachi đã được xây dựng ngay tại thị trấn này. Việc nhà máy của công ty sản xuất thiết bị chính xác hàng đầu Nhật Bản được xây dựng ở nơi này chứng tỏ nơi đây đã được chọn là nơi có không khí trong lành nhất Nhật Bản. Các em hãy tự hào vì mình đang được sống trên một vùng đất tuyệt vời như thế nhé.” Sau buổi học, chúng cháu đã hỏi Emily xem điều thầy giáo nói có đúng không. “Tớ cũng từng nghe bố tớ nói như thế.” Mời bạn đón đọc Chuộc Tội của tác giả Minato Kanae.
Khúc Hát Mùa Đông
Tác giả Trung Trung Đỉnh tên thật là Phạm Trung Đỉnh, nhưng vào những ngày đầu mới viết văn, tập đánh máy, ông đã đánh nhầm thành Trung Trung Đỉnh. Sau này, thấy cái tên ấy nghe cũng giòn giã và cũng là một kỷ niệm nên ông lấy luôn làm bút danh”. Sở dĩ có những dòng giới thiệu như thế, vì từ khi nhà văn Trung Trung Đỉnh về làm Giám đốc NXB Hội Nhà văn, nhiều người thấy mục “Chịu trách nhiệm xuất bản” ghi tên Phạm Trung Đỉnh chứ không phải Trung Trung Đỉnh, trong khi “hai người là một”.  Trung Trung Đỉnh viết nhiều và đã giành nhiều giải thưởng lớn. Tác phẩm của anh được ghi nhận trong lòng bạn đọc. Từ tạp chí VNQĐ anh chuyển ngành ra làm phó tổng biên tập báo Văn Nghệ và sau cùng làm giám đốc nhà xuất bản Hội Nhà Văn trước khi nghỉ hưu. Trở lại với những ám ảnh về cái ngõ trong “Chuyện tình ngõ lỗ thủng” hơn chục năm sau khi cuốn sách ra đời, tôi đã xin phép tác giả gộp nó lại cùng tiểu thuyết “Tiễn biệt những ngày buồn” để chuyển thể thành một kịch bản phim truyền hình 24 tập lấy tên là “Ngõ lỗ thủng”. Có lẽ đó là một phim dài tương đối đầy đủ về một con ngõ phố Hà Nội của thời bao cấp. Phim thành công mức nào, tôi chả nói chỉ biết sau khi phát sóng, “Ngõ lỗ thủng” nhận được giải kịch bản hay nhất năm do khán giả bình chọn. Tôi đi nhận giải mang về chiếc phong bì đựng tiền thưởng trao ở trường quay, bảo với biên kịch Đặng Diệu Hương đồng tác giả ghi mấy chữ tặng lại cho nhà văn nguyên tác Trung Trung Đỉnh. Hương nắn nót ghi vào ngoài phong bì lời đề tặng đầy kính trọng và yêu quý. Tôi đưa phong bì cho Trung Trung Đỉnh trong mâm tiệc ở một hội nghị Văn học quốc tế tổ chức ở Hồ Tây. Anh vui vẻ nhận hẹn sẽ dành để nhậu vào lúc khác. Hôm sau gọi điện hỏi phong bì bao nhiêu tiền thưởng thấy Trung Trung Đỉnh ắng đi. Tiền nào. Tiền phong bì giải hôm qua em đưa anh ở Hồ Tây ấy. À, thôi bỏ mẹ mất rồi Tiến ạ. Anh về tìm mãi không thấy chắc nó rơi đâu đó. *** Đồ, Rê, Mi, Fa, Sol... Minh Dũng nắn nót từng nốt nhạc trên cây đàn ghitar. Từng hợp âm rung lên theo bàn tay của anh. Minh Dũng thụ hưởng từ khả năng thiên phú bởi tài năng của mẹ. Anh đã thể hiện được nghệ thuật độc đáo của âm nhạc. Bài hát “Em đi chùa Hương” được Minh Dũng thể hiện thật duyên dáng, dễ thương. “Hôm qua em đi chùa Hương, hoa cỏ còn mờ hơi sương, cùng thầy mẹ vấn đầu soi gương! Nho nhỏ cái đuôi gà cao, em đeo dải yếm đào, quần lãnh áo the mới, tay em cầm chiếc nón quai thao, chân em đi đôi guốc cao cao...”. Hay quá! Tiếng reo của Huỳnh Lam và Ngọc Thủy làm cho Minh Dũng ngừng tiếng hát. Tay anh vẫn còn ôm cây đàn. Minh Dũng có vẻ ngượng ngùng: – Chỉ là múa rìu qua mắt thợ thôi. Các bạn đừng nhạo mà. Huỳnh Lam trề môi: – Hổng dám đâu! Ai lại không biết Minh Dũng là một thiên tài. Ngọc Thủy phụ họa: – Tất cả giới mộ điệu của thành phố ai cũng đều ngưỡng mộ nghệ sĩ Dạ Ngọc. Tài biểu diễn của bà thật tuyệt vời. Tiếng hát của bà thật du dương, truyền cảm, cộng thêm ngón đàn của bà nữa... Ngọc Thủy xuýt xoa: – Tiếng đàn của bà thật là... Ngọc Thủy cứ thật là, thật là mãi mà không biết dùng từ gì để thệ hiện. Huỳnh Lam phải xen vào: – Thật là kỳ diệu phải không? Ngọe Thủy gật gù: – Đúng! Thật là kỳ diệu. Bà đã đem âm nhạc truyền cảm tới cho biết bao trái tim khát vọng. Những bài hát mang âm hưởng dân ca của bà mới thật sâu sắc, thật đậm đà và màu sắc dân tộc đạt đến trình độ nghệ thuật cao, có sức hấp dẫn, truyền cảm, mạnh mẽ. Nghe Ngọc Thủy nói một hơi. Huỳnh Lam liếc xéo: – Bạn nói như là đang diễn thuyết vậy sao? Nói thật đi! Có ý đồ gì đây? Ngọc Thủy sừng sộ: – Bạn nói thế là ý gì hả? Huỳnh Lam tỉnh bơ: – Thì muốn “chài” con nên cố lấy lòng mẹ đó. Ngọc Thủy muốn ứa nước mắt vì tức: – Bạn có thể nghĩ bạn mình như thế hả? – Sự thật là vậy mà. – Bạn... Mời các bạn đón đọc Khúc Hát Mùa Đông của tác giả Trung Trung Đỉnh.
Hỡi Người Tình
Luật sư trẻ Hàn Đinh dính sét ái tình ngay từ buổi đầu gặp gỡ cô người mẫu La Tinh Tinh - con gái rượu của ông La Bảo Xuân, giám đốc một nhà máy chế dược. Vụ án điều tra đầy rắc rối quanh cái chết của Tứ Bình, nữ công nhân trong nhà máy, cùng cái chết bất ngờ của ông La đã đẩy Hàn Đinh và La Tinh Tinh xích lại gần nhau. Tình yêu của Hàn Đinh thực sự bị thử thách khi La Tinh Tinh khẩn cầu anh làm luật sư biện hộ cho Long Tiểu Vũ - người yêu cũ của cô khi Tiểu Vũ bị tình nghi giết Tứ Bình. Hàn Đinh đã thành công khi minh oan cho Long Tiểu Vũ, nhưng đồng thời anh cũng mất luôn La Tinh Tinh. Tuy nhiên, mọi chuyện vẫn chưa dừng ở đó... Tiểu thuyết "Hỡi người tình" của nhà văn Hải Nham - người được mệnh danh là tiểu thuyết gia ăn khách nhất Trung Quốc. Tiểu thuyết này đã được chuyển thể thành phim truyền hình 21 tập cùng tên năm 2003. Bộ phim đã được dựng lại vào năm 2009 bởi đạo diễn Kiều Lương. *** Đây là lần đầu tiên sau hai mươi năm có mặt trên đời, Hàn Đinh nhìn thấy tận mắt cảnh máu đổ. Dù rằng vết dao rõ mồn một, dù rằng máu đã chảy, nhưng cảnh tượng lưu lại trong đầu anh lại có cảm giác thật êm dịu. Nét mặt Long Tiểu Vũ an lành, giống như vừa đi vào giấc ngủ. Sắc mặt anh ta tái nhợt, không một sắc hồng của máu, nhưng lại sống động lạ thường. Đầu anh ta gối lên hai đầu gối mẹ Tứ Bình, mặc cho người đàn bà hiền từ ấy nhẹ nhàng vuốt mái tóc đen nhánh trên trán anh ta. Tất cả mọi người có mặt đều nhón chân thật khẽ. Im lặng. Đến ngay cả La Tinh Tinh cũng kìm nén tiếng thổn thức, cơ hồ sợ nó sẽ làm kinh động đến giấc ngủ của Long Tiểu Vũ. La Tinh Tinh nhẹ nhàng ngồi xuống, đỡ lấy cánh tay anh ta. Máu thi thoảng vẫn túa ra từ vết cứa sâu hoắm. Nàng như không nhìn thấy Diêu Đại Duy đang lấy tay tìm mạch ở cổ Long Tiểu Vũ, như không nghe thấy tiếng trầm buồn của Diêu Đại Duy khi ông ta tuyên bố đương sự đã chết. Nàng từ từ gỡ bàn tay Long Tiểu Vũ đang nắm chặt. Trong lòng bàn tay dính đầy máu ấy là vòng ngọc trai trắng muốt lạnh như băng được điểm xuyết một viên ngọc màu xanh! Nhân viên mặc thường phục bước tới, đỡ lấy mẹ Tứ Bình. Khi được cõng ra khỏi căn phòng, sắc mặt bà ta hoảng hốt, miệng lẩm bẩm điều gì đó. Sau đó, họ đỡ La Tinh Tinh dậy. Hàn Đinh định bước tới đón La Tinh Tinh, nhưng bị tấm lưng to bè của một nhân viên công an lực lưỡng ngăn lại. Căn phòng nhỏ bé quá. Anh với nàng gần nhau trong gang tấc, nhưng lại bị ngăn cách bởi một bức tường người. Anh nhìn họ bế La Tinh Tinh - khi ấy đã ngất xỉu - ra khỏi căn gác xép đầy mùi tanh của máu. Anh định gọi tên nàng, nhưng giọng nói chưa kịp phát ra, đã bị Diêu Đại Duy vỗ vào vai từ phía sau. - Đi thôi. Hiện trường cần được bảo vệ. Cậu để lại bao nhiêu vết tích tại hiện trường mà cũng không sợ chúng tôi nghi ngờ cậu là hung thủ ư? Hung thủ? Tôi liệu có thể là hung thủ? Một tiếng sau. Tại trụ sở công an Thiệu Hưng, Hàn Đinh đã làm xong biên bản xét hỏi. Sau khi ký tên mình vào trang đầu tiên của tờ biên bản, anh hỏi Diêu Đại Duy - người đã xét hỏi anh: - Nếu Long Tiểu Vũ bị giết, và em lại để lại hiện trường quá nhiều những vết giày và vân tay, liệu em có trở thành nghi phạm? Mời các bạn đón đọc Hỡi Người Tình của tác giả Hải Nham.