Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vị Khách Cuối Cùng

Littleport, Maine là thị trấn mang đến hai ấn tượng đối lập: một điểm nghỉ mát lý tưởng cho giới thượng lưu – nơi có những ngôi nhà xinh đẹp nằm dọc bờ biển; và một cộng đồng dân cư giản dị, mộc mạc ở bến cảng – nơi những người dân địa phương quanh năm kiếm kế sinh nhai bằng việc phục vụ du khách. Trong hoàn cảnh đối lập đến vậy, thật khó để tin rằng tình bạn sâu sắc sẽ nảy nở giữa con gái chủ nhà và cô bé giúp việc, nhưng đó là điều xảy ra giữa Sadie Loman và cư dân của Littleport - Avery Greer. Suốt gần một thập kỷ, hai cô gái luôn đồng hành cùng nhau trải qua những mùa hè tuyệt diệu, cho đến khi Sadie được phát hiện đã chết. Mặc dù cảnh sát kết luận Sadie đã tự sát, Avery không thể ngăn được cảm giác kỳ lạ rằng những người xung quanh có liên quan đến cái chết bí ẩn của cô bạn thân, bao gồm vị thám tử địa phương và Parker – anh trai của Sadie. Ai đó đã không tiết lộ hết sự thật mà họ biết, Avery định sẽ làm sáng tỏ mọi chuyện trước khi sự thật bị đổi trắng thay đen và làm hại cô ấy. Được chắp bút bởi Megan Miranda – tác giả của những cuốn sách bán chạy nhất New York Times: “Những cô gái mất tích” và “Người lạ mặt hoàn hảo”, nhà văn hàng đầu của dòng tiểu thuyết kinh dị; Vị khách cuối cùng sở hữu cốt truyện thông minh với những khúc quanh khó lường khiến người đọc hồi hộp dõi theo và nín thở đến tận trang cuối cùng. Một số nhận định về “Vị khách cuối cùng”: “Một lần nữa, Megan Miranda đã dựng lên câu chuyện kinh dị hoàn hảo cho mùa hè. Vị khách cuối cùng đầy những cú twist căng thẳng khiến trái tim tôi loạn nhịp. Nhớ canh thời gian rảnh để đọc cuốn sách này bởi một khi bắt đầu đọc, tôi cá là bạn sẽ không thể đặt xuống cho đến trang cuối cùng!” – Riley Sager, tác giả “Lần cuối cùng tôi nói dối” - cuốn sách bán chạy nhất New York Time. “ “Cốt truyện thông minh đầy ắp những bất ngờ và khúc quanh không thể lường trước là sở trường của Megan Miranda, nhưng cô vẫn khiến người đọc cảm thấy ấm áp nhờ câu chuyện tình bạn thân thiết giữa Sadie Loman và Avery Greer… Megan thật sự biết cách viết đoạn kết khiến người đọc phải ồ lên tán thưởng.” – Marilyn Stasio, Biên tập chuyên mục Review sách trên tờ The New York Time. “Không ai có thể đoán trước tình tiết cuốn sách mới nhất của bậc thầy tiểu thuyết kinh dị Megan Miranda. Vị khách cuối cùng là một bí ẩn nhanh như chớp, đầy nguy hiểm và chứa đựng những khúc ngoặt bất ngờ khiến độc giả đứng ngồi không yên.” Mary Kubica, tác giả “Cô gái ngoan” – cuốn sách bán chạy nhất New York Time. *** Tác giả: Megan Miranda. Dịch giả: SPENCER Thể loại: mystery thriller – trinh thám hồi hộp . . “Làm thế nào tôi đã trải qua mùa đông trong sự thờ ơ, giống như thời gian đã đóng băng. Uống nhiều rượu như đang tìm kiếm thứ gì đó và càng uống nhiều hơn vì tin rằng chắc chắn tôi sẽ tìm được điều đó. Tôi đã cãi nhau với bạn bè thế nào, khiến tình cảm giữa chúng tôi rạn nứt, những điều ngu ngốc, liều lĩnh mà tôi đã làm. Không tin ai và mất tất cả niềm tin từ mọi người”. Lúc gần nửa đêm tại buổi tiệc Cuối Mùa ở thị trấn Littleport, Avery Greer đang chờ người bạn Sadie Loman đến. Parker Loman – anh trai của Sadie đã đến cùng bạn gái, nhưng em gái anh ta không đi chung xe với họ. Avery lấy điện thoại nhắn tin cho Sadie và nhận thấy đối phương đang gõ tin nhắn trả lời, tuy nhiên tin nhắn đó không bao giờ đến. Thế rồi, cảnh sát gõ cửa và hỏi Parker về dấu hiệu nhận dạng của em gái anh. Cô ấy đã chết, được một người địa phương tìm thấy ngoài vách đá. ____ Một năm sau, nhìn bề ngoài thì cuộc sống của người dân trong thị trấn Littleport vẫn bình thường, nhưng vẫn có một điều gì đó xấu xa đang ngấm ngầm diễn ra chỉ trong cảm giác của một số người tinh ý, trong đó có Avery. Là bạn thân của Sadie, cô mãi bị ám ảnh bởi cái chết của bạn mình, và chậm rãi tiến hành điều tra từ những chi tiết và chứng cứ ít ỏi tìm được sau một năm. Xuất thân và quá khứ của Avery Greer cũng khiến cô gặp một ít rắc rối với người dân trong thị trấn. Nhờ một người anh cho mượn nhầm sách, tôi mới biết trên đời có tồn tại một quyển sách bìa xanh đẹp như thế này, nhưng nội dung thì tàm tạm chứ không xứng với cái bìa lộng lẫy. Một cô gái chết (hay bị giết?) ở đầu truyện, tiếp theo cả quyển sách là quá trình điều tra của bạn cô ấy. Tôi có thể hình dung tác giả viết rất kỹ, liên kết các chi tiết trước và sau một cách chặt chẽ, thỉnh thoảng đưa vào những đoạn nhỏ mang hơi hướm triết lý, nói lên suy nghĩ của nhân vật chính / mà có lẽ là của chính tác giả về cuộc sống. Thế nhưng, cá nhân tôi thấy cuốn này hơi nhạt, cố tình giữ lại những góc khuất trong quá khứ của nhân vật để đánh đố độc giả, bắt độc giả phải hại não nghĩ ngợi xem tại sao cô ấy hành xử thế này thế kia… Như một số quyển trinh thám khác, “Vị khách cuối cùng” được viết theo trình tự quá khứ đan xen hiện tại, thậm chí giờ giấc và sự kiện cũng bị thay đổi cho hợp ý tác giả, kết quả khiến tôi trong lúc đọc bị rối lên, cứ phải giở phần trước để xem mình có bỏ qua chi tiết nào không. Rất may là trong cuốn này không có bạo hành phụ nữ hay lạm dụng tình dục, đọc cũng nhẹ nhõm được một chút. Tuy vậy, cách viết của tác giả khiến tôi chưa cảm nhận sâu sắc được lòng thương tiếc dành cho nạn nhân. Trong ít nhất hai cuốn trinh thám thuộc loạt truyện về Tracy Crosswhite của tác giả Robert Dugoni, khi biết được động cơ và cách thức gây án, tôi đã rơi lệ vì xót thương cho cái chết vô nghĩa của các nữ nạn nhân tuổi đời còn rất trẻ. Tuy cũng thưởng thức được một số cuốn trinh thám Nhật, cũng thích đọc trinh thám Trung (với điều kiện phải hợp gu) nhưng nhìn chung tôi ít do dự khi mua / đọc trinh thám hiện đại phương Tây, vì bất chấp chuyện thường phàn nàn về lối sống phóng túng của nhân vật trong trinh thám Âu Mỹ, tôi vẫn thích những yếu tố như cốt truyện mạnh mẽ, minh bạch, dễ đọc; nhịp truyện không quá chậm như trinh thám cổ điển, và nhất là thường áp dụng khoa học kỹ thuật khiến quá trình điều tra diễn tiến nhịp nhàng và hợp lý. Tuy vậy, tôi vẫn phàn nàn về lối sống phóng túng của nhân vật trong cuốn “Vị khách cuối cùng” này! Các mối quan hệ tình ái đan xen chằng chịt và sự buông thả của các nhân vật khiến tôi liên tưởng đến “Người tuyết” và “Mùa hạn kinh hoàng”. Đồng ý rằng sống thì phải tìm vui, nhưng tìm vui một cách cẩu thả để rồi sau đó bị vướng vào quá nhiều rắc rối thì rốt cuộc những khoảng khắc tìm vui đó có đáng không, có được gọi là “vui” không. Lại càm ràm về lỗi chính tả trong sách: “lẩn quẩn” bị viết nhầm thành “lẩn khuẩn”, và thêm một vài lỗi khác tôi lười nên không ghi chú lại. Tuy nhiên, có một lỗi to đùng lẽ ra phải đập vào mắt ngay trước khi in ấn nhưng đã bị bỏ qua: “Miranda” bị lỗi đánh máy thành “Mỉanda”, chữ này được in trong phần tên tác giả ngay góc trên bên phải của mỗi trang lẻ. Ngoài ra thì phần dịch thuật đọc cũng dễ hiểu, nếu có khó hiểu là do tôi không thấu triệt được dụng ý của tác giả. Hôm nọ tôi thoáng thấy thông tin rằng sách của tác giả Megan Miranda sắp được xuất bản tiếng Việt một cuốn nữa, tuy nhiên riêng tôi thì cho rằng cuốn đã đọc này sẽ “Vị khách cuối cùng” ghé thăm tôi từ tác giả Miranda. (Sea, 8-4-2021) Cảm ơn anh Vũ đã cho em Biển mượn sách  Trong hình, chiếc xe ở phía xa là của vị khách không phải cuối cùng. Weniger anzeigen *** Megan Miranda Là tác giả của những cuốn sách bán chạy nhất New York Time: Những cô gái mất tích, Người lạ mặt hoàn hảo và gần đây là Vị khách cuối cùng. Cô cũng sáng tác một vài cuốn sách nổi tiếng trong cộng đồng người trẻ như Hãy đến tìm tôi, Mảnh vỡ của sự mất mát và Lời nói dối vô hại nhất. Megan lớn lên ở New Jersey, tốt nghiệp Đại học MIT và hiện đang sống ở Bắc Carolina cùng chồng và hai con. Tìm hiểu về nữ nhà văn tài năng này qua Twitter và Instagram @MeganLMiranda hoặc ghé thăm trang web MeganMiranda.com. Tác phẩm: Vị Khách Cuối Cùng Kẻ Lạ Hoàn Hảo - Thị Trấn Nhỏ Với Những Bí Mật Lớn ... *** BỮA TIỆC CUỐI MÙA Đáng lẽ tôi phải quay lại tìm cô ấy; ngay khi cô ấy không tới tham dự bữa tiệc; ngay khi cô ấy không chịu bắt máy; ngay khi cô ấy không trả lời tin nhắn của tôi. Nhưng vì những ly rượu luôn cần được rót đầy, những chiếc xe đang tìm chỗ đỗ đã khiến tôi trở nên quay cuồng. Tôi đã được yêu cầu phải luôn để mọi thứ trong tầm mắt để bữa tiệc hôm đó diễn ra suôn sẻ. Nếu thấy tôi quay trở lại, thế nào cô ấy cũng lại cười thẳng vào mặt tôi rồi đảo đôi mắt tinh nghịch và nói: “Avery, mình có một người mẹ là quá đủ rồi!” Tôi biết tất cả những điều trên chỉ là lời biện bạch. Tôi đến địa điểm tổ chức tiệc sớm hơn tất cả mọi người. Bữa tiệc năm nay được tổ chức vào mùa hè tại một ngôi nhà cho thuê của gia đình nhà Loman. Ngôi nhà nằm phía sau những hàng cây và một con đường lớn, sân nhà không quá rộng, chỉ đủ chỗ cho hai chiếc ô tô đỗ. Nhà Loman đặt tên cho ngôi nhà là Blue Robin* vì tấm gỗ ốp quanh nhà có màu xanh da trời và mái nhà có hình dáng giống như mái của một ngôi nhà tổ chim. Tuy nhiên, tôi lại nghĩ ngôi nhà được đặt tên như vậy là vì nó nằm phía sau những hàng cây, sâu đến mức giống như một đốm sáng xanh hiện lên trên nền bóng tối mà chỉ có thể nhìn thấy rõ khi lại gần. Một loài chim đẻ trứng có màu xanh dương.  Tuy ngôi nhà không phải là một địa điểm lý tưởng bậc nhất hay là nơi có khung cảnh đẹp nhất cho các buổi tiệc tùng; tuy ngôi nhà ở quá xa để thấy biển và chỉ đủ gần mới có thể nghe thấy tiếng sóng rì rào khơi xa nhưng đây lại là nơi cách xa khách sạn Bed and Breakfast nhất, sân nhà cũng được bao quanh với những cây thường xanh* đẹp mắt được cắt tỉa gọn gàng nhất. Mong rằng các vị khách đến đây sẽ không ai than phiền hay chỉ để ý đến những điểm hạn chế của ngôi nhà. Là thuật ngữ khoa học dùng để chỉ cây rừng có lá tồn tại liên tục trong thời gian ít nhất là 12 tháng trên thân chính. Điều này khác biệt với các loài rụng lá hoặc là thân thảo (hàng năm hoặc lâu năm). Các ngôi nhà của nhà Loman cho thuê vào mùa hè đều có điểm chung là kiến trúc nội thất giống y như nhau. Điều này làm cho mỗi khi rời khỏi nhà hay sau khi dẫn khách đi tham quan, tôi đều cảm thấy như mất phương hướng. Một cái xích đu ở mái hiên thay vì đường lót sỏi, nhà ở gần biển thay vì gần núi. Mỗi ngôi nhà đều có lớp gạch lót giống nhau, cùng tông màu đá hoa cương, cùng phong cách nhà cổ mộc mạc. Các bức tường trong mỗi ngôi nhà đều được trang trí với những bức tranh về Littleport (Ngôi làng lớn nhất): ngọn hải đăng, những cánh buồm trắng ở hải cảng, những đợt sóng bọt tung trắng xóa đang vỗ vào các vách đá. Đá ở đây như đang cố gắng vươn mình trước những ngọn sóng, những hòn đảo ở phía xa thoắt ẩn, thoắt hiện theo dòng thủy triều. Littleport luôn mang một vẻ đẹp rất riêng: hoang dã, bí ẩn và tách biệt. Giờ thì tôi đã hiểu tại sao có nhiều người chấp nhận lái xe một đoạn đường dài chỉ để đến đây, tận hưởng cảm giác được nghỉ ngơi, đắm mình vào thiên nhiên. Một thị trấn được bao quanh bởi núi và biển, nhỏ bé và khiêm tốn, lối vào duy nhất là con đường dọc bờ biển đòi hỏi sự kiên nhẫn của người lái xe. Nơi đây tồn tại được hoàn toàn nhờ sự kiên cường trong đấu tranh chống lại sự tàn khốc của thiên nhiên. Nếu lớn lên ở đây, bạn sẽ có cảm giác con người mình cũng được tôi luyện bởi chính sự kiên cường đó. Tôi lấy những chai rượu còn lại trong thùng ra đặt lên bàn đá hoa cương, mang những món đồ trang trí dễ vỡ cất đi và bật đèn bể bơi. Tôi ra hiên sau ngồi và tự thưởng cho mình một ly rượu, lắng nghe những âm thanh theo gió từ biển vọng vào rì rào. Một cơn gió lạnh chớm thu lùa qua những kẽ lá khiến tôi rùng mình và phải kéo kín áo khoác để giữ ấm. Bữa tiệc này luôn được tổ chức vào những thời khắc chuyển mùa, một sự níu kéo cuối cùng của mùa hè trước khi trời sang thu và vào đông. Mùa đông ở nơi đây không chỉ lạnh thấu xương mà còn dài đằng đẵng. Những cơn gió lạnh có thể ùa đến rất nhanh, chỉ ngay khi tiệc tàn và các vị khách rời khỏi. Nhưng hàng năm, những bữa tiệc này luôn diễn ra trước khi mùa đông tới. Một đợt sóng nữa vỗ vào bờ, tôi nhắm nghiền mắt và nhẩm đếm từng giây. Chờ đợi! Bữa tiệc được tổ chức để tạm biệt mùa hè, nhưng mấy ngày hôm nay những cơn gió không biết từ đâu kéo nhau ùa tới khiến tôi nghĩ mùa hè đã bị cuốn theo những ngọn sóng trôi ra mãi xa kia rồi. Khi bữa tiệc bắt đầu trở nên náo nhiệt thì Luciana xuất hiện. Tôi không biết chị ấy tới từ khi nào nhưng khi tôi nhìn thấy thì chị ấy đã đứng ở đó, một mình lẻ loi trong nhà bếp. Dáng hình cao ráo nổi bật của chị dễ khiến người khác chú ý, vậy mà chị lại đang đứng bất động trước sự náo nhiệt của những hoạt động xung quanh. Có lẽ vì đây là lần đầu tiên chị tham gia bữa tiệc như thế này. Nó khác hẳn những bữa tiệc mà chị đã tham dự trong suốt mùa hè vừa qua, bữa tiệc chào đón chị đến với thế giới của Littleport, Maine. Tôi chạm nhẹ vào khuỷu tay của chị, bằng cảm nhận của mình tôi thấy nó lạnh toát. Chị giật mình quay ra nhìn tôi, rồi chị thở phào nhẹ nhõm, dường như chị thấy rất vui khi gặp tôi. “Bữa tiệc này không giống như những gì chị tưởng tượng một chút nào!” Chị ấy không chỉ ăn mặc rất lộng lẫy mà còn chuẩn bị rất chu đáo khi đến tham dự bữa tiệc này. Mái tóc uốn xoăn nhẹ, quần được thiết kế riêng phù hợp với đôi giày cao gót của chị. Cảm giác giống như chị đang chuẩn bị đi dự một bữa tiệc nhẹ buổi sáng hơn là một bữa tiệc buổi tối như thế này. Tôi mỉm cười hỏi chị: “Sadie có đi cùng chị không?”. Sau đó, tôi đưa mắt quan sát để tìm màu sắc quen thuộc là mái tóc vàng đậm được chẻ ngôi giữa, tóc hai bên được tết thành hai dải mỏng và kẹp gọn về phía sau, trông nó hồn nhiên như một đứa trẻ vậy. Tôi kiễng chân và cố dỏng tai tìm kiếm tiếng cười quen thuộc của cô. Luce lắc đầu, những lọn tóc xoăn nhẹ vờn qua vai chị. “Không, chị nghĩ là con bé vẫn đang đóng đồ. Parker chở chị tới đây rồi anh bảo là muốn đỗ xe ở Bed and Breakfast để sau bữa tiệc đi về sẽ tiện hơn.” Chị chỉ tay về hướng Bed and Breakfast, một ngôi nhà từ thời Victoria được cải tạo lại thành khách sạn với tháp chuông nhỏ và có mái hiên. Đứng ở đó bạn có thể nhìn bao quát gần như toàn bộ vùng Littleport, những phần đẹp nhất, từ hải cảng tới dải cát của bãi biển Breaker, một con dốc cạnh ngôi nhà dẫn thẳng ra biển, dẫn đến ngôi nhà của gia đình Loman ở phía Bắc thị trấn. “Anh ấy đáng lẽ không nên đỗ xe ở đó!” - Tôi vừa nói vừa lấy điện thoại ra khỏi túi. Làm sao mà giấu kín được bữa tiệc này với những người chủ của B&B khi mà tất cả các vị khách đều đỗ xe ở đó chứ? Luce nhún vai. Parker Loman luôn làm theo ý mình mà không bao giờ nghĩ đến hậu quả về sau. Tôi áp tai vào điện thoại, cố gắng nghe tiếng đổ chuông trong tiếng nhạc ầm ĩ. Xin chào, bạn đã gọi đến số của Sadie Loman... Tôi dập máy, cất điện thoại vào trong túi và đưa cho Luce một ly vang đỏ. “Của chị đây!” - Tôi nói. Mặc dù, câu mà tôi muốn nói lúc đó là: “Ôi Chúa ơi, hãy hít một hơi thật sâu và thư giãn đi nào!”, nhưng không hiểu toàn bộ vốn từ vựng của tôi đã bay đi đâu mất khiến cho mỗi cuộc trò chuyện giữa tôi và Luciana Suarez thường chỉ gói gọn trong vài từ. Luce nhận lấy ly rượu với thái độ kính cẩn nhất, đó là một trong những điểm tôi thích ở chị. Tôi chuyển những chai rượu đã uống gần hết ra một chỗ để tìm chai whiskey, loại rượu mà tôi biết là chị rất thích. Sau khi tôi rót rượu vào ly, chị nói: “Cảm ơn.” “Không có gì.” - Tôi đáp lại. Mặc dù tôi và chị đã biết nhau cả một mùa hè, nhưng cho đến tận bây giờ tôi vẫn chưa biết chị cảm nhận như thế nào về tôi, một đứa con gái sống bên cạnh phòng khách trong ngôi nhà của bạn trai chị. Bạn hay thù, đồng minh hay kẻ địch. Chị nghiêng người ghé lại gần tôi như để chia sẻ một điều gì đó bí mật, “Đến giờ chị vẫn chưa thể hiểu nổi bữa tiệc này!” Tôi cười: “Rồi chị sẽ hiểu thôi!” Luce đã rất băn khoăn về bữa tiệc này kể từ khi Parker và Sadie kể rằng, hai anh em họ cùng với bố mẹ của mình sẽ không rời khỏi đây vào Ngày lao động, thay vào đó, họ ở lại để dự bữa tiệc này. Mời các bạn đón đọc Vị Khách Cuối Cùng của tác giả Megan Miranda & Spencer (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Khách Sạn
Khách Sạn (Hotel) là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Arthur Hailey bên cạnh nhiều vở kịch nổi tiếng được trình diễn khắp nơi trên thế giới và nhiều kịch bản phim rất thành công. *** Peter McDermott nghĩ: nếu anh có quyền thì anh đã tống cổ gã nhân viên an ninh khách sạn đi từ lâu rồi. Nhưng anh không có quyền, cho nên bây giờ, một lần nữa, gã cựu cảnh sát viên phục phịch đó lại mất tích đúng vào lúc người ta rất cần đến hắn. McDermott nghiêng người, tấm thân đồ sộ của anh cao đến sáu bộ rưỡi ( [1] ). Anh lắc lắc nhẹ chiếc điện thoại trên bàn, vẻ bồn chồn. - Mười lăm việc xẩy ra cùng một lúc. - Anh nói với cô gái đứng bên cửa sổ văn phòng rộng. - Thế mà chẳng ai tìm ra được hắn ở đâu. Christine Francis liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Vài phút nữa là đúng mười một giờ khuya: - Anh thử tìm ở quán rượu đường Baron xem sao. Peter McDermott gật đầu: - Nhân viên điện thoại đang kiểm tra những nơi Ogylvie thường lui tới. - Anh mở ngăn kéo bàn, lấy bao thuốc lá ra mời Christine. Cô tiến lên phía trước nhận một điếu thuốc. McDermott châm thuốc cho cô rồi châm cho mình. Anh nhìn cô rít thuốc. Christine Francis đã rời căn phòng làm việc nhỏ của mình trong cụm phòng hành chính của khách sạn St Gregory trước đây vài phút. Cô đã làm việc khuya và sắp trở về nhà thì ánh đèn dưới cánh cửa của trợ lý tổng giám đốc khách sạn đã khiến cô phải bước vào. - Anh chàng Ogylvie của chúng ta có luật lệ riêng đấy - Christine nói - Tình hình này thường hay xẩy ra theo lệnh của ông chủ mà. McDermott nói rất ngắn vào điện thoại, rồi lại chờ đợi. - Cô nói đúng. - Anh thừa nhận - Đã có lần tôi tìm cách tổ chức lại đội thám tử của khách sạn ta, và tôi đã thất bại. Cô gái đáp nhỏ nhẹ: - Tôi không được biết việc đó. Anh nhìn cô vẻ chế nhạo: - Thế mà tôi cứ tưởng việc gì cô cũng biết. Thực ra, thường thì cô biết hết mọi chuyện. Là một trợ lý riêng của ông Warren Trent, chủ một khách sạn lớn nhất ở New Orleans có tính tình hay cáu bẳn, khó đoán trước, Christine thông tỏ những bí mật bên trong của khách sạn cũng như những hoạt động hàng ngày của nó. ... *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... Mời các bạn đón đọc Khách Sạn của tác giả Arthur Hailey.
Đi Ra Từ Bóng Tối
Bộ ba tự truyện nổi tiếng của Dave Pelzer – câu chuyện khó tin và có giá trị truyền cảm hứng về cuộc đời của chính tác giả – đã thu hút sự quan tâm theo dõi của hàng triệu độc giả trên toàn thế giới. Đi Ra Từ Bóng Tối là phần kết thúc được chờ đợi từ rất lâu trong bộ ba tác phẩm: Không Nơi Nương Tựa (A Child Called “It”), Đứa Trẻ Lạc Loài (The Lost Boy) và Đi Ra Từ Bóng Tối (A Man Named Dave). Câu chuyện là hồi kết cho cuộc đấu tranh sinh tồn không ngừng của cậu bé David đáng thương qua bao năm tháng sống trong sự bạo hành về thể xác lẫn tinh thần do chính người mẹ ruột gây ra. Câu chuyện đưa người đọc đi cùng chàng trai tên Dave qua những khúc quanh cuộc đời để trở thành một người đàn ông trưởng thành, đầy khát vọng sống. Giấc mơ cuộc đời, thất bại đắng cay, vinh quang ngọt ngào và hạnh phúc vẹn tròn là những gì người đọc sẽ cảm nhận được bằng những rung cảm chân thật nhất, sâu sắc nhất đằng sau những trang sách sống động của Đi Ra Từ Bóng Tối. Chàng thanh niên tên Dave sẽ phải đối diện như thế nào trước sự thật rằng cha mình - vị anh hùng trong những giấc mơ thuở bé của cậu - sẽ không còn sống được bao lâu nữa? Cậu sẽ làm gì với tâm nguyện một lần được trò chuyện với cha như bao đứa con trai bình thường khác khi ông thậm chí còn không đủ sức để siết nhẹ bàn tay cậu? Cậu sẽ đối xử như thế nào với người mẹ nghiện ngập, tàn bạo người đã chối bỏ sự tồn tại của con trai mình và đem đến bao nỗi kinh hoàng cho tuổi thơ của nó? Và cuối cùng, liệu có ai đó để cậu yêu thương, tin tưởng và giúp cậu lấy lại niềm tin vào tình cảm thiêng liêng của gia đình hay không? Đi Ra Từ Bóng Tối sẽ lần lượt giúp người đọc tháo gỡ tất cả những nút thắt ấy, dẫn dắt chúng ta tìm ra câu trả lời cho số phận của Dave, của từng nhân vật trong tác phẩm tự truyện. Và, có thể ở đâu đó trong tác phẩm, người đọc cũng sẽ tìm thấy câu trả lời cho cuộc đời của chính mình như những ai đã có may mắn được là người đầu tiên đọc và làm công việc chuyển ngữ cho bộ ba tác phẩm này vậy. Với sự bao dung vô biên và lòng can đảm tuyệt vời, Dave Pelzer đã làm nên một kết thúc hoàn hảo cho bộ ba tự truyện của mình cũng như cho chính cuộc đời của ông. Bằng kết thúc ấy, Dave Pelzer đã minh chứng một cách hùng hồn rằng: Không một thế lực, một xiềng xích nào có thể trói buộc được ý chí của con người. Ý nghĩa lớn lao này thật quý giá biết bao đối với những ai đang trên con đường đi tìm hạnh phúc đích thực trong cuộc sống. *** David James Pelzer sinh ngày 29/12/1960, là con trai thứ hai trong gia đình có năm người con trai. Tuy nhiên, mọi thứ trở nên vô cùng tồi tệ khi David bắt đầu bị mẹ ruột của mình hành hạ từ năm lên 4 tuổi. Sự ngược đãi mà David Pelzer phải chịu đựng nghiêm trọng đến mức nó đã trở thành một trong những trường hợp ngược đãi trẻ em tồi tệ nhất được biết đến ở Mỹ. Bộ ba tác phẩm Không Nơi Nương Tựa(1995), Đứa Trẻ Lạc Loài (1997) và Đi Ra Từ Bóng Tối (1999) tái hiện câu chuyện tuổi ngây thơ rúng động dư luận của ông. Dave Pelzer được xem là một trong những phát ngôn viên quốc gia làm việc hiệu quả nhất và đáng tin cậy nhất, chuyên hoạt động trong các nhóm hội, tổ chức chuyên nghiệp về dịch vụ nhân quyền. Dave đã nhận được những lời khen tặng từ đích thân cựu Tổng thống Ronald Reagan và George Bussh. Năm 1993, Dave được vinh danh là một trong mười Đại diện tiêu biểu nhất của Thanh niên Hoa Kỳ và năm 1994, Dave là công dân duy nhất của nước Mỹ vinh dự được trao tặng giải thưởng Thanh niên tiêu biểu nhất của thế giới. Dave còn được chọn làm người rước đuốc trong Thế Vận hội năm 1996. Dave đã cống hiến cả cuộc đời mình để giúp nhiều người khác thoát khỏi nghịch cảnh. Vượt qua một tuổi thơ u tối và nghiệt ngã, Dave trở thành một sĩ quan Không quân Hoa Kỳ. Trước khi về hưu, ông từng đóng vai trò quan trọng trong một số hoạt động mang tên Just Cause, Desert Shield và Desert Storm. Trong thời gian phục vụ trong không quân, Dave còn hoạt động trong Hội Trẻ vị thành niên và những chương trình khác về “Tuổi trẻ với những nguy cơ” trên toàn bang California. Những thành tựu đáng kể của Dave đã được thừa nhận bằng nhiều giải thưởng cũng như những nhận xét cá nhân của các cựu Tổng thống Ronald Reagan, George Bush và Bill Clinton. Năm 1990, ông là người được nhận giải thưởng J.C. Penney Golden Rule. Tháng 1 năm 1993, Dave vinh dự được bầu chọn là một trong mười thanh niên xuất sắc của Hoa Kỳ. Tháng 11 năm 1994, Dave là công dân Mỹ duy nhất được trao tặng giải thưởng Thanh niên tiêu biểu nhất của Thế giới ở Kobe, Nhật, vì những cống hiến của anh trong lĩnh vực thông tin và ngăn ngừa nạn bạo hành trẻ em cũng như cổ vũ tinh thần và truyền cảm hứng để người khác có được ý chí kiên cường. Dave còn vinh dự được rước đuốc trong Thế vận hội năm 1996. Dave hiện sống một cuộc sống hạnh phúc ở Rancho Mirage, California, với vợ, con trai Stephen và chú rùa cưng tên Chuck. Những hoạt động vì thanh thiếu niên của Dave Pelzer có thể được tìm hiểu thêm tại website: www.davepelzer.com *** Ngày 4 tháng 3 năm 1973 Thành phố Daly, California Tôi sợ hãi. Chân tôi lạnh buốt và bụng kêu gào vì đói. Trong bóng tối của cái ga-ra, tôi chăm chú căng tai lắng nghe từng tiếng động nhỏ nhất từ phía phòng của mẹ ở trên lầu, từng tiếng cót két mỗi khi bà trở mình. Tôi thậm chí còn có thể biết được bà đang ngủ hay chuẩn bị tỉnh giấc qua những tiếng ho khan của bà. Tôi mong bà không bị tỉnh giấc bởi chính những tiếng ho của mình. Tôi ước mình có thêm một chút thời gian. Chỉ còn vài phút là một ngày tồi tệ nữa lại bắt đầu. Tôi nhắm mắt lại và lẩm bẩm nhanh một lời cầu nguyện, mặc dù tôi biết rõ Chúa chẳng mấy yêu quý mình. Bởi tôi chẳng xứng đáng làm một thành viên của “Gia đình”, nên tôi phải ngủ trên một cái cũi cũ kỹ, xấu xí và thậm chí chẳng có lấy một cái chăn. Tôi cuộn tròn như một quả bóng để cố giữ cho cơ thể càng ấm càng tốt. Tôi lấy áo sơ mi trùm kín đầu, hy vọng hơi thở của mình sẽ giúp mặt và tai ấm hơn một chút. Tôi kẹp hai tay vào giữa hai chân, có khi kẹp vào nách để bớt lạnh. Bất kỳ lúc nào đủ dũng khí và biết chắc rằng mẹ đã ngủ rất say, tôi mới dám trộm một cái giẻ rách từ đống đồ dơ quấn chặt quanh chân để giữ ấm. Tôi làm mọi thứ để có thể ấm hơn một chút. Giữ ấm được nghĩa là sống sót. Cả tinh thần lẫn thể chất của tôi đều rã rời. Phải mất hàng mấy tháng trời tôi mới có thể thoát khỏi những cơn ác mộng. Dù có cố thế nào đi chăng nữa, tôi vẫn không tài nào ngủ lại được. Toàn thân tôi tê cóng. Đầu gối tôi rung lên bần bật. Tôi khẽ cọ hai bàn chân vào nhau, lòng vẫn nơm nớp lo sợ nếu gây ra bất cứ tiếng động nào thì mẹ cũng sẽ nghe thấy. Tôi không được phép làm bất kỳ điều gì nếu không có lệnh trực tiếp của bà. Thậm chí ngay cả khi tôi biết bà đã chìm lại vào giấc ngủ, tôi vẫn có cảm giác bà đang kiểm soát tôi. Mẹ vẫn luôn như vậy. Đầu óc tôi bắt đầu quay cuồng khi cố nhớ lại quá khứ. Tôi biết rằng để sống sót, tôi phải tìm những lời giải đáp ngay trong quá khứ của mình. Ngoài giải pháp để có cái ăn, để được sưởi ấm, để được sống sót, việc tìm hiểu lý do vì sao mẹ lại đối xử với tôi như vậy cũng sẽ chi phối rất nhiều đến cuộc sống của tôi. Những ký ức đầu tiên của tôi về mẹ chỉ là những lời chửi mắng và nỗi khiếp đảm. Năm tôi lên bốn, chỉ cần nghe giọng nói của bà thế nào là tôi có thể biết ngày hôm ấy của tôi sẽ ra sao. Bất cứ khi nào bà tỏ ra kiên nhẫn và độ lượng, bà chính là “Người mẹ hiền”; nhưng mỗi khi bà nổi giận và điên tiết với mọi thứ, thì bà chính là “Mẹ” - một người mẹ lạnh lùng, vô cảm, sẵn sàng hành hạ tôi bằng những cách không ai có thể ngờ được. Tôi lúc nào cũng nơm nớp lo sợ sẽ làm bà phật lòng, thậm chí tôi còn chẳng dám vào nhà vệ sinh nếu không xin phép bà trước. Dù còn rất bé, nhưng tôi cũng nhận ra rằng càng uống rượu nhiều, mẹ càng thay đổi nhanh và để con người thứ hai kiểm soát mình hoàn toàn. Một buổi chiều Chủ nhật nọ, lúc đó tôi mới năm tuổi, trong lúc say khướt, bà đã tấn công và vô tình làm gãy tay tôi. Ngay khi nhận ra mọi chuyện, mắt bà mở thao láo như hai đồng đô-la bạc. Mẹ biết bà đã đi quá đà. Bà biết bản thân mình đã mất kiểm soát. Sự việc đó không còn đơn giản như những cái tát, những cú đấm hay những lần tôi bị ném xuống cầu thang trước đây. Mời các bạn đón đọc Đi Ra Từ Bóng Tối của tác giả Dave Pelzer....
Mộng Phù Du
Tác giả 'Rừng son' Candace Bushnell tái ngộ độc giả VN với 'Mộng phù du', câu chuyện về sức mạnh của nhan sắc và ý chí của người phụ nữ hiện đại. Tác phẩm nằm trong loạt sách của Chibooks ra mắt nhân Lễ tình yêu. Với “Mộng phù du”, Bushnell nêu cao tuyên ngôn: Chiến thắng dành cho những phụ nữ làm chủ đời mình; mặc dù vậy, mọi nấc thang danh vọng đều có giá của nó.Janey Wilcox - cô người mẫu đồ lót nổi tiếng của Victoria’s Secret, nỗ lực leo lên những nấc thang danh vọng trong xã hội New York bằng mọi giá. Quá trình đi tới đỉnh vinh quang đầy thử thách và đau đớn khi Janey bị lộ tẩy quá khứ rắc rối cùng vô số quan hệ tình ái không minh bạch. Mối quan hệ bạn bè với Mimi Kilroy - một nhân vật có vị trí hàng đầu trong xã hội New York, ông chồng tốt Selden Rose - người đứng đầu kênh truyền hình cáp Movie Time, người tình Comstock Dibble - giám đốc hãng Parador Pictures… đều chỉ là những bước đệm tạm thời cho Janey tiến lên phía trước. Thế nhưng, thành công của bất cứ ai sống trong thế giới hào nhoàng của Janey cũng đều là “một thành công kiểu Hollywood - bất ngờ, kỳ diệu, và choáng ngợp - được tạo ra để cuối cùng hủy hoại linh hồn của người nhận nó”. Qua cuốn sách, tác giả gửi thông điệp đến những con người đang sống trong “giấc mộng phù du”: “Trong tương lai, sẽ còn rất nhiều những giây phút thất vọng, khi khám phá ra mình bị bội phản, khi nhận ra rằng mới hôm nay mình thật “hot”, hôm sau mình đã đóng băng, và không ai nhận điện thoại của mình nữa…”. *** Review Mê Đọc Truyện Tình: Lâu rồi tớ mới đọc được một cuốn sách hay như này. Hành văn và cốt truyện đều hay song dịch thuật hơi kém một chút. Có thể do bản này người dịch còn chưa chuyên. Chắc chắn tớ sẽ mua bản gốc đọc Sách viết về một cô người mẫu .Cô tên Janey Wilcox. Phải bò từng bước trên nấc thang danh vọng . Thuở đầu, cô phải làm gái cho một ông trùm buôn vũ khí giàu nứt đố đổ vách. Mối tình với anh lái tàu đã kết thúc cuộc sống nhung lụa ấy. Cô trở về, bắt đầu làm người mẫu. Thời gian đầu rất khó khăn, đôi khi phải vay tiền các tình nhân. Trong lúc ấy, cô nhận được thư mời làm việc của Victoria’s Secret. Cuộc đời sang trang mới. Nổi tiếng, giàu có,... như cô hằng mong. Cô lấy chồng, ly dị và bắt đầu làm phim. Bản thân tớ thấy rất thích cô Janey Wilcox này. Một cô gái mạnh mẽ, khôn ngoan. Vẫn rất tình cảm và yêu cái đẹp. Thực ra con người cô không xấu, cô xấu là do cô buộc phải thế. để sống sót, để cho những người kia thấy cô không dễ dàng bị quật ngã, Phụ nữ thời nay nên như vậy. Không quá ủy mị, không quá khôn ngoan.  Sách lột tả bộ mặt thật sự của Hollywood Hoa Lệ. Đừng tưởng làm minh tinh là sướng, là giàu. Để có được điều đó, người ta phải đánh đổi quá nhiều thứ, đôi khi là chính bản thân mình.  Hành văn khá ổn, cốt truyện hấp dẫn, thực tế và lời văn giản dị khiến nó trở thành cuốn sách viết cho tuổi mới lớn rất hay.   *** Đó là đầu hè năm 2000, và ở thành phố New York, nơi những con phố lấp lánh bụi vàng lọt xuống từ những vụ mua bán hàng tỉ đô trong nền kinh tế đang hưng thịnh, vẫn là chuyện làm ăn kinh doanh như mọi khi. Thế giới yên bình bước sang một kỷ nguyên mới, tổng thống một lần nữa tránh được việc bị buộc tội, và hiện tượng Y2K đã xì đi như một chai champagne Pháp cổ. Thành phố ngời lên với tất cả vẻ huy hoàng vừa rực rỡ, vừa thông tục, vừa nhẫn tâm của nó. Và vào đúng thời điểm đó, cả thành phố đang xôn xao về Peter Cannon, một luật sư trong ngành giải trí đã quịt tới ba mươi lăm triệu đô la của vài khách hàng ngôi sao. Những tháng năm kế sau đó, sẽ còn có nhiều vụ scandal hơn, hàng tỉ đôla bị mất, và những vụ lừa đảo dân chúng Mỹ. Nhưng vào lúc này, “vụ Peter Cannon” đã liên đới tới đủ những cái tên mặt dạn mày dày mà ít nhất tạm thời làm thỏa mãn đám dân New York đói khát chuyên ngồi lê đôi mách. Một trong những nạn nhân là nhạc sĩ rock ba mươi mốt tuổi tên là Digger. Digger là một trong những người thành công với cái tên chỉ có một từ, như rất nhiều nghệ sĩ vĩ đại, có khởi đầu khiêm tốn kết hợp với vẻ ngoài hơi quái đản. Anh là dân ở Des Moines, bang Iowa, có mái tóc vàng bẩn thỉu và làn da trắng nhờ đến đáng sợ mà ta có thể nhìn thấy cả mạch máu xanh bên dưới, và thường đội mũ phớt mềm, đặc trưng riêng của anh. Vào một chiều thứ Sáu kỳ nghỉ Ngày Liệt sĩ, anh ngồi lặng im bên bể bơi trong căn nhà thuê mùa hè với giá 100.000 đô tại Sagaponack ở Hamptons, hút thuốc không đầu lọc và nhìn vợ mình, Patty, đang giận dữ nói chuyện trên điện thoại. Digger dụi điếu thuốc vào chậu hoa cúc (trong chậu đã có một đống nhỏ đầu lọc thuốc mà người làm vườn sau đó sẽ dọn đi), và ngả người ra chiếc ghế dài bằng gỗ tếch. Hôm đó trời khá đẹp và anh thực sự không hiểu cái vụ lùm xùm về Peter Cannon này là sao. Là loại người coi mục đích đời mình đứng cao hơn công cuộc săn đuổi tiền bạc bẩn thỉu, Digger không thể hiểu nổi giá trị đồng tiền. Quản lý của anh ước tính anh mất phải đến một triệu đô. Nhưng với Digger, một triệu đô là khái niệm trừu tượng không rõ ràng chỉ có thể hiểu được bằng những thuật ngữ âm nhạc. Anh hiểu rằng mình có thể kiếm lại được một triệu đô đó bằng cách viết một bài hát hit, nhưng vào cái buổi chiều dễ chịu hôm đó, chìm trong sự xa hoa biếng nhác của một ngày ở Hamptons, dường như chỉ mỗi mình anh là có thái độ thờ ơ lãnh đạm như thế. Patty, cô vợ yêu quý của anh, đang hoang mang lo lắng, và nửa tiếng vừa qua đã nói toàn chuyện ngớ ngẩn trên điện thoại với chị gái cô, Janey Wilcox, một người mẫu nổi tiếng của Victoria’s Secret. Khi anh nhìn qua bể bơi tới nhà chòi nơi Patty ngồi cúi xuống cái điện thoại, ngắm nhìn thân hình hơi đẫy đà của vợ trong bộ áo tắm một mảnh màu trắng, thì cô ngước lên. Hai mắt họ gặp nhau và cùng hiểu một điều. Patty đứng dậy và bắt đầu bước về phía anh, và như mọi khi, anh ngỡ ngàng trước vẻ đẹp thuần Mỹ giản dị của vợ mình: tóc vàng ánh đỏ dài đến ngang lưng, cái mũi hếch xinh xinh với những nốt tàn nhang, và đôi mắt xanh tròn. Janey, chị gái cô, được mọi người coi là “người đẹp hoàn hảo”, nhưng Digger chưa bao giờ thấy như vậy. Mặc dù Janey và Patty đều có cái mũi hếch giống nhau, mặt Janey có gì đó vừa xảo quyệt vừa hoang dại không làm anh thấy cuốn hút. Và hơn nữa, anh coi Janey, với những giá trị khỉ gió về địa vị và tiền bạc, thái độ kiêu căng và xấc xược, và ám ảnh về chính bản thân, đơn giản chỉ là một ả khốn mắc bệnh ái kỷ. Mời các bạn đón đọc Mộng Phù Du của tác giả Candace Bushnell.
Phi Vụ Bất Khả
Móng Vuốt Quạ Đen luôn đứng đầu danh sách bán chạy của tuần báo New York Times, được vinh danh trong nhiều danh sách giải thưởng, hạng mục bình chọn quốc tế. Tác phẩm kể về một thế giới có phép thuật - nơi một nhóm những kẻ bất hảo tình cờ bị cuốn vào một phi vụ giải cứu đầy hiểm nguy, có khả năng xoay chuyển vận mệnh của thế giới. Đây là series tiểu thuyết Fantasy lừng danh được đón đọc trên khắp thế giới và làm nên tên tuổi của nhà văn Leigh Bardugo. Ketterdam là trung tâm giao thương quốc tế, nơi mọi thứ đều có thể đoạt lấy nếu được trả một cái giá tương xứng - và không ai hiểu rõ điều đó hơn thiên tài tội phạm Kaz Brekker. Kaz được đề nghị thực hiện một phi vụ hiểm hóc với mức tiền công sẽ giúp anh giàu sang hơn bất cứ giấc mơ điên rồ nào của mình. Nhưng anh không thể hoàn thành được nó một mình "Một tù nhân với cơn khát trả thù Một tay thiện xạ không thể cưỡng lại cám dỗ của trò đỏ đen Một người trốn chạy quá khứ trong nhung lụa Một gián điệp mang biệt danh Bóng Ma Một Độc Tâm Y dùng sức mạnh để sinh tồn trong khu ổ chuột Một tên trộm tài năng với những cuộc đào thoát không tưởng." Họ có thể cứu thế giới khỏi sự hủy diệt Nếu như họ không giết lẫn nhau trước Đây là thế giới của các Grisha, gián điệp, tù nhân, thiên tài tội phạm - với những cuộc đào thoát không tưởng. Móng Vuốt Quạ Đen - Phi Vụ Bất Khả - Tập 2 Ketterdam là trung tâm giao thương quốc tế, nơi mọi thứ đều có thể đoạt lấy nếu được trả một cái giá tương xứng - và không ai hiểu rõ điều đó hơn thiên tài tội phạm Kaz Brekker. Kaz được đề nghị thực hiện một phi vụ hiểm hóc với mức tiền công sẽ giúp anh giàu sang hơn bất cứ giấc mơ điên rồ nào của mình. Nhưng anh không thể hoàn thành được nó một mình… "Một tù nhân với cơn khát trả thù Một tay thiện xạ không thể cưỡng lại cám dỗ của trò đỏ đen Một người trốn chạy quá khứ trong nhung lụa Một gián điệp mang biệt danh Bóng Ma Một Độc Tâm Y dùng sức mạnh để sinh tồn trong khu ổ chuột *** Bộ sách gồm có Móng Vuốt Quạ Đen:  Móng Vuốt Quạ Đen - Sáu Kẻ Bất Hảo - Tập 1 Móng Vuốt Quạ Đen - Phi Vụ Bất Khả - Tập 2 Móng Vuốt Quạ Đen - Mưu Ma Chước Quỷ - Tập 3 Móng Vuốt Quạ Đen - Giang Hồ Hiểm Ác - Tập 4 *** INEJ Inej cảm thấy như cô và Kaz đã trở thành hai đồng đội chí cốt, cùng nhau tiến lên, vờ như mình vẫn ổn trong khi che giấu các thương tích và vết bầm tím trước những người còn lại. Phải mất thêm hai ngày đường nữa để họ tới được vách đá trông xuống Djerholm, nhưng việc di chuyển trở nên dễ dàng hơn khi họ đi xuống phía nam và gần ra bờ biển. Thời tiết ấm áp lên, mặt đất tan giá bớt, và cô bắt đầu thấy những dấu hiệu của mùa xuân. Inej cứ ngỡ Djerholm cũng giống như Ketterdam - một tấm vải toan đầy sắc thái xám xịt, đường phố quanh co với sương khói quyện chặt và những con tàu đủ mọi chủng loại ra vào hải cảng, tấp nập theo nhịp độ giao thương sôi động. Cảng Djerholm đông đúc tàu thuyền, nhưng những con phố nhỏ hẹp đổ ra biển của nó được thiết kế quy củ, và các ngôi nhà được sơn đủ mầu - từ đỏ, xanh dương, tới vàng và hồng - như thể thách thức miền đất hoang dã trắng xoá và mùa đông phương bắc dài đằng đẵng. Ngay cả những dãy nhà kho trên bến cảng cũng mang nhiều màu sắc tươi vui. Nơi đây giống như hình ảnh cô mường tượng về các đô thị khi còn bé, mọi thứ đều có màu kẹo ngọt và nằm đúng chỗ của chúng. Chiếc Ferolind có đang đợi sẵn ở cảng, duyên dáng với lá cờ Kerch và hai màu sơn cam - xanh nổi bật của công ty Haanraadt Bay không? Nếu kế hoạch diễn ra theo đúng như mong đợi của Kaz, đêm mai họ sẽ xuống bến cảng cùng với Bo Yul-Bayur, nhảy lên con thuyền của mình và giương buồm ra khơi trước khi phía Fjerda kịp phát giác vụ việc. Cô không thích nghĩ tới viễn cảnh đêm mai nếu kế hoạch đổ bể. Inej đưa mắt nhìn lên Lâu Đài Băng sừng sững như một người lính gác đồ sộ trắng muốt đứng trên vách đá cao trông xuống hải cảng. Theo lời Matthias thì vách đá kia không thể leo lên được, và cô phải thừa nhận đấy là một thử thách thực sự ngay cả với Bóng Ma. Nó cao không tưởng tượng nổi, và nhìn từ xa, bề mặt nhẵn nhụi trắng phau của nó sáng bóng như mặt băng. “Đại bác kìa,” Jesper lên tiếng. Kaz nheo mắt nhìn lên những cỗ súng lớn chĩa thẳng ra vịnh biển. “Tôi đã đột nhập vào nhà băng, kho hàng, tư dinh, bảo tàng, hầm vàng, thư viện sách quý, thậm chí là phòng ngủ của một nhà ngoại giao người Kaelish có bà vợ đam mê ngọc lục bảo. Nhưng tôi chưa bao giờ bị một khẩu đại bác chĩa vào người.” “Chuyện gì cũng có lần đầu,” Jesper bình phẩm. Inej mím môi lại. “Hi vọng chúng ta không xui đến mức ấy.” “Mấy khẩu thần công kia là để chặn đứng những chiến hạm định ho he xâm lược,” Jesper đáp với giọng tự tin. “Chúng không thể bắn trúng một con thuyền nhỏ hai buồm rẽ sóng đi tìm của cải và vinh quang.” “Tôi sẽ dẫn lại lời anh khi quả đạn đại bác rơi vào lòng tôi,” Nina lên tiếng. Họ dễ dàng hoà vào dòng người ở điểm giao cắt giữa vách đá và con đường dẫn lên Thượng Djerholm ở phía bắc. Khu vực trên này là vùng mở rộng của đô thị bên dưới, một tập hợp lộn xộn gồm các cửa hàng, chợ búa, quán trọ để phục vụ cho các lính gác và nhân viên làm việc trong Lâu Đài Băng, cũng như các du khách. May mắn là đám đông đủ lớn và sặc sỡ để một nhóm người ngoại quốc có thể di chuyển mà không bị để ý, và Inej cảm thấy dễ thở hơn một chút, cô đã lo rằng mình và Jesper có thể bị nghi ngờ khi đi giữa biển tóc vàng của Fjerda. Có lẽ nhóm người nước Shu Han cũng dùng sự đa dạng của đám đông để che chở cho họ. Không khí của lễ hội Hringkälla tràn ngập khắp nơi. Cửa hàng cửa hiệu trưng ra những chồng bánh tiêu nướng có hình dạng con sói, hoặc treo chúng lủng lẳng như đồ trang trí trên các cây to có cành vặn xoắn. Cây cầu bắc qua hẻm sông được trang trí với hoa và ruy băng màu xám bạc - màu sắc của Fjerda. Cầu có hai chiều: một đi tới Lâu Đài Băng và một quay về. Liệu ngày mai họ có băng qua cây cầu này trong tư thế của người chiến thắng hay không? “Mấy cái kia là gì vậy?” Wylan thắc mắc khi dừng lại trước một xe đẩy bán hàng rong chất đầy những vòng hoa được làm từ các nhánh cây vặn xoắn và dây ruy băng màu xám bạc. “Cây tần bì,” Matthias đáp. “Vật linh thiêng dành cho Djel.” “Nghe nói có một cây tần bì trên Bạch Đảo,” Nina nói, phớt lờ ánh mắt cảnh báo của anh chàng người Fjerda. “Đó là nơi các drüskelle tập hợp lại để làm lễ.” Kaz gõ cây gậy chống xuống đất. “Tại sao đến bây giờ tôi mới được cho biết chi tiết này lần đầu tiên?” “Cây tần bì được nâng đỡ bằng linh hồn của Djel,” Matthias đáp. “Đó là nơi chúng tôi có thể nghe thấy giọng nói của ngài tốt nhất.” Mắt Kaz long lên. “Đó không phải là điều tôi hỏi. Tại sao nó không có trong kế hoạch của chúng ta?” “Bởi vì đó là nơi linh thiêng nhất Fjerda, và không quan trọng đối với nhiệm vụ của chúng ta.” “Tôi mới là người quyết định cái gì quan trọng, còn điều gì anh cố tình bỏ quên không đấy?” “Lâu Đài Băng là một cấu trúc rất rộng lớn,” Matthias quay mặt đi. “Tôi không thể nhớ hết mọi ngóc ngách của nó được.” “Vậy thì anh hãy hi vọng không có gì rình rập trong mấy cái ngóc ngách đó đi,” Kaz đáp. Thượng Djerholm không có một khu trung tâm thực sự, nhưng nhiều tửu quán, nhà trọ và sạp chợ tập trung quanh chân quả đồi dẫn lên Lâu Đài Băng. Kaz dẫn họ đi tưởng chừng như không có định hướng qua nhiều con phố cho đến khi gặp một tửu quán xập xệ có tên Gestinge. “Ở đây á?” Jesper phàn nàn và đưa mắt nhòm vào gian phòng chính ẩm thấp, nồng nặc mùi tỏi và cá. Kaz chỉ liếc mắt đầy ý nhị lên phía trên và đáp: “Sân thượng.” “Gestinge nghĩa là gì nhỉ?” Inej thắc mắc. “Nó có nghĩa là ‘thiên đường’,” Matthias đáp. Ngay cả anh ta cũng tỏ ra ngờ vực. Nina giúp cả nhóm đặt một bàn trên sân thượng của quán. Ở đấy gần như không có người khách nào vì thời tiết vẫn còn quá lạnh. Hoặc cũng có thể mọi người bị dọa chạy mất bởi đồ ăn - cá trích ngâm dầu trở mùi, bánh mì đen cứng quèo, và bơ trông như bị mốc. Jesper nhìn xuống đĩa thức ăn của mình và rên rỉ. “Kaz, nếu anh muốn giết tôi thì hãy tặng một viên đạn, chứ đừng có đầu độc thế này.” Nina nhăn mũi. “Đến tôi mà cũng không muốn ăn là anh đủ biết rồi đó.” “Chúng ta vào đây là vì tầm quan sát, chứ không phải đồ ăn.” Từ bàn của mình, họ có thể quan sát rõ ràng, tuy hơi xa, lớp cổng ngoài và chốt gác đầu tiên của Lâu Đài Băng. Nó được xây như một cổng vòm mầu trắng ghép lại từ hai con sói đá đồ sộ đứng trên chân sau, và nối với con đường dẫn lên đồi tới lâu đài. Inej và những người khác quan sát các phương tiện đi qua cổng thành trong lúc nhơi bữa trưa, chờ đợi dấu hiệu của đoàn xe chở tù. Sự ngon miệng của cô cuối cùng cũng quay lại, và cô đã ăn nhiều hết mức có thể cho lại sức, nhưng lớp váng trên bát súp khiến cô không muốn ăn. Quán không phục vụ cà phê, nên họ gọi trà và những li brännvin nhỏ đốt cháy thực quản trong khi chảy xuống dạ dày, nhưng nhờ đó giúp họ giữ ấm khi cơn gió nổi lên, khuấy động đám dây ruy băng bạc buộc trên những cành cây tần bì trồng dọc theo con đường bên dưới. “Chúng ta sắp trở nên đáng nghi đấy,” Nina nói. “Đây không phải là nơi mọi người thích ngồi lâu.” “Hay là bọn họ chẳng có ai để tống vào tù?” Wylan phỏng đoán. “Lúc nào cũng có người cần tống vào tù,” Kaz đáp, đồng thời hất hàm về phía con đường. “Nhìn kìa.” Một cỗ xe tứ mã vuông vức dừng lại trước chốt gác. Mái và hai mặt bên hông được phủ vải bạt đen hù. Cánh cửa phía sau làm bằng sắt dày, có cài then và được gắn ổ khoá. Kaz thò tay vào trong túi áo khoác. “Đây,” anh nói và đưa cho Jesper một cuốn sách mỏng có bìa cầu kì. “Đến giờ đọc sách cho nhau nghe à?” “Cứ mở ra đi, trang cuối ấy.” Jesper mở sách và lật tới trang cuối, bối rối tợn. “Rồi sao?” “Giơ nó lên để chúng tôi không phải nhìn cái bộ mặt xấu hoắc của cậu.” “Xấu nhưng cá tính nhé. với lại… Ồ!” “Sách hay chứ hả?” “Ai mà ngờ được tôi lại hứng thú với văn học như thế này?” Jesper đưa sách cho Wylan. Cậu nhóc ngập ngừng cầm lầy. “Sách viết gì thế?” “Cứ đọc đi,” Jesper giục. Wylan nhíu mày và giơ sách lên, rồi nhoẻn cười. “Anh kiếm được cái này ở đâu vậy?” Matthias thốt lên một tiếng ngạc nhiên khi đến lượt mình. “Nó gọi là sách không bìa,” Kaz nói trong lúc Inej đỡ lấy quyển sách từ tay Nina và giơ lên. Các trang sách dày đặc những bài thuyết giáo tầm thường, nhưng cái bìa sau chạm trổ cầu kì của nó che giấu hai thấu kính có thể được sử dụng như ống nhòm. Kaz đã bảo cô lưu ý những người phụ nữ sử dụng gương con với cấu tạo tương tự tại Quạ Đen. Bọn họ có thể xem trộm các lá bài từ xa, rồi ra hiệu với đồng bọn đang ngồi chơi bài. “Thông minh đấy,” Inej nhận xét khi đưa mắt nhìn qua hai thấu kính. Với người phục vụ quầy bar và các vị khách hiếm hoi trên sân thượng, bọn họ có vẻ như đang chuyền tay nhau một quyển sách và thảo luận về đoạn văn thú vị nào đó. Nhưng thật ra Inej đang quan sát cổng thành cùng cỗ xe chở tù đậu phía trước. Cánh cổng nằm giữa hai con sói chồm trên chân sau được làm bằng sắt rèn và mang biểu tượng cây tần bì linh thiêng. Hai bên cổng thành là một hàng rào cao có gắn cọc nhọn bao quanh khuôn viên lâu đài. “Bốn lính,” cô ghi nhận, đúng như Matthias đã nói từ trước. Mỗi bên cổng có hai lính gác đứng, một người trong số họ đang nói chuyện với người đánh xe của cỗ xe tù. Người đánh xe đưa cho anh ta một gói tài liệu. “Đó là lớp bảo vệ đầu tiên,” Matthias cho biết. “Họ kiểm tra giấy tờ và xác nhận danh tính, đánh dấu bất kì người nào mà họ nghĩ là cần xem xét kĩ hơn. Vào giờ này ngày mai, dòng phương tiện đi qua cổng sẽ chở toàn các khách mời của Hringkälla, và an ninh sẽ được thắt chặt cho tới hẻm sông.” Mời các bạn đón đọc Phi Vụ Bất Khả của tác giả Leigh Bardugo & Hoàng Anh (dịch).