Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

PDF 36 KẾ NHÂN HÒA

Trong xã hội ngày nay, cơ hội nhiều và thử thách cũng nhiều. Mọi người đều khao khát thành công, tạo dựng sự nghiệp, xây dựng gia đình ổn định. Nhưng muốn có được một chỗ đứng ổn định trong thương trường, xã hội mà không có một hệ thống triết lý, mưu kế xử thế cao siêu thấu đạt lòng người thì rất khó thành công.Nhân sinh xử thế cốt ở chữ "Độ", xử sự đúng phân lượng là cảnh giới tối cao. Cương trực vốn rất tốt nhưng quá cương trực thành gai góc, sắc sảo khiến người ta sợ hãi thì người đời khó chấp nhận. Hòa vốn tốt nhưng nếu chỉ cầu hòa đến đánh mất nguyên tắc, thiếu chủ kiến riêng, nhân nhượng, tất cả chỉ để cầu hòa thì thường bị coi là hèn. Cổ xưa từng nói: Thiên thời không bằng địa lợi. Địa lợi không bằng Nhân hòa. Cuốn ebook 36 Kế Nhân Hòa này nhằm cung cấp cho bạn đọc một ít kỹ xảo xử thế nhân gian, mong rằng có thể giúp bạn thuận buồm xuôi gió thẳng tiến đến thành công.Mục LụcKế 1. Kế ban ơnKế 2. Kế vu hồiKế 3. Kế mượn cớKế 4. Kế tấn công cạnh sườnKế 5 Kế khen thưởngKế 6 Kế lán tụngKế 7. Kế kích tướngKế 8: Kế dát vàngKế 9: Kế chữa thẹnKế 10. Kế phủng trường (Kế phò tá)Kế 11. Kế mượn uy danhKế 12. Kế hóa giảiKế 13. Kế nhượng bộKế 14. Kế lự tràoKế 15. Kế nhìn mặtKế 16. Kế hai mặtKế 17. Kế đe dọaKế 18. Kế thăm dòKế 19. kế nắm đằng chuôiKế 20. Kế che đậyKế 21. Mài cho mềm ngâm cho nhũnKế 22. Kế câu cáKế 23. Kế hạ đàiKế 24.Kế phản hồi ( nghĩ lại, quay ngược )Kế 25. Kế ứng biếnKế 26. Kế giả nguKế 27. Kế bán khôn mà ănKế 28. Kế lộ xấuKế 29. Kế phản pháoKế 30. Kế phản ngữKế 31. Kế bè đảngKế 32. Kế đe dọaKế 33. Kế xuống đài.Kế 34. Kế ám thịKế 35. Kế đàm phánKế 36. Kế thăm dò

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

PDF Tục ngữ lược giải - Lê Văn Hòe
Kỳ thi Sơ-học khóa 1952 đầu-đề bài luận là « Ăn vóc học hay ». Kỳ thi nhập học lớp đệ-thất trường Trung-học Chu văn-An niên khóa 1952-53 đầu đề bài luận là « Tham thì thâm » và « Đói cho sạch rách cho thơm ». Sự tìm hiểu tục-ngữ đã trở nên cần thiết cho anh em học-sinh.Sách Tục-Ngữ Lược-Giải, trong hai tháng ấn-hành hai lần, được anh em hoan nghênh là phải.Song nhiều người tỏ ý phàn-nàn : Tục-Ngữ Lược-Giải mỏng quá, chứa được có hơn 200 câu.Chúng tôi cũng thấy thế. Nên cho ra tập thứ nhì này để bổ túc cho tập thứ nhất.Tập này gồm hơn 300 câu, cộng với tập thứ nhất, hiến anh em học-sinh non 600 tục-ngữ thường dùng. Đối với rừng tục-ngữ nước nhà con số tuy còn nhỏ-nhặt song bằng ấy tài-liệu cũng đã có thể giúp ích anh em, khả dĩ làm anh em vững tâm trước những đề luận về tục-ngữ.Hoặc ít ra thì đó cũng là tham-vọng và mục-đích của chúng tôi khi cho ra hai tập Tục-Ngữ Lược-Giải.L.V.H.2-9-52***Tục ngữ ta, nhiều câu rất khó hiểu. Khó hiểu hoặc vì lời quá vắn-tắt, hoặc vì ý bỏ lửng giữa chừng, hoặc vì chữ dùng quá cổ.Không những anh em thanh-niên học-sinh, ngay người lớn chúng ta, nhiều khi cũng không khỏi lúng túng trước ý-nghĩa một vài câu tục-ngữ.Vốn yêu-chuộng quốc-văn, quốc-học, chúng tôi chú-trọng đến tục ngữ Việt-Nam đã từ lâu.Và trong khoảng những năm 1937, 1938 trên các báo Việt-báo, Việt-Cường ngoài Bắc, Công-Luận trong Nam, tôi đã có dịp giải-thích ý-nghĩa một số tục-ngữ.Rồi sau, trải qua nhiều địa-phương, xúc-tiếp với nhiều nghề-nghiệp, những điều tai nghe mắt thấy cùng những kinh-nghiệm bản thân đã giúp chúng tôi hiểu thêm một số tục-ngữ cần phải giải-thích.Nay nhân thấy câu tục-ngữ « Ăn vóc học hay » đầu bài luận thi Sơ-học vừa qua, đã làm nhiều thí-sinh phải cắn bút, chúng tôi liền nẩy ra cái ý-định đem cái kết-quả sưu-tầm, nghiên-cứu tục-ngữ, trong mấy năm nay cống-hiến anh em thanh-niên và các nhà trí-thức, các bậc giáo-sư, dùng làm tài-liệu tham-khảo trong cái giờ nghị luận hoặc giảng văn, may giúp ích một phần nào cho việc học quốc-văn chăng ?Dĩ-nhiên là sách này chỉ giải-thích sơ-lược đại-ý mà thôi, không đi sâu vào lai-lịch hay điển-cố các tục-ngữ.Và cũng không phải là giải-thích hết thẩy các tục-ngữ Việt-nam, mà chỉ giải nghĩa những câu cần phải giải nghĩa, và tác-giả đã tìm thấy nghĩa.Những điều tai nghe mắt thấy, những kinh-nghiệm, hiểu biết của một người, dù sao cũng chưa thể đầy đủ được. Những khuyết-điểm sai lầm trong sách, nếu có, chúng tôi mong được các bậc cao-minh sẵn lòng chỉ-giáo cho.Hà-nội ngày 6 tháng 6 năm 1952LÊ-VĂN-HÒE
PDF CỬA VÀO PHONG TỤC VIỆT NAM (KHÔNG BÁN RA BÊN NGOÀI) - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ
CỬA VÀO PHONG TỤC VIỆT NAM (1974) - Tài liệu học tập về Văn Minh Việt Nam dành cho sinh viên Đại học Văn Khoa Sài Gòn (KHÔNG BÁN RA BÊN NGOÀI)
PDF Kinh Thư Diễn Nghĩa - Lê Quý Đôn
Kinh thư diễn nghĩa (Giảng nghĩa Kinh Thư) của Lê Quý Đôn, gồm 3 quyển, đã được khắc in, có tựa của tác giả đề năm 1772.Kinh thư còn được gọi là Thượng thư (nghĩa là “Lịch sử thời thượng cổ”), cuốn sách ghi chép chính sự, tương truyền do Khổng Tử soạn ghi lại và chia làm 100 thiên, chép sử từ thời Đường Nghiêu đến thời Tần Mục công, để giảng dạy cho học trò. Nhà Tần đốt sách làm cho một số thiên của Thượng thư bị mất. Nay chỉ còn 58 thiên.Trong quá trình “diễn nghĩa” Kinh Thư, Lê Quý Đôn đã đề cao những giá trị của nó như tưởng thương dân, trọng dân, đòi hỏi các vua chúa, quan lại phải nuôi dân, dạy dân, cứu dân, phải chăm chỉ, tiết kiệm, khiêm tốn, lắng nghe nguyện vọng và tiếng nói của dân, phải biết tôn trọng sử dụng nhân tài, không sa hoa lãng phí của cải, vì đó là mồ hôi xương máu của dân… Khi dân đã không sợ chết nữa thì triều đại, chính quyền sẽ sụp đổ…Bằng những dẫn chứng sinh động lấy từ sách sử Trung Quốc như Tả truyện, Sử ký, và Sử liệu Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, ông đã chứng minh những “bài học” đó là đúng. Phép chứng minh này là điểm đặc sắc chỉ có ở nhà học giả nổi tiếng Lê Quý Đôn.
PDF Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư - Hi Di Trần Đoàn
Tử vi đẩu số toàn thư (1973)Tác giả: Hi Di Trần ĐoànDịch giả: Vũ Tài LụcCuốn sách này được làm thành, đại bộ phận dịch từ tập : Tử Vi đẩu số toàn thư của Hi Di Trần Đoàn tiên sinh do La Hồng Tiên biên soạn, do nhà xuất bản Trúc Lâm An Thư Cục ấn hành tại Đài Loan. Phần bình chú qua tham khảo các sách Tử Vi Xiến Vi của Trương Huy Văn, Chiêm Tinh Thuật của Hoàng Tiểu Nga, Mệnh Lý Huyền Vi của Vô Nhai Cư Sĩ, Trích Thiên Tuỷ của Lưu Bá On, Mệnh Lý Giảng Nghĩa của Vi Thiên Lý, Hám Long Kinh của Dương Quân Tùng, Tạo Hoá Nguyên Thược của Nhiệm Thiết Tiều, Mệnh Lý Chính Tôn của Thần Phong Khảo, Uyên Hải Từ Bình của Từ Tử Bình, Quỷ Cốc Toán Mệnh Thuật … Phần phú nôm để đối chiếu, chúng tôi trích dẫn từ việc ghi chép công phu của Tử Vi Ao Bích của Việt Viêm Tử và Tử Vi Thực Hành của Dịch Lý Huyền Cơ.