Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khởi Nghiệp Tinh Gọn

Cuốn sách "Khởi nghiệp Tinh gọn" (The Lean Startup) trình bày một mô hình khởi nghiệp vang danh toàn cầu, giúp thay đổi toàn bộ cách thức xây dựng công ty và tung ra sản phẩm mới trên thị trường. “Khởi nghiệp” - hai tiếng đơn giản đó có sức hút mạnh mẽ với bất kỳ ai, không chỉ đối với những người đang ấp ủ một dự án kinh doanh, mà ngay cả những ông chủ đang muốn tìm kiếm một sản phẩm hay một ý tưởng mới để “tái khởi nghiệp”, nói cách khác là tái tạo lại mô hình kinh doanh của mình. Tuy nhiên, từ ý tưởng đến thành công là điều không dễ! Nhiều dự án khởi nghiệp thất bại không phải vì ý tưởng không tốt, chiến lược kém hay tầm nhìn sai, mà cốt lõi của mọi vấn đề nằm ở chỗ chúng ta không có được một mô hình và phương pháp để khởi nghiệp thành công. Vì khởi nghiệp không giống với thành lập và điều hành một công ty theo dạng truyền thống, nên nó cần một mô hình và phương pháp quản trị riêng. Trong quản trị kinh doanh, việc khởi tạo một doanh nghiệp mới hay tái tạo một mô hình kinh doanh cũ luôn có những bài học mà nếu không trả giá thì không thể học được, thậm chí là phải trả giá nhiều lần, trả giá đắt, rất đắt thì mới có thể học được. Tuy nhiên, cũng có những bài học mà không cần phải trả giá vẫn có thể học được. Vậy tại sao không học để bớt phải trả giá? Những bài học đắt giá đó nằm trong cuốn sách đặc biệt này. “Khởi nghiệp Tinh gọn” không chỉ cung cấp những kiến thức nền tảng về phương pháp đã được áp dụng bởi rất nhiều tên tuổi lẫy lừng trong lĩnh vực khởi nghiệp sáng tạo này; mà còn trang bị những phương pháp giúp tăng khả năng thành công, đồng thời cũng giảm thiểu tối đa rủi ro trên hành trình khởi nghiệp hoặc phát triển sản phẩm mới, tái tạo doanh nghiệp của các doanh nhân. Đặc biệt, cách tư duy và những phương pháp trong cuốn sách này không chỉ áp dụng cho những siêu tập đoàn toàn cầu, mà còn áp dụng rất phù hợp cho những doanh nghiệp nhỏ, hay siêu nhỏ. Dù ở quy mô nào hay đang ở đâu trên hành trình kinh doanh, đã đến lúc chúng ta cần phải tư duy một cách TINH GỌN! *** TÓM TẮT Khởi nghiệp tinh gọn (2011) giúp những nhà khởi nghiệp và các công ty công nghệ phát triển những mô hình kinh doanh bền vững. Cuốn sách khích lệ việc nhanh chóng đưa ra các mẫu sản phẩm mới, và chú tâm vào các dữ liệu phản hồi từ khách hàng. Phương pháp được dựa trên các khái niệm về sản xuất tinh gọn và phát triển linh hoạt, và hiệu quả của nó được minh chứng qua phân tích các tình huống trong vài thập kỷ gần đây. NHỮNG AI NÊN ĐỌC NHỮNG “CÁI CHỚP MẮT” NÀY? Bất kỳ ai quan tâm đến khởi nghiệp và/hoặc đang khởi sự một công ty riêng Bất kỳ ai hứng thú với việc phát triển sản phẩm một cách nhanh chóng, và kiểm thử Những người sáng lập, quản lý và nhân viên các công ty công nghệ VỀ TÁC GIẢ CUỐN SÁCH Eric Ries là một nhà khởi nghiệp thành đạt – đồng sáng lập IMVU, một mạng xã hội sử dụng những hình đại diện 3D. Hiện nay, ông là một diễn giả và một nhà tư vấn được mọi người săn đón. CÁCH QUẢN TRỊ CÁC START-UP CẦN PHẢI RẤT KHÁC SO VỚI CÁC CÔNG TY LÂU ĐỜI. Trong 3 đoạn “chớp mắt” đầu tiên, bạn sẽ khám phát ra điều gì mới là mục đích chính các start-up nên theo đuổi. Phương pháp quản trị truyền thống bao gồm hai thành phần: phát triển các kế hoạch và giám sát những người thực thi chúng. Một nhà quản trị tạo ra một kế hoạch, thiết lập các cột mốc, giao phó công việc cho các nhân viên, hướng dẫn họ để đảm bảo hoàn thành các cột mốc kịp thời. Chiến lược quản trị này sẽ hiệu quả trong những công ty lâu năm đến mức họ hiểu rõ phương pháp nào đã có tác dụng trong quá khứ và suy ra cái nào sẽ có tác dụng ở tương lai. Khởi nghiệp thì khác: Họ không thể dự đoán được tương lai bởi họ không có quá khứ, không biết khách hàng muốn gì, và không biết cách tiếp cận nào là tốt nhất để tìm kiếm khách hàng hay xây dựng việc kinh doanh bền vững. Để tìm ra điều gì có thể có tác dụng, họ phải duy trì tính linh hoạt. Việc theo đuổi những kế hoạch với các cột mốc định sẵn hoặc phụ thuộc vào các dự đoán thị trường trong dài hạn là hành động tự lừa gạt mình. Dẫu sao, nhiều nhà sáng lập vẫn sử dụng những công cụ quãn trị hãng/công ty như là “các kế hoạch cột mốc” hay “dự đoán thị trường dài hạn”. Họ hành xử như thể đang chuẩn bị phóng tên lửa, mày mò với nó trong nhiều năm ròng và chỉ “phóng” tại thời điểm mà họ nghĩ là hoàn hảo.Thực tế, quản trị một start-up giống với việc lái một chiếc xe jeep băng qua địa hình mấp mô không bằng phẳng hơn, nơi các nhà sáng lập phải liên tục đổi hướng và khẩn trương phản ứng với các rào cản và ngõ cụt ngoài mong đợi. Tuy nhiên, các nhà khởi nghiệp cũng không nên từ bỏ hoàn toàn việc lập kế hoạch để mang một tâm thế “cứ làm đi” hỗn độn. Việc đấy sẽ chẳng đưa bạn đến đâu cả; ai đó phải điều khiển bánh lái để đưa ra các quyết định khôn ngoan về con đường nào phải đi. Một đội quản trị khởi nghiệp nên cố gắng duy trì một cái nhìn toàn cảnh về tình huống của họ và giữ cho công ty tiếp tục nhấn ga về mục đích chung. Nên, họ cần tìm các thông số đúng đắn để đo đếm xem hành trình của họ có đang dẫn họ đi đúng hướng. Cách quản trị các start-up cần phải rất khác so với các công ty lâu đời. MỤC ĐÍCH CỦA MỘT START-UP LÀ TÌM RA MỘT MÔ HÌNH KINH DOANH BỀN VỮNG. Mục tiêu chính của bất kỳ start-up nào là tìm ra một mô hình kinh doanh mang lại lợi nhuận và bền vững. Kế hoạch cột mốc tinh tế và chi tiết nhất, công tác thực thi các kế hoạch đó sao cho hiệu quả nhất, hay thậm chí, sự quan tâm tuyệt đối của báo chí chẳng có chút ích lợi gì nếu họ không có mô hình kinh doanh bền vững đó. Nếu bạn muốn công ty bạn không chỉ là một dự án cưng tạm thời, mà trước sau gì cũng dặt dẹo và chết đi, bạn phải tìm cách để chiếm được khách hàng và kiếm tiền bằng cách phục vụ họ. Giả dụ bạn muốn kinh doanh quanh bằng nghề hướng dẫn đan váy Scotland qua mạng: Hãy tự hỏi, có ai muốn những hướng dẫn này không? Có cách nào kiếm tiền từ họ không? Nếu câu trả lời trong cả hai trường hợp là không, hãy đi tìm việc khác, việc mà người ta muốn và sẵn lòng trả tiền. Do đó, mục đích đầu tiên và duy nhất cho khởi nghiệp của bạn là tìm mô hình kinh doanh bền vững,thứ sẽ có ích hôm nay và cũng hiệu quả kể cả trong tương lai. Trong thực tế, điều này nghĩa là bạn phải tìm ra sản phẩm nào khách hàng tiềm năng muốn và bằng cách nào chuyển đổi nhu cầu đó thành doanh thu liên tục. Trách nhiệm chính của ban quản trị start-up nên tập trung vào toàn thể công ty, bao gồm mọi thứ đang được thực thi mỗi ngày, để vươn tới mục đích duy nhất này. Start-up càng nhanh tìm ra mô hình kinh doanh bền vững, họ càng tiến gần hơn tới thành công. Mục đích của một start-up là tìm ra một mô hình kinh doanh bền vững. TÌM MÔ HÌNH KINH DOANH BỀN VỮNG CỦA BẠN BẰNG CÁCH HỌC TẬP QUA KIỂM CHỨNG. Để tìm được một mô hình kinh doanh bền vững, các nhà khởi nghiệp cần phải khám phá khách hàng của họ muốn gì và làm sao kiếm được tiền từ đó. Họ phải tìm đúng sản phẩm cho đúng người và tìm hiểu cách bán hàng phù hợp. Điều này không có nghĩa cần đưa ra một kế hoạch tuyệt vời ngay từ khởi đầu. Đúng hơn, nó đòi hỏi một quá trình học tập không ngừng: phương pháp học tập qua kiểm chứng lý tưởng, nghĩa là học tập thông qua cách tiếp cận khoa học. Để bắt đầu quá trình học tập qua kiểm chứng, bạn phải đưa ra các giả thuyết về việc có thể nào và bằng cách nào một sản phẩm nhất định sẽ thành công trong thị trường đã cho. Ví dụ, “Khách hàng Mỹ sẽ sẵn lòng mua giày qua mạng.” Những giả thuyết ban đầu này cần được kiểm thử,  và chỉ khi nó được chứng nghiệm qua việc đối thoại với khách hàng thì start-up mới biết rằng nó có đi đúng hướng trong việc tìm ra mô hình kinh doanh bền vững hay không. Tuy nhiên, cũng đừng sử dụng các bảng hỏi hay khách hàng hư cấu; thay vào đó, hãy nói chuyện với khách hàng thực sự trong một môi trường thực tế. Cách đáng tin cậy nhất để biết người ta có mua sản phẩm của bạn không là đề nghị họ sử dụng nó và quan sát phản hồi của họ. Hãy xem câu chuyện thành công của Zappos: Khởi đầu với một giả thuyết rằng người ta sẽ muốn mua giày qua mạng. Để kiểm thử ý tưởng này, công ty chụp những bức ảnh giày trong của hàng và trưng bày chúng trên một của hàng web giả mạo. Khi người ta thực sự đã cố mua giày qua mạng, Zappos coi giả thuyết của họ đã được chứng nghiệm. Qua cách tiếp cận này, nền tảng đã được phơi bày cho một trong những mô hình kinh doanh thành công nhất thập kỷ qua. Tìm mô hình kinh doanh bền vững của bạn bằng cách học tập qua kiểm chứng. NHỮNG GIẢ ĐỊNH “CÚ NHẢY NIỀM TIN”: HÃY KIỂM THỬ CÁC GIẢ THUYẾT VỀ GIÁ TRỊ VÀ TĂNG TRƯỞNG. Một phần của việc phát triển sản phẩm là “cú nhảy niềm tin”: Một nhà sáng lập tin vào sự thành công trong tương lai của sản phẩm mà cô muốn tạo ra, dù chưa có bằng chứng nào cả. Để nhanh chóng xoá bỏ khoảng cách giữa “tin” và “biết”, mỗi nhà sáng lập nên công thức hóa và kiểm thử hai giả định cơ bản: Giả thuyết về giá trị giả định rằng một sản phẩm sẽ mang đến giá trị cho khách hàng của nó – có nghĩa là – những người sớm chấp nhận sẽ đi lùng mua và sử dụng sản phẩm Giả thuyết về tăng trưởng chỉ ra rằng sản phẩm sẽ không chỉ hấp dẫn một nhóm đối tượng nhỏ sớm chấp nhận, mà nó sẽ sớm tìm ra một thị trường lớn hơn. Cả hai giả định trên đều cần được kiểm thử càng sớm càng tốt. Chỉ khi chúng được chứng nghiệm thì sản phẩm mới đáng giá để đầu tư thời gian và nỗ lực. Hãy nhìn vào Facebook: Họ đã thành công trong việc chứng nghiệm cả hai giả thuyết giá trị và tăng trưởng từ những bước đầu tiên khi mạng xã hội chỉ được một vài người sử dụng. Ban đầu, những người dùng đã đăng ký tỏ ra rất năng động trên mạng. Hơn một nửa đã đăng nhập ít nhất một lần mỗi ngày – bằng chứng ấn tượng cho giả thuyết giá trị. Thứ hai, Facebook có một tỉ lệ người dùng kích hoạt đáng kinh ngạc, nghĩa là nó xâm nhâp thị trường rất nhanh chóng. Tại những trường đại học nơi Facebook được giới thiệu, ba phần tư số sinh viên đăng ký chỉ trong vòng một tháng – mà công ty chẳng cần tiêu một đồng nào cho marketing. Bởi thế, giả thuyết tăng trưởng cũng đồng thời được chứng minh. Những con số ấn tượng đó đã thuyết phục các nhà đầu tư tin vào thành công trong tương lai của mạng xã hội mới mẻ này, khiến họ không ngần ngại đầu tư hàng triệu đô ngay từ giai đoạn đầu. Những giả định “cú nhảy niềm tin”: hãy kiểm thử các giả thuyết về giá trị và tăng trưởng HÃY PHÁT TRIỂN MỘT SẢN PHẨM KHẢ DỤNG TỐI THIỂU ĐỂ KIỂM THỬ Nhiều nhà sáng lập tập trung quá nhiều thời gian vào bản thân sản phẩm, trong khi không hề biết liệu có khách hàng nào thật sự sử dụng sản phẩm đó. Nếu bạn muốn tạo dựng công việc kinh doanh bền vững, bạn phải tìm hiểu xem khách hàng có nhu cầu về sản phẩm của bạn không, càng sớm càng tốt. Cách nhanh chóng và dễ dàng nhất để nhận được phản hồi chân thực về ý tưởng của bạn là tạo ra một phiên bản tối giản của sản phẩm. Sản phẩm khả dụng tối thiểu (minimal viable product – MVP)này nên đơn giản hết mức có thể, và chỉ chứa những gì cần thiết để cung cấp cho khách hàng trải nghiệm thực tế về cách mà sản phẩm hoạt động – vừa đủ để thu được phản hồi từ họ. MVP có thể là một mẫu thử nghiệm hết sức cơ bản của sản phẩm, hoặc thậm chí là kiểm thử nhu cầu: vờ như rao bán một sản phẩm giả mạo. Đăng ảnh giày lên một trang web bán hàng, dù bạn chưa có đôi nào để bán, là một ví dụ điển hình. Hãy xem những người sáng lập Dropbox. Họ biết rằng việc phát triển từ ý tưởng thành sản phẩm sẽ tiêu tốn rất nhiều thời gian, vì thế, để kiểm chứng giả thuyết rằng mọi người đang có nhu cầu về một dịch vụ đồng bộ hoá dữ liệu mới mẻ và thân thiện với người dùng, họ chọn một cách đơn giản và sáng tạo: dựng một đoạn video trình bày ý tưởng. Các nhà sáng lập giả định rằng thị trường đang có nhu cầu, và họ đã đúng: trong vòng một đêm, 75,000 người đã đăng ký vào danh sách chờ, và nhóm Dropbox kết luận rằng họ đã đi đúng hướng. Như vậy, họ có thể tự tin bắt đầu phát triển sản phẩm chính thức. Tương tự, trước hết mỗi start-up nên tìm hiểu xem thị trường có thực sự có nhu cầu về sản phẩm của mình hay không, trước khi bắt đầu xây dựng nó. Phát triển sản phẩm khả dụng tối thiểu để kiểm thử ý tưởng của bạn trên thị trường. HÃY XÂY DỰNG, ĐÁNH GIÁ, HỌC HỎI – CÀNG NHANH CHÓNG VÀ THƯỜNG XUYÊN CÀNG TỐT. Trong việc tìm kiếm một mô hình kinh doanh bền vững, ưu tiên cao nhất là học hỏi: mỗi start-up phải học được nên xây dựng sản phẩm nào và làm sao để kiếm tiền từ chúng. Việc này không thể thực hiện nếu bạn tách rời thực tế. Bạn cần phải lộ diện, trưng bày sản phẩm cho khách hàng, nhận phản hồi của họ và học tập từ đó. Để tạo điều kiện cho quá trình trên, hãy thiết lập cái gọi là vòng BML. BML là chu trình xây dựng-đánh giá-học hỏi (build-measure-learn): Trước tiên, bạn xây dựng một phiên bản đơn giản của sản phẩm, như mẫu thử nghiệm hoặc thử nghiệm nhu cầu. Thứ hai, bạn đưa sản phẩm này ra thị trường thực tế và thu về phản hồi khách hàng. Bằng cách thu thập dữ liệu định lượng từ thí nghiệm này, bạn đánh giá mức độ ưa thích với sản phẩm; chẳng hạn, có bao nhiêu người bấm vào nút mua hàng và cố gắng mua giày từ trang web giả của bạn. Khi đánh giá, hãy chắc chắn bạn không chỉ nhìn vào dữ liệu mà còn nói chuyện với khách hàng. Nếu muốn hiểu được dữ liệu, bạn cũng nên tìm hiểu về ấn tượng cá nhân và ý kiến của khách hàng. Những gì bạn học được sau một chu trình sau đó nên được sử dụng để lên ý tưởng và xây dựng một sản phẩm mới, được tối ưu hoá, là thứ đưa bạn tới chu trình BML tiếp theo. Sau đó quá trình này được lặp đi lặp lại tới khi bạn tìm được mô hình kinh doanh bền vững. Điều quan trọng ở đây là tốc độ. Mỗi vòng BML giúp bạn cải thiện sản phẩm và cung cấp cho bạn những hiểu biết quý giá về những gì khách hàng mong muốn. Càng trải qua nhiều vòng, càng nhiều khả năng bạn sẽ tìm thấy mô hình kinh doanh bền vững của mình. Xây dựng, đánh giá, học hỏi – càng nhanh và thường xuyên càng tốt. SỬ DỤNG KIỂM THỬ PHÂN CHIA ĐỂ TỐI ƯU HOÁ SẢN PHẨM. Khi phát triển và cải thiện một sản phẩm, các start-up cần phân biệt giữa giá trị và phế phẩm: họ phải tìm ra những tính năng nào có giá trị và những tính năng nào không, đối với người dùng. Các tính năng giá trị là những đặc điểm giúp doanh nghiệp thu hút thêm khách hàng hoặc giúp tăng doanh thu. Tính năng nào không thực hiện được cả hai điều trên đều là thừa thãi – cho dù nhà sáng lập hay kỹ sư tin rằng chúng là những thứ tuyệt vời hơn bao giờ hết. Một cách thông minh để phân biệt giữa giá trị và phế phẩm là kiểm thử phân chia. Mỗi khi bạn cân nhắc thêm vào một tính năng mới hoặc thay đổi cái cũ, hãy tạo ra hai phiên bản: một chứa tính năng mới, còn cái kia thì không. Bằng cách kiểm thử cả hai phiên bản, bạn sẽ sớm thấy bản nào được khách hàng ưa thích hơn. Các công ty đầu tiên sử dụng kỹ thuật này là các doanh nghiệp bán hàng qua thư. Ví dụ, để tìm hiểu xem bố cục catalogue mới có giúp tăng lượng đơn đặt hàng hay không, họ in ra hai phiên bản: 50% khách hàng nhận bản cũ và 50% nhận bản mới. Ngoài bố cục, tất cả các đặc điểm khác của hai catalogue đều như nhau, và khách hàng được chia nhóm ngẫu nhiên, vì vậy công ty chỉ cần so sánh lượng đặt hàng giữa hai nhóm. Những dữ liệu này trả lời cho câu hỏi rằng liệu thiết kế mới có hữu ích không. Trên tinh thần đó, mọi start-up có thể kiểm thử tất cả các thay đổi tiềm năng trước khi thực sự thực hiện nó. Muốn biết trang web của bạn hoạt động tốt hơn trong màu đỏ hay màu xanh? Tại sao không tạo ra cả hai phiên bản thử nghiệm và theo dõi mức độ truy cập của khách hàng trong vài ngày? Bất kỳ thay đổi nào bạn muốn thực hiện đều nên được kiểm thử bằng phương pháp ít nhiều có tính khoa học này trước khi áp dụng lên sản phẩm. Sử dụng kiểm thử phân chia để tối ưu hoá sản phẩm. ĐỂ TÌM RA MÔ HÌNH KINH DOANH ĐÚNG ĐẮN CHO DOANH NGHIỆP, BẠN THƯỜNG PHẢI CHUYỂN HƯỚNG. Nhiều start-up tin vào huyền thoại phổ biến rằng chìa khoá dẫn tới một doanh nghiệp thành công là sự kiên trì và ý chí sắt đá: người sáng lập anh hùng nảy ra một ý tưởng tuyệt vời, chiến đấu qua rất nhiều thất bại cho đến khi ý tưởng rốt cục trở thành một cú hit. Nhưng cách nghĩ này đẩy phần lớn start-up vào chỗ gọi là nơi xác chết biết đi. Như những con zombie không não, họ không nhận thức được một điều gì và sẽ tiếp tục làm việc cật lực để bán một sản phẩm mà thị trường không cần. Để tránh điều này, bạn nên liên tục tự hỏi mình cần thay đổi sản phẩm ra sao để nâng cấp nó và tìm được thị trường. Bên cạnh đó, bạn nên xem xét một cách định kỳ rằng có cần một sự chuyển hướng – một thay đổi căn bản. Sự chuyển hướng có thể dưới nhiều hình thức, chẳng hạn như: định nghĩa lại giá trị cốt lõi của sản phẩm; theo đuổi phân khúc khách hàng khác; hay đổi kênh bán hàng chính. Đặc điểm chính của sự chuyển hướng là những giả định cốt lõi dẫn đến khởi nghiệp đã thay đổi, vì vậy cần phải thử nghiệm các giả thuyết mới. Quyết định chuyển hướng có thể là một việc khó khăn, và bởi thế các start-up thường né tránh hoặc trì hoãn đưa ra quyết định này. Đó là lý do việc tổ chức họp chuyển hướng mỗi tháng một lần có thể có ích. Trong những cuộc họp này, bạn quan sát các dữ liệu đã thu được một cách trung thực, và tự hỏi mình có phải một con zombie đang cần chuyển hướng. Nhiều start-up đã phải chuyển hướng vài lần trước khi đạt được thành công. Hãy nhìn Groupon: khởi đầu là nền tảng cho các hoạt động tuyên truyền và gây quỹ, rồi sau đó mới chuyển thành nền tảng daily deal nổi tiếng ngày nay. Để tìm ra mô hình kinh doanh đúng đắn cho doanh nghiệp, bạn thường phải chuyển hướng. MỌI START-UP TRƯỚC HẾT NÊN TẬP TRUNG VÀO MỘT ĐỘNG CƠ TĂNG TRƯỞNG. Một phần cơ bản của bất kỳ mô hình kinh doanh nào là động cơ tăng trưởng đảm bảo cho công ty không bị trì trệ. Có ba loại động cơ tăng trưởng khác nhau: Động cơ gắn kết hoạt động bằng cách giữ chân khách hàng hiện tại, những người đã tạo ra dòng doanh thu liên tục. Trọng tâm không phải là quảng bá để thu hút khách hàng mới, mà là khiến khách hàng hiện tại sử dụng sản phẩm nhiều hơn bằng cách ra mắt tính năng mới hoặc nâng cấp dịch vụ. Động cơ lan truyền hoạt động bằng cách khiến các khách hàng hiện có đảm nhiệm việc tiếp thị cho công ty. Khách hàng mục tiêu biết về sản phẩm thông qua truyền miệng. Điều này có thể giúp bạn tiết kiệm rất nhiều chi phí quảng cáo, vì vậy bạn nên làm sao để khách hàng càng dễ tham gia vào hoạt động viral marketing này càng tốt. Một ví dụ nổi tiếng về động cơ tăng trưởng lan truyền là chữ ký email tự động của Hotmail: “Tái bút: Nhận thư điện tử của bạn miễn phí tại Hotmail.” Cuối cùng, động cơ trả phí hoạt động nhờ đầu tư vào tiếp thị, chẳng hạn qua quảng cáo online có trả phí. Tất nhiên, nó chỉ bền vững khi doanh thu từ khách hàng hiện tại đủ để đảm bảo rằng chi phí cho mỗi khách hàng mới thu hút được nhỏ hơn giá trị khách hàng trọn đời. Nói chung, bạn có thể sử dụng cả ba động cơ tăng trưởng này cùng một lúc, nhưng ban đầu thì tập trung vào một động cơ để khiến nó tăng tốc nhanh hết mức có thể thường là việc làm khôn ngoan. Chú trọng vào một động cơ tăng trưởng cũng giúp đánh giá mức độ thành công của tính năng mới dễ dàng hơn: nếu động cơ tăng tốc nhanh, các tính năng đó là hữu dụng; nếu không, chúng nên được bỏ đi. Mọi start-up trước hết nên tập trung vào một động cơ tăng trưởng. SỐ LIỆU ẢO THƯỜNG TÂNG BỐC NHƯNG GÂY HIỂU LẦM – CHÚNG KHÔNG GIÚP BẠN TÌM THẤY MÔ HÌNH KINH DOANH BỀN VỮNG. Không start-up nào có thể tìm ra mô hình kinh doanh hiệu quả mà không cần thỉnh thoảng dừng lại để định hướng, và các định hướng này xuất phát từ việc xem xét các số liệu đúng đắn. Để đánh giá liệu bạn đã tiến thêm được chút nào tới mục tiêu dài hạn hay chưa, bạn cần phải kiểm tra các dữ liệu đã thu thập được trên đường. Thật không may, nhiều start-up đầu hàng trước sự cám dỗ của việc sử dụng số liệu ảo: những số liệu tâng bốc nhưng vô dụng, thậm chí có hại. Chúng khiến một doanh nghiệp trông có vẻ thành công nhưng không đưa nó đến gần hơn với các mục tiêu. Các start-up dựa trên số liệu ảo nhìn vào công việc kinh doanh như một tấm gương lung linh, khiến họ khó đối mặt với những khó khăn thực tế và khắc phục chúng. Ví dụ, được truyền thông chú ý và có nhiều Facebook fan có thể là chuyện tốt, nhưng đừng bao giờ nhầm lẫn đó là thành công. Những việc đó không giúp bạn chi trả các khoản phí, và bạn không nên tốn công tác động vào những số liệu vô nghĩa như vậy. Một số liệu ảo khác có thể là số giờ làm việc bạn đã đầu tư vào sản phẩm, hay những cột mốc đã đạt được. Chúng có thể liên quan (nhưng không nhất thiết) đến thành công của bạn. Vì vậy, đừng bao giờ đặt mục tiêu tối đa hoá chúng. Cho dù ai đó làm việc 100 giờ một tuần, vẫn có khả năng số giờ lao động ấy đã bị lãng phí vào việc gì đó hoàn toàn vô giá trị khi nhìn từ góc độ dài hạn. Để thành công, bạn phải tìm một mô hình kinh doanh bền vững và mở rộng nền tảng khách hàng sử dụng sản phẩm của bạn –  và bạn không thể làm được việc nào nếu cứ chăm chăm vào những số liệu sai lệch. Số liệu ảo thường tâng bốc nhưng gây hiểu lầm – chúng không giúp bạn tìm thấy mô hình kinh doanh bền vững. MỌI START-UP PHẢI XÁC ĐỊNH ĐƯỢC NHỮNG SỐ LIỆU CỐT LÕI VÀ PHÂN TÍCH CHÚNG ĐÚNG CÁCH. Xác định đúng số liệu để theo dõi và liên tục đánh giá chúng là điều cực kỳ quan trọng đối với bất kỳ start-up nào. Quan sát được số liệu thay đổi theon hướng tích cực, chỉ qua đó bạn mới có thể chắc rằng mình đang tiến dần tới mục tiêu dài hạn là tìm kiếm mô hình kinh doanh bền vững. Số liệu cốt lõi khác nhau tuỳ theo mỗi start-up, nhưng chúng thường là những số liệu như sự tăng lên trong lượng khách hàng trả phí, chiều dài phiên sử dụng trung bình trên mỗi khách hàng, và số lượt giới thiệu cho người khác trên một nghìn khách hàng đã sử dụng, chẳng hạn. Mọi start-up cần tìm ra số liệu phù hợp cho riêng nó để định hướng và cung cấp nhận định thực tế về quá trình phát triển. Khi phân tích dữ liệu, kỹ thuật được gọi là phân tích nhóm có thể hữu ích. Thay vì chỉ xem xét chung chung doanh thu hay nền tảng người dùng đã phát triển như thế nào, hãy so sánh hành vi của khách hàng mới với khách hàng cũ. Hãy coi một trong những số liệu cốt lõi của bạn là chỉ số khuyên dùng. Để hiểu nó tiến bộ như thế nào, bạn nên kiểm tra các yếu tố sau đây: Trung bình, tần suất một khách hàng đăng ký sáu tháng trước giới thiệu sản phẩm cho bạn bè là bao nhiêu? Còn với khách hàng đăng ký bốn tháng trước? Hai tháng trước? Bằng cách so sánh các nhóm (trong trường hợp này là các nhóm khách hàng đăng ký vào thời điểm khác nhau) và chỉ số khuyên dùng tương ứng, bạn có thể thấy mình tiến gần hơn đến mục tiêu hay không. Chỉ khi các số liệu chuyển biến tốt thì bạn mới đang phát triển; còn không, bạn đang mắc kẹt. Mọi start-up phải xác định được những số liệu cốt lõi và phân tích chúng đúng cách. KẾT Thông điệp chủ chốt của cuốn sách này là: Các start-up nên sử dụng cách tiếp cận ít nhiều mang tính khoa học để kiểm thử các giả định cốt lõi và xây dựng một mô hình kinh doanh hiệu quả dựa trên những giả thuyết đã được kiểm chứng. Họ nên nhanh chóng phát triển mẫu thử nghiệm sản phẩm, không ngừng cải tiến chúng bằng cách thu thập phản hồi từ khách hàng và thông qua các vòng xây dựng-đánh giá-học hỏi. Cuốn sách này trả lời các câu hỏi: Start-up nên theo đuổi mục tiêu chính nào, và tại sao? Cách quản trị các start-up cần phải rất khác so với các công ty lâu đời. Mục đích của một start-up là tìm ra mô hình kinh doanh bền vững. Hãy tìm mô hình kinh doanh bền vững bằng cách học tập qua kiểm chứng. Làm thế nào để các start-up tìm thấy sản phẩm và mô hình kinh doanh đúng đắn? Giả định “cú nhảy niềm tin”: kiểm thử giả thuyết giá trị và tăng trưởng của bạn. Phát triển sản phẩm khả dụng tối thiểu để kiểm thử ý tưởng của bạn trên thị trường. Xây dựng, đánh giá, học hỏi – càng nhanh và thường xuyên càng tốt. Để tìm ra mô hình kinh doanh đúng đắn cho doanh nghiệp, bạn thường phải chuyển hướng. Làm thế nào để các start-up tìm thấy động cơ tăng trưởng và phân tích số liệu đúng đắn? Mọi start-up trước hết nên tập trung vào một động cơ tăng trưởng. Số liệu ảo thường tâng bốc nhưng gây hiểu lầm – chúng không giúp bạn tìm thấy mô hình kinh doanh bền vững. Mọi start-up phải xác định được những số liệu cốt lõi và phân tích chúng đúng cách Nguồn : tsubakidream.wordpress.com Mời các bạn đón đọc Khởi Nghiệp Tinh Gọn của tác giả Eric Ries.

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Thương Lượng Không Nhân Nhượng
Cho dù thích hay không, bạn vẫn là một nhà đàm phán. Đàm phán là thực tế của cuộc sống. Bạn đàm phán việc tăng lương với sếp. Bạn cố gắng thỏa thuận với một người về giá cả ngôi nhà của anh ấy. Hai vị luật sư đã nỗ lực giải quyết vụ án phát sinh từ vụ tai nạn ô tô. Một nhóm các công ty dầu lửa lên kế hoạch thành lập công ty liên doanh khai thác dầu ngoài khơi. Một quan chức thành phố họp với lãnh đạo nghiệp đoàn để ngăn chặn cuộc bãi công. Ngoại trưởng Hoa Kỳ cùng ngồi với người đồng cấp Liên Xô để tìm cách thỏa thuận về hạn chế vũ khí hạt nhân. Tất cả những việc này đều là đàm phán. Hằng ngày, ai cũng đàm phán điều gì đó. Cũng giống như ngài Jourdain của Molière, người sung sướng nhận ra mình đã nói văn xuôi suốt cả cuộc đời, mọi người đàm phán ngay cả khi họ không nghĩ là mình đang làm vậy. Bạn đàm phán với vợ/chồng về việc đi đâu để ăn tối và thỏa thuận với con cái lúc nào thì tắt đèn đi ngủ. Đàm phán là phương tiện cơ bản để đạt được điều bạn muốn từ người khác. Đây là quá trình trao đổi qua lại nhằm tiến tới thỏa thuận khi bạn và đối phương có cùng lợi ích hay mâu thuẫn quyền lợi với nhau. Ngày càng có nhiều trường hợp đòi hỏi phải tiến hành đàm phán và tránh được xung đột là một kỹ nghệ phát triển. Mọi người đều muốn tham gia vào những quyết định có ảnh hưởng đến họ; chẳng mấy ai chịu chấp nhận quyết định do người khác đưa ra. Không ai giống ai và con người dùng đàm phán để giải quyết sự bất đồng. Dù trong doanh nghiệp, chính phủ hay gia đình thì hầu hết mọi người đều ra quyết định thông qua đàm phán. Ngay cả khi ở tòa án, gần như người ta luôn đàm phán cách giải quyết trước khi xét xử. Mặc dù đàm phán diễn ra hằng ngày, nhưng để làm tốt việc này thì lại thật không dễ. Các chiến lược đàm phán thường khiến mọi người thấy không hài lòng, kiệt sức, bị xa lánh – hoặc thường xuyên có cả ba cảm giác này. Con người thường thấy bản thân rơi vào những tình thế khó xử. Họ có hai cách để đàm phán: Mềm dẻo hoặc cứng rắn. Những nhà đàm phán mềm dẻo thường muốn tránh xung đột cá nhân, vì vậy, họ sẵn sàng nhân nhượng để đạt được thỏa thuận. Những người này muốn tiến tới hòa giải; tuy vậy, rốt cuộc họ thường bị lợi dụng nên cảm thấy rất cay đắng. Những nhà đàm phán cứng rắn lại cho rằng mọi tình huống là sự thử thách ý chí, ở đó, bên nào có lập trường cực đoan hơn và giữ miếng lâu hơn sẽ có chiếm ưu thế. Họ muốn giành thắng lợi; tuy vậy, họ thường kết thúc cuộc đàm phán bằng việc tạo ra sự phản ứng không kém phần cứng rắn, gây cạn kiệt sức lực và phương hại tới mối quan hệ với phía bên kia. Các chiến lược đàm phán phổ biến khác nằm giữa loại chiến lược mềm dẻo và loại cứng rắn, nhưng mỗi chiến lược này thường hướng tới sự thỏa hiệp giữa việc đạt được điều bạn muốn và giữ hòa khí với mọi người. Cách đàm phán thứ ba, không thiên về cứng rắn hay mềm dẻo, mà là vừa cứng rắn vừa mềm dẻo. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc được xây dựng trong Dự án Kỹ năng đàm phán của Harvard nhằm giải quyết vấn đề trên cơ sở giá trị chứ không thông qua việc tập trung vào những gì mỗi bên nói sẽ làm hay không làm. Phương pháp này khuyên bạn nên tìm kiếm lợi ích chung bất cứ lúc nào có thể và khi có xung đột về lợi ích thì bạn nên yêu cầu kết quả phải dựa trên cơ sở một số tiêu chuẩn bình đẳng nhất định độc lập với ý chí của hai bên. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc cứng rắn về giá trị nhưng mềm dẻo về vấn đề con người. Phương pháp này không dùng thủ đoạn và điệu bộ. Nó cho bạn biết cách đạt được điều bạn đáng được hưởng mà vẫn tỏ ra lịch thiệp. Nó cho phép bạn cư xử công bằng và bảo vệ bạn chống lại những kẻ nhăm nhe lợi dụng sự ngay thẳng của bạn. Cuốn sách này bàn về phương pháp đàm phán trên nguyên tắc. Chương thứ nhất mô tả những vấn đề phát sinh trong việc áp dụng các chiến lược tiêu chuẩn của kiểu đàm phán quan điểm lập trường. Bốn chương tiếp theo trình bày bốn nguyên tắc của phương pháp đàm phán theo nguyên tắc. Ba chương cuối giải đáp những câu hỏi thường được nêu lên: Điều gì sẽ xảy ra nếu phía bên kia mạnh hơn? Điều gì sẽ xảy ra nếu họ không tuân thủ luật chơi? Điều gì sẽ xảy ra nếu họ gian dối. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc có thể được nhà ngoại giao Hoa Kỳ sử dụng ở trong các cuộc đàm phán về kiểm soát vũ khí với Liên Xô, khi các luật sư Phố Wall đại diện cho 500 công ty trên Tạp chí Fortune tranh tụng trong các vụ kiện chống độc quyền; và được các cặp vợ chồng dùng để quyết định mọi việc, từ việc đi nghỉ ở đâu cho đến phân chia tài sản như thế nào nếu họ ly dị. Bất cứ ai cũng có thể sử dụng phương pháp này. Không có cuộc đàm phán nào giống nhau, nhưng những yếu tố cơ bản của nó thì không thay đổi. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc có thể được sử dụng để giải quyết một hay nhiều vấn đề; có hai hay nhiều bên tham gia; dù có trình tự được quy định như trường hợp đàm phán tập thể hay không được chuẩn bị trước trong đàm phán với không tặc. Phương pháp này được áp dụng cho dù phía bên kia có nhiều kinh nghiệm hơn hay ngược lại, dù họ là kẻ không khoan nhượng hay là người ôn hòa. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc là một chiến lược áp dụng được cho mọi mục đích. Không giống với phần lớn các chiến lược khác, nếu phía bên kia cũng lĩnh hội được phương pháp này, nó sẽ trở nên dễ sử dụng hơn. Và nếu họ cũng đọc cuốn sách này thì tất cả đều có lợi. *** Đừng bàn cãi về quan điểm Dù là cuộc đàm phán về hợp đồng, cuộc tranh cãi trong gia đình hay thỏa thuận hòa bình giữa các quốc gia, thông thường người ta vẫn hay bàn cãi về vấn đề quan điểm. Mỗi bên đều có lập trường riêng, lập luận để bảo vệ nó và nhân nhượng nhằm đạt được thỏa hiệp. Ví dụ cổ điển về kiểu đàm phán này là cuộc mặc cả diễn ra giữa khách hàng và chủ cửa hàng đồ cũ: Và cuộc mặc cả cứ thế tiếp tục. Có thể họ sẽ đạt được thỏa thuận nhưng cũng có thể không. Mọi phương pháp đàm phán đều có thể được đánh giá công bằng qua ba tiêu chí: Phương pháp này phải mang lại thỏa thuận khôn ngoan nếu có thể, nó phải hiệu quả và cải thiện được hay chí ít thì cũng không làm phương hại đến mối quan hệ giữa hai bên. (Thỏa thuận khôn ngoan được định nghĩa là thỏa thuận đáp ứng quyền lợi hợp pháp của mỗi bên tới mức có thể, giải quyết được xung đột lợi ích hợp lý, lâu bền và có cân nhắc đến lợi ích cộng đồng.) Hình thức đàm phán phổ biến nhất được minh họa bằng ví dụ trên, phụ thuộc vào việc thay phiên nhau đưa ra các lập trường – và sau đó lại từ bỏ các lập trường này. Việc đưa ra các quan điểm, như người khách và chủ cửa hiệu trên, có tác dụng phục vụ cho một số mục đích hữu ích nhất định trong đàm phán. Nó cho phía bên kia biết bạn muốn gì; tạo ra điểm bấu víu trong tình huống không chắc chắn và căng thẳng; và cuối cùng đi đến các điều khoản trong một thỏa thuận có thể chấp nhận được. Nhưng có nhiều cách khác để đạt được. Việc mặc cả về lập trường không thỏa mãn các tiêu chí cơ bản để mang lại thỏa thuận khôn ngoan, hiệu quả và thân thiện. TRANH CÃI VỀ QUAN ĐIỂM CHỈ MANG LẠI NHỮNG THỎA THUẬN THIẾU KHÔN NGOAN Khi các nhà đàm phán mặc cả về quan điểm, họ thường tự giam mình trong những quan điểm này. Bạn càng làm rõ quan điểm của mình và bảo vệ nó khỏi bị tấn công thì bạn càng dính chặt vào nó. Bạn càng cố gắng thuyết phục phía bên kia rằng quan điểm ban đầu của bạn không thể thay đổi thì việc này càng khó có thể thực hiện được. Cái tôi của bạn trở nên đồng nhất với quan điểm của bạn. Bạn hiện có mối quan tâm mới về việc “giữ thể diện” – trong việc thống nhất giữa hành động ở tương lai với lập trường trong quá khứ – khiến khả năng đạt được thỏa thuận nào đó hòa hợp với lợi ích ban đầu của các bên một cách khôn ngoan ngày càng khó thực hiện. Nguy cơ tranh cãi về vấn đề lập trường sẽ cản trở tiến trình đàm phán. Ví dụ điển hình là sự đổ vỡ cuộc đàm phán về việc cấm thử vũ khí hạt nhân toàn diện dưới thời Tổng thống John F. Kennedy. Vấn đề then chốt nảy sinh: Liên Xô và Hoa Kỳ nên được phép thực hiện bao nhiêu cuộc thanh tra tại hiện trường mỗi năm trên phạm vi lãnh thổ nước kia để điều tra những sự kiện chấn động đáng ngờ? Cuối cùng, Liên Xô đồng ý tiến hành ba cuộc điều tra. Hoa Kỳ lại khăng khăng yêu cầu không dưới mười cuộc. Do vậy, các cuộc đàm phán này đã thất bại – do tranh cãi về quan điểm – mặc dù không bên nào hiểu liệu một “cuộc điều tra” sẽ chỉ gồm có một người đi xem xét lòng vòng trong một ngày hay có một trăm người soi mói bừa bãi trong một tháng. Các bên hầu như không nỗ lực xây dựng quy trình điều tra có thể dung hòa được sự quan tâm thẩm tra của Hoa Kỳ với mong muốn của cả hai bên về sự xâm phạm tối thiểu. Khi càng chú ý nhiều đến quan điểm thì người ta lại càng ít quan tâm đến việc đáp ứng những lo ngại cơ bản của các bên. Vì vậy, khó có thể tiến tới thỏa thuận dễ dàng. Các thỏa thuận đạt được lúc này chỉ phản ánh sự phân chia máy móc khoảng chênh lệch giữa những lập trường cuối cùng được đưa ra, chứ chưa phải là giải pháp được tính toán kỹ càng nhằm đáp ứng lợi ích hợp pháp của các bên. Kết quả đạt được thường là thỏa thuận ở mức thấp hơn so với mong muốn của hai bên. TRANH CÃI VỀ QUAN ĐIỂM LÀ KHÔNG HIỆU QUẢ Phương pháp đàm phán thông thường có thể mang lại thỏa thuận, như với trường hợp trả giá cho chiếc đĩa bằng đồng thau hoặc đi đến thất bại, như với trường hợp thống nhất số lượng cuộc điều tra tại hiện trường. Trong cả hai trường hợp, quá trình này đều mất nhiều thời gian. Thương thuyết theo lập trường tạo ra động cơ trì hoãn giải quyết vấn đề. Trong khi tranh cãi về vấn đề quan điểm, bạn cố gắng cải thiện cơ hội đạt được thỏa thuận nào đó có lợi cho mình bằng việc bắt đầu đàm phán với lập trường cực đoan, giữ khư khư quan điểm này, lừa gạt đối phương rằng đó chính là quan điểm thực sự của bạn và chỉ nhân bộ chút ít để giữ cuộc đàm phán tiếp tục diễn ra. Và đối phương cũng làm điều tương tự. Mỗi yếu tố này đều có xu hướng cản trở việc nhanh chóng đạt được cách giải quyết. Các quan điểm ban đầu càng cực đoan và sự nhân nhượng càng ít đi thì mất càng nhiều thời gian và công sức để nhận ra thỏa thuận có thể đạt được hay không. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc cũng đòi hỏi phải có rất nhiều các quyết định riêng lẻ của từng cá nhân vì mỗi nhà thương thuyết quyết định đề nghị gì, bác bỏ gì và có thể nhân nhượng đến mức nào. Việc ra quyết định rất khó khăn và mất thời gian. Khi một quyết định không chỉ là việc phải nhượng bộ đối phương mà còn là sức ép buộc phải nhân nhượng hơn nữa, thì nhà thương thuyết hầu như không có động cơ để tiến nhanh hơn. Chậm chạp lề mề, đe dọa bỏ ra ngoài, cản trở và những chiến thuật khác tương tự đã trở nên cũ rích. Tất cả những chiến thuật này chỉ làm mất thêm thời gian và tiền bạc để tiến tới thỏa thuận cũng như tăng nguy cơ không đạt được thỏa thuận nào cả. TRANH CÃI VỀ QUAN ĐIỂM LÀM HỎNG MỐI QUAN HỆ ĐANG TỐT ĐẸP Việc tranh cãi về quan điểm sẽ trở thành cuộc đấu trí. Mỗi nhà thương thuyết xác nhận những gì anh ta sẽ làm và sẽ không làm. Nhiệm vụ cùng xây dựng giải pháp chung có xu hướng trở thành trận chiến. Mỗi bên đều cố gắng qua sức mạnh ý chí tuyệt đối để gây sức ép buộc phía bên kia phải thay đổi lập trường. “Tôi sẽ không chịu nhượng bộ đâu. Nếu anh muốn đi xem phim với tôi, thì đó phải là phim The Maltese Falcon (tạm dịch: Chim ưng Malta) hoặc chúng ta không xem gì hết.” Hậu quả thường là sự giận dữ và bực tức vì mỗi bên thấy mình phải thuận theo ý muốn cứng nhắc của đối phương trong khi mối quan tâm thích đáng của mình lại bị bỏ qua. Do vậy, việc tranh cãi về quan điểm gây căng thẳng và có khi còn làm tan vỡ mối quan hệ giữa các bên. Các doanh nghiệp thương mại đã từng làm việc với nhau trong nhiều năm có thể cắt đứt quan hệ. Hàng xóm láng giềng có thể không qua lại với nhau. Cảm giác cay đắng từ sự việc này gây ra có thể kéo dài cả đời người. TRONG ĐÀM PHÁN ĐA PHƯƠNG, TRANH CÃI VỀ QUAN ĐIỂM ĐEM LẠI KẾT QUẢ XẤU Nếu xét một cuộc đàm phán chỉ có hai bên, chỉ có bạn và “phía bên kia”, thì dễ thảo luận hơn, nhưng thực tế, hầu hết mọi cuộc đàm phán đều liên quan đến nhiều bên. Các bên có thể cùng ngồi vào bàn, hoặc mỗi bên ủy quyền cho một người như chóp bu, ban giám đốc hay các ủy ban liên quan. Càng đông người tham gia vào đàm phán, những trở lực do thương thuyết theo lập trường lại càng nghiêm trọng. Nếu khoảng 150 quốc gia cùng đàm phán trong các hội nghị của Liên Hiệp Quốc, thương thuyết theo lập trường gần như không thể thực hiện được. Kiểu thương thuyết có thể làm cho tất cả đều nói “đồng ý”, nhưng chỉ một bên nói “không” thì sự nhượng bộ có đi có lại khó có thể thực hiện: Bạn nhượng bộ ai? Kể cả hàng nghìn cuộc đàm phán song phương cũng không phức tạp bằng một thỏa thuận đa phương. Trong những tình huống như vậy, thương thuyết theo lập trường thường dẫn tới việc hình thành liên minh giữa các bên mà lợi ích chung của họ mang tính tượng trưng hơn là thực chất. Tại Liên Hiệp Quốc, những liên minh này thường tạo ra các cuộc đàm phán giữa “Bắc” và “Nam” hay giữa “Đông” và “Tây”. Do có nhiều thành viên trong một nhóm nên việc xây dựng quan điểm chung lại càng trở nên khó khăn hơn. Tồi tệ hơn, khi họ đã vất vả thiết lập và nhất trí một lập trường thì việc thay đổi lập trường đó lại càng trở nên gian nan hơn nhiều. Việc thay đổi một quan điểm cũng không dễ dàng gì khi các thành viên mới tham gia có quyền hạn cao hơn. Ngay cả khi họ không có mặt tại bàn đàm phán thì những người khác vẫn cần phải có sự chấp thuận của họ.   Mời các bạn đón đọc Thương Lượng Không Nhân Nhượng của tác giả William Ury.
Những Điều Sếp Nói Và Không Nói Với Bạn
LỜI MỞ ĐẦU Chắc hẳn có rất nhiều bạn đã từng trải qua cảm giác không biết phải làm gì, phải hiểu như thế nào mới đúng khi nghe cấp trên bảo rằng “Tôi rất kỳ vọng ở bạn.” Sẽ rất khó để có thể hiểu được rằng liệu đây là lời động viên, tạo áp lực, hay cấp trên yêu cầu ở mình điều gì. Vậy nên có rất nhiều khó khăn trong việc hiểu được ý nghĩa thực sự ẩn sâu trong lời nói của cấp trên. Phần lớn vấn đề nằm ở chỗ nội dung bên ngoài (tatemae) của lời nói được truyền đạt, nhưng sâu bên trong đó lại tồn tại suy nghĩ thực sự (honne) của cấp trên, đó cũng chính là những điều khiến hầu hết các bạn nhân viên lo lắng. Vậy tại sao cấp trên lại phải bỏ công cho những lời nói “ngoài mặt” như thế? Có 2 lý do sau đây. Thứ nhất là có những vị thích cách nói vòng vo hơn là kiểu nói thắng thắn. Bên cạnh đó, cũng có những vị vì vốn từ vựng không đủ nên chỉ có thể diễn đạt những câu nói cơ bản thông thường. Dù là lý do nào đi chăng nữa thì sự khác biệt giữa nội dung bên ngoài lời nói và chủ ý thực sự muốn truyền đạt của cấp trên cũng gây ảnh hưởng ít nhiều đến cấp dưới. Nhân viên nếu không hiểu được suy nghĩ thật sự của sếp từ nội dung bên ngoài của câu nói thì sẽ không nắm bắt được ý định cấp trên muốn truyền tải thực sự là gì. Nếu không hiểu được chủ ý của sếp ta sẽ không thể làm đúng ý, cũng như sẽ dẫn đến những hành động không theo như kỳ vọng của họ, từ đó ta sẽ bị cấp trên đánh giá thấp. Đó là lý do vì sao tatemae và honne của cấp trên lại gây ảnh hưởng tiêu cực đến cấp dưới như vậy. Trên thực tế, theo điều tra cho thấy số người cảm thấy bất công về chuyện này lên đến 82% (Theo tạp chí “Tuần san SPA!”). Nhưng dù cho chúng ta có thấy khó chịu với những người sếp không nói rõ xem mình muốn cấp dưới làm gì thì thực trạng đó vẫn sẽ không thay đổi. Do vậy, làm những việc trong khả năng của mình chính là biện pháp tốt nhất. Những việc nên làm ở đây là những việc tuy đơn giản nhưng ắt hẳn các bạn sẽ không ngờ đến. Đó chính là hiểu được một cách chính xác ý nghĩa thực sự muốn truyền tải của cấp trên trong những cuộc đối thoại hằng ngày. Và đó cũng là nội dung của cuốn sách này. Tôi đang là diễn giả cho những buổi hội thảo về chủ đề giao tiếp trong kinh doanh. Tính đến thời điểm hiện tại, sau khi làm việc cùng với 5.000 nhà điều hành cấp cao và 15.000 nhân viên, tôi đã tìm ra được sự thống nhất trong ý nghĩ của cấp trên và cấp dưới. Kết quả nghiên cứu cho thấy, chỉ có khoảng 3% trường hợp nhân viên có thể hiểu một cách chính xác những điều mà cấp trên đang kỳ vọng. Tôi biết được là 97% những người nhân viên còn lại mặc dù vẫn tiếp tục công việc nhưng không thể nắm bắt được suy nghĩ, nguyện vọng của cấp trên. Chủ ý của cấp trên chính là những điều tuy không truyền đạt với nhân viên, nhưng tự bản thân nhân viên cần phải suy nghĩ ra. Bản thân tôi trước khi trở thành diễn giả, đã có 15 năm làm nhân viên công ty, và phân nửa thời gian đó tôi làm việc trong ban quản lý. Thời điểm làm trong ban quản lý, tôi cũng rất hay có suy nghĩ là sẽ không truyền đạt hết ý định thật sự của mình với nhân viên. Ví dụ, có một lần tôi nói với nhân viên của mình rằng “Thật đáng tiếc cho anh/chị.” Chủ ý của tôi là nói một câu nhận xét mang tính tiêu cực, tuy nhiên người nhân viên này khi nghe câu đó thì lại cảm thấy vui mừng. Vì những tình huống như thế thường hay xảy ra nên cấp trên luôn muốn cấp dưới phải nghe rõ câu nói của mình, và hiểu xem câu đó được nói với ý nghĩa như thế nào. Đối với những nhà quản lý khi đến tham dự buổi hội thảo của tôi, ắt hẳn ai cũng sẽ hiểu rất rõ những chuyện rất thường xảy ra này. Vì vậy, tôi đã dần hiểu ra rằng cho dù là bất kỳ ai, ở những công ty khác nhau, thì thông thường, suy nghĩ ẩn bên trong những câu nói mà các nhà quản lý sử dụng là như nhau. Chẳng phải sẽ rất tốt nếu đưa ra được những câu nói mà các nhà quản lý hay sử dụng, và truyền tải đến tất cả các nhân viên cấp dưới để họ biết được ý muốn thực sự ẩn sâu trong những câu nói ấy là gì hay sao. Nói một cách đơn giản, tôi nghĩ rằng sẽ thật tuyệt vời nếu tôi có thể dịch nghĩa những câu nói ẩn ý của cấp trên khi họ đối thoại với nhân viên của mình. Ngoài ra, cuốn sách này không chỉ truyền đạt những suy nghĩ của cấp trên mà còn gợi ý cho các bạn nhân viên biết rằng mình nên làm gì để đáp ứng được ý muốn, suy nghĩ của sếp. Khi những suy nghĩ của cấp trên được truyền đạt đến nhân viên, nhân viên sẽ thực hiện đúng theo ý đồ ấy, qua đó khiến việc đánh giá trở nên tốt đẹp hơn như các bạn có thể thấy. Mục đích của cuốn sách này là giúp tất cả mọi người, cả cấp trên và cấp dưới, có thể cảm thấy vui vẻ. Đầu tiên, bạn hãy thử tìm xem câu nói nào trong cuốn sách này mà cấp trên của bạn hay dùng. Sau đó hãy đọc thử xem câu nói ấy hàm ý những suy nghĩ, ước muốn gì của cấp trên nhé. Khi đã hiểu được điều đó rồi, chắc chắn ngày mai bạn sẽ thay đổi hành động của mình. Tháng 6 năm 2015 Hidehiko Hamada *** LỜI CUỐI Thật sự vô cùng cảm ơn các bạn đọc giả đã theo dõi cuốn sách đến chương cuối cùng này, cảm ơn các bạn rất nhiều. Vào lúc bắt đầu viết cuốn sách này, tôi đã nhờ những người cấp trên và cả những người nhân viên cấp dưới đọc qua bản thảo của cuốn sách. Tôi đã được nghe những ý kiến khác nhau từ cả hai đối tượng cấp trên lẫn cấp dưới. Từ ý kiến tích cực của những cấp trên như “Đúng rồi, đúng rồi, ý tôi chính là như vậy đó” đến những ý kiến tiêu cực như “Nhiều khi tôi nói vậy vì muốn bày tỏ những suy nghĩ thật sự chứ không phải mang hàm ý nào khác, và tôi muốn nhân viên hiểu đúng những gì tôi nói nên nếu họ mà cứ nghĩ rằng trong câu nói của tôi luôn ẩn ý gì khác thì sẽ phiền lắm đây.” Ngược lại, những cấp dưới cũng đưa ra một số ý kiến tích cực như “Giờ thì dù có bị nói tôi cũng có thể hiểu được ý của sếp” và những ý kiến tiêu cực như “Sau này chắc lúc nào tôi cũng sẽ nghi ngờ câu nói này ý nọ ý kia quá.” Cho dù là ý kiến nào đi chăng nữa thì đều là những ý kiến vô cùng hợp lý. Tôi không phủ định rằng việc quan sát và đoán ý nghĩa đằng sau ngụ ý thật sự của cấp trên vừa có mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực của nó. Tuy vậy, tôi nghĩ rằng việc quan sát và đoán ý nghĩa thật sự ẩn sau ngụ ý của cấp trên là một việc vô cùng bổ ích. Không chỉ trong công việc, mà việc ta quan sát và đoán ý nghĩa thật sự ẩn sau lời nói của đối phương đều mang những ý nghĩa riêng. Tôi nghĩ rằng có lẽ trong cuộc sống hằng ngày, để không làm tổn thương đến đối phương bởi những lời nói thẳng thắn, các độc giả cũng đã từng thay đổi cách nói của mình đúng không nào? Vào những lúc như vậy, tùy theo đối tượng mà có lúc sẽ xảy ra trường hợp đối phương chỉ hiểu theo bề nổi của câu nói và kết quả là không thể hiểu được ý nghĩa thật sự mình muốn nói. Ngược lại, cũng có những người rất tuyệt vời, họ không chỉ hiểu được ý nghĩa thật sự ẩn trong lời nói mà còn hiểu và cảm thông cho những lo lắng của đối phương nữa. Vì vậy, việc quan sát và đoán những ý nghĩa ẩn sâu trong lời nói của người khác chính là để bản thân có thể trở thành một người tuyệt vời như vậy đó. Tuy nhiên, sự thật thì người nói ra những lời này như tôi đây cũng đã phải vất vả rèn luyện rất nhiều mỗi ngày. Khi ở nhà cũng thường xảy ra việc tôi đoán sai ý nghĩa thật sự trong lời nói của vợ tôi khiến cho bầu không khí trong nhà trở nên căng thẳng và ngượng ngùng. Hoặc nhiều lúc tôi không thể nào thấu hiểu được ẩn ý thực sự trong lời nói của con gái tôi mà phải đợi khi nghe vợ giải thích “Ý của con nó là như vậy đó.” Tôi cũng hiểu rất rõ rằng việc đoán ra ý nghĩa thật sự là một điều không hề dễ dàng. Vì vậy tôi nghĩ việc nỗ lực là vô cùng cần thiết. Lần này, tôi chủ yếu đi sâu vào chủ đề cấp dưới nên đoán ra được những ý nghĩa ẩn sâu trong ngụ ý thật sự của cấp trên nhưng nếu sau này có cơ hội, tôi nghĩ rằng mình sẽ cố gắng đi sâu vào chủ đề cấp trên nên đoán ra được những ý nghĩa ẩn sâu trong lời nói của cấp dưới. Bởi vì nếu cấp trên và cấp dưới có thể hiểu rõ lẫn nhau thì công việc lẫn nơi làm việc cũng sẽ trở nên tốt hơn rất nhiều. Mời các bạn đón đọc Những Điều Sếp Nói Và Không Nói Với Bạn của tác giả Hamada Hidehiko.
Người Chọn Nghề Hay Nghề Chọn Người
Người chọn nghề hay nghề chọn nghề là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Marden, nằm trong số những tác phẩm hay nhất về hướng nghiệp từng được viết. Cuốn sách này nên là tài liệu thiết yếu cho mọi bạn trẻ khi lựa chọn sự nghiệp, bởi vì, như tác giả nói, nhiều khi thứ bạn thực sự lựa chọn chính là lối sống. Hầu hết mọi người đều đưa ra lựa chọn căn bản này mà không có sự chuẩn bị, thậm chí không suy nghĩ gì về hệ quả xa dài từ lựa chọn của họ. Marden nhấn mạnh về bi kịch của “kẻ lạc loài”, về những lựa chọn nghề nghiệp sai lầm, về việc chọn một công việc, sự nghiệp chỉ vì nó “dễ” hay việc làm điều gì đó chỉ để nối bước cha ông. Marden nói, bạn phải tự hào về công việc của mình. Công việc của bạn nên làm tăng giá trị cho bạn – chứ không bao giờ được làm bạn giảm giá trị. Bạn phải hòa nhịp với công việc, sự nghiệp của mình, làm nó với kỷ luật và nỗ lực. Bạn không bao giờ nên cảm thấy mình giống một con cá bị rời khỏi nước. Marden nói, hãy nhớ công việc không phải là “kiếm sống”, mà là “kiếm tìm ý nghĩa cuộc đời”. Cuộc đời của chính bạn. "Có hàng triệu người sống cả đời mà không hề nhận ra con người tuyệt nhất trong mình, họ luôn bất mãn, không vui, thậm chí là những kẻ thất bại, chỉ vì họ ở nhầm chỗ." – O. W. Train *** Orison Swett Marden sinh ra tại Anh năm 1850, Marden trải qua thời thơ ấu khó khăn khi mồ côi cả cha lẫn mẹ từ lúc ông còn rất nhỏ. Bị đẩy từ tay người giám hộ này sang người giám hộ khác, ông phải đi làm thuê để kiếm tiền. Lấy cảm hứng từ một cuốn sách phát triển bản thân thời kỳ đầu của tác giả người Scotland là Samuel Smiles, ông bắt tay vào cải thiện bản thân và hoàn cảnh sống của mình. Ông tốt nghiệp trường Đại học Boston năm 1871, và đã từng học tại Chủng viện Thần học Andover. Vào năm 1881 ông nhận được bằng Dược và năm 1882 là bằng Luật, cả hai đều từ trường Harvard. Sau đó ông theo học Trường Hùng biện Boston. Suốt thời đại học, ông làm phục vụ và quản lý khách sạn, ông làm tốt tới mức dành dụm được số vốn 20.000 đô-la (tương đương khoảng 50.000 đô-la ngày nay) khi hoàn thành các chương trình học chính thức của mình. Ông mua bất động sản trên Đảo Rhode rồi phát triển thành một khu nghỉ dưỡng. Những năm suy thoái kinh tế 1890, sau khi để mất khách sạn của mình, ông chuyển tới Chicago và làm quản lý khách sạn trong suốt thời gian diễn ra Hội chợ thế giới (World’s Fair) năm 1893. Sau đó ông trở về Boston và bắt đầu lại sự nghiệp. Ông không bao giờ chấp nhận bị đánh bại. Trái lại, những thời điểm khó khăn càng tạo cảm hứng cho ông kết nối các ý tưởng – đặc biệt gắn với niềm lạc quan – trong cuốn sách đầu tiên, Pushing to the front (tạm dịch: Vươn tới phía trước), xuất bản vào năm 1894, chỉ hai năm sau khi ông mất hết mọi thứ. Cuốn sách nhanh chóng thành công, một tác phẩm bán chạy đích thực thời đó, với số bản in bán ra cao vượt. Ông tiếp nối thành công đó với hơn 60 cuốn sách, hầu hết về các chủ đề thành công, nuôi dưỡng ý chí, tư duy tích cực; nhưng bên cạnh đó ông cũng viết về sức khỏe, rèn luyện thân thể, đối phó với tuổi già, giáo dục giới tính và bình đẳng cho phụ nữ. Ngoài Samuel Smiles, tư duy của Marden còn chịu ảnh hưởng từ các tác phẩm của Oliver Wendell Holmes và Ralph Waldo Emerson, những người tạo tiền đề cho Phong trào Tư duy Mới những năm 1890. Năm 1897, ông sáng lập Tạp chí Thành công (Success Magazine), sau đó trở thành một người đóng góp thường xuyên cho tạp chí đi theo phong trào Tư duy Mới (New Thought) của Elizabeth Towne là Nautilus trong suốt hai thập niên đầu của thế kỷ XX. Marden, cũng như các tác giả đương thời khác của Tư duy Mới (William Walker Atkinson, Wallace Wattles, Elizabeth và William Towne), tin rằng tư duy của chúng ta ảnh hưởng đến cuộc sống và hoàn cảnh sống của chúng ta. Họ tin rằng “tư duy là vật chất”, và vì Luật Hấp dẫn (những thứ giống nhau sẽ hút lấy nhau), chúng ta phải rất cẩn thận với điều mình nghĩ và cách mình tư duy. Ông nói: “Chúng ta tạo nên thế giới quanh mình và định hình môi trường của chính mình bằng những tư duy của chúng ta.” Thế nhưng dù được biết đến nhiều nhất bởi những cuốn sách về thành công tài chính, ông luôn luôn nhấn mạnh rằng điều đó sẽ xảy ra nhờ việc nuôi dưỡng phẩm chất cá nhân: “Cơ hội vàng mà bạn đang tìm kiếm nằm trong chính con người bạn. Nó không nằm ở môi trường quanh bạn, không nằm ở may mắn, cơ hội, hay sự giúp đỡ của những người khác. Nó chỉ nằm trong chính bản thân bạn.” Những tựa sách của ông đã nhấn mạnh một cách hùng hồn góc nhìn đầy lạc quan, hào hứng và tự tin này. Trung bình ông ra hai cuốn sách mỗi năm, từ Pushing to the front năm 1894 tới cuốn cuối cùng năm 1924, năm đó ông mất ở tuổi 74. Ông vẫn còn số bản thảo khoảng hai triệu từ chưa được xuất bản. Mặc dù đã hàng trăm tuổi, nhưng những cuốn sách của ông mang tính hiện đại tới mức chúng dường như được viết cho chính thời đại của chúng ta ngày nay. Ở thời đại này, hơn bao giờ hết, chúng ta cần sự cân bằng, niềm tin và kiên trì; chúng ta cần hạnh phúc, sẻ chia và sự thật; trên hết, chúng cần HÒA BÌNH và TÌNH YÊU... Kiến thức uyên thâm của Marden từ lịch sử, triết học, thần học và nhiều mảng khác, cùng khả năng cô đọng, truyền tải kiến thức một cách rõ ràng đến kinh ngạc theo cách thức rất thú vị và thu hút đã khiến cho những tác phẩm này trở thành thiết yếu đối với bất cứ ai đang tìm kiếm thành công cho cuộc sống của mình, hay đơn giản chỉ là tìm kiếm những câu trả lời cho cuộc đời này. Hơn 50 cuốn sách của ông đã được xuất bản trong loạt sách Timeless Wisdom. Bạn có thể đọc thông tin tham khảo về ông và các tác giả khác ở cuối sách. *** CHỘP LẤY NGAY CÔNG VIỆC ĐẦU TIÊN ĐƯỢC MỜI "Cần tuyển nam.” – Tấm biển này trông hết sức cuốn hút đối với nhiều chàng trai trẻ mới bắt đầu vào đời kiếm sống. Nó trông như một cánh cửa cơ hội, và với số đông các chàng trai thì đúng là như vậy. Nhưng hãy nghĩ tới vô số thất bại trong đời, tới những kẻ ngồi nhầm chỗ, những thành công nửa vời, những kẻ bị dụ dỗ tới chỗ tầm thường bởi chính tấm biển đó! Công việc đầu tiên của một cậu trai trẻ là yếu tố có tính then chốt trong đời cậu ta. Nó có thể hoàn toàn không phù hợp với bản chất trí tuệ của cậu ta; hơn thế, nó có thể dẫn cậu ta tới một lựa chọn sai lầm khác, bởi vì đám trai trẻ rất háo hức được làm mọi thứ, và tự hào về những công cụ cùng kỹ năng mình học được. Nếu chúng không biết những lợi thế của bất cứ công việc nào khác, chúng có thể tiếp tục làm điều mà tự nhiên đã cấm đoán trong chính cấu trúc não bộ của chúng. Nhưng thường thì một chàng trai trẻ ít nhận ra điều có thể ảnh hưởng tới tương lai của cậu ta khi nhận lấy công việc đầu tiên. Khi tìm kiếm một việc làm, cậu ta nên cân nhắc thật cẩn thận rằng liệu nó có xu hướng tách cậu ta khỏi mọi thứ khác mà mình khao khát không, liệu nó có giúp cậu ta tiến lên trên con đường sự nghiệp thực sự của mình không, hay liệu cậu ta đang chôn chân ở một vị trí thấp kém, nơi có thể chẳng liên quan gì đến lựa chọn sống một cuộc đời tuyệt vời của cậu ta. Một cậu trai trẻ bình thường khi nhận được một công việc sẽ cứ thế làm tới hết đời, và thường thì lựa chọn công việc này được đưa ra một cách hoàn toàn ngẫu nhiên. Rất có thể, cậu ta ứng tuyển vào một vị trí chỉ với suy nghĩ muốn có một công việc để làm, mà không hề nghĩ rằng liệu mình có thực sự phù hợp với nó không, liệu mình có phải là cái vung sắp úp nhầm nồi hay không; nhưng sự thật là “gã đàn ông” về sau sẽ ở nguyên vị trí mà “thằng bé” lúc trước đã đặt ông ta vào. Tất nhiên, cũng có nhiều người thay đổi, nhưng có lẽ phần lớn mọi người vẫn sống với công việc mà mình bắt đầu từ thời trai trẻ. Không có thời điểm nào mà một người cần đến sự dẫn dắt khôn ngoan nhiều như thời điểm đưa ra lựa chọn liên quan đến cả cuộc đời này. Nó là lựa chọn quan trọng nhất, vì nó ảnh hưởng đến vận mệnh của một người. Toàn bộ tương lai của người đó thường đã được vẽ ra và quyết định từ trước khi người đó thực sự có cơ hội lựa chọn. Trước khi trở thành người đàn ông thì gã trai trẻ đã bị cuốn vào công việc đến mức chẳng muốn mất nó nữa. Cậu ta biết rằng những kinh nghiệm này giúp tích lũy sức mạnh và tạo đà tiến cực tốt nếu có thể duy trì, và dù cậu ta thường không cảm thấy lựa chọn lúc đầu là sáng suốt, nhưng nhiều khả năng cậu ta sẽ chẳng bao giờ thay đổi, và sẽ cứ bám chặt lấy nó. " Mối hấp dẫn nhận lấy công việc mà mình không phù hợp chỉ vì được trả lương cao hơn một chút so với việc khác lúc ban đầu, trên hết, chính là nguyên cớ gây ra nhiều kết hợp không vững chắc nhất" Để một cậu trai bước ra đời chỉ với mục đích đơn giản là kiếm một công việc là một vấn đề nghiêm trọng. Dù cậu ta có thể hoàn toàn không phù hợp, nhưng tham vọng của cậu ta sẽ có ảnh hưởng và thị trường có thể cho phép cậu ta có được một khởi đầu tốt đẹp vốn rất dối trá, đặc biệt nếu mức lương tương đối tốt. Ngay cả khi cậu ta cảm nhận được rằng mình bị đặt sai chỗ thì phụ huynh của cậu ta có thể vẫn nói với cậu ta rằng việc nỗ lực biết bao lâu rồi lại vứt hết kinh nghiệm quý báu đi là rất ngu ngốc. Sau đó cậu ta có thể gắng gượng làm công việc tầm thường đó, công việc không hề phù hợp với khả năng của mình, khi mà cậu ta vốn đã có thể làm nên danh tiếng trong một mảng khác phù hợp với khả năng hơn. Thế giới đầy những kết hợp nồi tròn vung méo, những người đàn ông nhờ vào quá trình huấn luyện khắc nghiệt, ngành nghề vất vả, đã gò mình được một cách cực kỳ tốt, thế nhưng nỗi cực nhọc và ý nghĩ không thể làm điều mình được sinh ra để làm lại hoàn toàn phá hỏng cảm giác thỏa mãn của người đó, khiến anh ta cảm thấy ngay cả khi mình kiếm được kha khá để sống thì đời mình vẫn chẳng thích thú gì, và rằng khía cạnh củi-gạo-mắm-muối đó của công việc là khía cạnh nhỏ bé nhất, kém quan trọng nhất. Mối hấp dẫn nhận lấy công việc mà mình không phù hợp chỉ vì được trả lương cao hơn một chút so với việc khác lúc ban đầu, trên hết, chính là nguyên cớ gây ra nhiều kết hợp không vững chắc nhất. Một khi bạn đã vững chỗ thì sẽ rất khó đánh đổi nó để tìm công việc lớn lao hơn, rất khó để quyết định bắt đầu lại từ nấc thang dưới cùng và sẽ mất thêm nhiều năm học tập, rèn luyện. Nếu có thể hòa nhập với công việc chỉ sau ít ngày, hoặc ít tuần, bạn sẽ chẳng giữ được nó dài lâu đâu, bạn chẳng bao giờ biết được khi nào thì có người khác thế chân mình. Nhưng nếu phải mất đến vài năm chuẩn bị cho thứ gì đó cao xa hơn – cho thứ gì đó mà chỉ riêng bạn mới thực sự tương thích, và giữ mình không bị lầm lối, sẵn lòng trả giá cho quãng đường xa thì mối nguy bị thế chỗ của bạn sẽ nhỏ hơn nhiều. Gần đây thành phố New York thực hiện một cuộc điều tra về các cậu bé, cô bé rời khỏi trường học ở độ tuổi hợp pháp nhỏ nhất: 14 tuổi. Trong số 25.000 trường hợp được điều tra, có 23.000 làm những công việc không đòi hỏi nhiều kỹ năng. Báo cáo cho biết: “Chúng tôi khám phá ra trong các công việc mà 10.857 cậu bé và 11.924 cô bé đã rời khỏi nhà trường ở độ tuổi hợp pháp nhỏ nhất đó được thuê làm, hơn chín phần mười là các công việc không đòi hỏi kỹ năng, chẳng hạn như chạy việc vặt, làm việc nhà, thư ký phụ trách các việc lặt vặt, thợ máy, tạp vụ, phụ việc, đóng gói, giao thư, bán báo, v.v..” Các con số của chúng tôi cho thấy cơ hội việc làm duy nhất của những người trẻ rời khỏi trường học trong tình trạng thiếu kiến thức chính là những ngành nghề không đòi hỏi kỹ năng. Tình trạng này thực sự tác động trở lại xã hội, bởi chính những chàng trai, cô gái này rồi sẽ trở thành tầng lớp ăn không ngồi rồi. Đừng bị che mắt bởi số tiền mà người ta kiếm được khi làm những công việc này. Hãy nhớ rằng sự nghiệp của bạn ảnh hưởng tới bạn nhiều hơn bất cứ thứ gì khác, và bạn sẽ không gánh nổi hệ quả của việc đi theo một con đường sự nghiệp vốn không thể giúp bạn phát triển và lớn mạnh. Hãy xem những con người đã lựa chọn kiểu sự nghiệp như thế. Hãy xem những gì mà công việc đem đến cho họ. Vị trí của họ trong xã hội so với những người làm các công việc khác là gì? Họ có được kính trọng, tôn vinh không? Liệu đó có phải là công việc mà anh ta có thể tự hào, điều mà con cái của anh/cô ta sẽ tự hào khi lớn lên? Rất nhiều người trẻ cố tình bó buộc và làm hỏng sự nghiệp của mình, và gần như tự giết mình trong suốt nhiều năm đời họ bằng việc làm các công việc vốn sẽ bức bách và bóp nghẹt đời họ. Điều kiện làm việc của nhiều công việc rất nguy hại cho sức khỏe và việc phát triển bản thân. Sức khỏe tốt, môi trường và điều kiện sống lành mạnh quan trọng với bạn hơn tiền bạc, bạn không nên dấn thân vào việc gây nguy hại cho tinh thần của mình hay tổn hại tới phẩm cách, tác động xấu đến vị thế của bạn. Công việc của bạn không nên là một chướng ngại. Nó nên là nguồn kích thích không ngừng, là sự khích lệ, là động lực hướng tới cuộc sống rộng lớn, vĩ đại mà vì nó bạn được sinh ra. Mời các bạn đón đọc Người Chọn Nghề Hay Nghề Chọn Người của tác giả Orison Swett Marden.
Hướng Nghiệp Trong Thời Đại 4.0
Trong cơn bão công nghệ, dường như mọi phụ huynh đều mong muốn con em mình theo đuổi các ngành học “hái ra tiền” như khoa học máy tính, công nghệ thông tin, lập trình, cơ khí chế tạo... Nhưng liệu các khóa học chuẩn chuyên ngành công nghệ có là con đường thành công duy nhất? Liệu có khả thi khi cho rằng hệ thống giáo dục khai phóng (liberal arts), với phong cách cung cấp tri thức tự do, tổng quát và tập trung vào những kiến thức xã hội vẫn có thể tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cho kỷ nguyên 4.0? Trong tác phẩm “Hướng nghiệp trong thời đại 4.0”, Randall Stross cung cấp cho độc giả một hướng tư duy mới lạ trong việc lựa chọn phong cách học tập và phát triển. Từ trước đến nay, các chuyên ngành giáo dục khai phóng thường bị đánh giá là “thiếu thực tế”, “thiếu kỹ năng”, không cung cấp đủ tri thức để học viên theo đuổi một nghề nghiệp cụ thể. Nhưng định kiến này không chính xác. Khác với kiểu giáo dục định hướng nghề nghiệp cụ thể, nền giáo dục khai phóng hướng tới trang bị cho sinh viên những kiến thức và kỹ năng thỏa mãn mọi ngành nghề. Thực tế đã cho thấy nền giáo dục khai phóng đem tới lợi ích cho các sinh viên theo đuổi chuyên ngành phi công nghệ, cho những bậc phụ huynh lo lắng, và cho cả những nhà tuyển dụng hàng đầu. “Hướng nghiệp trong thời đại 4.0” chứng minh rằng mọi sinh viên đều có thể phát triển tối đa tiềm năng và phát triển mạnh mẽ nếu được trao cơ hội, bất kể họ có theo đuổi một chuyên ngành “cao cấp” hay không. Qua những trải nghiệm thực tế của các sinh viên ngành nhân văn, nhất là công cuộc tìm kiếm việc làm và kinh nghiệm làm việc những ngày đầu của họ, cuốn sách đem tới những minh chứng sống động về sự đa tài của sinh viên được đào tạo theo giáo dục khai phóng. Giữa cuộc cách mạng về việc làm và nhân sự, với sự ra đời của hàng loạt phương pháp hướng nghiệp, làm thế nào để trang bị cho sinh viên kiến thức và kỹ năng đầy đủ nhất để họ bước vào tương lai một cách chuyên nghiệp và bản lĩnh? Tác phẩm độc đáo của Randall Stross sẽ trả lời câu hỏi này, và truyền cảm hứng để bạn có thể tối ưu hóa những tháng năm đại học hết sức ý nghĩa của mình. *** Review Nguyễn Phú Hoàng Nam: Sau nhiều năm học tập, thì nghề nghiệp là kết luận quan trọng nhất trả lời cho câu hỏi bạn đã học được gì. Việc làm không chỉ để nuôi sống bạn mà còn mang đến cho bạn cuộc sống chủ động với các mối quan hệ thân thiện xung quanh. Mặc dù “biết phải làm gì” nhưng không phải ai trong chúng ta cũng “biết làm thế nào”. Nếu đang mông lung trong suy nghĩ ấy, mời bạn tham khảo cuốn sách Hướng Nghiệp Trong Thời Đại 4.0 (A Practical Education: Why Liberal Arts Majors Make Great Empoyees – Hoàng Thiện dịch) của tác giả Randall Stross. Lưu ý trước khi đọc sách Sinh viên Đại học Stanford là nhóm người may mắn nhất. Họ được nhận vào trường đại học có tỷ lệ chọi cao nhất cả nước và tọa lạc ngay trong khuôn viên Edenic, không nơi nào gần với Thung lũng Silicon hơn được nữa. Sinh viên Stanford có vẻ luôn xác định được rõ ràng công việc của mình sau khi tốt nghiệp, mà không cần lo lắng về chuyện tương lai. Những sinh viên được săn tìm nhiều nhất đến từ các chuyên ngành kỹ thuật – những ngành thăng hạng đáng kể trong nhiều thập kỷ vừa qua. Nhưng cuốn sách này đề cập đến những sinh viên không chọn ngành kỹ thuật, mà chọn những ngành không dẫn tới nghề nghiệp cố định khác chỉ vì niềm đam mê học tập. Tôi nhận thấy mình nên có trách nhiệm trích dẫn lại nội dung đầu tiên này trong cuốn sách, bởi nó sẽ giúp độc giả tìm hiểu được thông điệp thực sự trong sách là gì (do phần lớn dung lượng sách đề cập đến các giai đoạn lịch sử hình thành khác nhau của trường đại học Stanford và các câu chuyện sau khi tốt nghiệp của sinh viên nơi đây). Tuy không trực tiếp nói đến “Hướng nghiệp”, và tên của cuốn sách theo nguyên tác tiếng anh thực sự cũng không bàn đến vấn đề hướng nghiệp nhưng hành trình tìm kiếm việc làm theo nguyện vọng bản thân của các sinh viên Stanford, với đủ cả cay đắng lẫn ngọt ngào, cũng có ý nghĩa nhất định trong việc giúp bạn đọc tự khám phá định hướng tương lai nghề nghiệp của chính mình. Ở một khía cạnh khác trong sách, thuật ngữ “Giáo dục khai phóng” cũng được sử dụng thường xuyên tuy nhiên lại không kèm theo giải thích rõ ràng, để sử dụng sách tốt hơn, bạn nên dành thêm thời gian để tham khảo từ các nguồn thông tin khác về hoạt động giáo dục khai phóng.   Ước mơ trên nền ước mơ Chức năng của trường đại học không chỉ là dạy cách kiếm sống. Trên tất cả, đại học là cơ quan điều chỉnh cuộc sống thực và kiến thức sống đang ngày càng tăng, một sự điều chỉnh hình thành nên bí mật của nền văn minh. Trường đại học thực sự sẽ có một mục tiêu muôn đời: Không phải để kiếm miếng ăn, mà để biết kết thúc và mục tiêu của cuộc sống mà miếng ăn đó nuôi dưỡng là gì. Một ngôi trường thật hoành tráng là khởi đầu hoàn hảo cho tương lai hoàn hảo. Không có gì sai khi bạn đưa ra lựa chọn như vậy, bạn bè và cha mẹ của bạn cũng nghĩ như vậy. Sau khi học xong (hoặc trong lúc đang học) một công việc xuất hiện rồi mọi thứ được sắp xếp đâu vào đó. Coi như hoàn thành sự nghiệp, cuộc sống giờ là tháng ngày ổn định thênh thang. Mọi thứ đều đúng và đủ. Chỉ duy nhất có bạn là thừa. Vì rõ ràng nếu không thể biết được lý do tại sao mình theo đuổi một chuyên ngành nào đó hay tại sao mình lại lựa chọn công việc này thay vì công việc khác thì bạn đâu có liên quan đến thứ bạn đang học cũng như bạn đang làm ? Bạn không thực sự tồn tại trong quy trình ấy, vậy nên dù có nghề nghiệp thì bạn vẫn không có sự nghiệp. Chúng ta có thể dễ dàng tưởng tượng tâm thế một người bị buộc phải làm công việc anh ta không thích. Đó là lý do tại sao cần hướng nghiệp. Hướng nghiệp cần được thực hiện từ ngày bạn bắt đầu đến trường (đơn giản có thể bằng cách phát huy sở thích, thế mạnh cá nhân). Thế nhưng hướng nghiệp lại xuất hiện khá muộn, vào đúng lúc bạn quá bận rộn với các kì thi, áp lực kiếm sống và bị so sánh với bạn học. Mọi quyết định nghề nghiệp đến nhanh rồi ra đi chóng vánh. Chưa kể quang thời gian đằng đẵng mơ hồ về công việc của bản thân mình.   Hãy bắt đầu từ lựa chọn đúng công việc bạn muốn làm hoặc đi theo lĩnh vực có hứng thú- thay vì chọn ngành học nào đó chỉ vì tên của nó có liên quan đến mức thu nhập, để đến khi tốt nghiệp mới bắt đầu ngắm bức ảnh kỷ yếu rồi tự hỏi “Tiếp theo là gì đây ?”. Việc chọn ngôi trường phù hợp là yếu tố rất quan trọng khi bạn hướng nghiệp. Cụ thể là ngành học bạn mong muốn có chất lượng đào tạo ra sao, cùng đội ngũ tham gia giảng dạy là những giáo viên thế nào. Đừng chú ý đến “có việc làm hay không”, ngay ở giai đoạn này bạn cần kịp thời nhận ra thứ bạn học được không chỉ nằm ở trong tấm bằng, điểm số mà còn ở cả biểu hiện của bạn-  lý do khiến nhà tuyển dụng chọn bạn. Thường thì bề dày thành tích, lịch sử đào tạo và tên gọi của một cơ sở hoành tráng đôi khi sẽ khiến bạn lạc hướng. Nếu đã từng nghe câu nói: “Đừng đánh giá cuốn sách qua bìa của nó” thì bạn sẽ hiểu thấu việc chọn trường cũng tương tự. Những thứ tưởng chừng rất đẹp đẽ ở bề nổi ấy sẽ chẳng liên quan gì đến lựa chọn về tương lai nghề nghiệp của bạn sau khi bạn học xong- dù cho có thể đem đến cho bạn vài lợi thế về hồ sơ trước nhà tuyển dụng cho đến lúc họ trực tiếp gặp gỡ bạn. Một trường học phù hợp với bạn chính xác mới là khởi đầu đúng đắn, thay vì một trường học danh tiếng. Nơi mà bạn có cơ hội phát huy thế mạnh của bản thân, theo đuổi đam mê và rồi cuối cùng lựa chọn công việc hoàn toàn do bạn quyết định mà không chịu bất kì ảnh hưởng nào bên ngoài. Thực ra, sự trì hoãn của con người rất mạnh, chỉ đến lúc được làm việc mình thích thì bản thân mới thực sự nỗ lực học hỏi và những nỗ lực học hỏi (chấp nhận đối mặt với sai lầm) ấy khởi động những dự định tốt đẹp hơn cùng với định hình con người bạn. Nguyên tắc trong định hướng nghề nghiệp là phải có bản lĩnh, dám thất bại, dám học hỏi và lại tiếp tục cho đến khi tìm thấy điều bạn muốn gắn bó lâu dài. Công chúng cần nhận ra một điều quan trọng rằng, giáo viên, chứ không phải tòa nhà, mới là yếu tố tạo nên một đại học tuyệt vời. Khi mà ước mơ của bạn được xây dựng dựa trên nền ước mơ của một ai đó khác thì bạn vẫn là kẻ mộng du: Làm việc trong tình trạng không cảm xúc, không ý thức và không khát vọng.  Ranh giới kì lạ Vào những năm 1890 và đầu những năm 1900, sinh viên Stanford chọn chuyên ngành Tiếng Anh, lịch sử, triết học, ngôn ngữ và các lĩnh vực khoa học nhân văn khác đã bị coi là không được chuẩn bị tốt cho thế kỷ 20. Sự khác biệt giữa quá khứ và hiện nay chính là, sự sụt giảm lòng tin vào nghệ thuật khai phóng, đặc biệt là khoa học nhân văn, thứ đã bị bào mòn bởi sự trỗi dậy mạnh mẽ của khoa học máy tính Câu chuyện trên không còn là của riêng đại học Stanford nữa mà đang xảy ra ngay lúc này xung quanh chúng ta. Hãy thử nhớ lại thời mà bạn lựa chọn thi khối A và khối C khi vào Đại học thì các bậc phụ huynh và người thân xung quanh bạn đã có biểu hiện ra sao. Khối A thường được hiểu là thứ gì đó thiết thực, mang đến thu nhập lấp lánh còn khối C được coi như khối gì đó rất mơ mộng và thu nhập thì le lói. Cách nghĩ ấy tạo ra nhiều sinh viên thuộc khối khoa học kỹ thuật hơn là khoa học nhân văn. Sự phân biệt hai ngành học này dẫn đến phân biệt về nghề nghiệp và tương lai. Theo kiểu một bên thì tốt và một bên thì không tốt, nghề này có thu nhập cao còn nghề kia không, tương lai này thì sáng sủa còn tương lai kia thì không sáng sủa. Hệ quả là chẳng ai còn thực sự quan tâm đến hướng nghiệp nữa mà thay vào đó chạy theo số đông ào ạt. Về hình thức, đó là hướng nghiệp theo cơ chế thị trường nhưng về bản chất, đó không phải là hướng nghiệp thực sự (vì chẳng thị trường nào cam đoan nó sẽ ổn định vĩnh viễn với các nhu cầu bất biến). Đơn giản nó chỉ là ảo ảnh về ốc đảo giữa sa mạc đối với người khách bộ hành mất phương hướng. Khoa học kỹ thuật chú trọng đến việc tạo ra các giá trị cụ thể còn khoa học nhân văn thì chú trọng đến việc tạo ra một con người tử tế. Và con người tử tế thì có thể học được bất cứ điều gì (họ có cơ hội được dạy bảo nhiều hơn). Như vậy, ngành nhân văn tạo ra những con người có thể thích ứng và học hỏi. Trên thực tế, phẩm chất ứng viên mới chính là điều mà các nhà tuyển dụng luôn cần đến. Nếu ai đó đột nhiên nói rằng: “Vớ vẩn ! tôi khẳng định với tấm bằng tốt nghiệp loại ưu ở một trường danh tiếng, tôi sẽ ung dung đi làm ngay mà không cần học thêm gì cả” thì tôi sẽ cười cho qua chuyện (bạn thấy đấy, phản ứng đó là lý do khiến họ mất đi cơ hội học hỏi). Tính chính xác tuyệt đối trong kỹ thuật tạo nên tư duy luôn đúng và thích kiểm soát nhiều hơn. Họ sẽ phát huy rất tốt nếu được làm các công việc thuộc đúng chuyên môn của mình, thế nhưng để nhận được công việc đó, họ cần phải học cách để được tuyển dụng và chấp nhận sẽ được đào tạo lại, nếu cần thiết. Nhìn chung hướng nghiệp sẽ trở nên vô nghĩa nếu bị chi phối bởi suy nghĩ liên quan đến thu nhập từ quá sớm. Tương tự, việc đặt ra ranh giới khác biệt giữa các ngành khoa học kỹ thuật và khoa học nhân văn, hoặc đề cao bên nào quá mức cũng là một lý do khiến việc hướng nghiệp trở nên rối rắm hơn. Trong khi người trực tiếp có trách nhiệm hướng nghiệp là chính bản thân các bạn sinh viên tỏ ra hờ hững hoặc chỉ đến lúc tốt nghiệp mới quan tâm xem mình sẽ làm gì, thì hàng ngày, hàng giờ có vô số thông tin khích lệ các bạn đi theo việc này hoặc việc kia. Mong các bạn lưu ý, chọn nghề nghiệp không giống với mua hàng trên mạng: mua thứ gì đó chỉ vì tần suất quảng cáo, giá thành và sự thuận tiện. Hãy chấp nhận thử thách, luôn sẵn sàng học hỏi và đừng phớt lờ nghề nghiệp bản thân mình muốn gắn bó, dù cho mọi khởi đầu luôn rất khó khăn.  Joshua Landy, giáo sư tiếng Pháp và văn chương so sánh trong bài giảng đã nói” “ Tôi muốn gửi tới các bạn một lời khuyên từ tận đáy lòng: Đừng theo chuyên ngành kinh tế. Hãy theo chuyên ngành kinh tế nếu bạn yêu kinh tế. Nhưng đừng học chuyên ngành kinh tế nếu đó là bởi cha mẹ bạn bảo bạn như vậy hay bạn nghĩ mình sẽ không thể có được công việc tốt nếu thiếu nó. Do đó tôi đề nghị rằng, các bạn hãy học ngành mà các bạn thực sự quan tâm, bao gồm cả kinh tế. Nếu bạn theo chuyên ngành khoa học nhân văn, thì có một câu mà mọi người luôn hỏi bạn, Bạn sẽ làm gì với nó ? Và ý họ muốn hỏi là, bạn sẽ kiếm tiền bằng cách nào ?” Landy thừa nhận rằng đây là “một câu hỏi khá sâu sắc”. Nhưng ông nói rằng, ông muốn hỏi những sinh viên không theo chuyên ngành khoa học nhân văn một câu: “Khi bạn kiếm được tiền, bạn sẽ làm gì với nó ?...Bạn sẽ tiêu nó thế nào ? Đâu sẽ là cách tốt nhất để làm cho bản thân bạn hạnh phúc và viên mãn ?”    Những cuộc phiêu lưu không định trước của những sinh viên đến từ Stanford như Michael Crandell (học chuyên ngành tôn giáo, gây dựng sự nghiệp trong ngành công nghiệp phần mềm); Stephen Hayes (chuyên ngành lịch sử, gây dựng sự nghiệp trong lĩnh vực nhân sự); Jennife Ockelmann (chuyên ngành lịch sử, gây dựng sự nghiệp trong lĩnh vực marketing) v.v…là ví dụ tham khảo hữu ích cho thấy việc bạn làm gì không quan trọng bằng việc bạn có thực sự muốn làm nó hay không. Thay cho lời kết Hướng nghiệp là một sự nghiệp cao cả. Khi bạn hiểu biết chính xác bản thân muốn gì và có đủ can đảm theo đuổi nó thì bạn xứng đáng trở thành người hướng nghiệp tốt nhất cho chính mình. Thử thách bản thân ở nhiều lĩnh vực khác nhau là phương pháp hữu hiệu để giúp bạn tìm ra một vị trí phù hợp cho cả hiện tại và tương lai. Sự nỗ lực học hỏi luôn là điều kiện tiên quyết để có thể khám phá ra thế mạnh của bản thân và không ai đưa đến ngay cho bạn công việc thực sự phù hợp nếu bạn không chủ động lên đường tìm kiếm nó. Bài học về hướng nghiệp khiến tôi nhớ đến tác phẩm Ông già và biển cả của tiểu thuyết gia Ernest Hermingway. Năm đó, chính vào những tháng hè oi ả của kì thi, cô giáo dạy văn cấp 3 đã nhắc đi nhắc lại câu nói nổi tiếng: “Hãy cố thêm lần nữa” trích trong tác phẩm, để khích lệ chúng tôi. Đến bây giờ,  dù bạn đang còn đang đi học, chuẩn bị tốt nghiệp hoặc đã tốt nghiệp mà vẫn chưa có việc làm, tôi mong muốn được dành tặng lại bạn sự khích lệ ấy. Sách Hướng nghiệp trong thời đại 4.0 là tập hợp những mẩu chuyện có tính nhân văn và nên được đọc trước khi bạn quyết định đưa ra lựa chọn về nghề nghiệp trong tương lai. Mời các bạn đón đọcHướng Nghiệp Trong Thời Đại 4.0 của tác giả Randall Stross.