Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vị Khách Cuối Cùng

Littleport, Maine là thị trấn mang đến hai ấn tượng đối lập: một điểm nghỉ mát lý tưởng cho giới thượng lưu – nơi có những ngôi nhà xinh đẹp nằm dọc bờ biển; và một cộng đồng dân cư giản dị, mộc mạc ở bến cảng – nơi những người dân địa phương quanh năm kiếm kế sinh nhai bằng việc phục vụ du khách. Trong hoàn cảnh đối lập đến vậy, thật khó để tin rằng tình bạn sâu sắc sẽ nảy nở giữa con gái chủ nhà và cô bé giúp việc, nhưng đó là điều xảy ra giữa Sadie Loman và cư dân của Littleport - Avery Greer. Suốt gần một thập kỷ, hai cô gái luôn đồng hành cùng nhau trải qua những mùa hè tuyệt diệu, cho đến khi Sadie được phát hiện đã chết. Mặc dù cảnh sát kết luận Sadie đã tự sát, Avery không thể ngăn được cảm giác kỳ lạ rằng những người xung quanh có liên quan đến cái chết bí ẩn của cô bạn thân, bao gồm vị thám tử địa phương và Parker – anh trai của Sadie. Ai đó đã không tiết lộ hết sự thật mà họ biết, Avery định sẽ làm sáng tỏ mọi chuyện trước khi sự thật bị đổi trắng thay đen và làm hại cô ấy. Được chắp bút bởi Megan Miranda – tác giả của những cuốn sách bán chạy nhất New York Times: “Những cô gái mất tích” và “Người lạ mặt hoàn hảo”, nhà văn hàng đầu của dòng tiểu thuyết kinh dị; Vị khách cuối cùng sở hữu cốt truyện thông minh với những khúc quanh khó lường khiến người đọc hồi hộp dõi theo và nín thở đến tận trang cuối cùng. Một số nhận định về “Vị khách cuối cùng”: “Một lần nữa, Megan Miranda đã dựng lên câu chuyện kinh dị hoàn hảo cho mùa hè. Vị khách cuối cùng đầy những cú twist căng thẳng khiến trái tim tôi loạn nhịp. Nhớ canh thời gian rảnh để đọc cuốn sách này bởi một khi bắt đầu đọc, tôi cá là bạn sẽ không thể đặt xuống cho đến trang cuối cùng!” – Riley Sager, tác giả “Lần cuối cùng tôi nói dối” - cuốn sách bán chạy nhất New York Time. “ “Cốt truyện thông minh đầy ắp những bất ngờ và khúc quanh không thể lường trước là sở trường của Megan Miranda, nhưng cô vẫn khiến người đọc cảm thấy ấm áp nhờ câu chuyện tình bạn thân thiết giữa Sadie Loman và Avery Greer… Megan thật sự biết cách viết đoạn kết khiến người đọc phải ồ lên tán thưởng.” – Marilyn Stasio, Biên tập chuyên mục Review sách trên tờ The New York Time. “Không ai có thể đoán trước tình tiết cuốn sách mới nhất của bậc thầy tiểu thuyết kinh dị Megan Miranda. Vị khách cuối cùng là một bí ẩn nhanh như chớp, đầy nguy hiểm và chứa đựng những khúc ngoặt bất ngờ khiến độc giả đứng ngồi không yên.” Mary Kubica, tác giả “Cô gái ngoan” – cuốn sách bán chạy nhất New York Time. *** Tác giả: Megan Miranda. Dịch giả: SPENCER Thể loại: mystery thriller – trinh thám hồi hộp . . “Làm thế nào tôi đã trải qua mùa đông trong sự thờ ơ, giống như thời gian đã đóng băng. Uống nhiều rượu như đang tìm kiếm thứ gì đó và càng uống nhiều hơn vì tin rằng chắc chắn tôi sẽ tìm được điều đó. Tôi đã cãi nhau với bạn bè thế nào, khiến tình cảm giữa chúng tôi rạn nứt, những điều ngu ngốc, liều lĩnh mà tôi đã làm. Không tin ai và mất tất cả niềm tin từ mọi người”. Lúc gần nửa đêm tại buổi tiệc Cuối Mùa ở thị trấn Littleport, Avery Greer đang chờ người bạn Sadie Loman đến. Parker Loman – anh trai của Sadie đã đến cùng bạn gái, nhưng em gái anh ta không đi chung xe với họ. Avery lấy điện thoại nhắn tin cho Sadie và nhận thấy đối phương đang gõ tin nhắn trả lời, tuy nhiên tin nhắn đó không bao giờ đến. Thế rồi, cảnh sát gõ cửa và hỏi Parker về dấu hiệu nhận dạng của em gái anh. Cô ấy đã chết, được một người địa phương tìm thấy ngoài vách đá. ____ Một năm sau, nhìn bề ngoài thì cuộc sống của người dân trong thị trấn Littleport vẫn bình thường, nhưng vẫn có một điều gì đó xấu xa đang ngấm ngầm diễn ra chỉ trong cảm giác của một số người tinh ý, trong đó có Avery. Là bạn thân của Sadie, cô mãi bị ám ảnh bởi cái chết của bạn mình, và chậm rãi tiến hành điều tra từ những chi tiết và chứng cứ ít ỏi tìm được sau một năm. Xuất thân và quá khứ của Avery Greer cũng khiến cô gặp một ít rắc rối với người dân trong thị trấn. Nhờ một người anh cho mượn nhầm sách, tôi mới biết trên đời có tồn tại một quyển sách bìa xanh đẹp như thế này, nhưng nội dung thì tàm tạm chứ không xứng với cái bìa lộng lẫy. Một cô gái chết (hay bị giết?) ở đầu truyện, tiếp theo cả quyển sách là quá trình điều tra của bạn cô ấy. Tôi có thể hình dung tác giả viết rất kỹ, liên kết các chi tiết trước và sau một cách chặt chẽ, thỉnh thoảng đưa vào những đoạn nhỏ mang hơi hướm triết lý, nói lên suy nghĩ của nhân vật chính / mà có lẽ là của chính tác giả về cuộc sống. Thế nhưng, cá nhân tôi thấy cuốn này hơi nhạt, cố tình giữ lại những góc khuất trong quá khứ của nhân vật để đánh đố độc giả, bắt độc giả phải hại não nghĩ ngợi xem tại sao cô ấy hành xử thế này thế kia… Như một số quyển trinh thám khác, “Vị khách cuối cùng” được viết theo trình tự quá khứ đan xen hiện tại, thậm chí giờ giấc và sự kiện cũng bị thay đổi cho hợp ý tác giả, kết quả khiến tôi trong lúc đọc bị rối lên, cứ phải giở phần trước để xem mình có bỏ qua chi tiết nào không. Rất may là trong cuốn này không có bạo hành phụ nữ hay lạm dụng tình dục, đọc cũng nhẹ nhõm được một chút. Tuy vậy, cách viết của tác giả khiến tôi chưa cảm nhận sâu sắc được lòng thương tiếc dành cho nạn nhân. Trong ít nhất hai cuốn trinh thám thuộc loạt truyện về Tracy Crosswhite của tác giả Robert Dugoni, khi biết được động cơ và cách thức gây án, tôi đã rơi lệ vì xót thương cho cái chết vô nghĩa của các nữ nạn nhân tuổi đời còn rất trẻ. Tuy cũng thưởng thức được một số cuốn trinh thám Nhật, cũng thích đọc trinh thám Trung (với điều kiện phải hợp gu) nhưng nhìn chung tôi ít do dự khi mua / đọc trinh thám hiện đại phương Tây, vì bất chấp chuyện thường phàn nàn về lối sống phóng túng của nhân vật trong trinh thám Âu Mỹ, tôi vẫn thích những yếu tố như cốt truyện mạnh mẽ, minh bạch, dễ đọc; nhịp truyện không quá chậm như trinh thám cổ điển, và nhất là thường áp dụng khoa học kỹ thuật khiến quá trình điều tra diễn tiến nhịp nhàng và hợp lý. Tuy vậy, tôi vẫn phàn nàn về lối sống phóng túng của nhân vật trong cuốn “Vị khách cuối cùng” này! Các mối quan hệ tình ái đan xen chằng chịt và sự buông thả của các nhân vật khiến tôi liên tưởng đến “Người tuyết” và “Mùa hạn kinh hoàng”. Đồng ý rằng sống thì phải tìm vui, nhưng tìm vui một cách cẩu thả để rồi sau đó bị vướng vào quá nhiều rắc rối thì rốt cuộc những khoảng khắc tìm vui đó có đáng không, có được gọi là “vui” không. Lại càm ràm về lỗi chính tả trong sách: “lẩn quẩn” bị viết nhầm thành “lẩn khuẩn”, và thêm một vài lỗi khác tôi lười nên không ghi chú lại. Tuy nhiên, có một lỗi to đùng lẽ ra phải đập vào mắt ngay trước khi in ấn nhưng đã bị bỏ qua: “Miranda” bị lỗi đánh máy thành “Mỉanda”, chữ này được in trong phần tên tác giả ngay góc trên bên phải của mỗi trang lẻ. Ngoài ra thì phần dịch thuật đọc cũng dễ hiểu, nếu có khó hiểu là do tôi không thấu triệt được dụng ý của tác giả. Hôm nọ tôi thoáng thấy thông tin rằng sách của tác giả Megan Miranda sắp được xuất bản tiếng Việt một cuốn nữa, tuy nhiên riêng tôi thì cho rằng cuốn đã đọc này sẽ “Vị khách cuối cùng” ghé thăm tôi từ tác giả Miranda. (Sea, 8-4-2021) Cảm ơn anh Vũ đã cho em Biển mượn sách  Trong hình, chiếc xe ở phía xa là của vị khách không phải cuối cùng. Weniger anzeigen *** Megan Miranda Là tác giả của những cuốn sách bán chạy nhất New York Time: Những cô gái mất tích, Người lạ mặt hoàn hảo và gần đây là Vị khách cuối cùng. Cô cũng sáng tác một vài cuốn sách nổi tiếng trong cộng đồng người trẻ như Hãy đến tìm tôi, Mảnh vỡ của sự mất mát và Lời nói dối vô hại nhất. Megan lớn lên ở New Jersey, tốt nghiệp Đại học MIT và hiện đang sống ở Bắc Carolina cùng chồng và hai con. Tìm hiểu về nữ nhà văn tài năng này qua Twitter và Instagram @MeganLMiranda hoặc ghé thăm trang web MeganMiranda.com. Tác phẩm: Vị Khách Cuối Cùng Kẻ Lạ Hoàn Hảo - Thị Trấn Nhỏ Với Những Bí Mật Lớn ... *** BỮA TIỆC CUỐI MÙA Đáng lẽ tôi phải quay lại tìm cô ấy; ngay khi cô ấy không tới tham dự bữa tiệc; ngay khi cô ấy không chịu bắt máy; ngay khi cô ấy không trả lời tin nhắn của tôi. Nhưng vì những ly rượu luôn cần được rót đầy, những chiếc xe đang tìm chỗ đỗ đã khiến tôi trở nên quay cuồng. Tôi đã được yêu cầu phải luôn để mọi thứ trong tầm mắt để bữa tiệc hôm đó diễn ra suôn sẻ. Nếu thấy tôi quay trở lại, thế nào cô ấy cũng lại cười thẳng vào mặt tôi rồi đảo đôi mắt tinh nghịch và nói: “Avery, mình có một người mẹ là quá đủ rồi!” Tôi biết tất cả những điều trên chỉ là lời biện bạch. Tôi đến địa điểm tổ chức tiệc sớm hơn tất cả mọi người. Bữa tiệc năm nay được tổ chức vào mùa hè tại một ngôi nhà cho thuê của gia đình nhà Loman. Ngôi nhà nằm phía sau những hàng cây và một con đường lớn, sân nhà không quá rộng, chỉ đủ chỗ cho hai chiếc ô tô đỗ. Nhà Loman đặt tên cho ngôi nhà là Blue Robin* vì tấm gỗ ốp quanh nhà có màu xanh da trời và mái nhà có hình dáng giống như mái của một ngôi nhà tổ chim. Tuy nhiên, tôi lại nghĩ ngôi nhà được đặt tên như vậy là vì nó nằm phía sau những hàng cây, sâu đến mức giống như một đốm sáng xanh hiện lên trên nền bóng tối mà chỉ có thể nhìn thấy rõ khi lại gần. Một loài chim đẻ trứng có màu xanh dương.  Tuy ngôi nhà không phải là một địa điểm lý tưởng bậc nhất hay là nơi có khung cảnh đẹp nhất cho các buổi tiệc tùng; tuy ngôi nhà ở quá xa để thấy biển và chỉ đủ gần mới có thể nghe thấy tiếng sóng rì rào khơi xa nhưng đây lại là nơi cách xa khách sạn Bed and Breakfast nhất, sân nhà cũng được bao quanh với những cây thường xanh* đẹp mắt được cắt tỉa gọn gàng nhất. Mong rằng các vị khách đến đây sẽ không ai than phiền hay chỉ để ý đến những điểm hạn chế của ngôi nhà. Là thuật ngữ khoa học dùng để chỉ cây rừng có lá tồn tại liên tục trong thời gian ít nhất là 12 tháng trên thân chính. Điều này khác biệt với các loài rụng lá hoặc là thân thảo (hàng năm hoặc lâu năm). Các ngôi nhà của nhà Loman cho thuê vào mùa hè đều có điểm chung là kiến trúc nội thất giống y như nhau. Điều này làm cho mỗi khi rời khỏi nhà hay sau khi dẫn khách đi tham quan, tôi đều cảm thấy như mất phương hướng. Một cái xích đu ở mái hiên thay vì đường lót sỏi, nhà ở gần biển thay vì gần núi. Mỗi ngôi nhà đều có lớp gạch lót giống nhau, cùng tông màu đá hoa cương, cùng phong cách nhà cổ mộc mạc. Các bức tường trong mỗi ngôi nhà đều được trang trí với những bức tranh về Littleport (Ngôi làng lớn nhất): ngọn hải đăng, những cánh buồm trắng ở hải cảng, những đợt sóng bọt tung trắng xóa đang vỗ vào các vách đá. Đá ở đây như đang cố gắng vươn mình trước những ngọn sóng, những hòn đảo ở phía xa thoắt ẩn, thoắt hiện theo dòng thủy triều. Littleport luôn mang một vẻ đẹp rất riêng: hoang dã, bí ẩn và tách biệt. Giờ thì tôi đã hiểu tại sao có nhiều người chấp nhận lái xe một đoạn đường dài chỉ để đến đây, tận hưởng cảm giác được nghỉ ngơi, đắm mình vào thiên nhiên. Một thị trấn được bao quanh bởi núi và biển, nhỏ bé và khiêm tốn, lối vào duy nhất là con đường dọc bờ biển đòi hỏi sự kiên nhẫn của người lái xe. Nơi đây tồn tại được hoàn toàn nhờ sự kiên cường trong đấu tranh chống lại sự tàn khốc của thiên nhiên. Nếu lớn lên ở đây, bạn sẽ có cảm giác con người mình cũng được tôi luyện bởi chính sự kiên cường đó. Tôi lấy những chai rượu còn lại trong thùng ra đặt lên bàn đá hoa cương, mang những món đồ trang trí dễ vỡ cất đi và bật đèn bể bơi. Tôi ra hiên sau ngồi và tự thưởng cho mình một ly rượu, lắng nghe những âm thanh theo gió từ biển vọng vào rì rào. Một cơn gió lạnh chớm thu lùa qua những kẽ lá khiến tôi rùng mình và phải kéo kín áo khoác để giữ ấm. Bữa tiệc này luôn được tổ chức vào những thời khắc chuyển mùa, một sự níu kéo cuối cùng của mùa hè trước khi trời sang thu và vào đông. Mùa đông ở nơi đây không chỉ lạnh thấu xương mà còn dài đằng đẵng. Những cơn gió lạnh có thể ùa đến rất nhanh, chỉ ngay khi tiệc tàn và các vị khách rời khỏi. Nhưng hàng năm, những bữa tiệc này luôn diễn ra trước khi mùa đông tới. Một đợt sóng nữa vỗ vào bờ, tôi nhắm nghiền mắt và nhẩm đếm từng giây. Chờ đợi! Bữa tiệc được tổ chức để tạm biệt mùa hè, nhưng mấy ngày hôm nay những cơn gió không biết từ đâu kéo nhau ùa tới khiến tôi nghĩ mùa hè đã bị cuốn theo những ngọn sóng trôi ra mãi xa kia rồi. Khi bữa tiệc bắt đầu trở nên náo nhiệt thì Luciana xuất hiện. Tôi không biết chị ấy tới từ khi nào nhưng khi tôi nhìn thấy thì chị ấy đã đứng ở đó, một mình lẻ loi trong nhà bếp. Dáng hình cao ráo nổi bật của chị dễ khiến người khác chú ý, vậy mà chị lại đang đứng bất động trước sự náo nhiệt của những hoạt động xung quanh. Có lẽ vì đây là lần đầu tiên chị tham gia bữa tiệc như thế này. Nó khác hẳn những bữa tiệc mà chị đã tham dự trong suốt mùa hè vừa qua, bữa tiệc chào đón chị đến với thế giới của Littleport, Maine. Tôi chạm nhẹ vào khuỷu tay của chị, bằng cảm nhận của mình tôi thấy nó lạnh toát. Chị giật mình quay ra nhìn tôi, rồi chị thở phào nhẹ nhõm, dường như chị thấy rất vui khi gặp tôi. “Bữa tiệc này không giống như những gì chị tưởng tượng một chút nào!” Chị ấy không chỉ ăn mặc rất lộng lẫy mà còn chuẩn bị rất chu đáo khi đến tham dự bữa tiệc này. Mái tóc uốn xoăn nhẹ, quần được thiết kế riêng phù hợp với đôi giày cao gót của chị. Cảm giác giống như chị đang chuẩn bị đi dự một bữa tiệc nhẹ buổi sáng hơn là một bữa tiệc buổi tối như thế này. Tôi mỉm cười hỏi chị: “Sadie có đi cùng chị không?”. Sau đó, tôi đưa mắt quan sát để tìm màu sắc quen thuộc là mái tóc vàng đậm được chẻ ngôi giữa, tóc hai bên được tết thành hai dải mỏng và kẹp gọn về phía sau, trông nó hồn nhiên như một đứa trẻ vậy. Tôi kiễng chân và cố dỏng tai tìm kiếm tiếng cười quen thuộc của cô. Luce lắc đầu, những lọn tóc xoăn nhẹ vờn qua vai chị. “Không, chị nghĩ là con bé vẫn đang đóng đồ. Parker chở chị tới đây rồi anh bảo là muốn đỗ xe ở Bed and Breakfast để sau bữa tiệc đi về sẽ tiện hơn.” Chị chỉ tay về hướng Bed and Breakfast, một ngôi nhà từ thời Victoria được cải tạo lại thành khách sạn với tháp chuông nhỏ và có mái hiên. Đứng ở đó bạn có thể nhìn bao quát gần như toàn bộ vùng Littleport, những phần đẹp nhất, từ hải cảng tới dải cát của bãi biển Breaker, một con dốc cạnh ngôi nhà dẫn thẳng ra biển, dẫn đến ngôi nhà của gia đình Loman ở phía Bắc thị trấn. “Anh ấy đáng lẽ không nên đỗ xe ở đó!” - Tôi vừa nói vừa lấy điện thoại ra khỏi túi. Làm sao mà giấu kín được bữa tiệc này với những người chủ của B&B khi mà tất cả các vị khách đều đỗ xe ở đó chứ? Luce nhún vai. Parker Loman luôn làm theo ý mình mà không bao giờ nghĩ đến hậu quả về sau. Tôi áp tai vào điện thoại, cố gắng nghe tiếng đổ chuông trong tiếng nhạc ầm ĩ. Xin chào, bạn đã gọi đến số của Sadie Loman... Tôi dập máy, cất điện thoại vào trong túi và đưa cho Luce một ly vang đỏ. “Của chị đây!” - Tôi nói. Mặc dù, câu mà tôi muốn nói lúc đó là: “Ôi Chúa ơi, hãy hít một hơi thật sâu và thư giãn đi nào!”, nhưng không hiểu toàn bộ vốn từ vựng của tôi đã bay đi đâu mất khiến cho mỗi cuộc trò chuyện giữa tôi và Luciana Suarez thường chỉ gói gọn trong vài từ. Luce nhận lấy ly rượu với thái độ kính cẩn nhất, đó là một trong những điểm tôi thích ở chị. Tôi chuyển những chai rượu đã uống gần hết ra một chỗ để tìm chai whiskey, loại rượu mà tôi biết là chị rất thích. Sau khi tôi rót rượu vào ly, chị nói: “Cảm ơn.” “Không có gì.” - Tôi đáp lại. Mặc dù tôi và chị đã biết nhau cả một mùa hè, nhưng cho đến tận bây giờ tôi vẫn chưa biết chị cảm nhận như thế nào về tôi, một đứa con gái sống bên cạnh phòng khách trong ngôi nhà của bạn trai chị. Bạn hay thù, đồng minh hay kẻ địch. Chị nghiêng người ghé lại gần tôi như để chia sẻ một điều gì đó bí mật, “Đến giờ chị vẫn chưa thể hiểu nổi bữa tiệc này!” Tôi cười: “Rồi chị sẽ hiểu thôi!” Luce đã rất băn khoăn về bữa tiệc này kể từ khi Parker và Sadie kể rằng, hai anh em họ cùng với bố mẹ của mình sẽ không rời khỏi đây vào Ngày lao động, thay vào đó, họ ở lại để dự bữa tiệc này. Mời các bạn đón đọc Vị Khách Cuối Cùng của tác giả Megan Miranda & Spencer (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thành Trì - Archibald Joseph Cronin
The Citadel (THÀNH TRÌ) kể về Andrew Manson – một bác sĩ trẻ vừa ra trường – háo hức với những lý tưởng tốt đẹp về nghề nghiệp lãng mạn này - và cuộc chiến chống lại hệ thống y tế bảo thủ, lạc hậu với những cung cách chữa bệnh dựa theo chủ nghĩa kinh nghiệm, nặng về lý thuyết sách vở không chỉ ở những vùng xa xôi hẻo lánh ở xứ Wales mà còn ở những bệnh viện, phòng khám ngay tại London – thủ đô nước Anh vào những năm 20, 30 của thế kỷ 20. Câu chuyện bắt đầu tại Drineffy – một thị trấn mỏ ở South Wales – nơi Andrew bắt đầu công việc với tư cách một bác sĩ đa khoa, ngay sau khi vừa ra trường, với những bệnh nhân đầu tiên; những nỗ lực và bất lực đầu tiên trong việc chẩn đoán và điều trị bệnh nhân vì những kiến thức khô cứng và hạn hẹp gò trong các sách giáo khoa và dược điển mà anh đã học ở trường; những cảm xúc tinh khôi mới mẻ về tình yêu đầu tiên với cô giáo trẻ Christine Barlow và tình đồng đội với Phillip Denny – một bác sĩ ngoại khoa tài năng với một trái tim nhân hậu ẩn dưới vẻ ngoài cộc cằn và thái độ mỉa mai với hệ thống y tế cổ lỗ của nước Anh lúc đó, đầy rẫy những thầy thuốc bất tài chỉ giỏi lừa bịp bệnh nhân… Tiểu thuyết này đã từng thu hút rất nhiều độc giả Việt Nam nhiều năm về trước, không chỉ hấp dẫn về những tình tiết đi sâu vào mặt trái của nghề y và hệ thống y tế của nước Anh những năm đầu của thế kỷ 20, nó còn thu hút ở câu chuyện tình yêu nhiều bi kịch của nhân vật chính – bác sĩ Andrew Manson, ở chính lý tưởng và cả sự chao đảo về lý tưởng của anh khi phải đối mặt với những quy chuẩn giá trị của xã hội và đồng nghiệp thời đó về chính nghề nghiệp cao quý này. Hơn nữa, dù bản thảo của truyện tiểu thuyết này đã được viết ra gần 80 năm, nhưng nhiều vấn nạn về nghề y được nêu ra từ lúc đó, nay đọc lại vẫn còn thấy rất gần gũi với người đọc Việt Nam, khi so sánh với thực trạng hành nghề y ở khá nhiều vùng miền ở nước ta hiện nay. *** Tác giả Archibald Joseph Cronin là một bác sĩ trở thành nhà văn. Quãng đời bác sĩ của ông có những chặng đường giống nhân vật En- đru Men-sân. Tốt nghiệp đại học y khoa, ông về làm việc tại một vùng mỏ miền Nam xứ Uên rồi ra Luân Đôn ở hơn mười năm. Sau đó tình hình sức khỏe buộc ông phải từ bỏ nghề y. Trong những năm làm bác sĩ, Cronin đã có dịp tìm hiểu cuộc sống và lao động của những người thợ mỏ, và đồng thời nhìn thấy tường tận những mặt trái của ngành y ở nước Anh. Những cảm xúc và những điều tai nghe mắt thấy trong thời gian đó thôi thúc ông viết và chúng đã đem lại cho tác giả những trang sách vô cùng chân thực và sinh động. Tác phẩm đầu tay “Lâu Đài Người Bán Nón”, ra đời năm 1931, đã đưa ngay Cronin lên một vị trí nổi bật trên văn đàn. Tiếp đó là các cuốn “Dưới các vì sao” (1935) và “Thành trì” (1937). Các tác phẩm của Cronin đều đậm tính hiện thực, chan chứa tình cảm nhân đạo và giàu tình tiết hấp dẫn. Một nhà phê bình văn học đã gọi ông là “Charles Dickens mới của Anh" *** Vào một buổi chiều tà tháng mười năm 1921, trên con tàu vắng tanh chạy từ Xoan- đi đang nặng nề trườn mình leo dốc ngược thung lũng Pi-no- Oen, ở toa hạng ba có một người trai trẻ, quần áo xuềnh xoàng, mắt đăm đăm nhìn qua khung cửa sổ. En- đru Men-sân đã đi đường suốt cả ngày hôm nay từ miền Bắc, đến Ca-lai và Sơ-ru-bơ-ri thì chuyển tàu, thế mà sang chặng đường cuối cùng của cuộc hành trình buồn tẻ đưa anh đến miền Nam xứ Uên, anh còn thấy trong lòng bồn chồn háo hức hơn khi nghĩ đến công việc anh sắp nhận tại mảnh đất xa lạ, gớm ghiếc này. Đây là việc làm đầu tiên trong đời bác sĩ của anh. Bên ngoài, trời mưa xối xả che mờ những dãy núi dựng đứng hai bên con đường sắt đơn tuyến. Ngọn núi chìm vào trong bầu trời trống rỗng nhờ nhờ xám, còn sườn núi loang lổ những miện giếng mỏ như những vết sẹo chạy dốc xuống thành một mảnh màu đen ảm đạm, thê lương, nham nhở những bãi xỉ quặng kết sù, bên trên có vài ba con cừu bẩn thỉu vơ vẩn tìm mãi không được một ngọn cỏ. Chẳng có một lùm cây, một túp cỏ nào. trong ánh sáng nhợt nhạt đang tối dần, những thân cây trông giống như những bóng ma khẳng khiu, còi cọc. Đến một chỗ ngoặt, ngọn lửa đỏ rực của một xưởng đúc loé lên chiếc sáng một đám thợ mình trần, lưng vươn dài, tay quai tay búa. Tuy cảnh ấy vụt biến đi ngay đằng sau những công trình hỗn độn trên mặt đất của mỏ, song nó vẫn để lại một cảm giác mãnh liệt, căng đầy sức sống. En- đru hít một hơi dài. Trước cảnh tượng ấy, anh bỗng thấy trong người trào lên một nguồn nghị lực, tràn ngập một cảm giác hân hoan nẩy sinh từ niềm hy vọng và hứa hẹn của tương lai. Nửa giờ sau, trời tối hẳn càng làm cho cảnh vật thêm xa lạ và hoang vắng, con tàu hổ hển vào Blây-nen-li, thị trấn tận cùng của thung lũng và cũng là ga cuối cùng của tuyến đường. Thế là cuối cùng anh cũng tới nơi. Tay xách va-li, En- đru nhảy xuống tàu, rảo bước đi hết ga, nhớn nhác xem có ai ra đón không. Ở cổng ga, dưới một ngọn đèn chao đi chao lại trước gió, có một ông lão mặt vàng ệch, đội chiếc mũ vuông cạnh và mặc chiếc áo mưa dài thườn thượt đang đứng đợi. Ông lão nhìn En- đru xoi mói, hỏi với giọng khó chịu: - Ông là phụ tá mới của bác sĩ Pây-giơ phải không? - Vâng. Tên tôi là Men-sân, En- đru Men-sân. - Hừ! Còn tôi là To-mớt. “Lão to-mớt”, ai cũng gọi như vậy, mặc xác họ. Tôi đưa xe đến kia kìa… Lên đi… trừ khi ông muốn lội nước thì không kể. En- đru quẳng va-li vào trong xe, rồi trèo lên chiếc xe ọp ẹp đóng một con ngựa đen đủi, cao lêu nghêu, gầy giơ xương. Lão To-mớt bước lên theo, cầm lấy dây cương và thét: - Đi nào, Tép-phi! Chếc xe lăn bánh qua thị trấn. En- đru cố gương mắt nhìn xem thị trấn này như thế nào, nhưng qua màn mưa chỉ thấy lờ mờ những dãy nhà thấp lè tè, xám xịt, nối đuôi nhau dưới chân dưới ngọn núi cao ngút lúc nào cũng sừng sững trước mắt. Lão xà ích già lặng thinh không nói một câu nào đến mươi phút, chỉ liếc đôi mắt gườm gườm từ dưới vành mũ lõng tõng mưa nhìn En- đrụ Trông lão không có một vẻ gì giống người đánh xe ngựa bảnh bao của một bác sĩ làm ăn khấm khá. Lão bé loắt choắt, lôi thôi lếch thếch, người lúc nào cũng xông ra một mùi khét lèn lẹt. Mãi sau lão mới nói: - Vừa mới nhận bằng xong phải không? En- đru gật đầu. - Biết mà. – Lão To-mớt nhổ nước bọt đánh toẹt một cái. Lão thấy mình đoán trúng nên ham nói chuyện hơn, giọng ồ ồ – Người phụ tá cũ vùa mới bỏ đi cách đây hai hôm. Nói chung, chẳng ai chịu ở lại. - Sao thế? – Tuy băn khoăn nhưng En- đru vẫn mỉm cười. - Một là vì quá nhiều việc, chắc thế. - Vì sao thế? - Rồi sẽ biết! Một lát sau, như một người hướng dẫn khách du lịnh giới thiệu một nhà thờ to đẹp, lão To-mớt giơ chiếc roi đánh ngựa chỉ về một phía cuối một dãy nhà, chỗ một khung cửa nhỏ có ánh đèn phả ra một đám hơi nước. - Kia kìa, thấy không? Đấy là cửa hàng khoai rán của tôi. Bà lão nhà tôi ở đấy. Mỗi tuần rán khoai hai lần. Có cả cá nữa. – Một sự thích thú ngần nào đó làm méo xệch chiếc môi trên dài của lão – Rồi thể nào ông cũng mò đến đó ngay mà. Phố chính đến đây là hết. Rẽ sang một ngách phố bên cụt lủn, gồ ghề, chiếc xe lọc cọc chạy qua một bãi đất trống rồi ngoặc vào một lối đi hẹp của một ngôi nhà đứng tách biệt với những nhà bên cạnh, đằng sau ba cây thông Nam Mỹ. Ngoài cổng treo chiếc biển đề “Brin-gao- Ơ” ... Mời các bạn đón đọc Thành Trì của tác giả Archibald Joseph Cronin.
Người Bán Hàng Vĩ Đại Nhất Thế Giới - Og Mandino
Cho đến nay, “Người bán hàng vĩ đại nhất Thế giới” được dịch ra 18 thứ tiếng, đã bán ra hơn 9 triệu cuốn và trở thành cuốn sách bán chạy nhất Thế giới. Không ai có thể ngăn cản bạn làm gì, trở thành người như thế nào nếu điều đó là chính đáng, có lợi cho bạn, gia đình và xã hội. Mọi cái đều có thể nếu bạn dám ước mơ và dám hành động để biển giấc mơ đó thành hiện thực. Tuy nhiên ước mơ là một chuyện, cái khó là ở chỗ làm sao để hành động biến ước mơ thành hiện thực.  Cuốn sách này được gói gọn trong mười cuốn da dê giúp bạn trở thành một Người bán hàng vĩ đại nhất thế giới, tuy nhiên nó không chỉ dạy bạn cách “bán hàng”, mà nó còn là một cuốn sách dạy bạn làm người, giúp bạn trở thành người “vĩ đại nhất” trong lĩnh vực mà mình đã chọn. Nội dung cuốn sách này được đúc rút từ những kinh nghiệm xương máu mà nhờ đó nó đã biến các ước mơ của cổ nhân thành hiện thực. Chứ không phải do một cá nhân nào đó tưởng tượng ra trong khi lại chưa được thực nghiệm kiểm chứng cả. Mỗi người đều có quyền tự do lựa chọn con đường để thực hiện giấc mơ của mình tuỳ thuận với nhận thức riêng của họ. “Quyển sách này” là một trong những con đường có thể giúp bạn đạt được ước mơ của mình. HỌC + LÀM = GIÀU Con Đường Thành Công    Ngay cả lời nói của Thượng đế cũng cần phải bán được cho con người để họ có thể lắng nghe Tất cả chúng ta, ai cũng đều đang rao bán một thứ gì đó trong mọi lúc của cuộc sống. Là một tu sĩ, chúng ta đang rao bán niềm tin của chúng ta về thương đế. Là một nhà giáo, chúng ta đang rao bán kiến thức của mình về khoa học. Là một nhà chính trị, chúng ta đang rao bán chính kiến của mình về một xã hội. Và là một con người chúng ta đang rao bán tình yêu của chúng ta đối với mọi người quanh ta. Một ý nghĩ có vẻ quá thực dụng nhưng lại là một thực tế mà chúng ta thường vẫn luôn tránh né, một cách vô thức, chẳng muốn nhìn nhận. Nếu chúng ta chấp nhận bán hàng là một hành động phục vụ, chúng ta sẽ nhận ra những hàm ý thực sự cao đẹp và đáng trọng của hai từ này. Nếu chúng ta thực tâm hiểu ra và tôn trọng hai từ này, ai trong chúng cũng có thể trở thành một người bán hàng vĩ đại nhất thế giới này. “The Greatest Salesman in the World” là một cuốn sách tuyệt vời đã từng được con người viết ra. Cuốn “Người Bán hàng Vĩ đại Nhất Thế giới” này là một cuốn sách mà những thông điệp ẩn mật đáng trân trọng của nó thường bị bỏ quên bởi chính cái tên của cuốn sách. Chúng ta cần phải hiểu hai chữ bán hàng được nói ở đây có nghĩa rộng hơn nhiều chứ không chỉ là công việc bán hàng bình thường như mọi người ngầm hiểu. Og Mandino là một tác già sách ‘self help’ (tự thân cải tiến) nổi tiếng chứ không phải một tác giả sách marketing. Chính vì lý do này mà chúng ta cần phải hiểu đây không thể là một cuốn sách về một ý thức hay những phương pháp bán hàng một cách đơn thuần. Theo ý của tác giả Og Mandino thì đây là một cuốn sách mượn công việc bán hàng để nói đến một phong cách sống phục vụ sẽ đưa ta đạt đến những thành công to lớn trong cuộc sống và nếu có, thì quan trọng hơn nữa là –cảm nhận niềm hạnh phúc của việc “được sống” một cách độc lập và tự do trong giới hạn của TÌNH YÊU. *** Và rồi thật nhanh chóng, một đoàn xe được bảo vệ nghiêm ngặt rời khỏi Damascus mang theo các giấy chứng nhận chủ quyền và vàng đến cho những ai đang quản lý các cửa hàng của thương quốc Hafid. Từ Obed ở Joppa đến Reuel ở Petra, từng người quản lý một đều nhận được lời giã biệt và tặng vật của Hafid trong sự im lặng đến mức sững sờ. Cuối cùng, khi đến cửa hàng ở Autipatris, nhiệm vụ được giao của Eramus đã hoàn tất. Thương quốc mạnh mẽ và rộng lớn nhất một thời đã không còn tồn tại nữa. Trái tim nặng trĩu, Eramus báo về cho ông chủ của mình biết là các kho hàng nay đã hoàn toàn trống rỗng và các cửa hàng một thời là niềm tự hào của Hafid nay đã không còn nữa. Người đưa tin trở lại với yêu cầu của Hafid. Eramus nhanh chóng trở về và gặp lại chủ nhân của mình bên hồ nước trong lâu đài. Khi gặp lại, Hafid quan sát nét mặt của người quản lý già: “Mọi việc đã xong?” “Vâng thưa ông, đã xong.” “Đừng đau khổ, ông bạn. Hãy theo tôi.” Chỉ có tiếng bước chân của họ dội lên trong căn phòng rộng lớn, trống rỗng khi Hafid dẫn Eramus dọc theo lối đi bằng cẩm thạch xanh dẫn ra phía sau. Đôi khi bước chân của Hafid chậm lại khi đi ngang qua những bình hoa trống rỗng, cô đơn trên các chân đế bằng gỗ cam cao nghệu và ông mỉm cười khi nhìn thấy những tia nắng đang làm cho màu của thuỷ tinh chuyển từ trắng thành tím nhạt. Rồi 2 người bạn già bắt đầu leo lên những bực thang dẫn đến một căn phòng nằm ngay bên dưới mái vòm của lâu đài. Erasmus nhận thấy những người canh gác vẫn thường hiện diện ở đây trong bao năm qua nay không còn nữa. Hai người lên đến tầng giữa, họ tạm ngừng để lấy lại hơi thở đã mất vì những bậc thang quá dài, rồi lại tiếp tục leo lên tầng hai trong im lặng. Đến trước một khung cửa, Hafid lấy ra một cái chìa khoá nhỏ vẫn đeo nơi lưng quần và mở cánh cửa bằng gỗ sồi nặng trịch ra. Ông nghiêng người đẩy cánh cửa mở ra một cách khó khăn và bước vào. Erasmus chần chừ cho đến khi ông chủ của mình yêu cầu ông bước vào, Erasmus thận trọng bước vào trong căn phòng mà từ hơn 30 năm qua chưa từng một ai được cho phép bước vào. Ánh sáng mờ nhạt len vào từ những khe hở chung quanh mái vòm ở bên trên, Erasmus nắm chặt lấy tay chủ nhân của mình cho đến khi đôi mắt dần quen đi với ánh sáng tù mù trong căn phòng bí mật đó. Với một nụ cười mơ hồ, Hafid nhìn người bạn trung thành của mình đang chậm chạp nhìn quanh căn phòng trống rỗng. Chỉ có một cái rương nhỏ thấp thoáng phản chiếu ánh sáng nằm ở một góc phòng. “Bạn cảm thấy thấy thất vọng ư, Erasmus?.” “Tôi không biết nói gì, thưa ông.” “Ông không thất vọng vì mọi thứ ở đây ư, ông bạn già. Chắc chắn là những gì chứa chất trong căn phòng này là một trong những bí mật đối với mọi người đã từng làm việc với tôi. Ông không thắc mắc hay quan tâm gì đến những gì được cất giấu ở đây dưới sự canh gác cẩn mật bao lâu nay sao?” ... Mời các bạn đón đọc Người Bán Hàng Vĩ Đại Nhất Thế Giới của tác giả Og Mandino.
Đánh Cược Với Tình Yêu - Suzanne Enoch
Tác phẩm thuộc series tiểu thuyết ăn khách của Suzanne Enoch, Scandalous bride, tác giả nổi tiếng dòng văn học lãng mạn Mỹ, mới phát hành tại Việt Nam. Diane Benchley và Oliver Warren từng có một mối tình đẹp như mơ ở Vienna. Nhưng câu chuyện cổ tích đột ngột kết thúc khi Oliver bỏ đi không rõ lý do. Oliver lúc đó chỉ là một kẻ tay trắng, kiếm tiền bằng cách chơi cờ bạc bịp trên khắp các sòng bài. Anh sợ rằng, mình sẽ phải lòng người phụ nữ quyến rũ, giỏi giang này và không kiềm được ý muốn kết hôn với cô. Anh không muốn đến với cô khi chẳng có gì chắc chắn để đảm bảo cuộc sống của hai người. Nhưng anh không ý thức được rằng, nỗi khổ tâm của anh, sự ra đi đường đột của anh đã giết chết một phần con người Diane.  Oliver quay về London, xin lỗi người bác già cả cho những lầm lỡ trước kia của mình, thừa kế tước hiệu Hầu tước Haybury và quyết tâm làm lại một cuộc đời mới. Nhưng số mệnh không tuân theo sự sắp đặt của anh. Oliver ý thức được điều đó ngay từ khi nghe tin Diane Benchley trở về Anh quốc. Cảm giác day dứt và vấn vương khiến anh buộc phải đi theo tiếng gọi của trái tim mình. Haybury chấp nhận trở thành cộng sự kinh doanh của Diane, tham gia vào kế hoạch điên rồ đầy mạo hiểm của cô. Diane luôn cho rằng, bài bạc đã lấy đi nhiều thứ quý giá của mình. Và như một lời thách đố với số phận, cô quyết tâm chọn cách mở một sòng bài. Sự thành công của cô sẽ giống như một chiến thắng vẻ vang trước quá khứ chua xót luôn làm cô day dứt. Nhưng, Diane dù thông minh đến mấy cũng thiếu kinh nghiệm quản lý một sòng bạc, còn Oliver lại thừa hiểu biết về lĩnh vực này. Cô buộc phải tìm đến anh, vừa để thực hiện kế hoạch kinh doanh mình nung nấu, vừa như một cách "trêu ngươi" tình cũ - kẻ mà cô tuyên bố đã chẳng còn chút vấn vương nào. Trải qua nhiều sóng gió, Diane ngây thơ đã biết cách dùng mọi thủ đoạn để đạt được mục đích của mình. Điểm yếu duy nhất của cô, đó chính là sự lỡ nhịp của trái tim. Oliver và Diane tưởng đã mất nhau, nhưng hai người đã "đánh cược" cả trái tim vào đối phương. Nhờ đó, họ tìm được hạnh phúc viên mãn. Đánh cược với tình yêu không chỉ kể câu chuyện lãng mạn, đó còn là thông điệp về lòng vị tha trong tình yêu. *** Bộ sách Scandalous bride, gồm có: #0.5 – The Wicked One # 1 – A Beginer’s Guide to Rakes - Đánh Cược Với Tình Yêu # 2 – Taming an Imposible Rogue - Kẻ Phóng Đãng Bất Trị # 3 – Rules to Catch a Devilish Duke # 4 – The Handbook to Handling His Lordship *** Trên thế giới này có rất ít chuyện có thể khiến Oliver Warren, Hầu tước Haybury, giật mình. Thực tế là anh có thể đếm những chuyện đó trên đầu ngón tay của một bàn tay. Như tiếng tru tréo của lũ trẻ con. Tiếng cọ xát của kim loại han rỉ. Và tên của người đó. Vẫn ngồi bất động, anh ngước lên, quên béng chồng phỉnh bạc (1) giữa ngón tay mình. “Anh vừa nói gì?” James Appleton ngồi bên trái anh liền gật đầu. “Tôi đã nghĩ nhà Benchley sẽ tìm ra cách giữ lại trang viên đó, dù gì nó cũng là tài sản của gia tộc từ rất lâu rồi. Nhưng giờ bà quả phụ đó đã mở cửa lại Dinh thự Adam House cũ. Theo tin tức tôi nghe ngóng được thì cô ta chỉ vừa mới đến tối qua. Dù sao thì cũng hơn ba năm mới có người đến sống ở đó.” Oliver đặt cược lên con ba bích, tập trung vào ván bài trong lúc người chia bài lật con bốn, con chín và con Q cơ. “Hừm”, Oliver nói, anh cho rằng sự quan tâm nhạt nhẽo sẽ là phản ứng thích hợp đối với những tin đồn vô thưởng vô phạt thế này. “Phu nhân Cameron. Cô ta đã đến lục địa rồi phải không? Cô ta tên gì ấy nhỉ? Marianne à?” “Diane.” Appleton sửa lại, cuối cùng nhận ra mình đã thua khi đặt cược vào con bốn bích. “Khốn thật. Tôi nghe nói là ở Vienna (2) hay Amsterdam gì đó. Tôi đoán là hơn hai năm sau cái chết của Fredrick cô ta cảm thấy nhớ London.” “Có vẻ thế.” Hình ảnh suối tóc đen huyền và cặp mắt xanh lạ lùng xẹt qua tâm trí Oliver trước khi anh kịp gạt đi. Chết tiệt, chết tiệt, chết tiệt. Anh liếc sang anh chàng ngồi phía bên trái. “London hẳn là chán chết ấy Appleton”, anh giễu cợt, “nếu như tin tức hấp dẫn nhất anh nhặt nhạnh được là một quả phụ đang trở lại nhà của người chồng quá cố của cô ta.” Từ phía bên kia bàn, Bá tước Beaumont cười phá lên. “Anh đang vấp phải thời điểm chán nản của mùa vũ hội đấy, Haybury. Chẳng có tin gì thú vị đâu. Tôi nghĩ chúng ta đã không có vụ tai tiếng nào kể từ tháng Giêng, và cũng chẳng ai thèm quan tâm vì có ai ở trong thành phố để buôn chuyện đâu chứ.” Bá tước nâng ly rượu của mình. “Chuyện này mang lại hy vọng sẽ sớm có một trò tiêu khiển đẫm máu.” Oliver nâng ly vì câu nói đó. Bất cứ điều gì giúp anh không phải nghe lại cái tên Diane Benchley chết tiệt từ miệng của ai đó trong sáu tuần tiếp theo sẽ nhận được sự ủng hộ của anh. “Tối nay anh không đặt cược nữa hả Appleton?”, anh khiêu khích. “Chúng tôi có thể cung cấp cho anh một cái khung thêu nếu anh thích tiếp tục líu lo.” Gò má và cổ họng Appleton đỏ lựng. “Tôi chỉ nghĩ chuyện đó thú vị”, anh ta phản bác. “Bá tước Cameron quá cố cùng phu nhân của anh ta chạy trốn khỏi London ngay trước mũi bọn chủ nợ, và giờ cô ta trở về một mình với nửa tá xe ngựa loại lớn nhất – vào lúc nửa đêm.” “Có lẽ cô ta đã tìm cho mình một vị công tước nước Phổ nào đó.” Nhân vật thứ tư trong nhóm, Jonathan Stucliffe, Tử tước Maderlin, rốt cục cũng nhập cuộc. “Theo như tôi nhớ thì cô nàng rất xinh đẹp.” Anh ta vỗ vai Oliver. “Sau đó anh không ở lại London nhỉ? Thực sự anh chưa từng tới Vienna à?” “Đâu đó quanh đấy.” Cái liếc mắt cùng cặp lông mày nhướng cao đã thuyết phục Maderlin buông vai anh ta. “Tôi cũng trở lại trên một cỗ xe màu đen loại lớn nhất đấy Appleton. Của riêng tôi. Anh cũng xì xầm về tôi đấy chứ?” Cuối cùng Appleton cũng toét miệng cười. “Đã và sẽ tiếp tục làm thế. Gần như là liên tục.” “Hay lắm. Tôi đã làm việc rất chăm chỉ để giữ tất cả những kẻ hóm hỉnh bận rộn.” “Đúng đấy!” Ngài Beaumont ra dấu và một gã phục vụ trong bộ đồng phục câu lạc bộ tiến đến rót đầy cốc rượu của anh ta. “Vậy thì anh sẽ phải chịu trách nhiệm cho sự yên ả này. Hãy cho chúng tôi một vụ tai tiếng đáng nguyền rủa đi nào, Haybury.” Oliver nghiêng đầu. “Tôi sẽ làm hết sức mình. Đúng hơn là tồi tệ nhất.” Diane Benchley, Phu nhân Cameron, ở London. Và anh cho rằng họ sẽ sớm chạm mặt nhau ở một buổi vũ hội nào đó. Xét cho cùng thì Mayfair là một nơi nhỏ bé. Thậm chí còn nhỏ hơn cả Vienna. Anh uống cạn lượng uýt-ki còn lại trong ly và tự rót cho mình một ly khác. Tối nay tên cô ta có lẽ đã khiến anh giật mình, nhưng nếu - khi – anh mặt đối mặt với cô ta, anh sẽ không phải là người giật mình. Không một cái nhăn mặt. Hay một cái nhíu mày nào. Và tốt hơn hết cô ta nên dán kín cái miệng xinh đẹp của mình lại hoặc anh buộc lòng phải làm một việc gì đấy chướng tai gai mắt. “Anh có đặt cược không hả, Haybury?” Manderlin hỏi. “Hay anh đang khâu vá?” Gói ghém những ý nghĩ không dễ chịu lắm cho khoảng thời gian riêng tư sau này, Oliver liếc nhìn những lá bài đã được lật và đặt hai bảng lên con J. Theo kinh nghiệm của anh con J luôn thắng. “Diane, có người muốn gặp cô.” Diane Benchley, Phu nhân Cameron, ngước lên từ đống giấy tờ trên bàn làm việc của người chồng quá cố. “Tôi không định gặp ai hết”, cô lầm bầm và tiếp tục chọn lọc các con số thập phân cùng các phép trừ ở mỗi bảng biểu có vẻ nổi bật. “Không có ngoại lệ.” “Tôi biết chứ, thưa cô”, người bạn đồng hành với cô đáp lại, vẫn không rời khỏi cửa ra vào. “Đó là ngài Cameron.” Trong tích tắc, cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng Diane. Cũng trong khoảng khắc ngắn ngủi đó, mỗi bàn tay cô từng nắm, mỗi làn gió thổi qua eo biển từ Lục Địa hay mỗi tin tức sét đánh nổ ầm trong lồng ngực kể từ khi cô rời Vienna, lại nghèn nghẹn trong cuống họng. Sẽ chẳng có chuyện gì, nếu như…. Lầm rầm nguyền rủa, cô rùng mình. Frederick Benchley đã chết. Hai năm trước. Cô đã ở bên cạnh lúc anh ta trút hơi thở cuối cùng. Cô đã đứng bên phần mộ của anh ta khi hai người làm công đào hố và chôn cỗ quan tài gỗ thông rẻ tiền của anh ta xuống lòng đất. “Vì Chúa, Jenny, đừng doạ tôi chứ”, cô hô to, đặt cây bút chì sang một bên và dùng ngón tay vẫn còn run rẩy của mình để xoa xoa hai bên thái dương. Sự hoảng hốt lướt qua khuôn mặt người bạn đồng hành của cô, Genevieve Martine vội vã bước vào phòng. “Ôi, Chúa ơi. Cô biết ý tôi là Bá tước mới kia mà. Tôi chưa bao giờ nghĩ là…” “Đừng bận tâm, Jenny. Có điều cô đã làm tôi nổi gai ốc đấy. Anthony Benchley đang ở đâu?” “Trong phòng khách buổi sáng (3). Anh ta đòi gặp cô, và sau đó gọi trà.” Diane chống tay lên bàn làm việc, đứng dậy. “Ừm. Chí ít chúng ta có thể phỏng đoán tin tôi trở về London đã nhanh chóng lan xa. Tôi cho là cũng có ý nghĩa đấy chứ.” “Phải đấy, chúng ta có thể tính là một may mắn kể từ lúc trở về đây.” Jenny thở dài. “Và hai tá điều bất hạnh. Tôi nên xếp Ngài Cameron vào mục nào đây?” “Bất hạnh. Nếu có thể cô hãy đi cùng tôi. Tôi muốn dứt khoát với anh ta càng nhanh càng tốt.” “Cô nghĩ anh ta muốn gì?” Genevieve hỏi với âm hưởng Pháp thanh thoát dường như có thể nhẹ nhàng hoặc mạnh mẽ tuỳ thuộc vào tâm trạng của cô ta. ... Mời các bạn đón đọc Đánh Cược Với Tình Yêu của tác giả Suzanne Enoch.
Chồn Mật - Robert Ruark
Tại châu Phi có một loài vật khát máu, không biết sợ ai, cái gì... bao giờ, mang tên Chồn Mật. Có lẽ nó là con vật hạ đẳng nhất thế giới. Nó thích mật ong, và mọi loài lông vũ. Nó giết chóc nhiều khi không phải là vì đói, vì căm hận mà chỉ để thỏa tính hung bạo và để.... giải trí. Đặc biệt, khi tấn công con người, nó không nhắm vào cổ hay bất kỳ đâu mà chỉ nhắm vào chỗ kín. Bản chất ấy phải chăng được thấy trong một con người Mỹ hiện đại - «Alex Barr», nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết ấn tượng này. "Chồn Mật" được coi là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Robert Ruark. Đây là câu chuyện về một người đàn ông, một nhà văn tài năng, bị giằng xé giữa công việc và đàn bà. Có lẽ người đọc sẽ không khó nhận ra phần nào nguyên mẫu của chính tác giả trong đó. Nhưng "Chồn Mật" vẫn không mang dáng vẻ của một hồi ký, kể cả khi đã nhắc không ít tới các nhân vật tiếng tăm có thực với tính cách, tài năng và số phận thực của họ, như nhà báo Ernie Pyle, nhà văn Ernest Hemingway... *** Trời rất nóng và đầy hơi nước, cái nóng của New York ẩm ướt, đặc sệt lại, đè nặng lên người. Tầng áp mái nhô lên khỏi 17 tầng nhà trên khu đông Manhattan, khoe ra những cây đào trên sân thượng. Chẳng có chút gió nào lay động nổi những chiếc lá đào, còn sân thượng được phủ một lớp bồ hóng xốp mịn. Không có máy điều hòa trong căn hộ kiểu cũ xây tường dày, và thường khá mát mẻ. Alexander Barr, với bộ đồ cộc, vừa ra khỏi vòi nước lạnh, và mới chỉ đi xa buồng tắm hai bước, mồ hôi đã bắt đầu chảy ròng ròng trên người. Amelia, vợ Alexander Barr, đang ngồi trước bàn trang điểm tô lại đôi môi, có cái vẻ mát mẻ khiêu khích. Như Alex Barr cảm thấy, nàng trông giống như người vừa hiện ra từ một thế giới toàn những kẻ vô danh, tất cả bọn họ đều bị ám ảnh bởi những ý nghĩ ích kỷ nhỏ mọn. Chiếc cốc đầy tới nửa một thứ gì đó có vẻ như rượu gin pha, rịn ra khá nhiều nước ở cạnh khuỷu tay nàng. Một điếu thuốc lá có đốm lửa đỏ ở đầu, buồn bã cháy âm ỉ trong chiếc gạt tàn bóng loáng bên cạnh. Alex Barr đã uống cạn một cốc khi anh từ ngoài đường vào nhà - mặt bóng nhẫy, mồ hôi ròng ròng, chiếc áo sơmi ướt sũng dính chặt vào người - nhưng cốc rượu chỉ khiến anh nóng thêm. Anh liệng chiếc cốc ra ngoài khoảng sân đầy bồ hóng, hy vọng có một chuyển động đáng thương hại trong không khí, và khi chằm chằm nhìn qua lan can xuống đường phố tít bên dưới, anh gần như bị ức chế một cách không thể chịu đựng nổi bởi ý nghĩ cả cái quả đất chưa được thăm dò chứa đầy những con “người kiến” bé tí xíu, tất cả đều bị tù hãm một cách cuồng loạn bởi những vấn đề cá nhân. Đột nhiên toàn bộ thế giới rộng lớn túm được đầu của Alexander Barr trong bàn tay gồ ghề của nó, bóp mạnh, và ép bộ óc anh phọt ra đằng tai. Anh cảm thấy như một bên hộp sọ của mình gãy vụn, rồi nở phồng ra, và ở chỗ vốn là não bộ giờ đây chỉ là một khối bê tông cứng. Alex muốn thét lên, muốn chạy trốn, muốn núp vào một xó nhà đầy mạng nhện và xé toạc lớp vỏ bọc đang bao phủ cái hộp sọ bị đổ bê tông, Anh muốn, anh muốn, anh không biết mình muốn gì nữa. Nhưng anh biết cái anh không muốn. Anh không muốn tới chỗ Hazeltines để ăn tối. “Không,” anh kêu lên. “Không, tôi sẽ không. Chắc chắn là sẽ không!” “Sẽ không làm gì kia?” Amelia vừa hỏi bằng cái giọng trẻ con vừa quay mặt khỏi tấm gương nàng đang soi để tô mắt bằng chiếc bút lông. “Nhanh lên nào, anh yêu, đừng bực nữa. Mình sẽ bị muộn bữa tối với Hazeltines mất,” Alex Barr nhìn vợ bằng cặp mắt uể oải, vô hồn, như nhìn vào một người lạ thờ ơ. Nàng thật đẹp, anh thầm nghĩ, với chiếc áo choàng đen thật gợi cảm. Năm nay nàng để dài mớ tóc màu hạt dẻ. Nàng đẹp, Alex Barr lại nghĩ, nhưng với mớ tóc mềm dài như vậy trông nàng rất giống một chú chó con lông xù. Nàng đã chải lại tóc và sửa móng xong. Chiếc áo dài dạ tiệc màu đen thanh nhã - một chiếc Hattie xinh xắn - đã được đặt cẩn thận trên chiếc khăn trải màu đỏ tía của chiếc giường khổ lớn. Khi đánh xong đôi mắt và trang điểm nốt phần mặt còn lại, nàng chui đầu qua chiếc áo dài Hattie, cẩn thận với lớp lụa mỏng để không làm son môi dây bẩn lên áo. Sau đó nàng vuốt lại mái tóc, mím môi để son dàn đều, rồi quay người lại và nói, như Alex Barr đã biết trước: “Anh yêu, chúng ta bị muộn mất thôi, đừng đi đi lại lại nữa và hãy mặc quần áo vào. Anh biết bọn người hầu của Hazeltines giờ giấc chính xác thế nào rồi đấy. Nếu muốn có chút thời gian để uống gì đó khi đến thì anh phải nhanh lên.” “Không,” anh nhắc lại - phải chăng anh đã nói vậy, hay anh mới chỉ nghĩ là anh đã nói vậy? “Không. Anh sẽ không. Chắc chắn là anh sẽ không”. Amelia nhìn anh vẻ khó chịu. “Anh đang nói gì đấy? Chắc chắn không cái gì?” “Chắc chắn anh sẽ không đến muộn bữa tối của Hazeltines.” ... Mời các bạn đón đọc ​Chồn Mật của tác giả Robert Ruark.