Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tây Vực Liệt Vương Ký

“Gia Tư Đinh trước khi chết nói với Huyền Trang rằng: “Trong bình có quỷ…” Ấy vậy mà lại có ma quỷ thật. Con quỷ trong chiếc bình nhìn thấu dục vọng của chúng sinh, khuấy đảo cả một vùng Tây Vực vốn đã bất ổn nay lại càng hỗn loạn hơn. Chiếc bình của vua Đại Vệ đi đến đâu, nơi đó máu chảy nhuộm đỏ sa mạc, ánh nắng mặt trời không thể chiếu rọi. Nhưng ma quỷ có thần thông quảng đại đến mức một tay che kín cả bầu trời…” *** Bộ sách 81 Án Tây Du gồm có: Đại Đường Nê Lê Ngục Tây Vực Liệt Vương Ký Đại Đường Phạm Thiên Ký Đại Đường Đôn Hoàng Biến *** Reviewer: Điền Yên —– Tập 2 này hay không thua gì tập 1, các câu chuyện lồng ghép vào nhau, khi ta vừa tưởng đây là kẻ chủ mưu thì lại lòi ra một boss khác to hơn. Bối cảnh của truyện là phần sau của tập 1 nhưng không đọc tập 1 mà bay vào tập 2 cũng không quá mức lạ lẫm. Sau khi phá vỡ một âm mưu tày đình nhắm vào hoàng đế Trung Hoa thì Huyền Trang lại tiếp tục đường Tây Du, và lần này thì nâng level lên phá án xuyên quốc gia. Ở Tây Vực lưu truyền câu chuyện về Chiếc bình của vua Đại Vệ, giống như thần đèn, hắn cho ngươi 3 điều ước, sau khi điều ước số 3 hoàn thành, ngươi phải trả tự do cho hắn. Chiếc bình này là vật trấn quốc của Tát San Ba Tư suốt 400 năm. Có chiếc bình trong tay, không kẻ thù nào xâm phạm được vương quốc. Bởi vì quốc vương không bao giờ ước đủ 3 điều, cứ xong điều 2 thì truyền cho kế hoàng đế, cứ như thế lừa gạt, lợi dụng chiếc bình để duy trì thái bình thịnh trị. Nhưng sức hút của chiếc bình quá lớn, ai mà chẳng ôm ấp những khát vọng khó thành, bỗng nhiên xuất hiện một vị thần có thể biến chúng thành hiện thực, ngay đến người thiền tâm trấn định như Huyền Trang cũng không khói có chút lung lay, đừng nói những người dã tâm sâu nặng. Chính vì thế, chiếc bình trở thành vật bị tranh đoạt khắp Tây Vực. Nhưng thực tế hơn cả chiếc bình, đó là Con đường Tơ Lụa, các quốc gia nhỏ đều phải dựa vào con đường này mà tồn tại, chỉ cần tuyến đường thay đổi là có thể dẫn đến sự hưng thịnh hay suy tàn của cả vương quốc.Nhân vật chính trong cuộc chiến giành Con đường Tơ Lụa trong Tây Vực liệt vương ký là Yên Kỳ và Cao Xương. Mối tình như Romeo và Juliette của Tam hoàng tử Cao Xương và công chúa Yên Kỳ trở thành công cụ chính trị, có điều, ở đây khác một chút. Công chúa Yên Kỳ xinh đẹp cơ trí, từ nhỏ đã biết mình nặng gánh giang san nên hoàn toàn khinh bỉ chàng hoàng tử si tình tội nghiệp không màng vương vị. Nhưng nếu có thể lợi dụng tình yêu của chàng để đạt được mục đích thì nàng không ngại diễn một vở kịch tình yêu thống thiết. Tam hoàng tử này, ban đầu tôi cực kỳ ngứa mắt vì chàng ta ngoài tình yêu với Long Sương công chúa ra thì chẳng để ý tới bất kỳ cái gì. Giang sơn xã tắc, cha mẹ huynh đệ, danh dự mặt mũi chỉ là mây bay, chàng sẵn sàng tung hê tất cả chỉ vì một nụ cười của giai nhân. Sao trên đời lại có cái loại đàn ông bạc nhược ngu xuẩn thế không biết?! Long Sương Nguyệt Chi nghĩ thế, tôi đồng tình với nàng, cả thiên hạ không ai nghĩ khác, trừ Chu công công – người chăm sóc cho hoàng tử từ nhỏ. Trong mắt ông, chàng là người thông tuệ nhất. Mãi khi đọc đến cuối truyện tôi mới nhận ra Chu công công đã đúng. Không phải chàng là boss cuối, toàn bộ câu chuyện đều là mưu kế của chàng như tôi đã đoán mò ban đầu mà tận đến phút cuối cùng, Khúc Trí Thịnh vẫn là 1 người chỉ đặt Long Sương Nguyệt Chi làm mục tiêu tối thượng. Đó chính là điểm cao minh của chàng, biết rõ mình muốn gì, luôn một mực bám đuổi mục đích, không hề suy chuyển, bất chấp thế nhân, nhưng về sau, trên con đường Tây Du với Huyền Trang, chàng đã học được nhiều điều, biết buông bỏ mà không từ bỏ.Thực ra, gây ấn tượng sâu sắc nhất với tôi trong bộ truyện này là hai câu chuyện. Câu chuyện thứ nhất có thể viết thành một bộ ngôn tình. Khi đọc lịch sử, tôi luôn suy nghĩ về số phận của các nàng công chúa hòa thân – những cô gái chân yếu tay mềm gánh trọng trách của cả dân tộc, phải phát triển duy trì mối quan hệ giữa 2 quốc gia, phải đóng vai trò gián điệp công khai. Các nàng có khác gì chất tử, là con tin đưa đến dị quốc, quan hệ hai nước tốt đẹp thì nàng được tử tế, bằng không, sự khó khăn mà các nàng phải đối mặt thật khó tưởng tượng nối. Nếu quốc gia của nàng bị diệt vong, nàng chỉ là con bài vứt đi. Chết không chết được vì còn phải gánh trách nhiệm với lưu dân sống sót, sống cũng không xong, nhất là khi trượng phu của nàng là một kẻ khốn nạn. Vũ Văn Ngọc Ba là công chúa thời Tùy Mạt, sang Cao Xương hòa thân. Năm đầu tiên, phu thê ân ái, nhưng sang năm tiếp theo, nhà Tùy sụp đổ, vương triều Cao Xương bị đảo chính, nàng cùng hoàng tộc Cao Xương phải nương nhờ Đột Quyết. Một nàng công chúa vong quốc như nàng thì còn có tác dụng gì ngoài nhan sắc? Chồng nàng đẩy nàng lên giường quý tộc Đột Quyết, cố giành chút lợi ích. 6 năm lưu lạc là 6 năm nàng chịu đủ khuất nhục, đến khi giành lại được vương quyền, hắn vẫn phong nàng làm vương phi nhưng đêm đêm hàng hạ tra tấn nàng, khiến toàn thân nàng đầy vết thương thê thảm, khiến tâm hồn nàng chết tàn chết lụi. Nhưng nàng không dám tự sát vì con dân nàng vẫn còn sống, vì nàng tìm được một người yêu nàng. Người ấy vì nàng mà ủ mưu mười mấy năm, chỉ cần hắn lên ngôi, nàng sẽ là vương phi của hắn. Nhưng cả nàng và hắn lại đều chỉ là quân cờ trong một ván cờ của người khác. Người này cũng vì oán hận mà âm thầm lập kế 20 năm, không ngại hủy hoại ngàn vạn người. Trí tuệ của y thật khó lòng đo đếm được. Rốt cuộc, Ngọc Ba – nàng công chúa hòa thân của vong quốc vẫn không thể đến được với người mình thương. “Nhà gả ta tới phương trời xa, tới vùng dị quốc vua Ô Tôn cai trị. Lều vải thay nhà, tường là chăn dạ, lấy thịt thay cơm, sữa dùng thay nước. Ở nơi này thường đau lòng tưởng nhớ, muốn làm cánh hạc tìm về lại cố hương.” Và câu chuyện thứ hai khiến tôi nhớ đến Bạch Dạ Hành, dù người ấy đang ở dưới ánh mặt trời chói lọi vẫn như bước đi trong bóng tối u ám vĩnh hằng. Câu chuyện này, nếu tôi kể ra thì sẽ lộ hết bí mật. Huyền Trang là mắt xích kết nối tất cả những câu chuyện này. Là Phật tử nhưng dường như ngài theo chủ nghĩa duy vật, ngay từ đầu đã không tin ma quỷ, không tin chiếc bình kia thực sự có thần yêu trấn yểm mà đã dự đoán có người bày ra mưu ma chước quỷ hòng xáo động lòng người. Ngài làm mọi kế hoạch thay đổi, là người chứng kiến nỗi bi thương, lòng tham hận của con người, ý chí tới Thiên Trúc thỉnh kinh của ngài càng thêm sắt đá. Bằng lòng nhân từ và trí thông minh của mình, ngài đã phá giải bí mật lưu truyền hơn 400 năm về Chiếc bình của vua Đại Vệ. Nhưng dù sao, ngài cũng chỉ là một cá nhân nhỏ nhoi trong dòng chảy lịch sử, bánh xe số phận không vì ngài chặn mà dừng lại. Người phải chết vẫn chết, người không phải chết cũng chết. Hành sự tại nhân, thành sự tại thiên, người tính không bằng trời tính, tưởng đã xong hết rồi mới đau đớn nhận ra bao công lao khổ cực của mình bấy lâu chỉ đổ ra sông ra biển, toàn bộ kế hoạch đã hỏng ngay từ bước đầu tiên. Văn phong tác giả vẫn như tập 1, viết rất chắc tay, tìm hiểu kỹ càng lịch sử, lồng những chi tiết có thật vào tác phẩm tưởng tượng của mình. Lời văn vừa gay cấn vừa hóm hỉnh. Ví dụ như đoạn Huyền Trang và Khúc Trí Thịnh bị bắt, ném xuống một cái giếng hoang: “- Sư phụ, đệ tử sợ chết. – Khúc Trí Thịnh thành thật nói – người dùng Phật pháp khuyên răn đệ tử đi. – Bần tăng không có cách nào dùng Phật pháp để khuyên răn con, – Huyền Trang tiếp tục ngáp. – Tại sao? – Khúc Trí Thịnh buồn bực. – Bởi vì… – Huyền Trang duỗi chân ra cho hỏi mái một chút, nước tron giếng ào ào vang lên, – trong lòng bần tăng đang niệm A Di Đà Phật, khi sợ chết, ta lập tức nghĩ rằng có lẽ sau khi chết rồi vừa nhắm mắt lại liền có thể nhìn thấy Phật. Như vậy bản thân lại cảm thấy vui vẻ. Nhưng con thì sao? Trong lòng con chỉ nhớ đên Long Sương Nguyệt Chi, nếu vừa nhắm mắt mà lại nhìn thấy Phật A Di Đà, con chắc là không thấy vui vẻ đâu.” Dịch giả của tập 2 này cũng rất tốt. Truyện có khoảng hơn chục lỗi chính tả và ngữ pháp. Giá bìa 186K nhưng với lượng trang sách này thì giá đó là xứng đáng. Sách nặng 850g, nằm đọc chỉ sợ rơi vào mặt thì lại được lý do chính đáng đi làm lại mũi. Cùng một hình vẽ, màu cát rất hợp với cái tên truyện vì vùng Tây Vực luôn làm tôi nghĩ đến gió, cát và sa mạc. Truyện hay, đáng đọc. Vô cùng ngóng chờ tập 3 và các tác phẩm khác của Trần Tiệm, Dang Thi Quynh Anh *** Công Nguyên năm 628, Đại Đường năm Trinh Quán thứ hai. Mùa xuân tháng Hai. Tại lưu vực Lưỡng Hà cách Trường An một vạn bốn nghìn dặm, đế quốc Tát San Ba Tư[1] (Sassan) đã tồn tại được bốn trăm năm, đúng vào năm trị vì thứ ba mươi tám của vị hoàng đế vĩ đại cuối cùng - Khố Tư Lỗ đệ nhị[2] (Khosrow II). Khố Tư Lỗ đệ nhị đã già yếu và sa đọa. Ba mươi tám năm trước, sau khi phế vị rồi giết chết phụ vương mình, ông ta đã dành hai mươi năm để càn quét Bái Chiêm Đình[3] (Đế quốc Đông La Mã/Byzantium), chinh phục Tiểu Á Tế Á[4] (Anatolia), cướp sạch Tự Lợi Á (Syria), chiếm đóng An Điều Khắc[5] (Antiochia), Đại Mã Sĩ Cách[6] (Damascus), Gia Lộ Tát Lãnh[7] (Jerusalem) và toàn bộ Ai Cập[8], thánh vật của Bái Chiêm Đình - cây thập giá hành quyết Chúa Gia Tô (Chúa Jesus) - cũng trở thành chiến lợi phẩm cho ông ta tùy ý đem ra khoe mẽ, trưng giễu trên đường diễu binh, dưới sự trị vì của ông ta Tát San Ba Tư đã chuyển biến, đạt đến đỉnh điểm của sự huy hoàng. Sau đó, chỉ mất vỏn vẹn có hai năm để Khố Tư Lỗ đệ nhị đưa đế chế của mình từ đỉnh cao huy hoàng trượt dài xuống đáy sâu trụy lạc. Vị hoàng đế xấu xa của Bái Chiêm Đình là Hi Lạp Khắc Lược[9](Heraclius) và người Đột Quyết bí mật câu kết với nhau, chia làm hai cánh quân, từ hai mặt trận phía đông và tây đánh úp vào, đại quân của Hi Lạp Khắc Lược thế như chẻ tre, đánh thẳng từ Tiểu Á Tế Á tới Thái Tây Phong[10] (Ctesiphon). Trong thủ phủ của đế quốc, nơi nơi đều là những quý tộc ấp ủ tham vọng riêng, là những vị tướng quân cao ngạo không chịu tuân phục hoàn toàn, là những người dân thường đang chờ đợi thời cơ tạo phản và đám nhi tử lòng dạ hiểm ác khó lường. Ánh mặt trời chiếu rọi lên cung điện Thái Tây Phong, hương liệu an thần được đốt trong lư hương bằng ngọc lưu ly tỏa ra làn khói xanh nhàn nhạt, hòa trong ánh mặt trời, chờn vờn giữa tẩm cung nguy nga lộng lẫy. Khố Tư Lỗ đệ nhị mệt mỏi tỉnh dậy, nhưng xem chừng không muốn mở mắt ra. Hai năm nay lão hoàng đế mắc phải bệnh kiết lị, tháo dạ nghiêm trọng khiến sức khỏe suy sụp hẳn, cũng khiến cho tính tình càng trở nên cáu kỉnh, nóng nảy. Trong suy nghĩ, Khố Tư Lỗ đệ nhị hoài niệm đến hành cung Hải Nhĩ Vượng[11] (Dastgerd), nơi đó khiến ông ta nhớ đến những ngày tháng ở cùng với ái phi Hi Lâm[12] (Shirin). Ông ta vì nàng mà cho xây dựng cung điện Tháp Cách Địch Tư[13] (Behistun), vòm mái điện dát vàng, nạm bạch ngọc làm thành mặt trời, mặt trăng và các vì sao, kết hợp cùng nhiều cơ quan vận hành phức tạp, để khi bọn họ nằm trên giường, có thể nhìn thấy được sự chuyển động của mặt trời và sự thay đổi của bốn mùa. Mặc dù năm nay Hi Lâm đã gần năm mươi tuổi, ông ta vẫn cho rằng nàng là người phụ nữ đẹp nhất trên thế gian này. Đáng tiếc, hành cung Hải Nhĩ Vượng đã bị hoàng đế Hi Lạp Khắc Lược phá hủy, lúc này gã vẫn đang nán lại ở ngoài thành Thái Tây Phong chưa muốn dời binh, chờ đợi thời cơ giáng cho Tát San Ba Tư một đòn trí mạng. Nhớ đến Hi Lâm, gương mặt của Khố Tư Lỗ đệ nhị dịu dàng hẳn, ông ta quyết định nghe theo lời khuyên nhủ của Hi Lâm, lập hài tử của nàng là Mã Nhĩ Đan Sa (Mardanshah) làm thái tử, mặc dù đứa nhỏ mới chỉ sáu tuổi. Vậy thì đã sao? Ta vẫn là vua của Tát San Ba Tư, vua của vạn vua, vua của toàn vũ trụ! Khố Tư Lỗ đệ nhị hạ quyết tâm, gắng cựa người ngồi dậy, thì bất chợt có một bàn tay xuất hiện trong làn khói hương an thần chờn vờn trước mắt, áp lên trán và dùng sức ấn cơ thể ông ta nằm xuống giường. Khố Tư Lỗ đệ nhị còn chưa kịp phản ứng, đã thấy có thêm vô số bàn tay xuất hiện trong màn khói hương, cổ, tay và chân của ông ta đều bị giữ chặt, bị đè ép trên giường thành hình chữ đại (大). Sự tình quái lạ xảy ra trong nháy mắt, dường như đang có rất nhiều người khéo léo phối hợp cùng với nhau để đối phó với ông ta, nỗi sợ hãi khôn cùng dâng trào, nhưng lão hoàng đế không nhìn thấy bóng dáng những người đó. Khố Tư Lỗ đệ nhị cố há miệng ra, muốn kêu thét lên, nhưng miệng đã bị bịt chặt lại, bọn họ dùng một cái kìm bằng đồng xanh kẹp lấy một viên trầm an thần còn cháy đỏ lửa ra khỏi lư hương rồi nhét vào miệng ông ta. Lão hoàng đế không ngừng giãy giụa, phát ra những tiếng kêu rên rỉ vì đau đớn. Nhưng chiếc kìm kia vẫn đâm sâu vào trong cổ họng của ông ta, cho đến tận khi viên trầm nóng nghẹn lại trong cổ họng mới thôi. Cơn đau xé họng cùng sự khó thở đã khiến cho Khố Tư Lỗ đệ nhị ngất lịm đi. Cũng không biết qua bao lâu, Khố Tư Lỗ đệ nhị giật mình tỉnh lại trong cơn đau co giật, ông ta thấy trưởng tử của mình là Hi Lỗ Gia[14](Shiruya) đang kính cẩn đứng bên đầu giường. Hai mắt của Khố Tư Lỗ đệ nhị trợn ngược lên, nhất thời quên cả đau đớn, vì giờ ông ta đã nhận ra Hi Lỗ Gia đang khoác trên người bộ triều phục dành cho hoàng đế, tay nắm quyền trượng, đầu đội vương miện vàng. Lão hoàng đế cảm thấy tức tối vô cùng, nhưng cổ họng lại chỉ phát ra được những tiếng ú ớ không rõ ràng, cùng cơn đau bỏng rát đến khó chịu. “Suỵt!” Hi Lỗ Gia dùng tay nhẹ nhàng áp xuống, che miệng phụ vương của mình, rồi lại chỉ ra phía ngoài cửa sổ, “người nghe đi!”. Lúc này, những âm thanh nhiễu loạn ào ạt như sóng thần ập tới từ phía ngoài cung điện, Khố Tư Lỗ đệ nhị chú tâm lắng nghe, sắc mặt của ông ta cũng dần biến đổi. Đó không phải là tiếng sóng thần ập tới, mà là tiếng reo hò của vô số người. Tiếng reo hò từ xa vọng đến gần, càng lúc càng rõ ràng, cho đến khi vang rần làm chấn động cả tầng mái của cung điện - “Hoàng đế Ca Ngõa Đức (Kavadh)!”. “Ca Ngõa Đức đệ nhị”, Hi Lỗ Gia sửa lại, “chính là con, Hi Lỗ Gia.” Khố Tư Lỗ đệ nhị nằm đờ người ra, suy sụp hoàn toàn, lão hoàng đế hiểu được rằng mình đã bị phế truất, giống như ba mươi tám năm trước, ông ta phế truất ngôi vị của phụ vương mình là Hoắc Nhĩ Mạc Tư Đức đệ tứ[15] (Hormizd IV). “Phụ vương đáng kính của con, vị vua của vạn vua Ba Tư, người có biết tại sao con lại phải thiêu cháy cổ họng của người như vậy không?” Ca Ngõa Đức đệ nhị cười khẽ, “vì con không thể để người đọc câu thần chú đó được. Cũng giống với cách người từng làm trước khi soán ngôi của tổ phụ thôi, người đã khiến tổ phụ mù cả hai mắt. Tát San Ba Tư vĩ đại có thể tồn tại được suốt bốn trăm năm nay đều dựa cả vào sự bảo hộ từ Chiếc bình của vua Đại Vệ[16] (David), nên suốt ba mươi tám năm nay, dẫu cho người có dốc hết binh lực đi gây chiến, xa hoa lãng phí, hoang dâm vô đạo, cũng không có ai dám chống đối người cả. Ma lực từ Chiếc bình của vua Đại Vệ khiến cho vạn quốc khiếp sợ, đến Bái Chiêm Đình cường đại là thế cũng phải run sợ dưới ánh hào quang chói lọi của nó, để mặc cho quân đội của người giày xéo. Vậy tại sao chỉ trong vòng hai năm ngắn ngủi, sức mạnh của đế quốc chúng ta lại suy giảm, phải run sợ trước lưỡi đao của quân đội Bái Chiêm Đình và người Đột Quyết? Lẽ nào câu thần chú của người đã hết tác dụng rồi sao?”. Khố Tư Lỗ đệ nhị nhắm mắt lại. “Nói cho con biết đi, phụ vương vĩ đại!” Ca Ngõa Đức đệ nhị lôi ra một tờ giấy đay của phương đông đã được cắt vuông vức, đặt trước ngực của Khố Tư Lỗ đệ nhị, rồi đưa cho ông ta một cây bút lông ngỗng, “Chiếc bình của vua Đại Vệ đang ở đâu? Con muốn là chủ nhân mới của nó và lại có được ba điều ước toàn năng. Con sẽ dẫn dắt Tát San Ba Tư đạt tới đỉnh cao huy hoàng thêm lần nữa, kiến lập nên một đế quốc hùng mạnh trước nay chưa từng có”. Trên gương mặt của Khố Tư Lỗ đệ nhị bỗng hiện lên một nụ cười lạnh lẽo, lão hoàng đế hất tay viết lên tờ giấy đay: "Chiếc bình của vua Đại Vệđã rời khỏi Ba Tư. Ngươi sẽ không bao giờ có được nó”. “Nó ở đâu?” Ca Ngõa Đức đệ nhị chết sững rồi đột nhiên nổi giận đùng đùng, “nói cho con biết, nó ở đâu?”. Khố Tư Lỗ đệ nhị bật cười ha hả rồi viết lên tờ giấy: “Quê hương của tờ giấy này”. “Quê hương của tờ giấy này ư?” Ca Ngõa Đức đệ nhị suy nghĩ một lúc, hắn biết rằng tờ giấy này có xuất xứ từ Đại Đường ở phương đông, là giấy đay Ích Châu ngự dụng của cung đình Đại Đường, do đám người Túc Đặc[17] (Sogdiana) tham tài háo lợi kia đã liều mình vượt qua Con đường Tơ lụa dài hơn một vạn dặm để vận chuyển tới Ba Tư. “Không… không…” Ca Ngõa Đức đệ nhị khó mà tin được, “Đây là bảo vật trấn quốc của Tát San Ba Tư ta, đã truyền thừa suốt bốn trăm năm nay, sao người có thể đưa nó đến tận Đại Đường cách đây hơn vạn dặm được?”. Khố Tư Lỗ đệ nhị tiếp tục viết: “Mưu lược của bậc đế vương, ngươi không hiểu đâu. Một năm sau, khi Chiếc bình của vua Đại Vệ đến được hoàng cung Đại Đường, cục diện thế giới này sẽ chao đảo, Tát San Ba Tư sẽ lại được trùng sinh. Còn ngươi, nhi tử của ta, cả đời này ngươi sẽ luôn phải sống dưới cái bóng của ta, bị oai danh huy hoàng của ta che lấp”. “Không!” Ca Ngõa Đức đệ nhị gào thét tuyệt vọng, hai tay bóp chặt lấy cổ của Khố Tư Lỗ đệ nhị, vẻ mặt dữ tợn, cơ bắp co giật: “Người đã hủy hoại cơ đồ vương nghiệp của con, con sẽ ban cho người chút tôn nghiêm cuối cùng của bậc đế vương, để người chết sạch sẽ, không có đổ máu!”. Cổ họng của Khố Tư Lỗ đệ nhị run lên, phát ra những thanh âm ọ ọe, trước mắt tối sầm, nhưng nét mặt của ông ta lại tựa như đang cười, trong nụ cười ấy hàm chứa cả những giọt nước mắt. Mời các bạn đón đọc Tây Vực Liệt Vương Ký của tác giả Trần Tiệm & Lucia Nanami (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhà Băng
“NHÀ BĂNG” , nguyên tác tiếng Anh “The money changers”, người dịch Vũ Đình Phòng, Nhà Xuất bản Hà Nội, xuất bản năm 1996. Nếu anh giàu tức là anh nghèo Bởi anh sẽ giống như con lừa còng lưng Dưới những thỏi vàng đè nặng Anh phải vác tiền bạc của cải Nhưng chỉ trên một quãng đường Rồi cái chết sẽ giải tỏa cho anh khỏi nỗi nhọc nhằn đó. *** Nhiều người vẫn còn giữ lại ấn tượng lo âu, dai dẳng trong hai ngày hôm đó của tháng Mười. Hôm ấy là thứ Ba, Ben Rosselli, chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Ngân hàng Thương mại số một Hoa Kỳ, đồng thời là cháu nội của cố sáng lập viên nhà băng này đã công bố một tin ghê rợn. Tin này lập tức loan truyền khắp các phòng ban và ra cả bên ngoài. Hôm sau, thứ Tư, người ta phát hiện ra một vụ ăn cắp ngay tại chi nhánh chính của Ngân hàng đóng ngay ở trung tâm thành phố, sự kiện này mở đầu cho một loạt sự kiện nối tiếp nhau như phản ứng dây chuyền, đầy bất ngờ, dẫn đến một thảm họa tài chính, đến một bi kịch con người, đến một cái chết.   Khi Tổng giám đốc Ben Rosselli gọi điện cho một số các quan chức thân cận dưới quyền, chưa ai đoán được ông định nói điều gì. Một số nhận được lời triệu tập trong lúc họ ăn sáng ở nhà, số khác vào lúc họ bước vào phòng giấy. Dĩ nhiên đó là những quan chức cấp cao nhất nhà băng, nhưng Ben Rosselli còn triệu tập cả một số nhân viên kỳ cựu mà ông vẫn thường coi là bạn bè thân thiết. Tất cả đều nhận được câu triệu tập y hệt nhau: "Mời đến hội trường họp lớn trong Tòa nhà cao ốc vào mười một giờ sáng nay."   Đó là tên gọi trụ sở công khai của Ngân hàng Thương mại số một Hoa Kỳ. Đúng giờ quy định, khoảng hai chục người đã tề tựu trong phòng họp. Trong lúc chờ đợi, họ vẫn đứng bàn tán xôn xao, không ai quả quyết kéo ghế ra ngồi. Đột nhiên một tiếng nói to làm mọi người ngừng trò chuyện:   - Ai cho phép bác làm chuyện này? Các cặp mắt quay cả lại nhìn người vừa nói câu đó: Roscoe Heyward, Phó tổng giám đốc, đặc trách khu vực các tài khoản. Ông ta quát hỏi bác quản lý nhà ăn dành cho các quan chức cao cấp của nhà băng, lúc này đang rót rượu Xeres ra ly. Đây là thứ rượu quý đặc biệt của Tây Ban Nha. Là cấp lãnh đạo cao, Roscoe Heyward nổi tiếng là người nghiệt ngã trong công việc theo đúng các khuôn phép của nhà băng. ... *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... Mời các bạn đón đọc Nhà Băng của tác giả Arthur Hailey.
Hồ Sơ Cuối
Bạn đã từng nghe đến một tổ chức tâm linh nhưng do nhà nước quản lý? Đã bao giờ nghe đến những vụ án bí ẩn chưa từng được công khai? Những vụ án đầy ly kỳ, những tên tọi phạm cực kỳ hung tàn và những góc khuất thối nát trong xã hồi sẽ được phơi bày qua cuốn tiểu thuyết này... Hãy thử trải nghiệm nỗi kinh hoàng tột cùng bị chôn giấu... *** 1000 năm trước, cái thời mà nhân giới vẫn còn cuồng tín thần linh, vẫn còn run sợ quỷ thần... Có một vị thần vì đi ngược tôn nghiêm của thiên giới nên bị trục xuất khỏi thiên cung, căm hận trước những gì mình phải trải qua, trước những bất công mình bị đày đọa nên vị thần này đã mở mang một thế giới mới... Thế giới của những á thần bị quên lãng và ruồng bỏ... Thế lực của y càng lớn thì sự hận thù trong y càng lúc càng tăng lên... Quyết tâm phải đánh sập thiên cung để trả thù nỗi nhục bị trục xuất năm xưa nên y đã liên minh với đại quỷ thần vương nước la sát đem quân thảm sát nhân giới làm bàn đạp đánh đế thích thiên... Nhưng cuối cùng chính y lại phản bội vua pandaka của la sát giới vào phút chót để đổi lấy một danh thần... Y chính là asura ( atula vương) Vị thần chiến tranh của thiên giới năm xưa... Bắt đầu kỷ nguyên của một huyền thoại bất diệt.... Các bạn có tin câu chuyện bên trên không?   Mời các bạn đón đọc Hồ Sơ Cuối của tác giả Nguyễn Điệp.
Cuộc Trốn Chạy Của Josef Mengele
Cái ác liệu có khi nào không phải đền tội? Mặc dù đã chạy trốn sang Mĩ Latinh, không có bản án của cộng đồng quốc tế, nhưng bác sĩ của trại Auschiwitz, Josef Mengele, vẫn phải chịu đựng những gì còn hơn một bản án: một cuộc đời trốn chui trốn lủi, cô đơn, tuyệt vọng trong cái cái nóng như thiêu đốt của miền nhiệt đới Nam Mĩ, trong nỗi lo sợ đến cùng cực. Những thứ còn tệ hơn cả cái chết. Ngòi bút tỉ mỉ của Guez đã miêu tả cả một khung cảnh thiên nhiên hoang dã ở phía Tây bán cầu và hành trình khổ nhục của Josef Mengele từ sau khi rời khỏi châu Âu đến ngày từ giã cõi đời. Giọng văn của ông khéo léo đến độ, nếu không biết đó là Mengele, hẳn khi đọc tác phẩm này, chúng ta đã không khỏi xót thương cho số phận buồn bã cô đơn của một kiếp người ở xứ sở cách chúng ta nửa vòng trái đất. “Một thành công lớn trong việc mô tả một con quỷ lăn lộn trong cái tầm thường xoàng xĩnh sau cái thời là Thiên thần chết ở Auschwitz.”       - Jean-Christophe Buisson *** Trốn chạy có phải là cách để cái ác không phải đền tội. Thế nhưng, trốn chạy cả đời vẫn khó có thể thoát khỏi bán án của lương tâm mình… Cuốn sách kể lại câu chuyện về hành trình bỏ trốn tới Nam Mỹ của Josef Mengele – một bác sĩ thời Đức quốc xã. Bằng ngòi bút sắc bén của một nhà báo kết hợp cùng sự điêu luyện của một nhà văn, Olivier Guez đã lột tả hết sức chân thực cuộc đời của một kẻ trốn chạy cả đời cũng không thoát khỏi bản án của lương tâm mình. Để đến cuối cùng, cuốn tiểu thuyết để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc mãnh liệt hơn bao giờ hết về tội ác của Đức quốc xã cùng những nỗi đau âm ỉ dai dẳng khôn nguôi. Cái ác liệu có khi nào không phải đền tội? Mặc dù đã chạy trốn sang Mỹ Latinh, không phải chịu sự trừng phạt của cộng đồng quốc tế, nhưng bác sĩ của trại Auschwitz, Josef Mengele, vẫn phải chịu đựng những thứ còn hơn cả một bản án: một cuộc đời trốn chui trốn lủi, cô đơn, tuyệt vọng trong cái nóng như thiêu đốt của miền nhiệt đới Nam Mỹ, trong nỗi lo sợ đến cùng cực. Những thứ còn tệ hơn cả cái chết. Để hoàn thành tác phẩm Cuộc trốn chạy của Josef Mengele, Guez đã phải tìm tài liệu về bác sĩ quốc xã trong suốt ba năm. Trong suốt quá trình thai nghén cho cuốn sách, ông cũng tự mình đi tới Günzburg, Argentina và Brazil (đặc biệt là trang trại Santa Luzia ở ngoại ô Serra Negra), nghiên cứu rất nhiều tư liệu, gián tiếp tiếp cận các cuốn nhật ký của viên bác sĩ bỏ trốn để hiểu rõ cách nhìn thế giới của quốc xã. Về quá trình này, ông từng chia sẻ với tờ Le Monde: “Tôi đã sống cùng ông ta, với cái nhân vật đê tiện, tầm thường tột bực đó. Tôi đã bước lên sàn đấu. Tôi đối diện với ông ta. Sáu tháng đầu tiên, có lúc tôi đã kêu tên ông ta trong đêm.” Với ngòi bút tỉ mỉ của mình, Guez đã miêu tả cả một khung cảnh thiên nhiên hoang dã ở phía Tây bán cầu và hành trình khổ nhục của Josef Mengele từ sau khi rời khỏi châu Âu đến ngày từ giã cõi đời. Giọng văn của ông khéo léo đến độ, nếu không biết đó là Mengele, hẳn khi đọc tác phẩm này, chúng ta đã không khỏi xót thương cho số phận buồn bã cô đơn của một kiếp người ở xứ sở cách chúng ta nửa vòng trái đất. Auschwitz là một trong những trại tập trung do Đức Quốc xã xây dựng ở Ba Lan để hành hạ và sát hại dã man người Do Thái trong Thế chiến 2. Rất ít người Do thái đến các trại tập trung này có cơ hội được trở về *** Olivier Guez là nhà báo, nhà văn người Pháp. Ông lớn lên ở Strasbourg, một thành phố gần Đức. Ngay từ khi còn nhỏ, bà ngoại ông đã cho ông đọc rất nhiều. Sau khi học tại Sciences-Po Strasbourg, London School of Economics và Collège e’Europe de Bruges, ông làm nhà báo tự do cho nhiều tờ báo quốc tế như New York Times, Le Monde, Frankfurter Allgemeine Zeitung, Le Figaro Magazine, L’Express, etc. Ông viết chung tác phẩm đầu tay La Grande Alliance với Frédéric Encel. ***   Lão gia “Hạnh phúc chỉ nằm ở những gì khuấy động, và chỉ có tội ác mới khuấy động được; đức hạnh... không bao giờ có thể dẫn tới hạnh phúc.” SADE Con tàu North King rẽ nước trên dòng sông đầy bùn. Trên boong tàu, hành khách chăm chú ngắm nhìn đường chân trời từ khi bình minh lên, và giờ đây, khi những cây cần cẩu ở công trường đóng tàu và vạch kẻ đỏ của khu nhà kho cảng hiện ra trong màn sương, đám khách người Đức cùng hát một khúc quân hành, người Italia làm dấu thánh giá, còn người Do Thái thì cầu nguyện dù trời đang có mưa bụi, các cặp đôi hôn nhau, con tàu cập bến Buenos Aires sau ba tuần lênh đênh trên biển. Một mình dựa vào thành tàu, Helmut Gregor suy tư. Hắn từng hy vọng rằng một chiếc tàu tuần tra của cảnh sát mật sẽ tới đưa hắn đi và giúp hắn tránh khỏi những phiền nhiễu của hải quan. Khi lên tàu ở Gênes, Gregor đã xin Kurt đặc ân này, hắn tự giới thiệu là một nhà khoa học, một chuyên gia tầm cỡ về di truyền học và đề xuất với Kurt hắn sẽ trả tiền (Gregor có rất nhiều tiền), nhưng kẻ tổ chức vượt biên cười và né tránh: quyền ngoại lệ này chỉ dành cho những nhân vật tai to mặt lớn, những quan chức của chế độ cũ, chứ không mấy khi dành cho một đại úy của SS*. Dù sao thì Kurt cũng sẽ đánh điện tới Buenos Aires, Gregor có thể trông cậy vào ông ta. Kurt đã bỏ túi một số bền, nhưng chiếc tàu tuần tra thì không hề xuất hiện. Gregor phải kiên nhẫn chờ đợi trong sảnh đường rộng mênh mông của hải quan Argentina cùng với những người di cư khác. Hắn giữ chặt hai chiếc va li, một to một nhỏ, và khinh khỉnh nhìn đám dân châu Âu lưu vong đứng quanh đó, những hàng dài người vô danh lịch lãm hay nhếch nhác mà hắn luôn tránh xa trong suốt hành trình. Gregor thà ngắm nhìn đại dương và các vì sao hoặc đọc thơ Đức trong cabin của mình còn hơn; hắn đã nhìn lại bốn năm vừa qua trong đời mình, từ khi hắn chạy khỏi Ba Lan một cách thảm hại vào tháng Một 1945 và trà trộn vào lực lượng Vệ quốc Đức Quốc xã để thoát khỏi nanh vuốt của Hồng quân: hắn bị giam vài tuần trong một trại tù của Mỹ, sau đó được thả vì hắn có giấy tờ giả mang tên Fritz Ullmann, rồi hắn ẩn náu trong một nông trang đầy hoa ở Bavière, cách thành phố Gunzburg quê hương hắn không xa, ở đây hắn làm công việc cắt cỏ cho gia súc và phân loại khoai tây trong ba năm với cái tên Fritz Hollmann, rồi sau đó hắn chạy trốn tới Pâques cách đây hai tháng, vượt qua dãy núi Dolomites bằng đường mòn trong rừng của những kẻ buôn lậu, rồi đến vùng Nam Tyrol ở Italia, ở đây hắn đổi tên thành Helmut Gregor, cuối cùng hắn tới Genova, nơi tên buôn lậu Kurt đã giúp hắn làm các thủ tục với chính quyền Italia và cơ quan nhập cảnh Argentina. Tại hải quan, kẻ đào tẩu xuất trình giấy thông hành của Hội Chữ thập đỏ quốc tế, giấy phép lên bờ và visa nhập cảnh: Helmut Gregor, cao 1,74 mét, mắt nâu xanh lá cây, sinh ngày 6 tháng Tám 1911 tại Termeno, tiếng Đức là Tramin, tỉnh Nam Tyrol, công dân Đức quốc tịch Italia, theo Thiên Chúa giáo, nghề nghiệp kỹ sư cơ khí. Địa chỉ tại Buenos Aires: 2460 phố Arenales, khu phố Florida, nhà của Gerard Malbranc. Nhân viên hải quan kiểm tra hành lý của hắn, quần áo gấp cẩn thận, tấm ảnh chân dung một phụ nữ tóc vàng mảnh dẻ, vài cuốn sách và một số đĩa hát opera, rồi anh ta cau mày khi thấy các món đồ trong chiếc va li nhỏ: ống tiêm hạ bì, vài cuốn sổ ghi chép và bản đồ giải phẫu, các tiêu bản máu, tiêu bản tế bào: không liên quan gì tới một kỹ sư cơ khí. Anh ta bèn gọi nhân viên y tế của cảng tới. Gregor run rẩy. Hắn đã mạo hiểm một cách điên rồ để giữ chiếc va li nhỏ gây liên lụy, kết quả quý giá của biết bao năm trời nghiên cứu, của cả đời hắn, mà hắn đã mang lên tàu khi vội vã rời khỏi nơi làm việc ở Ba Lan. Nếu bị quân Xô viết bắt được khi đang giữ cái va li đó, hắn sẽ bị xử tử ngay lập tức mà chẳng cần xét xử gì. Trên đường trở lại Tây Âu mùa xuân 1945, khi quân đội Đức Quốc xã rút chạy tán loạn, hắn đã gửi va li cho một nữ y tá có lòng trắc ẩn, rồi sau đó tìm lại cô ở Đông Đức, trong vùng Liên Xô kiểm soát, một chuyến đi điên rồ sau khi hắn được thả khỏi trại giam Mỹ và ba tuần đi đường. Sau đó, hắn đưa va li cho Hans Sedlmeier, một người bạn từ thuở nhỏ và là người được cha hắn, một nhà công nghiệp, hết mực tin cậy, Sedlmeier mà hắn thường xuyên gặp gỡ trong khu rừng xung quanh nông trang nơi hắn ẩn náu suốt ba năm. Gregor không thể rời khỏi châu Âu mà không đem theo chiếc va li này: Sedlmeier đã trả lại va li cho hắn trước khi hắn đi Italia cùng với một chiếc phong bì dày đầy tiền mặt, và giờ đây một gã ngớ ngẩn móng tay bẩn thỉu đang bới tung mọi thứ, Gregor thầm nghĩ, còn nhân viên y tế của cảng thì xem xét các tiêu bản và những ghi chép viết bằng kiểu chữ gothic sin sít. Vì không hiểu gì cả, nên nhân viên hải quan hỏi hắn bằng tiếng Tây Ban Nha và tiếng Đức, tay kỹ sư cơ khí giải thích với ông ta về thiên hướng trở thành nhà sinh vật nghiệp dư của mình. Hai người đàn ông khinh bỉ nhìn nhau, còn nhân viên y tế đang muốn đi ăn trưa nên ra hiệu cho nhân viên hải quan cho hắn qua. Ngày 22 tháng Sáu 1949 ấy, Helmut Gregor đặt chân tới nơi ẩn náu mới: Argentina. Mời bạn đón đọc Cuộc Trốn Chạy Của Josef Mengele của tác giả Olivier Guez & Hoàng Mai Anh (dịch).
Vụ Án Bí Ẩn Ở Styles (Thảm Kịch Ở Styles)
Sau thời gian tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất, đại úy Hastings quay trở về Anh dưỡng bệnh. Ông được người bạn cũ, cựu luật sư John Cavendish mời về điền trang của gia đình ở Styles, Essex để nghỉ ngơi. Tại đây Hastings đã làm quen với đại gia đình của nữ chủ nhân Emily Inglethorp, một gia đình có nhiều người đáng mến nhưng cũng nhuốm điều gì đó kỳ lạ. Sau vài ngày ở Styles, Hastings bất ngờ được chứng kiến một vụ án bí ẩn. Trong một đêm đẹp trời, bà Emily Inglethorp đột nhiên qua đời với những dấu hiệu của một người bị đầu độc strychnine. Tình cờ là trong khoảng thời gian đó thám tử Hercule Poirot, một thám tử lừng danh người Bỉ và là bạn cũ của đại úy Hastings, cũng đang sống lưu vong ở gần Styles. Poirot lập tức được John Cavendish mời về điều tra vụ án theo lời khuyên của Hastings. Ban đầu mọi nghi ngờ đều đổ dồn vào ông Alfred Inglethorp nhưng duy nhất chỉ có thanh tra Poirot tìm mọi cách bảo vệ cho ông khỏi bị bắt và đưa ra tòa. Một nghi phạm khác của vụ án, bác sĩ chuyên ngành độc dược Bauerstein hóa ra lại là một gián điệp người Đức trà trộn ở vùng đồng quê Anh. Cuối cùng sau thời gian liên tục khám xét tòa nhà và tìm kiếm bằng chứng, Sở Cảnh sát Anh Scotland Yard, đứng đầu là Chánh thanh tra Japp, đã bắt giam John Cavendish vì ông cựu luật sư gây ra nhiều sự nghi ngờ nhất. Tuy nhiên tại tòa, luật sư của John đã nhanh chóng bác bỏ được mọi lập luận của bên công tố vì không có bằng chứng trực tiếp nào chứng minh được John đã giết mẹ của ông. Vụ án kết thúc một cách bất ngờ khi Poirot chỉ ra rằng chính ông Inglethorp đã cùng với cô Evelyn Howard, bạn thân của bà Emily, giết vợ mình với mưu đồ chiếm đoạt tài sản thừa kế. Cô Evelyn Howard trước đó luôn tỏ ra khinh ghét ông Inglethorp với lý lẽ để bảo vệ bà Emily, nhưng thực chất chỉ là để che mắt mọi người về quan hệ họ hàng của cô với ông Alfred. Còn ông Inglethorp đã tìm mọi cách để bị bắt và kết án ngay từ đầu chẳng qua vì ông ta tin rằng mình không thể bị kết tội lần đầu tiên do thiếu bằng chứng, và như thế sẽ không thể bị kết án lại theo luật Bất hồi tố của Anh. Viên thám tử thông minh cũng giải thích lý do ông để cho John Cavendish bị bắt và đưa ra tòa mặc dù ông có bằng chứng chứng minh sự vô tội của John, đó là vì ông muốn dùng hoàn cảnh đó để hàn gắn mối quan hệ rạn nứt giữa John và Mary Cavendish. Vụ án kết thúc với việc Cynthia, cô gái mồ côi, và Lawrence Cavendish trở thành một cặp tình nhân. *** Nhân dịp Trẻ vừa phát hành thêm 2 cuốn mới về Poirot, xin được phép đăng review về lần xuất hiện đầu tiên của vị thám tử đầu quả trứng, coi như một lời nhắc nhở nhẹ nhàng thân thiện để khuyến khích Trẻ xuất bản trọn bộ Agatha nhanh hơn.  ồ, hắn không phải thủ phạm -> đệch, hóa ra hắn là thủ phạm thật". Nói chung là dù không được đặc sắc như mấy tuyệt tác Vụ ám sát ông Roger hay Tàu tốc hành Phương Đông, nhưng vẫn rất xuất sắc, nhất là khi đây mới chỉ là tiểu thuyết đầu tay của Agatha Christie. Vậy nên, dù vẫn còn mấy điểm khá lấn cấn, ví dụ như việc thủ phạm tự giúp Poirot lật mặt mình, nhưng nhìn chung đây vẫn là một quyển sách mà mọi tín đồ của thể loại trinh thám đều nên có trên giá sách. Điểm: 8/10 Người viết: Phô Ních *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Vụ Án Bí Ẩn Ở Styles (Thảm Kịch Ở Styles) của tác giả Agatha Christie.