Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Dạy Con Kiểu Do Thái Sự May Mắn Của Điểm B Trừ (Wendy Mogel)

Sau khi phát hành cuốn Dạy con kiểu Do Thái: Sự may mắn của cái đầu gối bị trầy xước, mọi người thường hỏi vì sao tôi lại viết cuốn sách đó. Tôi trả lời rằng tôi viết sách để nhắc nhở bản thân mình làm theo những gì được viết trong đó. Và điều này gần như luôn có tác dụng. Bằng cách sử dụng những bài học của đạo Do Thái do chính mình nhắc đến trong cuốn sách, tôi đã không còn bao bọc thái quá, luôn lên sẵn lịch trình, nuông chiều và đặt những kỳ vọng cao ngút trời vào con cái - những thứ vốn là chuẩn mực của vùng Los Angeles, nơi tôi nuôi dạy hai cô con gái nhỏ của mình. Tôi rất rõ ràng và có chiến lược trong việc dạy bọn trẻ biết kính trọng cha mẹ, tôi cũng cố gắng tôn trọng các con bằng cách trân trọng cả tài năng lẫn khuyết điểm của chúng. Ngày nào tôi cũng nhắc bản thân mình nhớ đến câu nói trong đạo Do Thái rằng mọi bậc cha mẹ đều phải dạy con mình học bơi - tôi đã áp dụng triết lý này bằng cách để các con gái mình leo lên những thân cây thật cao, dùng những con dao sắc nhọn, nấu ăn với chiếc chảo nóng và tất nhiên, vì tôi sống ở Nam California, dạy chúng bơi, nhảy từ trên cao và lặn xuống những vùng nước sâu ngay từ khi chúng còn rất nhỏ.

Khi tôi phát hành cuốn sách đầu tiên, các con tôi mới 9 và 13 tuổi. Tôi đã hoàn toàn tự tin khi nghĩ đến quãng thời gian chúng bắt đầu trưởng thành. Khi các con gái tôi bước vào tuổi mới lớn, tôi đã là một chuyên gia. Thật thế. Tôi là một nhà tâm lý học xã hội, có nghĩa rằng tôi được đào tạo bài bản để nhìn nhận các vấn đề liên quan đến cảm xúc trong từng bối cảnh văn hóa cụ thể. Chuyên ngành của tôi là nuôi dạy con cái và sự phát triển bình thường của trẻ. Tôi đã làm việc với các gia đình trong suốt 30 năm liền. Tôi hiểu về các học thuyết liên quan đến vấn đề cá tính hóa, tác động của tuổi dậy thì đến tính cách, nhịp điệu sinh lý hàng ngày phá vỡ giấc ngủ như thế nào và khao khát phiêu lưu mạo hiểm ở tuổi mới lớn(1). Tôi cũng ý thức rất rõ về tác động của nền văn hóa vận động nhanh chóng, đầy cạnh tranh, thô bạo cùng sự phát triển của công nghệ Internet đến việc phát triển nhân cách ở giới trẻ. Tôi cũng quan tâm đến việc trẻ mới lớn rất dễ bị tổn thương bởi sự lo lắng, thói quen ăn uống bừa bãi, tình trạng tự làm bản thân bị thương, sự thất vọng, các vấn đề liên quan đến học tập, lạm dụng thuốc.

Tôi từng tưởng tượng rằng với những bí quyết liên quan đến chuyên môn cũng như tôn giáo, tôi sẽ dẫn dắt các con gái mình vượt qua tất cả những mối nguy hiểm thường thấy của tuổi mới lớn. Và khi bước qua ngưỡng tuổi đó, các con gái tôi sẽ trở thành những người có trách nhiệm, trưởng thành và có trách nhiệm với gia đình. Dưới sự hướng dẫn của tôi, chúng tôi sẽ có những mối quan tâm chung và những cuộc trò chuyện sâu sắc hơn. Vòng quay cuộc sống thường nhật của gia đình tôi cũng sẽ trơn tru hơn khi giờ đây các thành viên trong gia đình đã cao lớn, thông minh, hợp nhau hơn và sáng tạo hơn.

Điều đó đã không xảy ra

Thay vào đó, khi các con tôi lớn hơn, tiến trình vui vẻ trong cuộc sống hàng ngày của chúng tôi bị bốc hơi hoàn toàn. Giờ đây, thế chỗ vào đó là những cuộc đấu tranh mạnh mẽ không ngớt về mọi chủ đề mà bạn có thể tưởng tượng ra: thức dậy (chúng không thể), đi ngủ (chúng sẽ không làm thế), các công việc lặt vặt (Mẹ! Con không thể làm việc đó được! Con phải tập với ban nhạc sau giờ học và ngày mai con có một bài kiểm tra quan trọng nữa!). Sự gọn gàng đáng yêu trong phòng ngủ của chúng đã biến mất, tàn tích do sự mù quáng của tuổi mới lớn với trang phục và cốc đồ uống vương vãi khắp nơi trên sàn nhà. Những bộ cánh xinh xắn của chúng bị thay thế bởi những thứ trông như rác rưởi vứt đi. Trong hầu hết các cuộc trò chuyện, chúng chỉ nói những câu có một âm tiết qua cánh cửa đóng sập hoặc hét vào mặt bố mẹ. Đôi khi trong ngôi nhà của chúng tôi có nhiều rắc rối và tràn ngập sự giận dữ đến mức tôi nghi ngờ bản thân mình liệu có phù hợp với vai trò làm mẹ hay không. Tôi thắc mắc không biết giờ đã quá muộn hay chưa. Có phải tôi đã khiến các con mình trở nên hư hỏng? Tôi nhắc nhở bản thân phải lựa chọn tranh đấu. Nhưng tôi nên lựa chọn cái gì đây, tôi tự hỏi. Có quá nhiều lựa chọn để tranh đấu. Tôi tự nhủ rằng tôi sẽ để chúng phạm sai lầm, một kiểu để bọn trẻ tự làm đầu gối chúng bị trầy xước ở tuổi mới lớn. Nhưng giờ đây lời khuyên này dường như quá ngây thơ. Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng bị vướng vào những rắc rối thật sự lớn, điều đó có thể phá hủy vĩnh viễn điểm số, sức khỏe hay tương lai của chúng? Trong công việc, tôi đã giúp đỡ cho hàng trăm gia đình nhưng giờ tôi lại cảm thấy bất lực với chính gia đình của mình. Tìm mua: Dạy Con Kiểu Do Thái Sự May Mắn Của Điểm B Trừ TiKi Lazada Shopee

Tôi thật sự tức giận, rối loạn và cảm thấy rất buồn. Nuôi dạy con trẻ đồng nghĩa với việc hàng ngày bạn được đắm chìm vào những tình cảm và cử chỉ dịu dàng: “Bố mẹ ơi, hãy nằm xuống với con… hãy đọc cho con nghe thêm một cuốn sách nữa đi… hãy ở lại với con cho đến khi con ngủ nhé!”. Giờ đây những tấm biển như thế này xuất hiện trên cánh cửa phòng của các con gái tôi: “Đừng làm phiền! Con nói mẹ đấy!”. Tôi đấy. Người đã thay những chiếc ga trải giường khi chúng ói mửa, người đã hát ru và khẽ đu đưa, đu đưa, đu đưa cho chúng đi vào giấc ngủ. Đừng làm phiền. Con nói mẹ đấy.

Rồi tôi chợt bừng tỉnh. Tôi nhớ ra rằng mình là người theo đạo Do Thái. Khi các con tôi nhỏ hơn bây giờ, chính đạo Do Thái đã giúp tôi biến những vấn đề hàng ngày của việc nuôi dạy trẻ thành những khúc mắc thường nhật thiêng liêng. Nó nhắc nhở tôi rằng con cái là do Chúa cho chúng ta mượn và chúng ta chỉ đơn giản là những người phục vụ. Nó hướng dẫn tôi những nguyên tắc cơ bản nhưng vô cùng có sức mạnh về sự tiết chế, tán dương và thừa nhận. Đúng vậy, tôi đã nỗ lực gấp đôi để mang những nghi lễ của đạo Do Thái vào nhà mình. Tôi sẽ quay lại nướng bánh challah(2) từ đôi bàn tay trần. Tôi sẽ nướng nó vào riêng tối thứ Sáu. Tôi hình dung ra cảnh mùi thơm của bánh sẽ len vào phòng các con gái tôi và giống như những vật cúng tế tại ngôi đền cổ thiêng liêng “để làm vui lòng Chúa”, chúng sẽ vui mừng và theo mùi thơm đi xuống cầu thang. Chúng sẽ dừng bước ở đầu cầu thang và mỉm cười trước bàn đồ ăn được bày biện đẹp mắt trong ngày Shabbat(3), háo hức tham gia vào một nghi lễ đã mang đến sự thống nhất trong gia đình và nâng cao đời sống tinh thần của chúng tôi trong rất nhiều năm. Chúng tôi sẽ thảo luận Ngũ thư Kinh Thánh(4) về sự bình yên trong gia đình (shalom bayit), và với cảm giác khó chịu nhưng tràn đầy hy vọng, các con gái tôi sẽ hỏi liệu chúng có thể sửa chữa thái độ ương bướng, thiếu biết ơn và lười biếng của chúng như thế nào.

Điều này cũng không xảy ra

Buổi tối ngày thứ Sáu, sau khi các con giải thích rằng chúng quá bận và không thể dùng bữa tối Shabbat cùng chúng tôi được, tôi thấy mình trơ trọi bên cạnh chồng, ổ bánh trứng, nước nho cùng rượu, và dư thừa thời gian để suy ngẫm. Tôi quyết định rằng việc quay lại với đạo Do Thái vẫn có tiềm năng nhưng có lẽ tốt nhất là nên bớt chú trọng vào những nghi lễ của gia đình mà thay vào đó là tập trung củng cố những quan điểm tinh thần của riêng tôi.

Một lần nữa, tôi tìm thấy sự thông thái vô cùng thiết thực từ những bài học cổ xưa trong đạo Do Thái. Tôi đọc lại một trong những câu chuyện về sự hình thành nên đạo Do Thái - câu chuyện về hành trình từ Ai Cập đến Vùng đất hứa. Tôi thường thấy chuyến đi này được miêu tả giống như thời kỳ mới lớn của những người theo Do Thái giáo, thời kỳ giữa “tuổi thơ” nô lệ và thời kỳ trưởng thành là những người làm chủ Vùng đất hứa, giờ đây tôi đã nhận thấy được sự giống nhau ấy với con mắt của người đang thực sự ở trong chuyến hành trình đó. Nhà tiên tri Moses(5) đã phải chịu đựng suốt 40 năm khi dẫn dắt một đoàn toàn những người chỉ biết rên rỉ và phàn nàn. Bất cứ khi nào ông không để ý đến họ, dù chỉ trong một phút, họ cũng đều gây ra kiểu rắc rối vô cùng quen thuộc với các bậc cha mẹ có con đang ở độ tuổi mới lớn: nhét đầy thức ăn vào bụng, tôn thờ một vị thần không có thật, la lối om sòm. Khi ông cố giải thích với họ, họ lại mỉa mai ông: “Ở Ai Cập có thiếu mồ mả đến nỗi ngài phải đưa chúng tôi đến cái nơi kinh khủng, quá kinh khủng này không?”, họ hỏi ông như vậy. Họ đe dọa rằng họ sẽ nổi loạn. Họ rên rỉ và khóc lóc rằng họ ước mình lại trở thành nô lệ như trước. Những chú giải trong Kinh Thánh giải thích rằng mặc dù có một con đường tương đối nhanh và trực tiếp xuyên thẳng qua sa mạc nhưng Chúa trời cố tình dẫn Moses đi theo con đường vòng trong hàng thập kỷ. “Thời kỳ mới lớn” của người Do Thái phải đủ dài và khó khăn để nó thực sự có hiệu quả, để họ có được sự khôn ngoan và cuối cùng, để trưởng thành. Không có con đường tắt nào hết.

Không có con đường tắt nào hết - đó là bài học dành cho các bậc cha mẹ mà tôi đã không nhận thấy. Chuyên môn về tâm lý học của tôi chẳng thể bảo vệ gia đình mình khỏi những thăng trầm khi có những đứa con bước vào thời kỳ mới lớn và không có gì phải nghi ngờ cả: Nuôi dạy con trẻ ở tuổi dậy thì luôn gặp nhiều khó khăn. Chuyện đó phải khó khăn. Do Thái giáo đã dạy chúng ta rằng thời kỳ chuyển tiếp khó nhọc của tuổi dậy thì là tất cả những gì được gọi là tzar giddul banim- nỗi đau khổ cần thiết khi nuôi dạy con cái. Từ công việc chuyên môn của mình, tôi biết phần lớn sự đau khổ này là do những công việc quan trọng mà bọn trẻ mới lớn làm khi chúng bắt đầu xa cách cha mẹ mình. Chúng đi xa và thiết lập nhân dạng riêng của mình, đồng thời chúng cũng mong muốn có cảm giác an toàn và thoải mái. Chúng chống đối lại quyền lực, vô thức khiến cha mẹ trở nên ít hấp dẫn hơn để có thể dễ dàng rời bỏ họ hơn. Chúng dính lấy bạn bè - những người cũng nguy hiểm và bất ổn như chúng vậy. Việc của chúng là chống đối cha mẹ, là phạm sai lầm để có được cảm nhận sâu sắc về đúng và sai, là từ chối bố mẹ để nhận thức hoàn chỉnh về bản thân mình. Chúng ta cần trải nghiệm “nỗi đau khổ cần thiết” này. Nếu cha mẹ không tôn trọng và đánh giá cao hành trình này, nếu chúng ta cứ khăng khăng (như tôi đã từng làm) cố tìm một con đường tắt, nếu chúng ta không cho con cái thời gian chúng cần để than phiền, mắc những sai lầm ngốc nghếch và chối bỏ chúng ta, chúng sẽ không đến được nơi cần đến. Một lần nữa, tôi bắt đầu viết sách bởi tôi phải làm vậy, bởi tôi cần nhắc nhở bản thân mình phải biết yêu con đường gồ ghề và không bằng phẳng xuyên qua sa mạc của các con tôi.

Tôi thấy cần quay lại với lời khuyên trong Do Thái giáo truyền thống là hãy đọc kinh hay cầu nguyện về lòng biết ơn ít nhất 100 lần mỗi ngày. Bạn buộc phải đọc kinh khi thức dậy vào buổi sáng, sau khi vào nhà vệ sinh, trước khi ăn trái chín đầu tiên của một mùa, trước khi mặc quần áo mới. Thậm chí bạn cũng cầu nguyện khi những chuyện không hay xảy ra: “Cảm ơn Chúa vì đã thử thách phẩm giá tinh thần của con”. Tôi nhận ra rằng việc đọc kinh để vượt qua nỗi đau khổ cần thiết của sự chia cách trong thời kỳ mới lớn của con cái chúng ta cũng có thể là một hình thức rèn luyện tinh thần khôn ngoan cho tất cả các bậc cha mẹ. Không phải bởi chúng ta chấp nhận thái độ lạc quan sai lầm rằng “Mọi chuyện nhà tôi vẫn tốt đẹp” mà bởi sự đau khổ ấy chính là dấu hiệu cho thấy thời kỳ mới lớn của con mình đang diễn ra bình thường. Quan trọng là chúng ta phải hiểu được điểm đặc biệt trong sự phát triển ở thời kỳ mới lớn này, nếu không chúng ta sẽ thấy bị xúc phạm trước sự nổi loạn bình thường của con trẻ ở thời kỳ này. Vấn đề của các con khiến chúng ta lúng túng. Chúng ta chụp nhanh một bức hình của con trẻ trong giai đoạn hiện tại và lầm tưởng đó là bộ phim lớn của cả cuộc đời chúng. Chúng ta vướng mắc với con trẻ đến nỗi không thể lùi lại một chút, suy nghĩ thật sáng suốt và tỉnh táo dẫn đường cho chúng. Thay vì hướng các con đến những giá trị của Do Thái giáo như tự lập, tự kiểm soát, tiết chế và ca tụng Chúa, chúng ta lại đưa ra những lựa chọn thường nhật của mình dựa trên những nỗi sợ hãi do các phương tiện truyền thông sản sinh ra hoặc dựa trên quan điểm của chúng ta về những thứ trông đẹp mắt trên tờ đơn nộp vào trường đại học.

Lời gợi ý rằng các bậc phụ huynh đang mất phương hướng nên nhìn nhận thời kỳ mới lớn là một điều may mắn của tôi có ý nghĩa nhiều hơn là một triết lý dễ nghe. Khi các con bạn còn nhỏ, chưa chấp nhận tôn giáo, bạn có thể làm thay công việc của chúng trong một thời gian. Điều đó có nghĩa là bạn nên nuôi dưỡng thái độ biết ơn và thay đổi quan điểm hơn là cố gắng kiểm soát con mình. Mỗi chương trong cuốn sách đều làm rõ những lời phàn nàn thường gặp ở trẻ mới lớn và cách xem xét lại nó thành một tín hiệu tốt của sự phát triển về tâm sinh lý hoặc tinh thần.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Dạy Con Kiểu Do Thái Sự May Mắn Của Điểm B Trừ PDF của tác giả Wendy Mogel nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

14 Nguyên Tắc Thành Công (Brian Tracy)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook 14 Nguyên Tắc Thành Công PDF của tác giả Brian Tracy nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Chuyển Họa Thành Phúc (Nguyễn Minh Tiến)
Tập sách này được soạn dịch từ hai bản văn khuyến thiện bằng chữ Hán được lưu hành rộng rãi nhất. Nội dung tuy không có gì quá sâu xa khó hiểu, nhưng quả thật là những điều nhận thức vô cùng thiết thực và lợi lạc trong cuộc sống, có thể giúp người ta thay đổi cả cuộc đời, hay nói theo cách của người xưa là “chuyển đổi số mạng”. Bản văn thứ nhất là “Liễu Phàm tứ huấn” hay Bốn điều khuyên dạy của tiên sinh Viên Liễu Phàm, do ông viết ra để kể lại câu chuyện của chính cuộc đời mình cho con cháu, đồng thời cũng thông qua đó nêu rõ tính xác thực của lý nhân quả, khuyên người phải biết sợ sệt tránh xa những việc xấu ác và nỗ lực làm thiện. Bản văn thứ hai là “Du Tịnh Ý công ngộ Táo thần ký” hay Chuyện Du Tịnh Ý gặp thần Bếp, do ông Du Tịnh Ý kể lại cuộc đời nhiều sóng gió của mình cùng cuộc hội ngộ ly kỳ với một nhân vật mà ông tin chắc là thần Bếp, qua đó đã giúp ông nhìn lại được nội tâm của chính mình để nhận ra và phân biệt được những điều thiện ác thật rõ rệt, nhờ đó đã có thể hạ quyết tâm “tránh ác làm thiện”, và cuối cùng đạt kết quả là chấm dứt được những chuỗi ngày tai họa liên tục giáng xuống gia đình ông, để có thể sống một cách an vui hạnh phúc cho đến tuổi già. Nói cách khác, bằng sự thay đổi tâm ý của chính mình, ông đã chuyển họa thành phúc. Cả hai bản văn nêu rõ việc “chuyển họa thành phúc” này đều đã được Đại sư Ấn Quang chọn khắc in vào phần phụ lục của sách An Sĩ toàn thư (bản Hán văn), được xếp ngay sau phần Giảng rộng nghĩa lý bài văn Âm chất. Đại sư Ấn Quang đã có nhiều hàm ý rất sâu xa khi chọn lưu hành hai bản văn khuyến thiện này, và hiệu quả lợi lạc của việc này đối với người đọc đã được chứng minh một cách rõ ràng qua thời gian. Về bản văn thứ nhất, tiên sinh Viên Liễu Phàm không viết ra như một nghiên cứu triết lý, mà như một sự chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn, bởi chính ông là người đã vận dụng thành công những điều ông viết ra đây. Ông đã thực sự chuyển đổi được số mạng, thay đổi cuộc đời từ những điều bất hạnh sang thành an vui hạnh phúc. Có thể nói, bằng vào những nỗ lực cứu người giúp đời không mệt mỏi liên tục nhiều năm, ông đã thành công trong việc tự thay đổi số phận của mình mà không cầu xin bất kỳ một sức mạnh siêu nhiên nào. Ông đã tự mình tạo lập số mạng. Và hơn thế nữa, ông đã xác quyết rằng những gì ông làm được thì mỗi người trong chúng ta cũng đều có thể làm được nếu có đủ quyết tâm, không loại trừ bất cứ ai. Đó là một tin vui rất lớn cho tất cả chúng ta trong cuộc sống đầy khó khăn bất trắc này: Ta có thể tự quyết định số phận của mình thay vì chỉ biết cầu xin hay an phận. Tính chất chủ động này chắc chắn sẽ tạo ra một đời sống lạc quan, tích cực hơn. Và chính sự lạc quan, tích cực đó tự nó đã là một phẩm chất vô cùng quan trọng cho một cuộc sống hạnh phúc, an vui. Vì thế, tuy đã hơn bốn thế kỷ trôi qua, những lời khuyên dạy của Viên Liễu Phàm vẫn còn nguyên giá trị, bởi những tiêu chí thiện ác mà ông đưa ra có vẻ như đã, đang và sẽ còn tiếp tục chứng tỏ tính đúng đắn trong cuộc đời này. Tìm mua: Chuyển Họa Thành Phúc TiKi Lazada Shopee Bản Hán văn mà chúng tôi sử dụng là bản được khắc kèm như một phần phụ đính trong sách An Sĩ toàn thư, do chính đại sư Ấn Quang đưa vào trong bản khắc in năm 1918, nghĩa là bản in theo Hán cổ, có lẽ được giữ nguyên vẹn như khi tiên sinh Viên Liễu Phàm viết ra từ đầu thế kỷ 17. Hiện nay còn có một bản khác gọi là Liễu Phàm tứ huấn bạch thoại thiên (了凡四訓白話篇), là bản văn do tiên sinh Hoàng Trí Hải diễn thuật lại theo lối văn bạch thoại. Vì muốn theo sát ý tứ người xưa nên chúng tôi đã chọn bản văn Hán cổ. Hiện đã có 3 bản Việt dịch của sách này. Bản thứ nhất của dịch giả Tuệ Châu Bùi Dư Long, xuất bản năm 2011, có ghi là “tham khảo thêm từ bản in của Ấn Quang Đại Sư”. Như đã nói, Đại sư Ấn Quang chọn in bản Hán cổ, nên sự ghi chú này cho thấy dịch giả đã chọn dịch từ bản văn bạch thoại và tham khảo thêm bản Hán cổ. Bản Việt dịch thứ hai của Ban phiên dịch Vạn Phật Thánh Thành, không biết xuất bản từ năm nào, nhưng bản lưu hành trên trang chủ Dharmasite.net (website chính thức của Vạn Phật Thánh Thành) có ghi rõ nguồn là dịch từ bản Liễu Phàm tứ huấn bạch thoại thiên. Bản Việt dịch thứ ba của Trần Tuấn Mẫn, được xuất bản năm 2013, không thấy ghi là dịch từ bản văn nào, nhưng căn cứ nội dung thì theo rất sát với bản văn bạch thoại của Hoàng Trí Hải. Như vậy, cả 3 bản Việt dịch hiện có đều dựa theo bản văn bạch thoại là chính. Bản bạch thoại có ưu điểm là dễ đọc dễ hiểu đối với người thời nay, nhưng lại có nhược điểm là thỉnh thoảng không tránh khỏi những chỗ được diễn dịch chủ quan theo ý người chuyển văn, từ đó làm sai lệch đi phần nào ý tứ trong nguyên tác. Lấy ví dụ, trong cổ bản khi nói về đức khiêm tốn và việc làm thiện tích đức có chỗ chép như sau: “須念念謙虛,塵塵方便” (tu niệm niệm khiêm hư, trần trần phương tiện...) Bản bạch thoại của Hoàng Trí Hải diễn ý 9 chữ này thành ra: “必須在每一個念頭上,都要謙虛;即使碰到像灰塵一樣極小的事 情,也要使旁人方便” (tất tu tại mỗi nhất cá niệm đầu thượng, đô yếu khiêm hư, tức sử bánh đáo tượng hôi trần nhất dạng cực tiểu đích sự tình, dã yếu sử bàng nhân phương tiện...) Căn cứ vào sự diễn ý của bản văn bạch thoại, bản Việt dịch của Vạn Phật Thánh Thành dịch là: “ý nghĩ nào cũng phải khiêm tốn, việc làm nào cũng tạo phương tiện cho người khác, dù là chuyện nhỏ như hạt bụi, cũng hết lòng mà cống hiến...” Bản của Tuệ Châu Bùi Dư Long dịch là: “thường tự nhắc nhở lấy mình cần phải khiêm hư nhún nhường dù có chuyện thật nhỏ nhặt, đối với mọi người cũng phải để ý cư xử nhũn nhặn...” Và bản của Trần Tuấn Mẫn dịch là: “trong mỗi ý nghĩ đều phải giữ khiêm tốn; dù có gặp phải những việc thật nhỏ như tro bụi cũng muốn làm cho người khác được thuận lợi...” Điểm chung của cả ba bản dịch trên là đều hiểu 2 chữ “trần trần” (塵塵) theo bản bạch thoại, là “像灰塵一樣極小” (tượng hôi trần nhất dạng cực tiểu), và do đó đều dịch là “nhỏ như hạt bụi”, “thật nhỏ nhặt”, “nhỏ như tro bụi”... Nhưng thật ra trong văn cổ dùng 2 chữ “trần trần” (塵塵) ở đây không hề có nghĩa là “hạt bụi nhỏ”, mà hàm ý là số lượng rất nhiều, hay nói theo cách thường gặp hơn là vô số, vô lượng... Do đó, câu trên phải được hiểu là: “luôn luôn giữ lòng khiêm hạ nhún nhường, vận dụng khéo léo vô số phương tiện...” Cách hiểu này không phải do chủ quan suy đoán, mà vốn đã gặp trong nhiều văn bản cổ. Như trong bài Mộng trai minh (夢齋銘) của Tô Thức đời Tống có câu: “夢覺之間,塵塵相授” (Mộng giác chi gian, trần trần tương thụ - Trong thời gian một giấc mộng, có vô số điều qua lại). Lại trong Sơn cư bát vịnh (山居八詠) của Thường Đạt đời Đường có câu “塵塵祖彿師” (trần trần Tổ Phật Sư - vô số các vị Thầy Tổ, chư Phật...) Cho đến đời nhà Thanh, Cung Tự Trân cũng có câu: “歷刼如何報彿恩?塵塵文字以為門.” (Lịch kiếp như hà báo Phật ân? Trần trần văn tự dĩ vi môn. - Trải qua nhiều kiếp biết làm sao báo đáp ơn Phật? Vô số văn chương chữ viết là chỗ để vào đạo.) Qua đó có thể thấy cách diễn giải hai chữ “trần trần” trong bản bạch thoại là không đúng ý nguyên tác, và các bản Việt dịch dựa theo đó nên cũng sai lệch theo. Khi thực hiện bản Việt dịch và chú giải này, chúng tôi hoàn toàn căn cứ theo cổ bản và có sự tham khảo, đối chiếu rất nghiêm túc để làm sáng rõ những ý nghĩa được chuyển tải trong sách. Mong rằng trong vườn hoa lại có thêm hoa, càng thêm nhiều hương sắc, mang đến cho độc giả một phương tiện khác nữa để học hỏi tinh hoa người xưa. Về bản văn thứ hai, chúng tôi chưa thấy có bản Việt dịch chính thức nào, nhưng có tìm thấy một bộ phim được xây dựng dựa theo nội dung của bản văn này, do Pháp sư Tịnh Không chủ trì thực hiện. Đây là một câu chuyện hết sức ly kỳ, kể lại cuộc hội ngộ bất ngờ giữa một nho sinh bất đắc chí với thần Bếp (Táo quân), và cuộc đối thoại giữa hai bên đã cho chúng ta thấy được nhiều nguyên tắc quan trọng trong việc phân biệt thế nào là thiện và ác, tốt và xấu, do đó cũng là nguyên nhân sẽ dẫn đến tai họa hay phúc lành. Bằng việc suy xét và vận dụng những điều được chỉ ra trong mẩu đối thoại ngắn ngủi giữa đêm giao thừa, người hàn sĩ Du Đô đã tự đổi tên hiệu mình từ Lương Thần sang thành Tịnh Ý, với tâm nguyện nhấn mạnh vào sự nỗ lực để làm thanh tịnh tâm ý của chính mình. Và sự thành công của Du Tịnh Ý trong việc chuyển đổi số mạng cũng cho chúng ta thêm một tấm gương điển hình về việc chuyển họa thành phúc. Đó cũng chính là lý do chúng tôi đã chọn đưa câu chuyện của ông vào sách này. Qua việc giới thiệu hai câu chuyện có thật về những nhân vật đã được truyền tụng qua nhiều thế hệ, chúng tôi hy vọng người đọc sẽ có thể tiếp nhận được những hàm ý tốt đẹp của người xưa trong việc ghi chép và lưu hành rộng rãi những câu chuyện này, từ đó sẽ rút ra được cho chính bản thân mình những bài học quý giá trong việc tu thân hướng thiện. Mặc dù mong muốn là như vậy, nhưng với những hạn chế nhất định về năng lực và trình độ của người soạn dịch, e rằng cũng không thể tránh khỏi ít nhiều sai sót. Vì thế, chúng tôi rất mong nhận được sự chỉ dạy từ quý độc giả gần xa, để chúng tôi có thể cung kính lắng nghe và sửa chữa hoàn thiện trong những lần tái bản. Trân trọng,Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nguyễn Minh Tiến":Các Vị Đại Sư Tái Sinh Tây TạngTruyền Thuyết Về Bồ Tát Quán Thế ÂmQuy Sơn Cảnh SáchĐừng Đánh Mất Tình YêuHạnh Phúc Là Điều Có ThậtKiến Thúc Vui Về Cơ Thể Con NgườiĐiều Trị Bệnh Tận Gốc Năng Lực Của Tâm Bi MẫnCẩm Nang Phóng SinhChuyển Họa Thành PhúcĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chuyển Họa Thành Phúc PDF của tác giả Nguyễn Minh Tiến nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Chuyển Họa Thành Phúc (Nguyễn Minh Tiến)
Tập sách này được soạn dịch từ hai bản văn khuyến thiện bằng chữ Hán được lưu hành rộng rãi nhất. Nội dung tuy không có gì quá sâu xa khó hiểu, nhưng quả thật là những điều nhận thức vô cùng thiết thực và lợi lạc trong cuộc sống, có thể giúp người ta thay đổi cả cuộc đời, hay nói theo cách của người xưa là “chuyển đổi số mạng”. Bản văn thứ nhất là “Liễu Phàm tứ huấn” hay Bốn điều khuyên dạy của tiên sinh Viên Liễu Phàm, do ông viết ra để kể lại câu chuyện của chính cuộc đời mình cho con cháu, đồng thời cũng thông qua đó nêu rõ tính xác thực của lý nhân quả, khuyên người phải biết sợ sệt tránh xa những việc xấu ác và nỗ lực làm thiện. Bản văn thứ hai là “Du Tịnh Ý công ngộ Táo thần ký” hay Chuyện Du Tịnh Ý gặp thần Bếp, do ông Du Tịnh Ý kể lại cuộc đời nhiều sóng gió của mình cùng cuộc hội ngộ ly kỳ với một nhân vật mà ông tin chắc là thần Bếp, qua đó đã giúp ông nhìn lại được nội tâm của chính mình để nhận ra và phân biệt được những điều thiện ác thật rõ rệt, nhờ đó đã có thể hạ quyết tâm “tránh ác làm thiện”, và cuối cùng đạt kết quả là chấm dứt được những chuỗi ngày tai họa liên tục giáng xuống gia đình ông, để có thể sống một cách an vui hạnh phúc cho đến tuổi già. Nói cách khác, bằng sự thay đổi tâm ý của chính mình, ông đã chuyển họa thành phúc. Cả hai bản văn nêu rõ việc “chuyển họa thành phúc” này đều đã được Đại sư Ấn Quang chọn khắc in vào phần phụ lục của sách An Sĩ toàn thư (bản Hán văn), được xếp ngay sau phần Giảng rộng nghĩa lý bài văn Âm chất. Đại sư Ấn Quang đã có nhiều hàm ý rất sâu xa khi chọn lưu hành hai bản văn khuyến thiện này, và hiệu quả lợi lạc của việc này đối với người đọc đã được chứng minh một cách rõ ràng qua thời gian. Về bản văn thứ nhất, tiên sinh Viên Liễu Phàm không viết ra như một nghiên cứu triết lý, mà như một sự chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn, bởi chính ông là người đã vận dụng thành công những điều ông viết ra đây. Ông đã thực sự chuyển đổi được số mạng, thay đổi cuộc đời từ những điều bất hạnh sang thành an vui hạnh phúc. Có thể nói, bằng vào những nỗ lực cứu người giúp đời không mệt mỏi liên tục nhiều năm, ông đã thành công trong việc tự thay đổi số phận của mình mà không cầu xin bất kỳ một sức mạnh siêu nhiên nào. Ông đã tự mình tạo lập số mạng. Và hơn thế nữa, ông đã xác quyết rằng những gì ông làm được thì mỗi người trong chúng ta cũng đều có thể làm được nếu có đủ quyết tâm, không loại trừ bất cứ ai. Đó là một tin vui rất lớn cho tất cả chúng ta trong cuộc sống đầy khó khăn bất trắc này: Ta có thể tự quyết định số phận của mình thay vì chỉ biết cầu xin hay an phận. Tính chất chủ động này chắc chắn sẽ tạo ra một đời sống lạc quan, tích cực hơn. Và chính sự lạc quan, tích cực đó tự nó đã là một phẩm chất vô cùng quan trọng cho một cuộc sống hạnh phúc, an vui. Vì thế, tuy đã hơn bốn thế kỷ trôi qua, những lời khuyên dạy của Viên Liễu Phàm vẫn còn nguyên giá trị, bởi những tiêu chí thiện ác mà ông đưa ra có vẻ như đã, đang và sẽ còn tiếp tục chứng tỏ tính đúng đắn trong cuộc đời này. Tìm mua: Chuyển Họa Thành Phúc TiKi Lazada Shopee Bản Hán văn mà chúng tôi sử dụng là bản được khắc kèm như một phần phụ đính trong sách An Sĩ toàn thư, do chính đại sư Ấn Quang đưa vào trong bản khắc in năm 1918, nghĩa là bản in theo Hán cổ, có lẽ được giữ nguyên vẹn như khi tiên sinh Viên Liễu Phàm viết ra từ đầu thế kỷ 17. Hiện nay còn có một bản khác gọi là Liễu Phàm tứ huấn bạch thoại thiên (了凡四訓白話篇), là bản văn do tiên sinh Hoàng Trí Hải diễn thuật lại theo lối văn bạch thoại. Vì muốn theo sát ý tứ người xưa nên chúng tôi đã chọn bản văn Hán cổ. Hiện đã có 3 bản Việt dịch của sách này. Bản thứ nhất của dịch giả Tuệ Châu Bùi Dư Long, xuất bản năm 2011, có ghi là “tham khảo thêm từ bản in của Ấn Quang Đại Sư”. Như đã nói, Đại sư Ấn Quang chọn in bản Hán cổ, nên sự ghi chú này cho thấy dịch giả đã chọn dịch từ bản văn bạch thoại và tham khảo thêm bản Hán cổ. Bản Việt dịch thứ hai của Ban phiên dịch Vạn Phật Thánh Thành, không biết xuất bản từ năm nào, nhưng bản lưu hành trên trang chủ Dharmasite.net (website chính thức của Vạn Phật Thánh Thành) có ghi rõ nguồn là dịch từ bản Liễu Phàm tứ huấn bạch thoại thiên. Bản Việt dịch thứ ba của Trần Tuấn Mẫn, được xuất bản năm 2013, không thấy ghi là dịch từ bản văn nào, nhưng căn cứ nội dung thì theo rất sát với bản văn bạch thoại của Hoàng Trí Hải. Như vậy, cả 3 bản Việt dịch hiện có đều dựa theo bản văn bạch thoại là chính. Bản bạch thoại có ưu điểm là dễ đọc dễ hiểu đối với người thời nay, nhưng lại có nhược điểm là thỉnh thoảng không tránh khỏi những chỗ được diễn dịch chủ quan theo ý người chuyển văn, từ đó làm sai lệch đi phần nào ý tứ trong nguyên tác. Lấy ví dụ, trong cổ bản khi nói về đức khiêm tốn và việc làm thiện tích đức có chỗ chép như sau: “須念念謙虛,塵塵方便” (tu niệm niệm khiêm hư, trần trần phương tiện...) Bản bạch thoại của Hoàng Trí Hải diễn ý 9 chữ này thành ra: “必須在每一個念頭上,都要謙虛;即使碰到像灰塵一樣極小的事 情,也要使旁人方便” (tất tu tại mỗi nhất cá niệm đầu thượng, đô yếu khiêm hư, tức sử bánh đáo tượng hôi trần nhất dạng cực tiểu đích sự tình, dã yếu sử bàng nhân phương tiện...) Căn cứ vào sự diễn ý của bản văn bạch thoại, bản Việt dịch của Vạn Phật Thánh Thành dịch là: “ý nghĩ nào cũng phải khiêm tốn, việc làm nào cũng tạo phương tiện cho người khác, dù là chuyện nhỏ như hạt bụi, cũng hết lòng mà cống hiến...” Bản của Tuệ Châu Bùi Dư Long dịch là: “thường tự nhắc nhở lấy mình cần phải khiêm hư nhún nhường dù có chuyện thật nhỏ nhặt, đối với mọi người cũng phải để ý cư xử nhũn nhặn...” Và bản của Trần Tuấn Mẫn dịch là: “trong mỗi ý nghĩ đều phải giữ khiêm tốn; dù có gặp phải những việc thật nhỏ như tro bụi cũng muốn làm cho người khác được thuận lợi...” Điểm chung của cả ba bản dịch trên là đều hiểu 2 chữ “trần trần” (塵塵) theo bản bạch thoại, là “像灰塵一樣極小” (tượng hôi trần nhất dạng cực tiểu), và do đó đều dịch là “nhỏ như hạt bụi”, “thật nhỏ nhặt”, “nhỏ như tro bụi”... Nhưng thật ra trong văn cổ dùng 2 chữ “trần trần” (塵塵) ở đây không hề có nghĩa là “hạt bụi nhỏ”, mà hàm ý là số lượng rất nhiều, hay nói theo cách thường gặp hơn là vô số, vô lượng... Do đó, câu trên phải được hiểu là: “luôn luôn giữ lòng khiêm hạ nhún nhường, vận dụng khéo léo vô số phương tiện...” Cách hiểu này không phải do chủ quan suy đoán, mà vốn đã gặp trong nhiều văn bản cổ. Như trong bài Mộng trai minh (夢齋銘) của Tô Thức đời Tống có câu: “夢覺之間,塵塵相授” (Mộng giác chi gian, trần trần tương thụ - Trong thời gian một giấc mộng, có vô số điều qua lại). Lại trong Sơn cư bát vịnh (山居八詠) của Thường Đạt đời Đường có câu “塵塵祖彿師” (trần trần Tổ Phật Sư - vô số các vị Thầy Tổ, chư Phật...) Cho đến đời nhà Thanh, Cung Tự Trân cũng có câu: “歷刼如何報彿恩?塵塵文字以為門.” (Lịch kiếp như hà báo Phật ân? Trần trần văn tự dĩ vi môn. - Trải qua nhiều kiếp biết làm sao báo đáp ơn Phật? Vô số văn chương chữ viết là chỗ để vào đạo.) Qua đó có thể thấy cách diễn giải hai chữ “trần trần” trong bản bạch thoại là không đúng ý nguyên tác, và các bản Việt dịch dựa theo đó nên cũng sai lệch theo. Khi thực hiện bản Việt dịch và chú giải này, chúng tôi hoàn toàn căn cứ theo cổ bản và có sự tham khảo, đối chiếu rất nghiêm túc để làm sáng rõ những ý nghĩa được chuyển tải trong sách. Mong rằng trong vườn hoa lại có thêm hoa, càng thêm nhiều hương sắc, mang đến cho độc giả một phương tiện khác nữa để học hỏi tinh hoa người xưa. Về bản văn thứ hai, chúng tôi chưa thấy có bản Việt dịch chính thức nào, nhưng có tìm thấy một bộ phim được xây dựng dựa theo nội dung của bản văn này, do Pháp sư Tịnh Không chủ trì thực hiện. Đây là một câu chuyện hết sức ly kỳ, kể lại cuộc hội ngộ bất ngờ giữa một nho sinh bất đắc chí với thần Bếp (Táo quân), và cuộc đối thoại giữa hai bên đã cho chúng ta thấy được nhiều nguyên tắc quan trọng trong việc phân biệt thế nào là thiện và ác, tốt và xấu, do đó cũng là nguyên nhân sẽ dẫn đến tai họa hay phúc lành. Bằng việc suy xét và vận dụng những điều được chỉ ra trong mẩu đối thoại ngắn ngủi giữa đêm giao thừa, người hàn sĩ Du Đô đã tự đổi tên hiệu mình từ Lương Thần sang thành Tịnh Ý, với tâm nguyện nhấn mạnh vào sự nỗ lực để làm thanh tịnh tâm ý của chính mình. Và sự thành công của Du Tịnh Ý trong việc chuyển đổi số mạng cũng cho chúng ta thêm một tấm gương điển hình về việc chuyển họa thành phúc. Đó cũng chính là lý do chúng tôi đã chọn đưa câu chuyện của ông vào sách này. Qua việc giới thiệu hai câu chuyện có thật về những nhân vật đã được truyền tụng qua nhiều thế hệ, chúng tôi hy vọng người đọc sẽ có thể tiếp nhận được những hàm ý tốt đẹp của người xưa trong việc ghi chép và lưu hành rộng rãi những câu chuyện này, từ đó sẽ rút ra được cho chính bản thân mình những bài học quý giá trong việc tu thân hướng thiện. Mặc dù mong muốn là như vậy, nhưng với những hạn chế nhất định về năng lực và trình độ của người soạn dịch, e rằng cũng không thể tránh khỏi ít nhiều sai sót. Vì thế, chúng tôi rất mong nhận được sự chỉ dạy từ quý độc giả gần xa, để chúng tôi có thể cung kính lắng nghe và sửa chữa hoàn thiện trong những lần tái bản. Trân trọng,Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nguyễn Minh Tiến":Các Vị Đại Sư Tái Sinh Tây TạngTruyền Thuyết Về Bồ Tát Quán Thế ÂmQuy Sơn Cảnh SáchĐừng Đánh Mất Tình YêuHạnh Phúc Là Điều Có ThậtKiến Thúc Vui Về Cơ Thể Con NgườiĐiều Trị Bệnh Tận Gốc Năng Lực Của Tâm Bi MẫnCẩm Nang Phóng SinhChuyển Họa Thành PhúcĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chuyển Họa Thành Phúc PDF của tác giả Nguyễn Minh Tiến nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Bảng Chỉ Đường (Siddhartha Gotama)
Siddhartha Gotama ( hoặc gautama) thường được biết đến với tên gọi: Đức Phật. Buddha (Phật) nghĩa là sự sáng suốt, là một trong mười danh hiệu. Một danh hiệu khác thường được biết đến là Như Lai, Siddhartha Gotama sinh ra cách đây khoảng gần 3000 năm, gần biên giới giữa Ấn Độ và Nepal bây giờ, thuộc dòng dõi Sakya ( thích ca) nên đôi khi được gọi là Phật thích ca Lời nói tốt đẹp sau đây được truyền đi về Thế Tôn Gotama: "Ðây là Như Lai,Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Tìm mua: Bảng Chỉ Đường TiKi Lazada Shopee Với thắng trí, Ngài tự thân chứng ngộ thế giới này cùng với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Sau khi chứng ngộ, Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện có nghĩa, có văn. Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn, đầy đủ, trong sạch. Tốt lành thay, sự chiêm ngưỡng một vị A-la-hán như vậy!"Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bảng Chỉ Đường PDF của tác giả Siddhartha Gotama nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.