Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phố Tàu Chinatown

Toàn bộ câu chuyện diễn ra trong vòng hai tiếng đồng hồ khi hai mẹ con nhân vật chính bị kẹt lại trên một chuyến tàu điện ngầm vì có nghi ngờ đoàn tàu bị đánh bom. Trong hai tiếng đó là một cuộc độc thoại nội tâm bất tận, đầy tiếc nhớ quá khứ và những nhận xét sắc bén về cuộc sống và số phận, khi nhân vật chính nhìn lại cuộc đời của mình, từ Hà Nội đến Leningrad rồi Paris, những con người đã đi qua đời mình, nhất là Thụy, người tình Trung Hoa từ thuở nhỏ, một mối tình đầy trắc trở, rồi sau đó trở thành người chồng chạy trốn, đến một Chinatown (Chợ Lớn) vô hình nào đó, nơi không mảnh vụn quá khứ nào bắt kịp được.       ““Un milliard de chinois. Et moi. Et moi. Et moi (Một tỉ người Trung Hoa. Và tôi. Và tôi. Và tôi).” Lời bài hát của Jacques Dutronc mang vị ngọt-đắng trong độc thoại nội tâm dài đầy táo bạo này của một phụ nữ Việt Nam trẻ tuổi sống ở Belleville. Ngồi trên tàu điện ngầm, cô nhớ về Hà  Nội và tình yêu duy nhất của mình, từng bị hy sinh cho cuộc chiến biên giới Việt-Trung. Về cái thời cô còn chưa biết đến từChinatown, còn giờ đây nó đã trở thành số phận của cô. Giành được một thành công lớn tại Việt Nam, cuốn tiểu thuyết của Thuận, hiện sống ở Paris, làm nhòe đi các ranh giới giữa cái thực và hư cấu. Thỉnh thoảng chị nhét vào đây đó vài trang một cuốn tiểu thuyết khác được đưa vào đầy khéo léo, theo một lối mỉa mai tạo nên một mối liên hệ khó nhận ra với tác phẩm của Duras, và mang đến cho chúng ta, một cách đầy bình dị, một khúc ca xé lòng về lưu vong.” (Augustin Trapenard – Magazine Littéraire, 4/2009) *** Đây là lần thứ hai Chinatown được xuất bản tại Việt Nam. Cuốn tiểu thuyết vừa mang nặng nuối tiếc quá khứ vừa cay độc những khi cần này không chỉ chinh phục người đọc Việt Nam mà còn bắt đầu đến với độc giả Pháp qua bản dịch của Đoàn Cầm Thi (NXB Seuil, 2009). Toàn bộ câu chuyện diễn ra trong vòng hai tiếng đồng hồ khi hai mẹ con nhân vật chính bị kẹt lại trên một chuyến tàu điện ngầm vì có nghi ngờ đoàn tàu bị đánh bom. Trong hai tiếng đó là một cuộc độc thoại nội tâm bất tận, đầy tiếc nhớ quá khứ và những nhận xét sắc bén về cuộc sống và số phận, khi nhân vật chính nhìn lại cuộc đời của mình, từ Hà Nội đến Leningrad rồi Paris, những con người đã đi qua đời mình, nhất là Thụy, người tình Trung Hoa từ thuở nhỏ, một mối tình đầy trắc trở, rồi sau đó trở thành người chồng chạy trốn, đến một Chinatown (Chợ Lớn) vô hình nào đó, nơi không mảnh vụn quá khứ nào bắt kịp được. *** Đồng hồ đeo tay chỉ số mười. Thằng Vĩnh nhỏm dậy kêu mỏi. Nó ngủ trong tàu điện ngầm. Đầu ngả vào vai tôi. Tàu đến một ga nhỏ thì dừng lại. Mười lăm phút rồi vẫn không nhúc nhích. Người ta phát hiện một túi du lịch vô chủ. Người ta nghi âm mưu đánh bom một cái ga hiu hắt thế này chứa một âm mưu khác nguy hiểm hơn nhiều. Tôi không biết nên ngồi đợi xem âm mưu ấy nguy hiểm đến mức nào. Hay ra ngoài bắt một cái xe buýt mà đi tiếp. Thằng Vĩnh lại ngả đầu vào vai tôi ngủ. Mười hai tuổi nó cao bằng Thụy lúc mười sáu tuổi. Buổi trưa nó ăn căng tin ở trường. Một đĩa khoai tây nghiền. Một khoanh thịt bò rán. Hai lát giăm bông. Hai lát phó mát. Sữa chua. Kem. Bánh ngọt. Buổi trưa Thụy ăn cơm ở nhà. Thụy đi học về là vào bếp nấu cơm. Ba anh em hai bơ gạo, nửa mớ rau muống, sáu con tôm. Thằng Vĩnh cao bằng Thụy năm mười sáu tuổi. Tóc nó cũng cắt cao như tóc Thụy. Mắt nó cũng xếch như mắt Thụy. Trong lớp bạn bè gọi nó là thằng Trung Hoa. Ra đường người ta gọi nó là thằng Trung Hoa. Ở quận Mười Ba người ta nói với nó bằng tiếng Quảng Đông. Cả trường gọi Thụy là thằng Tàu. Thằng con cháu Đặng Tiểu Bình. Thằng tay sai Bắc Kinh. Cả phố gặp Thụy đều hỏi thế nào bao giờ về nước. Giường tủ bàn ghế bán hết chưa. Thầy hiệu trưởng được mời lên công an khu vực. Học trò Âu Phương Thụy cần được theo dõi sát. Học trò Âu Phương Thụy gia đình xin được ở lại Việt Nam sinh sống. Chính phủ đang xem xét. Chính phủ chưa quyết định gì. Nhưng cần theo dõi sát. Đại hội Đảng vừa có công hàm Bắc Kinh là kẻ thù số một của nhân dân Việt Nam. Học trò Âu Phương Thụy cần được theo dõi sát. Có thể chưa có biểu hiện gì. Nhưng nhiệm vụ của chúng ta là theo dõi sát. Từ công an khu vực về, thầy hiệu trưởng họp ban giám hiệu. Từ ban giám hiệu về, cô giáo chủ nhiệm họp cán bộ lớp. Hôm sau cả lớp nói với nhau thằng Thụy có vấn đề. Hôm sau nữa toàn trường xôn xao gia đình thằng Thụy bị công an chống gián điệp theo dõi. Gia đình thằng Thụy thường xuyên nhận tài liệu mật của Bắc Kinh. Trong lớp không ai chơi với Thụy. Không thầy cô giáo nào gọi Thụy lên bảng. Trong trường, mỗi khi Thụy đi qua, mọi người im lặng nhìn đi nơi khác. Giờ tập quân sự, Thụy được ngồi nhà. Thư gửi chiến sĩ đảo Trường Sa, Thụy được miễn viết. Năm cuối cấp học sinh cá biệt cũng được chiếu cố kết nạp đoàn. Nhưng Thụy thì không. Người ta không đả động gì đến Thụy. Người ta làm như không biết Thụy là ai. Người ta làm như không có Thụy trong lớp. Mười sáu tuổi Thụy cao bằng thằng Vĩnh bây giờ. Tóc Thụy cắt cao. Mắt Thụy xếch. Trong xe ô tô, Thụy ngả đầu vào vai tôi ngủ. Thụy kể Thụy sinh ở Yên Khê. Chúng tôi sinh cùng năm. Thụy trước tôi ba tháng hai ngày. Hôm sau cả lớp nói với nhau tôi phải lòng Thụy. Hôm sau nữa toàn trường xôn xao tôi bị thằng tay sai Bắc Kinh bắt mất hồn. Thầy hiệu trưởng mời bố mẹ tôi tới văn phòng. Cô giáo chủ nhiệm gọi tôi ra gặp riêng. Cô giáo dạy toán gọi tôi ra gặp riêng. Thầy giáo dạy văn gọi tôi ra gặp riêng. Thầy giáo tiếng Anh gọi tôi ra gặp riêng. Bí thư liên đoàn trường gọi tôi ra gặp riêng. Em nên tập trung để dẫn đầu cả lớp kỳ thi cuối năm. Em nên tập trung để đạt kết quả cao nhất kỳ thi hết cấp. Em nên tập trung để mang lại danh dự cho toàn trường kỳ thi đại học. Người đem trách nhiệm trao cho tôi. Người mang thi cử ra làm tôi sợ. Không ai đả động gì tới Thụy. Không ai tỏ ra muốn biết Thụy. Bố mẹ tôi cũng làm như không biết Thụy. Ba năm tôi học cấp ba, bố mẹ tôi không bao giờ nhắc đến Thụy. Năm năm tôi học đại học ở Nga, bố mẹ tôi cũng không bao giờ nhắc đến Thụy. Bố tôi bảo nên tập trung để sau năm năm được cái bằng màu đỏ. Mẹ tôi bảo được cái bằng màu đỏ rồi làm gì thì làm. Bố mẹ tôi đều hy vọng tôi sẽ quên Thụy. Hai mươi ba năm nay bố mẹ tôi hy vọng tôi quên Thụy. Thằng Vĩnh nhỏm dậy lần nữa. Âm mưu nguy hiểm vẫn đang đợi công an đặc nhiệm đến điều tra. Tôi vẫn không biết nên ngồi đợi hay ra bắt xe buýt. Ba người khách cùng toa nhăn nhó. Có đi nữa hay không thì phải báo. Một ngày ba tiếng trong phương tiện công cộng còn gì là đời. Tôi quay lại bảo tôi cũng một ngày ba tiếng trong phương tiện công cộng. Chẳng ai phản ứng. Tôi nói thêm hắn cũng thế, hắn cũng một ngày ba tiếng trong phương tiện công cộng. Ba người khách vẫn không phản ứng. Tôi bảo tên hắn dài lắm, có đánh vần cũng chẳng ai nhớ được. Cũng chẳng để làm gì. Có lẽ cứ gọi hắn là hắn. Từ bàn làm việc hắn gọi điện cho tôi. Hắn gọi cho tôi mười lăm phút giữa ngày. Tôi ngồi gặm bánh mì trong phòng giáo viên. Bác sĩ bảo stress. Stress vì phương tiện công cộng. Ba tiếng một ngày. Stress không có ở thế giới thứ ba. Người thế giới thứ ba mắc nhiều bệnh hiểm nghèo nhưng không ai mắc bệnh stress. Việt Nam thế giới thứ ba nhưng Việt Nam bốn mùa cây trái. Việt Nam rừng vàng biển bạc. Việt Nam có vịnh Hạ Long kỳ quan thế giới, có Sài Gòn hòn ngọc Viễn Đông, có Marguerite Duras giải Goncourt văn học. Stress không có ở thế giới thứ ba. Stress chỉ Việt Nam mới chữa được. Hắn đi Việt Nam mười hai lần. Mười một lần từ Bắc vào Nam bằng xe máy Liên Xô. Hắn làm tây ba lô. Hắn ăn đường ngủ chợ, về đến Charles de Gaulle còn mỗi quần soóc và áo may ô, tóc dài đến vai, người toàn nốt muỗi đốt. Trong tàu điện ngầm người ta nhìn hắn nghi ngờ. Ở Việt Nam nhân viên khách sạn nhìn hắn lắc đầu. Mày đày đọa thân mình làm gì, tôi hỏi hắn. Mày tưởng mày hơn tao, hắn hỏi tôi. Hắn hỏi tôi nhiều chuyện. Lâu ngày có nhớ nước chanh của mẹ không. Bố mày còn vác được xe đạp lên gác chứ. Thằng Vĩnh vẫn sưng họng à. Thằng Paul vừa lây sang thằng Arthur hôm qua. Cuối năm bọn đồng nghiệp của mày có cái đề nghị gì hay ho không. Bọn phòng tao rủ nhau đi ăn hiệu. Quán Xích Lô. Lần này đến lượt tao được chọn. Tao sẽ gọi món chim quay của thằng Vĩnh. Con Yamina năm tới lưu ban thì học cùng lớp với thằng Yasin em ruột nó à. Cô Feng Xiao hồi này thế nào. Sắp về quê bốc mộ Đặng Tiểu Bình chưa. Hắn hỏi tôi nhiều chuyện. Không bao giờ hắn đả động đến Thụy. Không bao giờ. Hắn làm như hắn không biết Thụy là ai. Về Việt Nam hắn tránh đi cùng chuyến với thằng Vĩnh. Quay lại Pháp hắn cũng tránh đi cùng chuyến với thằng Vĩnh. Hắn sợ gặp Thụy ở sân bay. Tôi hỏi hắn nhiều chuyện. Không bao giờ tôi hỏi chuyện vợ hắn. Không bao giờ tôi đả động đến đời tư của hắn. Cả quá khứ lẫn hiện tại. Tôi không cần biết. Tôi tự bảo không có nhu cầu biết. Tôi tự bảo không hơi đâu kiểm tra đời tư của hắn. Thằng Paul, thằng Arthur gặp mẹ chúng nó một tháng mấy lần, ở đâu, bao lâu, không bao giờ làm tôi để ý. Tôi không biết số điện thoại cơ quan hắn. Mỗi lần gọi điện thoại đến nhà hắn tôi đều phải mở sổ tay. Mười năm nay hắn không chuyển nhà lần nào. Nhưng tôi vẫn mở sổ tay. Thế nào mọi thứ ổn chứ. Công việc tốt chứ. Không ai sưng họng chứ. Thằng Vĩnh muốn nói chuyện với thằng Paul và thằng Arthur. Hai khả năng xảy ra. Hoặc thằng Vĩnh nói chuyện với một trong hai thằng kia, ba mươi phút. Tôi trả bao điện thoại vô hạn định nội thành và ngoại ô Paris. Hoặc, không thằng nào có nhà à. Không sao. Không quan trọng đâu. Không phải gọi lại đâu. Chuyện trẻ con ấy mà. Hắn nhắm mắt cũng đọc được số điện thoại nhà tôi, điện thoại phòng giáo viên trường tôi, điện thoại cầm tay của tôi, điện thoại hàng xóm của tôi, điện thoại cô Feng Xiao. Ba năm tôi đổi ba lần địa chỉ e-mail. Hắn chẳng cần sổ tay cũng không bao giờ nhầm. Wanadoo, Club-internet, Liberty.surf. Tên tôi, đệm Thụy. Tên Thụy, đệm tôi. Họ tôi, họ Thụy. Họ Thụy, họ tôi. Tôi cũng không nhớ nữa. Tôi cũng phải mở sổ tay. Nhưng hắn chấp hết. Không cần sổ tay hắn cũng không bao giờ nhầm. Đi đâu xa, về quê nhà hắn ở Rennes, hắn cũng viết cho tôi. Cúc cu thế nào. Hôm nay Chủ nhật sắp đi lễ nhà cô Feng Xiao à. Qua Tang Frères nhớ mua ba con bồ câu về quay cho thằng Vĩnh. Sắp ra phim Người Mỹ trầm lặng. Đợi tao về đi xem cùng nhé. Thằng Vĩnh gửi đến nhà tao. Bà dì tao sẽ lại cho cả ba thằng ăn chim quay. Nhưng hắn bảo hắn thích gọi điện cho tôi hơn. Mày có cái mặt khó đăm đăm nhưng giọng không đến nỗi. Thậm chí được. Tiếng Pháp của mày pha nhiều tạp âm lắm. Nào Việt. Nào Liên Xô. Nào Hà Nội. Nào Leningrad. Năm năm học tiếng Anh ở Nga không được dạy đại học Thanh Xuân thì làm giáo viên cấp hai ngoại ô Paris cũng được. Làm giáo viên cấp hai còn hơn làm thành viên hội năm triệu người Pháp thất nghiệp. Tao thấy giọng mày không đến nỗi. Nói chuyện với mày qua điện thoại đỡ mệt hơn là nhìn cái mặt khó đăm đăm của mày. Stress lắm. Bốn chín đồng nghiệp trường mày đều nói thế à. Hắn bảo hắn được mỗi cái nhớ dai. Lý lịch tôi hắn đọc vanh vách. Sinh nhật tôi, sinh nhật thằng Vĩnh, cả tôi lẫn thằng Vĩnh đều quên. Hắn nhớ tất. Không cần sổ tay hắn cũng nhớ tất. Không cần đọc giấy khai sinh, hắn cũng biết tôi sinh ở bệnh viện Bảo vệ bà mẹ và trẻ em, thằng Vĩnh sinh ở bệnh viện Nhi Thụy Điển, nặng hai cân chín, dài sáu mươi phân. Mười hai năm sau, thằng Vĩnh cao thêm một mét, nặng gấp mười lần, đi giày số ba chín. Mười hai năm sau, một giờ trưa Chủ nhật thằng Vĩnh đòi ăn chim quay. Nó bảo cơm Việt Nam có món chim quay cung cấp đủ ca lo như bữa trưa căng tin trường nó. Nghỉ hè nghỉ tết về Việt Nam nó thích ăn trưa phố Tạ Hiền. Anh phục vụ thấy nó đến là mang ra ba suất chim quay, một suất cơm rang. Anh phục vụ biết cả nó không ăn củ kiệu, không uống bia Shingtao mà uống Coca Cola. Coca Cola nhà máy rượu bia Hà Nội liên doanh với công ty cổ phần hữu hạn Tai Feng bà nội nó làm đại diện. Bà nội nó ngày nó ra đời chỉ đợi cuối tháng đi lĩnh hưu non cùng ông nội nó, cùng chín ông bạn chín bà bạn nữa của phố Lương Ngọc Quyến, hai mươi cán bộ công nhân viên bốn mươi lăm tuổi đã được phòng tổ chức khuyên viết đơn xin thôi việc. Mười hai năm sau, một giờ trưa Chủ nhật, tôi bảo thằng Vĩnh mẹ mệt lắm tuần sau mới mua được ba con chim bồ câu về quay húng lìu. Nó khóc lóc mẹ lúc nào cũng kêu mệt. Nếu mẹ hết tiền, con cho mẹ vay. Tiền của Thụy cho nó. Tôi không động đến. Nó bảo con muốn độc lập. Mười tám tuổi là con đi làm. Mười tám tuổi là con có hộ chiếu. Một hộ chiếu Việt. Một hộ chiếu Pháp. Một hộ chiếu Trung Hoa. Con sẽ nói ba thứ tiếng. Lúc đó tiếng Hoa sẽ mạnh hơn tiếng Anh. Un milliard de chinois. Et moi. Et moi. Et moi. Tôi trêu thằng Vĩnh. Tôi biết nó thích tôi trêu thế. Tôi biết nó thể nào cũng lăn ra ngủ. Nó vẫn còn mệt vì trận nhảy dù cùng thằng Paul và thằng Arthur hôm qua. Hai thằng này rủ sáu năm nữa đi nghĩa vụ quân sự ở Irak. Thằng Vĩnh phẩy tay. Sáu năm nữa, chiến tranh Irak còn hay hết, nó cũng mang hộ chiếu Trung Hoa nhảy dù xuống Bagdad. Sáu năm đủ để các doanh nghiệp Trung Hoa qua mặt các đối thủ Hoa Kỳ và Anh Quốc, đủ để công ty cổ phần Tai Feng của bà nội nó mở thêm mấy chục chi nhánh ở Vùng Vịnh. Sáu năm nữa tôi bốn lăm tuổi. Thụy bốn lăm tuổi. Tương lai tôi còn hai mươi năm dạy học để cuối đời hưởng lương hưu Bộ Giáo dục. Tương lai Thụy có thể là Hồng Kông, Irak, Hoa Kỳ hay Rwanda. Tiếng Hoa của Thụy sáu năm nữa sẽ có giá thêm sáu lần. Họ Âu của Thụy sáu năm nữa sẽ đông thêm sáu lần. Thằng Vĩnh ngủ. Tôi ngủ gục bên cạnh. Tôi đang định làm một giấc mơ xem Thụy và tôi dắt tay nhau đi lĩnh lương hưu thì hắn gọi điện. Hắn đánh thức cả tôi lẫn thằng Vĩnh. Không cần nhấc máy tôi đã biết là hắn. Chủ nhật bốn giờ chiều. Nếu không chẳng may qua đời, như hắn thường nói, hắn sẽ còn tiếp tục gọi điện cho tôi. Chủ nhật bốn giờ chiều. Ngay cả khi hắn đi chơi xa. Ngay cả khi hắn về quê ở Rennes. Ngay cả khi trời ở đấy mưa cả ngày hay nhiệt độ trung bình ba mươi lăm, biển không xa, rất xanh và ít sóng. Ngay cả dưới mặt trời Củ Chi, Yên Bái, Cà Mau. Chủ nhật bốn giờ chiều. Hắn quen tất cả các nhân viên điện đài. Hắn biết nói chào anh chào chị lúc đến. Chào anh chào chị lúc đi. Các nhân viên khách sạn nhìn hắn lắc đầu nhưng các nhân viên điện đài tỉnh lẻ cả ngày ngồi rít thuốc lào thấy hắn cũng hay hay. Các nhân viên điện đài tỉnh lẻ gọi hắn là anh người Pháp. Anh người Pháp vào làm cốc nước chè. Anh người Pháp đến gọi điện cho bạn gái đấy hả. Cụm từ tây ba lô năm hai nghìn linh ba vẫn chưa vượt biên khỏi Hà Nội và Sài Gòn. Người Củ Chi, Yên Bái, Cà Mau vẫn vừa vặn ngây thơ để tin các anh người Pháp đều dân tư bản. Không tư bản mà trả hai trăm nghìn đồng mười phút điện thoại. Hai trăm nghìn đồng không đủ nghe Thanh Lam song ca với Hồng Nhung ở cả Hà Nội lẫn Sài Gòn nhưng hai trăm nghìn đồng đủ mua bốn mươi cân ngô ở Yên Bái, bốn mươi cân sắn ở Củ Chi, bốn mươi cân bột mì ở Rạch Giá. Lần cuối cùng hắn gọi điện ở cafénet phố Hàm Long. Năm ngoái hai trăm nghìn đồng mười phút đi EU. Năm nay quân đội cạnh tranh nhà nước hạ giá một nửa. Nguyên phố Hàm Long có tới năm cafénet. Hắn hét thi cùng ba người bên cạnh cũng gọi đi EU. Cổ họng Pháp nhỏ hơn cổ họng Việt nên tôi được nghe hai người đi Đức, một người đi Pháp. Cả ba cùng bàn cách gửi con du học. Cả ba cùng trằn trọc tiếng Đức tiếng Pháp sau này biết nói với ai, bằng Đức bằng Pháp sau này làm công ty nào. Cả ba cùng nhất trí trường Đức trường Pháp còn rẻ hơn đại học trong nước. Ở Đức ở Pháp không có ngày hiến chương các nhà giáo, phụ huynh cũng đỡ phải bắt máy bay Vietnam Airlines sang Đức sang Pháp mà kỷ niệm, mà vác cam đến nhà giáo viên. Bốn giờ chiều Hà Nội. Mười một giờ trưa Paris. Mười một giờ trưa hè Paris. Tôi nằm trong chăn. Hắn quần soóc áo may ô 39 độ. Tôi ôm máy vào lòng nghe hắn thi hét. Hai mươi phút hét hắn lạc cả giọng. Ba người bên cạnh chắc vẫn còn hét vài lần mười phút nữa. Hắn bảo hắn thích gọi điện cho tôi hơn là viết mail. Mặt mày khó chịu lắm nhưng giọng thì không đến nỗi. Bốn tạp âm trộn vào nhau như cơm rang thập cẩm nhưng tao hiểu được. Không đến nỗi. Thậm chí được. Chủ nhật bốn giờ chiều. Chưa cần nhấc máy, tôi đã biết là hắn. Mới nghe hắn chào, tôi đã biết hắn sẽ đề nghị chạy ba vòng công viên Belleville. Tôi phẩy tay. Cả tao và thằng Vĩnh đều bận. Bà nội nó sang họp với đại diện công ty Tai Feng ở Pháp. Bà nội nó mang cho nó một két Coca Cola để uống với chim quay. Bà nội nó bảo bao giờ về, lại cho một két nữa mang đi, cho cả ba con chim quay Tạ Hiện lên máy bay mà ăn. Một đĩa cơm rang Vietnam Airlines với hai lát giò lụa toàn bột mì và mì chính không đủ ca lo cho nó. Hắn bảo tôi cứ ở nhà mà lo cung cấp ca lo cho bà nội thằng Vĩnh. Hắn không chào. Hắn đặt máy xuống. Lần nào đến Hà Nội, hắn chẳng ghé nhà tôi, lần nào bố mẹ tôi chẳng tranh thủ tâm sự tôi và thằng Vĩnh bị Thụy và bố mẹ Thụy bỏ rơi ra làm sao. Lần nào kèm theo quà cũng có thư, kèm theo thư có câu hỏi bao giờ tôi và hắn cưới nhau, bao giờ tôi về Việt Nam cùng hắn để ra mắt họ hàng. Ra mắt họ hàng là quan trọng nhất. Mười hai lần đi Việt Nam hắn thừa biết. Mười hai lần đi Việt Nam hắn đủ khôn để biện hộ với bố mẹ tôi. Để bố mẹ tôi hôm sau biện hộ lại với họ hàng. Một cháu mới chuyển trường. Một cháu mới chuyển cơ quan. Một cháu đang đi học tại chức. Một cháu đang đi công tác nước ngoài. Ông cụ bên ấy mệt. Bà cụ bên ấy không được khỏe. Thằng Vĩnh về Việt Nam hè năm ngoái. Sáu trăm euro vé khứ hồi. Một trăm euro tiền tiêu vặt. Nửa tháng lương của tôi. Ông bà nội thằng Vĩnh không cho được nó nửa tháng lương nhưng đem ô tô ra tận sân bay đón. Cũng để ra mắt họ hàng. Tiếng Việt của thằng Vĩnh không trôi chảy. Nhưng dạ thưa tiếng Hoa của nó lại rất trơn tru. Cái lưỡi của nó cũng vẫn hợp chim quay Tạ Hiện. Tình hình Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nó nói đâu trúng đấy. Ông bà nội nó biết lương giáo viên cấp hai của tôi không đủ thuê nhà quận Mười Ba. Nhưng thằng Vĩnh chiều thứ Tư đi học tiếng Hoa ở phố Tolbiac. Tiếng Hoa quận Mười Ba không là tiếng Bắc Kinh nhưng người Bắc Kinh bây giờ cũng không nói tiếng Bắc Kinh. Người Hà Nội bây giờ cũng không nói tiếng Hà Nội. Ông bà nội nó thấy không có gì đáng phàn nàn về nó, không có gì đáng phàn nàn về tôi. Bố mẹ Thụy không bao giờ phàn nàn về tôi. Không bao giờ. Bố mẹ Thụy đến tận nhà hộ sinh đón tôi. Bố Thụy bế thằng Vĩnh đi trước. Mẹ Thụy cầm tay tôi đi sau. Bố Thụy đặt tên nó là Vĩnh. Bố tên Thụy. Con tên Vĩnh. Vĩnh Thụy trước đây là phạm thượng. Mẹ Thụy áy náy. Bố Thụy bảo Vĩnh tiếng Hoa là vĩnh cửu. Bố là Âu Phương Thụy. Con là Âu Phương Vĩnh. Sau này có con gái đặt tên là Hằng. Hằng cũng như Vĩnh. Hằng cũng đẹp bằng Vĩnh. Bố mẹ Thụy bàn tương lai. Cháu nội trai tên Vĩnh. Cháu nội gái tên Hằng. Kế hoạch hóa gia đình Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chặt gấp đôi kế hoạch hóa gia đình Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Con gái Trung Hoa sau này hiếm lắm. Con gái Trung Hoa sau này muốn lấy ai cũng được. Hằng họ Âu, mắt xếch, tiếng Hoa. Hộ chiếu Trung Hoa hay không không quan trọng. Un milliard de chinois. Et moi. Et moi. Et moi. Hằng đến tuổi vị thành niên một tỉ người Hoa thành một tỉ rưỡi. Trung Hoa thành quốc gia không biên giới. Cả Hằng lẫn Vĩnh đi đâu cũng không sợ mất gốc, mất tiếng, mất món chim quay Tạ Hiện. Bố mẹ Thụy bàn tương lai. Bố mẹ Thụy bàn giao tôi và thằng Vĩnh cho bố mẹ tôi. Một tuần sau khi tôi ra viện. Bố mẹ thấy không có gì phàn nàn về con. Duyên số các con không thành đừng trách bố mẹ. Tôi không bao giờ trách bố mẹ Thụy. Tôi không bao giờ trách Thụy. Mười hai năm tôi không hết nhớ Thụy. Tôi để hắn một mình ra Bắc vào Nam bằng xe máy Liên Xô làm tây ba lô ăn đường ngủ chợ, về đến Charles De Gaulle còn mỗi quần soóc áo may ô. Hôm ra đón thằng Vĩnh, tóc vẫn còn dài tới vai. Người vẫn còn đầy nốt muỗi đốt. Tôi hỏi hắn đày đọa thân mình bao nhiêu cho vừa. Hắn hỏi tôi mày tưởng mày hơn tao. Thằng Vĩnh chưa kịp chào đã phát biểu mẹ cắt đầu gì kinh thế, đừng để cô Feng Xiao tự do thái quá. Nó chỉ thằng bé bên cạnh bảo đây là thằng Hao Peng bạn con. Tôi đã nghe nói nhiều về thằng Hao Peng. Thằng Hao Peng cùng học với thằng Vĩnh một lớp tiếng Hoa ở phố Tolbiac. Hai thằng hẹn nhau ở phòng đợi sân bay Băng Cốc. Thằng Vĩnh xuất phát từ Hà Nội. Thằng Hao Peng xuất phát từ Bắc Kinh. Mười hai tiếng máy bay về Paris đủ để thằng Hao Peng cho thằng Vĩnh một vòng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thượng Hải bây giờ như Chicago. Tàu điện ngầm vừa mới vừa êm không có ăn mày hát xin tiền bao giờ. Quảng Đông mới xử một vụ hối lộ lớn chưa từng thấy, năm tử hình mười tù chung thân. Côn Minh tháng sau sẽ khánh thành nhà máy điện nguyên tử công suất lớn nhất thế giới. Đại hội toán học quốc tế năm ngoái ở Bắc Kinh, đích thân chủ tịch Giang Trạch Dân cắt băng khai mạc. Quảng Đông được vào từ điển Guinness nhờ đứng đầu tỉ số cao lâu trên đầu người, đứng đầu tỉ số chim quay bán ra trong tháng. Hàng Châu nhà tao xây khách sạn nổi, mỗi phòng một sân gôn, một bể bơi ngoài trời, bể bơi còn cao hơn mặt nước biển. Hồ Nan nhà mày cũng phát triển lắm. Nghe nói đang xây xa lộ cầu vồng sáu làn xe, xuyên từ ủy ban nhân dân tỉnh tới quảng trường Thiên An Môn. Tứ Xuyên nhà cô Feng Xiao sắp tới sẽ kỷ niệm trọng thể mười năm ngày mất Đặng Tiểu Bình, cả tỉnh dự định nhập về tám triệu cái bình nhỏ để xây đài tưởng niệm cho cố chủ tịch vĩ đại nhất Trung Hoa. Mười hai tiếng đủ cho thằng Vĩnh tim nhảy thình thịch. Máy bay hạ cánh thằng Vĩnh thấy thằng Hao Peng đáng chơi nhất trong số bạn bè ở Paris. Thằng Hao Peng không bao giờ đến lớp muộn. Thằng Hao Peng nói tiếng Quan Thoại. Thằng Hao Peng dịch từ Hoa sang Pháp nhanh hơn cả cô giáo.    Mời các bạn đón đọc Phố Tàu Chinatown của tác giả Thuận.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tuyển Tập Nguyễn Hiến Lê tập 4: Văn học
Nguyễn Hiến Lê là một học giả, một nhà văn lớn của Việt Nam. Ông là tác giả của hơn 100 công trình văn học, văn hóa, văn chương Việt Nam, Anh, Pháp, Trung Quốc. Tác phẩm của ông là những đóng góp lớn cho văn hóa sử Việt Nam hiện đại. Bộ sách Tuyển tập Nguyễn Hiến Lê do Nguyễn Q. Thắng sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu. Bộ sách gồm có 4 cuốn: Triết học, Sử học, Ngữ học, Văn học Tuyển Tập Nguyễn Hiến Lê - Tập I: Triết Học Tuyển tập này sẽ giới thiệu với các bạn hệ thống triết học cổ điển Trung Hoa cũng như những tấm gương lớn về chân dung các triết gia Đông Tây. Qua đó, tác giả giúp người đọc hiểu thêm ít nhiều về triết học Trung Quốc cổ đại.Tuyển tập sẽ giới thiệu với các bạn những tác phẩm tiêu biểu của Triết học Trung Quốc: Đại cương Triết học Trung Quốc, Khổng Tử, Lão Tử, Kinh dịch - Đạo của người quân tử. Tuyển Tập Nguyễn Hiến Lê - Tập II: Sử Học Tuyển tập này giới thiệu với các bạn một số tác phẩm về lịch sử, về văn minh thế giới mà tác giả đã bỏ nhiều tâm huyết để thực hiện. Phần lịch sử thế giới là một lược sử về diễn tiến của lịch sử nhân loại từ khởi thủy đến hiện đại xuyên suốt không gian và thời gian; sử Trung Quốc là một “Tập đại thành” của tác giả về toàn cảnh lịch sử Trung Quốc từ cổ đại đến hiện đại. Đây là một tác phẩm lớn và tương đối đầy đủ nhất của Nguyễn Hiến Lê về “Trung Hoa học”. Những tác phẩm về lịch sử được giới thiệu trong sách là cái nhìn xuyên suốt về lịch sử, văn minh sử thế giới và lịch sử cận đại Việt Nam. Tập III : Ngôn ngữ học  Trong tuyển tập này, các bạn sẽ được giới thiệu các quyển: “Để hiểu văn phạm” là quyển văn phạm Việt Nam phổ thông sớm nhất thoát ly khỏi ảnh hưởng văn phạm Pháp; “Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam”, tác giả trình bày một quan điểm độc đáo về từ tính và từ vụ. Quan điểm này phù hợp với tinh thần tiếng Việt; “Chúng tôi tập viết tiếng Việt” là một số bài viết về cách sử dụng và hành văn của tiếng Việt hiện đại. Ngoài ra, tuyển tập còn trích đăng một số bài báo của tác giả về Ngôn ngữ học Việt Nam. Hy vọng sách sẽ giúp các bạn có thêm tài liệu tham khảo để nghiên cứu về ngôn ngữ học. Tập III : Ngôn ngữ học gồm các quyển: - Để hiểu văn phạm - Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam - Chúng tôi tập viết tiếng Việt - Luyện Văn (I, II, III) Và một số bài báo về Ngôn ngữ học Việt Nam - Đọc Ngôn ngữ học Việt Nam của Nguyễn Bạt Tụy (1959) - Ngữ pháp là gì? (1962) - Cách dùng tiếng “Đâu” trong truyện Kiều (1966) - Nửa thế kỷ chánh tả Việt ngữ (1968) - Bộ Việt Nam từ điển của ông Lê Văn Đức (1970) - Góp ý về việc thống nhất tiếng Việt (1976) Riêng hai cuốn "Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam" và "Chúng tôi tập viết tiếng Việt", tác giả soạn chung, nhưng chúng tôi vẫn đưa vào tuyển tập III này.  Tuyển Tập Nguyễn Hiến Lê - Tập IV: Văn Học Cái đẹp bao trùm cả cái Chân và cái Thiện; mà mục đích của đời người là tìm tòi thực hiện rồi hưởng cái Đẹp. Chúng ta càng văn minh bao nhiêu thì càng bỏ nhiều thì giờ để theo đuổi mục đích đó bấy nhiêu. Ngay từ hồi tiền sử, cả ức vạn năm về trước, tổ tiên ta mỗi khi được rảnh rang, khỏi phải lo cái ăn cái mặt, đã tỉ mỉ đục trên đá hình vạn vật ở chung quanh, nét đục rất tinh xảo, rồi họ lại biết tạo ra những xa xỉ phẩm, chê trái cây trong rừng là không ngon... Nghệ thuật có mục đích ghi và thực hiện được cái đẹp trong vũ trụ; mà trong các nghệ thuật, văn chương và âm nhạc phổ cập hơn hết, cảm người ta sâu hơn hết, riêng văn chương lại có công dụng giảng giải, truyền bá các nghệ thuật khác, nên từ khi nhân loại có chữ viết thì bất kỳ ở thời nào và xứ nào, nó cũng được coi trọng hơn mọi môn khác và đựơc dạy nhiều nhất trong các trường học. Ngày xưa, ở phương Tây cũng như ở phương Đông chúng ta, nói đến học tức là học văn, vì triết lý hay sử ký cũng điều là văn. Ngày nay, khoa học tuy đã chiếm một địa vị lớn trong chương trình giáo khoa, song vẫn không áp đảo nổi văn chương. Muốn luyện thuật viết, phải lĩnh hội được cái Đẹp trong văn và một khi lĩnh hội được rồi thì trí óc ta mở mang hơn, tình cảm ta tế nhị hơn, tâm hồn ta cao cả hơn; tóm lại con người của ta phong phú hơn. Chẳng những vậy, thuật viết còn làm tăng khả năng giúp đồng bào của ta lên. Xét về phẩm thì chúng ta tự hào đã có những trước tác phẩm đáng liệt vào hạng bất hủ của nhân loại, nhưng xét về lượng, nhất là về phương diện phong phú, ta phải nhận văn học của mình còn kém văn học Hoa, Pháp, Anh: Chẳng hạn loại anh hùng ca, loại kịch mới phôi thai hồi gần đây, mà văn xuôi Việt, mặc dầu đã tiến rất mau, mới chỉ là đương bước vào giai đoạn trưởng thành vì như trong cuốn Luyện văn II đã nói, nó mới được thông dụng không đầy một thế kỷ nay. Sách được trích dẫn nhiều văn thơ ngoại quốc, âu cũng là một cách học hỏi thêm để bồi bổ cho văn học Việt Nam. Mời các bạn đón đọc Tuyển Tập Nguyễn Hiến Lê tập 4: Văn học
Gót Sen Ba Tấc - Phùng Ký Tài
Sau năm 1977, văn học Trung Quốc bước vào một thời kì mới, thời kì nhà văn dám viết sự thật về những mất mát sâu xa do “đại cách mạng văn hóa” và những chính sách quá tả trước đó gây ra. Cả một thế hệ đông đảo các nhà văn trẻ ra đời: thế hệ thứ năm, và lập tức trở nên nổi tiếng. Họ chẳng những là nhân chứng mà còn là nhân vật chính trong tấn bi kịch khủng khiếp rộng lớn khắp Trung Hoa. Cơn lốc Hồng vệ binh đã cuốn họ vào các cuộc kiểm điểm, phê bình, đấu tố, cải tạo tư tưởng bằng học tập “trước tác” hoặc bằng lao động khổ sai. Chính trong thời gian mười năm đó (1966-1976), họ đã có dịp hòa nhập vào thực tế, có dịp suy ngẫm lại về cuộc đời và về số phận con người, đã thai nghén hoặc phác thảo xong những tác phẩm tâm huyết chỉ chờ dịp công bố cùng bạn đọc.  Phùng Ký Tài là một nhà văn "ngẫu nhiên" và "tất nhiên" trong cả loạt nhà văn nói trên. Ông sinh năm 1942 ở thành phố Thiên Tân. Năm 1960, sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học, ông tham gia đội bóng rồi chuyển sang làm giáo viên dạy mĩ thuật. Trong thời gian cách mạng văn hóa, những lần bị đưa ra đấu tố và lao động cực nhọc ở nông thôn đã làm giàu cuộc đời sáng tác của ông. Năm 1978 ông bắt đầu sáng tác và liên tiếp có truyện in từ bấy đến nay. Về truyện dài có Nghĩa hòa quyền (viết chung với Lý Định Hưng), Đèn thần; về truyện vừa có Ngả đường nở đầy hoa, A! (giải truyện vừa ưu tú toàn quốc năm 1977-1980), Trên cả tình yêu, Dấn mình trong mưa gió, Roi thần (giải truyện vừa ưu tú toàn quốc 1983-1984), Cảm tạ cuộc đời (giải ưu tú của tạp chí Tuyển chọn truyện vừa), Gót sen ba tấc v.v..; về truyện ngắn có Chiếc tẩu thuốc khắc họa (giải Truyện ngắn ưu tú toàn quốc 1978-1984), Người đàn bà cao lớn và anh chồng lùn, v.v...  Một loạt tác phẩm trên đây cho thấy Phùng Ký Tài không chỉ sở trường về đề tài hiện thực đương đại mà cả về đề tài phong tục, lịch sử. Ở đề tài thứ hai, văn phong của ông thiên về dí dởm, hài hước, tươi vui; còn ở đề tài thứ nhất, ông viết nghiêm túc, sâu sắc, chân thực, cảm động, để lại ấn tượng mạnh mẽ trong người đọc. Bới vậy một số truyện tuy không được giải thưởng song vẫn được giới lí luận chú ý nghiên cứu về nghệ thuật dẫn truyện và hình tượng nhân vật của ông. Năm 1987, Trung tâm truyện ký Mĩ tặng ông huy chương danh dự Danh nhân thế giới trong năm. Ông còn có tên trong cuốn Người trí thức nổi tiếng thế giới của Anh và Nhân vật kiệt xuất thế giới của Mĩ.  Gót sen ba tấc là chuyện chương hồi "hiện đại" viết về số phận Qua Hương Liên, một cô gái con nhà nghèo có đôi bàn chân bó xinh đẹp, qua đó cho thấy một tập tục kì cục, tàn nhẫn, dã man. Tập tục này không bắt nguồn từ tôn giáo như nhiều tập tục kì lạ của nhiều dân tộc trên thế giới, mà bắt nguồn từ một quan điểm thẩm mĩ quái gở của người khác giới với chị em, những người đàn ông có quyền thế ngang trời là vua chúa Trung Quốc, sau khi đã chơi chán các kiểu "búp bê" - như sau này nhà văn lớn Na Uy Henrik Ibsen đã gọi đúng tên những người phụ nữ bị coi là đồ chơi cho đàn ông - có dung nhan chim sa cá lặn, liền chuyển ánh mắt thích thú sang hình thể của họ, hết kiểu "búp bê" thắt đáy lưng ong, thon thả, nhẹ nhàng để có thể đứng trên tay, trên mâm mà múa như Triệu Phi Yến, sủng phi của Hán Thành Đế, lại đến kiểu "búp bê" bụ bẫm, mũm mĩm đến mức thị tì nâng dậy mà cứ mềm oặt, không đứng lên được như Dương Quý Phi của Đường Mạnh Hoàng. Rồi không biết tự lúc nào, cái thú chơi bệnh hoạn của họ lại chuyển xuống đôi chân của chị em, muốn bàn chân trời sinh của các nàng cung phi cũng phải biến thành những mầm măng, ý hẳn để cho xứng với búp măng là những ngón tay thon thon trắng xinh của họ chăng? Hay là để cho chị em, dù đã có người xốc nách, mỗi khi bước đi, vẫn còn chập chững, chệnh choạng như say, thảng thốt, kinh hoàng như chim hồng mất vía - như dáng đi đứng của người đẹp từ lâu được ca ngợi trong thơ? Có lẽ cả hai và chắc là còn nhiều thú vị khác nữa, mà những người đàn ông quyền thế tìm thấy ở những đôi gót sen nọ. Chỉ có một điều là những người đàn ông đó không một ai nghĩ đến nỗi khổ của chị em khi bị bó chân nhỏ lại chỉ còn ba tấc ta, nỗi đớn đau khôn tả cả về tinh thần và thể xác buộc phải làm cho đôi chân mình biến dạng. chẳng khác nào nỗi đau đớn khi muốn biến cái đuôi mình thành đôi chân để được yêu như nàng tiên cá trong truyện Andersen.  Gót sen ba tấc chẳng những chỉ viết về những điều kể trên mà còn cho thấy bi kịch của con người khi không làm chủ được mình, để cho hoàn cảnh xô đẩy trở nên tha hóa, dẫn tới một cái ta khác hẳn với cái tôi ban đầu. Qua Hương Liên ngây thơ, hiền lành từ nạn nhân đáng thương của tục bó chân, của thú chơi đồ cổ, dần dần cũng bị chôn vào các cuộc xâu xé, tranh giành quyền lực để rồi trở thành tội nhân đáng tàn nhẫn, ngoan cố, song cũng đầy mâu thuẫn. Phần chìm này trong Gót sen ba tấc cũng giống như phần chìm trong phim Đèn đỏ treo cao của đạo diễn Trương Nghệ Mưu sau này - một phim viết cùng về đề tài búp bê, dù rằng do đặc điểm thể loại và bút pháp, Gót sen ba tấc đề lại ấn tượng cho bạn đọc một cách khác. Gót sen ba tấc đăng lần đầu trên tạp chí văn học cỡ lớn Thu Hoạch số 3 năm 1986. Đây là truyện vừa thứ hai trong bộ ba tiểu thuyết viết về chủ đề suy ngẫm lại về văn hóa của Phùng Ký Tài mà tập đầu là Roi thần (1984) và tập ba là Âm dương bát quái (1988). Cả ba đều đã được dịch ở Nhật, riêng Gót sen ba tấc còn được dịch ở Mĩ và ở Đức. *** Người ta bảo trong đôi chân bó nhỏ xíu ẩn giấu cả một pho lịch sử Trung Quốc, câu ấy thật sâu sắc! Bàn chân nhỏ dài chừng ba tấc,1 chỉ dài hơn điếu thuốc lá một tẹo, mà quanh năm, suốt đời vải bó kín mít, ngoài cái mùi bốc lên, phỏng còn có gì trong đó nữa? Lịch sử trải qua từng chặng từng chặng một. Triều này hưng thịnh, triều khác suy vong. Hưng hưng suy suy làm cho dân chúng sống không yên, trở ngại việc ăn uống, trở ngại cả việc mặc áo quán, cư trú, nhưng không trở ngại đến việc bó chân. Từ Lí Hậu chủ đến ngài Tuyên Thống,2 sự bó chân của đàn bà đã được một ngàn năm, giữa chừng thay đổi biết bao triều đại, thay đổi biết bao niên hiệu, chân chẳng cứ bó mãi đó sao? Lịch sử can thiệp đến nó mà làm gì? Trên từ thái hậu, cung phi, dưới đến gái quê, nhà chài, văn như Lí Thanh Chiếu,3 võ như Lương Hồng Ngọc,4 ai chẳng bó? Chỉ có khỉ là không bó, tôi tin vậy. Khi người Mãn Thanh tràn qua biên ải, họ ra một đạo lệnh bắt người tộc Mãn không được bó chân, lại còn bắt người Hán phải cởi chân đã̃ bó ra. Cái đận ấy nhà Thanh làm dữ lắm, nhưng dù dữ cũng dữ không nổi với chân bó. Vả lại, dữ hay không, không thể chỉ nhìn vào một lúc. Rốt cuộc, người tộc Hán vẫn bó theo lệ rồi con gái tộc Mãn cũng giấu cha giấu mẹ, lẳng lặng lấy vải bó chân thành "lát dưa". Như vậy là trong bàn chân bó hẳn phải có phép ma nào đó. Ma hay không, khoan hãy nói. Chỉ riêng bàn về quy củ, tài nghệ, độ tinh xảo mức công phu, kiểu cách, biện pháp, kĩ xảo, bí mật của cái trò đó, ít ra cũng phải nói vài ba ngày trời. Đó là cả một môn học vấn. Tôi không hề muốn giấu một vị nào, trong những chương sau đây đều có chép cả. Nếu vị nào chưa hề nghiên cứu, ngàn lần xin đừng góp chuyện bừa. Vị bảo bó chân thật khổ, nhưng bó rồi cũng thật đẹp đấy! Vị chửi chân bó xấu, hừm, chân bó lại mắng vị mới xấu kia! Nếu triều Thanh không đổ, làm sao có khóc có cười, muốn sống muốn chết, bó rồi cởi, cởi rồi bó, lại bó lại cởi, lại cởi lại bó? Người thời bấy giờ thật sự coi chân bó hơn cả đầu óc. Nhưng các vị chớ có tưởng bây giờ tiệt nòi chân bó thì vạn sự đại cát. Không bó chân thì có thể bó tay, bó mắt, bó tai, bó óc, bó lưỡi, rồi cũng lại có khóc, có cười, muốn sống, muốn chết, bó bó cởi cởi, cởi cởi bó bó, cởi bó bó cỏ, bó cởi cởi bó. Chuyện này mà tiếp tục nói thì còn kéo đi xa nữa. Ở đây chỉ kể một câu chuyện về bó chân thôi. Câu chuyện vốn kèm theo bốn câu sau đây:  Bảo giả toàn là giả,  Bảo thật, thật cả thôi. Đọc tới khi hứng thú, Thật giả chẳng đôi hồi. Các vị cứ việc pha một ấm trà nhài, cùng với kẹo vừng làm bằng đường củ cải đỏ vừa ăn vừa uống, giở một chương, đọc một chương coi như trò vui vậy. Nếu bỗng nhiên vị nào vỗ trán, tự cho giác ngộ một điều gì, thì chớ vội nói bừa, không chừng vì bốc máu lên đầu, nghĩ lầm đấy! * * *   Hôm ấy, vệ Thiên Tân như bị ma làm. Vào ngày ấy, tất cả những việc lạ lùng bình nhật không được thấy, không được nghe đều đua nhau xảy ra, chẳng ai ngăn cản được. Trời vừa mới rạng còn chưa sáng hẳn, không mưa không gió, thế mà góc thành phía Đông Nam đang yên lành bỗng ầm ầm lở một mảng lớn như bị đại bác bắn trúng vậy. Chuyện lạ lùng cứ từng việc từng việc nối tiếp nhau.  Trước hết, bậc đại thiện họ Lí xã Bị Tế, am Địa Tạng ở Hà Đông, đầu bỗng bốc hỏa, sai nấu một trăm nồi cháo hoa bố thí cho người tàn tật khắp thiên hạ. Lời vừa nói ra, tiếng chưa tan hết, hầu như tất tật người nghèo túng trong toàn thành, nào mù, điếc, câm, thọt, bại liệt, dở hơi, cho chí rụng tóc, rách môi, chột, gù, sẹo mắt, nói lắp, vẹo cổ, chân vòng kiềng, tay sáu ngón, rỗ trắng, rỗ đen đều kéo đến. Cả đau mắt đỏ, má sưng cũng chen vào, như rừng hoa vây chặt lấy nhà nấu cháo của họ Lí, chẳng khác gì lũ quỷ trong bức tranh người chết cạn, kẻ chết đuối kéo nhau ùn ra. Cả một vùng khiếp vía chẳng ai dám ra đường, trẻ con nín khóc, chó không dám sủa, gà chẳng đậu bờ tường, mèo chẳng lên nhà trên. Vệ Thiên Tân chưa bao giờ có cảnh lạ lùng như thế.  Cùng ngày, tại nhà ông lớn họ Viên, lí trưởng cửa Bắc có chân trong Ty vận chuyển muối cũng xảy ra một việc lạ lùng. Bà cả ăn táo răng ngựa bị hột táo chẹn ngang họng, nuốt bánh, chiêu nước, uống dấm, khạc khan, vừa nhẩy lò cò vừa xách một tai đều chẳng ăn thua. May nhờ một người bán thuốc ê cho con rắn nhỏ dài chừng hơn một gang chui vào cổ đẩy hột táo rơi xuống bụng. Ông lớn họ Viên thưởng cho năm chục lạng bạc. Nào ngờ chẳng bao lâu chú rắn giở trò trong bụng bà lớn, đau đến nỗi bà lớn lăn từ trên giường xuống dưới đất, rồi đấm bụng, đập đầu vào tường. Tìm đến người bán thuốc ê thì gã đã mất hút. Một bà già hiểu biết nhiều chuyện vội vàng bảo người mang kiệu khiêng bà lớn đến Ngũ Tiên đường ở tận đầu phía Tây. Ngũ Tiên đường thờ năm vị đại tiên là Hồ, Hoàng Bạch, Liễu, Xám. Hồ là hồ li, Hoàng là chồn vàng, Bạch là nhím, Xám là chuột, Liễu là rắn. Bà lớn vừa chổng mông rập đầu được ba cái, bỗng thấy hậu môn ngưa ngứa, rồi loạt xoạt con rắn tuồn tuột chui ra. Thế có lạ lùng không? Nghe đâu chỉ vì bà lớn sớm ngày hôm ấy dẫm chết một con rắn nhỏ bên bờ giếng và người bán thuốc ê chính là vị đại tiên, tinh loài rắn biến ra. Chuyện lạ lùng không chỉ có hai việc trên. Ngày hôm ấy, có người ăn món cua bể ở nhà hàng Tụ Hợp thành phố Bắc Cũng, khi lật mai cua nóng hôi hổi ra, bên trong thấy ngay một hạt ngọc, tròn chằn chặn, sáng chói mắt. Từ xưa tới nay, ngọc chỉ có trong trai, chứ ai nghe ngọc có trong mai cua bao giờ? Hạt ngọc ấy không biết béo bở cho con cái nhà nào, chỉ biết nhà hàng buôn may bán lớn. Người kéo đến ăn cua nhiều hơn cả cua. Việc ấy lạ nhưng chưa phải là nhất. Việc lạ hơn còn ở đằng sau. Có người kể thấy một con cá chúa, mình bạc mắt vàng dài một trượng hai (có người nói dài ba trượng sáu) men theo sông đào ở phía Nam để xuôi về Nam, trưa ngày hôm ấy sẽ bơi qua ngã ba sông, vào sông Bạch Hà để ra biển Đông. Tới giữa trưa đã có mấy nghìn người đứng trên đê chờ cá chúa. Người đông, sức nặng đê chịu không nổi, ầm một tiếng sạt một mảng; hơn trăm người rơi xuống sông như thả bánh trôi. Một đứa bé bị sóng cuốn đi, chưa ai kịp nhảy xuống cứu đã không thấy chỏm đầu đâu nữa, hẳn là chết đuối. Không ngờ, một ông chài quăng lưới đánh cá trước cửa cũng Đức Bà, lưới vừa kéo lên thấy cái gì trăng trắng hồng hồng, ngỡ là cá chép bự, hóa ra thằng bé vẫn còn thở, xóc vài ba cái đã chớp mắt đứng dậy được rồi. Những ai có mặt đều ngẩn người ra, chuyện này lạ hết mực rồi còn gì nữa? Ngờ đâu đến trưa chuyện lạ lùng không những không giảm mà còn tăng thêm, xảy ra ngay tại phủ đường.  Số là bọn cân quấy ở góc thành Đông Bắc và ở phố Hà Bắc đánh nhau, thuận tay phá tan bốn mươi tám cửa hàng buôn bán ở phố Hàng Nồi, làm kinh động đến ngài Quan sát trưởng đạo binh bị. Ngài bèn cử những người giỏi trong đội săn bắt tóm ngay hai thằng đấu sỏ là tên Phùng Xuân Hoa và tên Đinh Lạc Nhiên giam trong cui đứng, đặt ở cửa công đường, hai bên tả hữu mỗi bên một đứa. Lập tức bốn năm trăm thằng lỏi càn quấy kéo đến, đứa nào cũng cầm một bản Bài ca sám hối của lũ càn quấy. Bài ca này do ngài Quan sát trưởng phát cho mỗi thằng càn quấy ở trong thành một bản vào dịp ngài đến Thiên Tân nhậm chức ngày hai mươi lăm tháng Mười năm ngoái, để cho đứa nào cũng thuộc lòng mà bỏ ác theo thiện. Hôm ấy, chúng kéo đến quỳ đen đặc cả cổng nha môn, cầm giấy đồng thanh đọc: Bọn càn quấy, đến phủ quan, nhờ ơn giáo huấn,  Bọn càn quấy, nay về sau, sửa loại đổi mình. Nghĩ kĩ rồi, việc trước đây, nhiều điều ngang ngạnh, Đánh đập người, sống hay chết, chẳng thèm ngó ngàng. Dù ngẫu nhiên, trốn pháp luật, may mắn một lúc,  Sẽ có ngày, bị tróc nã, trói đến cửa quan. Bị đóng gông, bị xiềng xích, cực hình chịu đủ, Ngàn lần khổ, trăm thứ tội, chống đỡ khó đành. Đọc đến đây, mấy trăm thằng lỏi đổi sắc mặt, gân xanh trên trán nổi lên, mắt bắn ra những tia dữ tợn, răng nghiến kèn kẹt chẳng khác gì bốn năm trăm con chuột cùng gặm đồ. Ngài Quan sát trưởng ngồi ở nhà sau nghe thấy tiếng đó thì run từ trong lòng run ra, khắp người nổi da gà. Quan vốn là người to gan lớn mật nhưng chống không nổi âm thanh ghê rợn đó, đến nỗi run lẩy bẩy như phát sốt phát rét. Ba chén rượu mạnh xuống đến dạ dầy cũng không át nổi nỗi sợ, quan đành gọi người ra tháo cũi mở lồng. Bọn càn quấy vừa tản ra về, da gà trên mình quan cũng lập tức lặn hết. Lại nói, nha môn trên huyện có việc còn lạ lùng hơn nữa. Mười bảy nhân vật vốn có máu mặt, có tên tuổi, bình nhật cũng là những kẻ hiếu sự, hôm ấy liên danh làm đơn tố cáo những việc làm bậy bạ của bọn hút thuốc lá ở chợ đằng Tây. Bao thuốc vẽ toàn những con đầm hở tay, hở cổ, hở nửa đùi, câu khách thanh niên du đãng. Bọn này ngỏng cổ trợn mắt lên nhìn như chỉ muốn đâm đầu vào bao thuốc lá. Lời lẽ trong tờ trình rất hùng hồn, nói rằng đó là do bọn Tây cố ý làm hư hỏng dân Trung Quốc chúng ta, "làm bẩn mắt ta là làm bẩn lòng ta; hại đến lòng ta tức là làm mất nước ta vậy." Lại còn nói: "Độc hại của thuốc lá còn hơn thuốc phiện, không nghiêm ngặt cấm tiệt là không xong!" Lệ xưa nay, võ biền gây sự bên ngoài, văn nhân gây rối bên trong! Cho nên văn nhân gây rối lại càng dữ, mà lần này là gây với người nước ngoài. Chuyện lạ lùng dính cả với Tây. Vệ Thiên Tân có câu tục ngữ:  Ai mà động đến người Tây, "Trò vui" ắt có mai này cho coi.  Rồi xem, vạ lớn đến nơi rồi! Quả nhiên, ngay ngày hôm ấy có người từ tô giới đến báo rằng việc lớn bất lợi to rồi. Các phố ở tô giới đều dán tờ Lệ cấm ở tô giới gồm tám khoản sau đây: 1. Cấm gái điếm. 2. Cấm ăn mày. 3. Cấm tụ tập đánh bạc, uống rượu, ẩu đả nhau. 4. Cấm đổ rác, đồ bỏ, đất bẩn ra đường. 5. Cấm đái ven đường. 6. Cấm trèo cây bắt chim. 7. Cấm lừa, ngựa, xe, kiệu tùy tiện đỗ lại. 8. Cấm cưỡi ngựa phi, phóng, hoành hành đuổi bắt, đua nhau trên đường.  ... Mời các bạn đón đọc Gót Sen Ba Tấc của tác giả Phùng Ký Tài.
Ba Mùa Yêu - Châu Sa & Nguyễn Phương Văn
Người đọc sẽ đi từ không gian của Hà Nội xưa đầy hoài niệm tới Sài Gòn năng động hiện đại, đồng thời cũng trải nghiệm cuộc sống của tuổi trẻ, dù là những thanh niên của những những thập kỉ 90 hay ở những năm 2000, thì đều yêu mãnh liệt và sống hết mình – cho sự nghiệp, tình yêu, và bè bạn – qua lời kể của một chàng trai tri thức. Với rất nhiều tuyến nhân vật phụ, tưởng chừng như không liên quan gì tới câu chuyện được kể, nhưng lại thống nhất trong tổng thể với dòng suy nghĩ của nhân vật chính. Trong không gian vừa thực vừa ảo, với cái đẹp nên thơ của Hà Nội xen lẫn sức sống sôi động của Sài Gòn, người đọc sẽ thấy đâu đó thấp thoáng tình yêu của mình ẩn hiện trong câu chuyện của các nhân vật. Cho dù ở bất cứ thế hệ nào, ở đầu thế kỷ trước hay đầu thế kỷ này thì tình yêu và tuổi trẻ không có quá nhiều sự biến đổi, vẫn đam mê và cuồng si như vậy. Chỉ có cách thể hiện là đâu đó có chút biến đổi.Cuốn sách là những suy nghĩ miên man, là ký ức và hoài niệm, một dòng chảy chậm rãi nhưng không ngừng. Vì thế, bạn đọc hãy nghe lời khuyên của tác giả ngay từ đầu cuốn sách, rằng hãy “đọc cuốn sách này thật chậm”. *** Ba Mùa Yêu là một “tiểu thuyết tí hon” tôi viết trong mùa đông năm 2014. Gọi là “tiểu thuyết tí hon” bởi vì: + Một là nó rất ngắn. Ngồi cà phê sáng thứ Bảy lâu một chút là đọc hết cuốn sách, hoặc ăn tối xong đọc một lèo là đến giờ đi ngủ. + Hai là tuy rất ngắn nhưng có tới sáu chương. Và dù rất ngắn nhưng Ba Mùa Yêu vừa viết tình yêu vừa về tình báo. Có nhiều mối tình, có cả xếp hình, nhiều sự kiện lịch sử, nhiều phân mảnh, cấu trúc rời rạc. Trong Ba Mùa Yêu, có những người trẻ thế kỷ XXI. Họ dùng Facebook, đọc sách Tây, nghe nhạc Mỹ, và yêu nhau. Có những người trẻ của những năm 1920. Họ lẩn trốn mật thám Pháp, hoạt động chống nhà nước thực dân, và… yêu nhau. Có cả những người trẻ từ Annam đi lính cho Pháp ở châu Âu trong Thế chiến thứ Nhất. Họ tò mò học hỏi cuộc sống xa lạ, và… cũng yêu nhau. Với những bạn không thích diễm tình, trong cuốn sách có các nhân vật mang hơi hướm lịch sử. Khi đọc xong có thể các bạn sẽ có hứng google. Cám ơn sự ủng hộ của các bạn. Hy vọng đọc xong cuốn tiểu thuyết diễm tình tí hon này các bạn ít có cảm giác tiếc tiền mua sách.   Mời các bạn đón đọc Ba Mùa Yêu của hai tác giả Châu Sa & Nguyễn Phương Văn.
Lửa Yêu Thương, Lửa Ngục Tù
Nếu kết cuộc được định sẵn của một kiếp người là trở thành bụi tro “đến theo dòng nước, tàn theo gió” thì ý nghĩa thật sự của đời sống nằm ở đâu? Câu trả lời là: trước khi hóa thành tàn tro, người ta phải là một tia lửa rực cháy. Lấy bối cảnh một trại tập trung Đức Quốc xã vào những ngày cuối cùng của Thế chiến II, Lửa yêu thương lửa ngục tù là câu chuyện xoay quanh cảnh lao ngục của người tù 509 và những bạn đồng cảnh của y. Trong lao tù, họ bị xem là súc vật, là những bộ xương, là những cái xác ốm đói chỉ còn chờ ngày chết. Tuy vậy, dù chỉ thoi thóp chút tàn hơi, họ vẫn nương tựa lẫn nhau, cùng chiến đấu và bảo vệ nhau. Với họ, cuộc đấu tranh này không đơn giản là đấu tranh sinh tồn, mà là đấu tranh để bảo vệ tia lửa sống đang bừng lên trong mình, tranh đấu cho quyền được làm người và quyền sống như một con người trước tội ác vô loại của bọn Đức Quốc xã. *** Remarque (1898 – 1970) là nhà văn lừng danh người Đức. Ông nổi tiếng với Phía Tây không có gì lạ, một trong những tác phẩm hay nhất về Thế chiến I. Các tác phẩm tiêu biểu khác của ông như Ba người bạn, Khải hoàn môn, Đêm Lisbon…cũng góp phần không nhỏ trong việc khẳng định tài năng và danh tiếng của ông khắp năm châu. Năm 1931, ông được đề cử cả giải Nobel Văn chương và Hòa bình. Bia mộ đen (Der schwarze Obelisk – 1956) một lần nữa cho thấy thiên bẩm của Remarque trong việc nhìn ra được niềm vui, lạc quan và những điều tốt đẹp giữa khổ đau, tuyệt vọng và xấu xí. Nhận xét về tác phẩm này, cây bút F.T. Marsh của tờ New York Herald Tribune từng viết: “Dí dỏm nhưng đượm buồn, vừa nghiêm túc lại có chút giang hồ, tuyệt diệu trong từng câu chữ nhưng vẫn khó nắm bắt vô vùng”. Những tác phẩm tiêu biểu: Phía Tây không có gì lạ; Khải hoàn môn; Ba Người Bạn Đường về; Tia lửa sống; Bia mộ đen; Chiến Hữu Bản Du Ca Cuối Cùng Lửa Yêu Thương Lửa Ngục Tù Một Thời Để Yêu Và Một Thời Để Chết *** Khu vườn chìm trong màu sáng bạc. Không khí thoang thoảng hương hoa tím. Cây ăn trái trồng dài theo bờ tường phía Nam trông như đang bị bao phủ bởi một rừng bướm trắng hồng. Alfred đi đầu, phía sau là ba người mặc quân phục. Họ đi trong im lặng. Alfred chỉ tay về trại nuôi gia súc. Ba người Mỹ tản mác không một tiếng động. Alfred đẩy cửa ra: - Neubauer! Ra đây! Có tiếng càu nhàu từ trong bóng tối vọng ra: - Cái gì đó? Ai vậy? - Ra đây? - Ủa! Alfred đó hả? - Phải. Neubauer lại càu nhàu: - Mẹ kiếp! Lại ngủ nữa! Cứ nằm mơ... Hắn sửa giọng rồi nói tiếp: - Có phải chú mới bảo tôi ra không? Một người Mỹ từ nãy rón rén tới sát bên Alfred bỗng bấm đèn lên: - Đưa tay lên! Bước ra ngay! Trong vòng tròn ánh sáng xanh mờ, Neubauer mình trần vẫn còn ngồi trên một chiếc ghế bố nhà binh. Hắn nhấp nháy mắt: - Cái gì? Các người là ai? Người Mỹ quát: - Đưa tay lên! Có phải tên là Neubauer không? Neubauer vừa đưa tay vừa gật đầu. - Chỉ huy trưởng trại tập trung Mellern hả? Neubauer lại gật đầu. - Bước ra! Neubauer nhìn vào họng súng đang chĩa thẳng vào hắn. - Cho tôi mặc áo đã! - Bước ra ngay! Ngập ngừng, Neubauer bước ra. Một trong ba quân nhân Mỹ nhảy phóc tới kềm chế Neubauer trong khi người kia lục soát căn trại. Neubauer lườm Alfred: - Chú đưa họ tới hả? - Phải. - Đồ Judas! Alfred trả lời từng tiếng một: - Ông không phải là Jesus Christ mà tôi cũng không phải là đảng viên Quốc Xã. Người Mỹ lục soát bên trong đã trở ra. Neubauer hỏi viên Trung sĩ Mỹ biết nói tiếng Đức: - Cho tôi mặc áo vào, được không? Treo ở sau chuồng thỏ. Viên Trung sĩ Mỹ do dự một chút rồi vào trong lấy chiếc áo thường phục ra. Neubauer xuống giọng: - Không phải áo này. Tôi là quân nhân mà. - Không có quân nhân gì cả. Neubaner năn nỉ: - Xin lấy giùm tôi chiếc áo của Đảng. ... Mời các bạn đón đọc Lửa Yêu Thương, Lửa Ngục Tù của tác giả Erich Maria Remarque.