Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bố Già

TÁC GIẢ & TÁC PHẨM   Mario Puzo (Mario Gianluigi Puzo, 1920-1999) sinh ra trong một gia đình người Italia nhập cư sang Mỹ. Cha mẹ Mario hoàn toàn mù chữ và tuổi thơ của cậu bé này đã trôi qua “dưới đáy” xã hội ở New York. Trong Chiến Tranh Thế Giới II, Mario Puzo phục vụ trong quân đội Mỹ. Ông từng có mặt trên chiến trường nước Đức và vùng Đông Á. Sau đó Puzo học Cao Đẳng Khoa Học Xã Hội New York và Đại Học Tổng Hợp Colombia rồi công tác gần 20 năm tại các cơ quan của Chính Phủ ở New York và nước ngoài. Năm 1955, Puzo cho ra đời tác phẩm đầu tay mang tên “Đấu Trường Đen”. Đây không phải là một cuốn sách về Mafia mà về cuộc đời một chàng cựu binh Mỹ trong bối cảnh thành phố Berlin hoang tàn sau chiến tranh với những vụ áp phe, buôn lậu, lừa đảo và cả những mối quan hệ nồng ấm tình người. Tuy nhiên, “Đấu Trường Đen” không thuộc số những cuốn sách ấn tượng nhất của Puzo. Từ năm 1963, Mario Puzo bắt đầu tác nghiệp như một phóng viên tự do, đồng thời coi viết văn là công việc nghiêm túc của mình. Năm 1969, với sự xuất hiện lừng lẫy của “Bố Già”, Puzo đã trở thành nhà văn được cả thế giới ngưỡng mộ. Suốt một thời gian dài, “Bố Già” luôn chiếm vị trí đầu trong bảng xếp hạng sách bán chạy nhất hành tinh. Nó đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và có con số xuất bản đáng kinh ngạc: 11 triệu bản trong năm 1969 và 21 triệu bản tính đến tháng 7/1999. Bố Già Don Vito Corleone trong tiểu thuyết của ông và những sự kiện bạo liệt quanh ông ta dường như được bao phủ bởi một màu sắc lãng mạn khiến cuốn sách có sức hấp dẫn kỳ lạ. Tuy nhiên Puzo không chỉ dừng lại ở việc lãng mạn hóa “Bố Già”. Tác giả đã xây dựng câu chuyện dựa trên những chất liệu có thật, đã tiểu thuyết hóa các nhân vật bằng những nét miêu tả chân chất. Nhiều tư liệu gần đây về Mafia cho biết Bố Già ngoài đời chính là Don Vito Cascio Ferro, một trong những thủ lĩnh đầu tiên của giới Mafia Italia di cư sang Mỹ. Ông này cầm đầu giới giang hồ ở Sicily (Italia) và sau đó là thống soái của nhóm “Bàn Tay Đen”, tiền thân của Mafia Mỹ. Tuy nhiên, bản thân Puzo thì nói rằng ông chưa bao giờ tiếp cận với một tay gangster bằng xương bằng thịt, rằng nguyên mẫu cho nhân vật bố già chẳng phải ai xa lạ mà chính là mẹ ông, một phụ nữ Italia nhập cư đã phải làm mọi thứ để có thể nuôi sống con cái và giữ cho gia đình hòa thuận. Trong cuốn “Bố Già” Puzo cũng cẩn thận ghi chú rằng: Tất cả nhân vật trong truyện đều là hư cấu và bất kỳ sự trùng hợp nào nếu có đều là ngẫu nhiên… Độc giả cũng như giới phê bình đều công nhận rằng, Puzo đã miêu tả thế giới của “Bố Già" tuyệt vời đến nỗi có người còn ngờ ông là “tay trong” của Mafia. Năm 1972 Francis Coppola đã chuyển thể “Bố Già” thành phim. Sau đó vị đạo diễn tên tuổi này lại đề nghị Puzo hợp tác để viết tiếp kịch bản “Bố Già II”. Bộ phim bất hủ này đã đi vào lịch sử Hollywood và điện ảnh thế giới với các giải Oscar cho phim hay nhất và cho kịch bản hay nhất. Vai diễn Bố Già cũng đem đến cho hai diễn viên gạo cội Marlon Brando và Robert De Niro 2 giải Oscar. Kịch bản cho phim “Bố Già III” (xuất hiện trên màn bạc vào năm 1990) cũng được viết chung bởi Puzo và Coppola. Puzo tâm sự về việc viết “Bố Già” như sau: Một lần tình cờ có một đồng nghiệp ghé đến chỗ tôi. Tôi đã đưa bản thảo “Fortunate Pilgrim” (bản tiếng Việt là Đất Khách Quê Người) cho anh ta đọc. Một tuần sau anh ta quay lại và tuyên bố: Mario là một nhà văn vĩ đại! Tôi rất phấn chấn và đã thết anh bạn một bữa thịnh soạn tại nhà hàng. Trong khi ăn, tôi kể cho anh nghe những câu chuyện về Mafia và đọc một vài đoạn trong bản thảo “Bố Già”. Bạn tôi đã bị sốc. Một tuần sau anh ấy lại đến và nói rằng đã lên lịch hẹn cho tôi gặp một chủ xuất bản. Tại cuộc gặp đó, tôi cũng kể rất nhiều về Mafia. Ông chủ xuất bản rõ ràng là rất thích. Vì vậy ông ta đặt tôi viết một cuốn tiểu thuyết về những chuyện đó và ứng trước cho tôi 5 nghìn đôla. Chuyện xảy ra như thế đấy. Thật kỳ lạ và không thể hiểu nổi. Tôi đã bắt tay vào viết “Bố Già” nhưng thực lòng không hề thấy hứng thú… Tôi viết cuốn sách trong vòng 3 năm. Thời gian ấy tôi đồng thời còn viết cho Martin Gudman một số truyện phiêu lưu mà không đòi hỏi nhuận bút… Độc giả Việt Nam hẳn không xa lạ gì với “Bố Già” - cuốn tiểu thuyết được đánh giá là hay nhất về giới giang hồ Mafia ở Mỹ. Nhà văn Mario Puzo, cha đẻ của “Bố Già” lại thú nhận rằng ông không hề hào hứng khi viết cuốn sách bán chạy nhất này, ông chỉ viết nó vì đang... túng tiền! *** Amerigo Bonasera ngồi ở phòng ba tòa đại hình New York chờ xem công lý được thực thi và lưỡi gươm trừng phạt sẽ bổ xuống đầu mấy thằng mất dạy đã hành hung thành thương tật và toan làm nhục con gái lão. Ngài chánh án uy nghi trang trọng vén tay áo thụng như sắp sửa tự tay mình trị tội hai thằng côn đồ đang đứng trước tòa. Bộ mặt sắt của ngài đầy khinh bỉ, cao ngạo, song ở đây có một cái gì đó giả trá mà Amerigo Bonasera đã nhận thấy bằng trực giác mặc dù còn chưa hiểu ra sự thể. — Hành động của các người là hành động của bọn cặn bã mạt hạng, - ngài chánh án lớn tiếng. “Đúng", Bonasera nghĩ bụng, “đúng thế! Lũ súc sinh. Loài dã thú". Hai thằng thanh niên tóc bóng mượt cắt đúng mốt, mặt mày sáng sủa lộ rõ vẻ ăn năn, hai đứa cúi đầu cam chịu. Quan chánh án phán tiếp: — Các người hành động như lũ dã thú trong rừng, may mà cô gái đáng thương chưa bị các người xâm phạm tiết hạnh, bằng không ta phải nhốt các người đủ hai chục năm mới nghe. - Ngài dừng lại một lúc, cặp mắt cáo bên dưới đôi lông mày rậm rì nhíu lại dữ tợn đảo nhanh qua bộ mặt tái ngắt của Bonasera. Rồi càng sa sầm mặt với vẻ dữ tợn hơn, so vai như để kìm cơn giận tự nhiên, ngài kết thúc. - Nhưng xét các người còn trẻ, trước đây chưa có tiền án, vả lại đều là con nhà tử tế, mặt khác luật pháp là cực kì sáng suốt, đặt ra không phải để trả thù, nên ta tuyên phạt mỗi tên ba năm tù. Cho phép các người được hưởng án treo. Chỉ nhờ thói quen bốn chục năm nghề nghiệp mới giúp ông chủ xe đòn Bonasera đủ sức ghìm cơn giận không để lộ ra ngoài mặt. Đứa con gái trẻ trung tươi tắn của lão giờ này vẫn phải nằm bệnh viện với cái xương hàm gẫy, thế mà bọn súc sinh kia lại được thả rông ngoài đường. Ra người ta diễn trò hề với lão đây. Đám cha mẹ, họ hàng của chúng đang hớn hớ xúm quanh hai cậu quí tử. Bọn họ làm sao mà không hớn hở cơ chứ. Cổ họng Bonasera đắng ngắt, nước dãi chua loét tứa ra đầy mồm đằng sau hai hàm răng nghiến chặt. Lão rút chiếc khăn tay phin nõn ở túi ngực ra bịt mồm, đứng đực giữa lối đi, còn hai thằng khốn nạn thì trâng tráo đi ngang qua mặt lão, mồm nhếch lên cười nhạt, thậm chí còn không thèm nhìn đến lão. Lão để chúng đi qua mà không nói một lời, chỉ áp chặt hơn chiếc khăn vào mồm. Cha mẹ chúng đi sau, hai bà và hai ông cùng trạc tuổi lão có điều ăn mặc ra dáng Mĩ nòi. Mấy người này nhìn lão có vẻ lúng túng nhưng đầy thách thức và đắc thắng ngấm ngầm. Không nhịn nổi, Bonasera nhoài người ra hét lớn: — Các người cứ chờ đấy, rồi các người sẽ được khóc như ta đã từng khóc. Thấy vậy mấy ông luật sư đi đằng sau vội đẩy các thân chủ tới chỗ mấy thằng con đang dừng lại hầm hừ như chực nhảy vào bênh bố mẹ. Một tay mõ toà to như hộ pháp vội chạy ra đứng chặn lối, sợ Bonasera làm liều. Nhưng rốt cuộc chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Bao nhiêu năm làm ăn sinh sống ở xứ này Bonasera luôn tin ở pháp luật và trật tự kỉ cương. Dựa vào đâu thì ăn nhờ đấy. Ngay cả lúc này, tuy đầu óc lão cứ ong ong vì uất hận ngất trời, căm gan tức ruột chỉ muốn thửa ngay một khẩu súng bắn chết toi hai thằng chó cho hả, nhưng Bonasera vẫn phải cắn răng quay sang bà vợ đang ngớ ra chẳng hiểu ngô khoai gì hết. — Người ta lỡm vợ chồng mình đấy, - lão nói. Lão im bặt, máu liều bốc lên. Lão quyết định dứt khoát, muốn đến đâu thì đến: “Muốn có công lý thì phải đến kêu cửa Ông Trùm Corleone". *** Tại Los Angeles, một mình giữa căn phòng Deluxe sang trọng choáng người trong khách sạn, Johnny Fontane cũng mượn rượu giải sầu như bất kỳ một anh chàng mọc sừng nào. Hắn nằm duỗi dài trên chiếc đivăng đỏ, cầm nguyên cả chai mà tu rồi úp mặt vào cái thố pha lê đựng đá liếm nước lạnh cho thông họng. Lúc đó là bốn giờ sáng, trí tưởng tượng mờ mịt hơi men của hắn đang hình dung cảnh hắn tẩn con vợ đĩ thõa lúc con kia về, nếu như nó còn về. Muộn rồi chứ không thì phôn một cú đến cô vợ cũ hỏi thăm mấy đứa con cho đỡ sầu. Không hiểu sao hắn không muốn gọi tới mấy đứa bạn, nhất là từ dạo công việc của hắn bắt đầu xuống dốc. Có thời được hắn gọi điện vào lúc bốn giờ sáng là bọn kia sướng lắm. Giờ thì chẳng ma nào thèm biết hắn. Mà kể cũng lạ, lúc hắn đang lên, hễ mới hơi khó ở một chút là các minh tinh sáng giá nhất nước Mĩ đã tới tấp hỏi thăm ngay. Hay thật! Hắn lại đưa chai rượu lên mồm, và rốt cuộc cũng nghe thấy tiếng chìa khoá xoay ngoài cửa. Johnny cứ ngậm nguyên chai rượu cho tới khi vợ hắn vào phòng và dừng lại trước mặt hắn: Xinh đẹp, con mắt tim tím mơ mộng lả lơi, gương mặt thần tiên, thân hình thon thả, óng chuốt. Cả triệu đàn ông khắp thế giới mê mệt Margot Ashton, chịu xì tiền ra để được ngắm ả trên màn bạc. — Phất phơ đâu về? - Johnny lè nhè hỏi. — À, đi ngủ với trai, - Ả đáp. Ả tính hơi nhầm, hắn chưa phải đã say khướt. Hắn nhảy chồm qua cái bàn con để báo, túm ngay lấy cổ áo dài của ả. Nhưng vừa kéo khuôn mặt thần tiên kia đến gần thì bao nhiêu tức giận của hắn trôi tuột đi đâu mất, người hắn nhũn ra. Cô ả tớn môi chế nhạo và lại một lần nữa tính nhầm, Johnny vung nắm đấm lên. — Cấm đánh vào mặt đấy nhé! - Ả hét thất thanh, - Người ta đang đóng phim đấy, Johnny! Cú đấm trúng ngay ức làm ả ngã chỏng gọng. Hắn đè lên, đấm như bổ củi xuống vai, xuống hông, xuống cặp đùi mịn màng rám nắng. Hắn quần ả như ngày nhỏ vẫn nện bọn nhãi ranh thò lò mũi ở “Rốn Hỏa Ngục", tức là Khu Ổ Chuột của New York. Đòn của hắn ngấm đáo để tuy không gây thương tích như gẫy răng, vỡ mũi. Mà nói vậy chứ hắn còn nương tay. Hắn không thể làm khác được. Thế là ả lại cười vào mũi hắn. Ả xoạc cẳng nằm tô hô, lớp váy lụa thêu bên trong lộ ra, tru tréo: — Đây này, đánh nữa đi, đánh đi... ăn thua mẹ gì! Johnny chán ngán bò dậy. Tức anh ách mà không đánh được con đĩ, nó đẹp quá. Margot lật sấp người, nhẹ nhàng nhún mình bật dậy rồi vừa õng ẹo vừa nhè mồm ra trêu như một con bé con: — Ê, ê... đếch đau. Ê, ê... đếch đau. Rồi nghiêm mặt, ánh mắt lộ rõ vẻ ngán ngẩm, ả nói thêm: — Chán mớ đời, mày đè đau cả bụng chị đây này, bé con ạ. Chà! Johnny, mày suốt đời vẫn chỉ là con nghé con, đến cả làm tình cũng chẳng bằng đứa trẻ ranh. Mày tưởng như trong các bài mày vẫn rống ông ổng dạo trước đấy hả? - Ả lắc đầu. - Gà tồ? Thôi, khỏe nhé, Johnny. Ả vào phòng ngủ và khóa trái cửa lại. Johnny ngồi bệt xuống sàn, tay bụm mặt. Uất ức, nhục nhã, thất vọng ê chề. Nhưng vốn là đứa trẻ lang thang trong Khu Ổ Chuột New York, cuộc đời chìm nổi ngày xưa đã giúp hắn sống sót trong miền rừng hoang Hollywood, bây giờ lại thức tỉnh hắn cầm máy gọi taxi ra sân bay. Còn một người có thể cứu hắn. Miễn là về được New York gặp người ấy, kẻ duy nhất giúp hắn tìm được sức mạnh và sự khôn ngoan mà lúc này hắn đang thiếu, một người thực sự yêu thương hắn. Đó là Bố Già của hắn, Ông Trùm Corleone. *** Bác thợ bánh Nazorine hồng hào tròn xoay như những chiếc bánh kiểu Italia nở phồng của bác. Người vẫn dính đầy bột mì, bác lừ mắt nhìn bà vợ và cô con gái đến tuổi cập kê rồi quay sang gã giúp việc Enzo, đã kịp đóng bộ quần áo đính băng vải có hai chữ “Tù Binh" viết tắt màu xanh, đang lo ngay ngáy sợ muộn giờ điểm danh tối ở trại trên Đảo Thống Đốc. Giống như hàng ngàn tù binh Italia hàng ngày đến làm cho các chủ Mĩ sau khi đã cam đoan, Enzo sống nơm nớp, chỉ sợ mất cái đặc ân ấy thì meo. Vì thế nên cái màn hài kịch đang diễn ra ở đây đối với anh quá ư là nghiêm trọng. — Chú định để tai tiếng cho gia đình tôi đấy phỏng? - Nazorine gầm gừ. - Chiến tranh sắp hết, chú định tương cho con bé nhà tôi một món quà kỉ niệm chứ gì? Rồi sau thế nào thì ai còn lạ gì nữa: Nước Mĩ thúc cho chú một gối vào đít là chú mình phới luôn về Sicily đếm rệp ở quê nhà hả? Enzo, người lùn tịt, chân cẳng ngắn ngủn, vội ấp tay lên ngực như muốn khóc, tuy vậy vẫn tỉnh lắm: — Padrone, thề có Đức Mẹ Đồng Trinh, nào cháu có dám lấy oán trả ân bác đâu. Cháu yêu thương con gái bác thực bụng, đời nào lại dám sàm sỡ. Tiện đây, xin bác cho cháu lấy cô ấy. Cháu thực không nên không phải, song nếu người ta trả cháu về Italia thì bao giờ cháu mới sang Mĩ được? Nếu vậy ngày nào cháu với Katherine mới nên vợ nên chồng? Bà Filomena vợ bác không thích dông dài, nói toang toác luôn: — Đừng có mà ngốc thế, bố nó - Bác ta bảo ông chồng - Làm thế nào thì bố mày biết rồi đấy. Thằng Enzo cứ để nó ở đây, có gì bố mày đưa nó sang chỗ bà con mình bên Long Island gửi gắm ít lâu xem sao đã. Katherine khóc lên khóc xuống. Người đã béo trục béo tròn, mép lại lấm tấm tí ria, nó có đẹp đẽ gì cho cam. Biết tìm đâu một tấm chồng điển trai bằng Enzo bây giờ. Lấy ai mà xoa bộ ngực tú ụ của nó cho nồng nàn và mơn trớn như chàng? — Tôi về Italia tôi ở cho bố trắng mắt ra! - Nó giãy nẩy lên với ông bố.- Bố mà không giữ anh ấy lại thì tôi bỏ bố tôi đi? Hư... hư... Nazorine tinh quái nhìn nó. Con bé nhà mình gớm thật! Bác đã trông thấy: Hễ mỗi lần thằng bé phải lách qua sau lưng nó để xếp bánh vào giỏ là y như rằng con ranh lại miết bàn tọa vào người thằng kia sát sạt. “Cứ cái đà này không khéo thằng lỏi còn lách vào tận đâu ấy chứ - Nazorine thầm cho phép mình nghĩ bậy. - Phải giữ thằng Enzo lại Mĩ, phải xoay cho nó cái quốc tịch. Và chỉ có một người làm nổi việc ấy: Bố Già. Ông Trùm Corleone". Mời các bạn đón đọc Bố Già của tác giả Mario Puzo & Đoàn Tử Huyến (dịch) & Trịnh Huy Ninh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Từ Điển Khazar
Nếu có những cuốn sách đáng gọi “kỳ thư”, Từ điển Khazar là một trong số đó. Kể từ khi ra đời nó đã gây cảm hứng lớn lao cho nhiều thế hệ người đọc, và từ khi bản tiếng Việt được in lần đầu, nó đã là cánh cửa mở ra một thế giới mới mẻ và hấp dẫn khôn cùng của tiểu thuyết hiện đại. Với người đọc bình thường, cuốn sách cho ta một trải nghiệm khác lạ, “đọc theo cách nào cũng được” song đồng thời đầy thử thách, đòi hỏi ta tích cực tham gia vào việc tái dựng chỉnh thể, một cách tưởng tượng và sáng tạo. Với người viết văn, nó là minh chứng cho thấy những khả năng của tiểu thuyết là vô hạn và những chân trời chưa ai chạm tới của văn chương là kỳ vĩ, thu hút khôn cưỡng như thế nào. Không chỉ là “tiểu thuyết đầu tiên của thế kỷ 21” như một số người tán tụng, Từ điển Khazar còn giống như một cuốn sách xưa, lạ lùng, mà tác giả khai quật được từ bụi bặm lãng quên và đưa ra ánh sáng cho chúng ta, cuốn sách mà, dẫu nằm kia dưới ánh ban ngày, vẫn nguyên vẹn bóng tối âm hiểm, u trầm của nó. *** Cùng với "Từ điển Khazar", Milorad Pavic đi vào văn chương thế giới như một trong những nhà văn tìm lối đi riêng để làm mới thể loại tiểu thuyết Nhiều nhà phê bình gọi tiểu thuyết "Từ điển Khazar" (Trần Tiễn Cao Đăng dịch) của nhà văn Milorad Pavic là "tiểu thuyết đầu tiên của thế kỷ XXI" dẫu tác phẩm này được xuất bản từ năm 1984. "Kỳ thư" của thế kỷ XXI "Từ điển Khazar" như tên gọi của nó, là cuốn từ điển viết về dân tộc Khazar, được cấu trúc như một từ điển theo thứ tự của bảng chữ cái, là "tiểu thuyết - từ điển gồm 100.000 từ". Chính vì thế, trong mỗi ngôn ngữ khác nhau, người đọc của mỗi bản dịch sẽ có trình tự đọc "Từ điển Khazar" khác nhau như Milorad Pavic từng chia sẻ: "Bản gốc "Từ điển Khazar" in bằng chữ Cyrillic kết thúc bằng đoạn trích tiếng Latin: "sed venit ut illa impleam et confirmem, Mettheus". Bản dịch tiếng Hy Lạp kết thúc bằng câu: "Tôi đã nhận ra ngay rằng có đến ba nỗi sợ trong tôi chứ không chỉ một". Bản tiếng Anh, Do Thái, Tây Ban Nha và Đan Mạch "Từ điển Khazar" kết thúc bằng câu: "Khi người đọc quay trở lại, mọi thứ diễn ra theo thứ tự ngược lại và Tibon tiến hành sửa chữa bản dịch dựa trên ấn tượng khi nghe kẻ khác vừa đi vừa đọc to bản dịch ấy…". Không những thế, vì là "tiểu thuyết - từ điển" nên người đọc có thể chọn mục từ mình muốn đọc, đọc nhảy cóc, đọc xuôi hay đọc ngược, thậm chí "đọc chéo" theo lời khuyên của tác giả mà vẫn không thay đổi nội dung của tác phẩm. Bìa cuốn tiểu thuyết “Từ điển Khazar” xuất bản tại Việt Nam Làm được như thế là bởi "Từ điển Khazar" được xây dựng dựa trên cấu trúc mở, với những văn bản phân mảnh và kết hợp lại dựa trên sự chủ quan của độc giả, cũng như những dị biệt của từng ngôn ngữ. Khái niệm về đoạn đầu và đoạn cuối tác phẩm không còn cố định theo nghĩa thông thường nữa mà thay đổi, khiến cho tiểu thuyết này trở thành vòng tròn bất tận, không có đầu và không có kết trong chừng ấy trang sách. Nghĩa là trong cái hạn hữu của vật chất là trang giấy chứa đựng cái vô hạn của câu chuyện. Cách đọc này cho phép người đọc dự phần nhiều hơn vào một tác phẩm văn học. Thay vì chỉ duy nhất một cách đọc văn bản, tiểu thuyết hậu hiện đại cho phép người đọc được chọn lựa cách thức đọc một tác phẩm hay nói như nhà văn Raymond Queneau là "một truyện kể theo cách riêng của bạn". Bằng cách đó, con đường của tiểu thuyết không còn bó hẹp trong một lối đi mà có hàng ngàn dự phóng khác nhau, gây hứng thú cho cả người đọc lẫn người viết. Được sinh ra như đứa trẻ Sức hấp dẫn của "Từ điển Khazar" không chỉ đến từ cấu trúc đặc biệt của nó mà còn bởi câu chuyện hoang đường mà Milorad Pavic kể lại về cách cuốn "Từ điển Khazar" được hình thành qua hàng ngàn năm. Biến tiểu thuyết này thoát khỏi cái kỹ thuật nặng nề, khô cứng mà trở nên bay bổng, đầy thơ mộng bởi sức hấp dẫn của những truyện kể, gợi nhắc đến bộ kỳ thư của nhân loại "Ngàn lẻ một đêm" và Milorad Pavic không khác chi nàng Seherazat, mê hoặc người đi qua từ câu chuyện này đến câu chuyện khác hay ở đây là từ mục từ này qua mục từ khác. Được cấu tạo từ 3 quyển sách: "sách đỏ", "sách xanh" và "sách vàng" viết bởi 3 tôn giáo khác nhau (Cơ đốc giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo) xung quanh sự kiện được gọi là "luận chiến Khazar". Tại sự kiện lịch sử đó, từng cuốn sách kể lại câu chuyện của mỗi tôn giáo về cách họ thuyết phục quốc vương cho phép dân Khazar cải đạo theo tôn giáo của mình. Chính ở đây, Milorad Pavic đẩy người đọc tiến xa hơn, không còn tiếp thu văn bản một cách thụ động mà buộc họ phải dự phần vào việc suy luận, tùy theo mỗi độc giả sẽ có một đáp án riêng của mình. Thậm chí, nếu hỏi Milorad Pavic, rốt cuộc người Khazar đã cải đạo nào thì chắc ông cũng lắc đầu nói không biết. Điều này khiến ta nhớ đến tác phẩm "Trong rừng trúc" của Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) hay "Cô dâu hay con hổ" của Frank R. Stockton (1834-1902) ở chỗ truyện không chỉ có một kết thúc mà quan trọng người đọc quyết định tin vào lời chứng nào và chọn kết thúc mà mình thấy hài lòng nhất. Milorad Pavic biến tiểu thuyết trở thành một sinh thể sống động chứ không còn là một văn bản chết của giấy và mực. Như chính ông từng trả lời trong một cuộc phỏng vấn: "Tiểu thuyết được sinh ra hệt như một đứa trẻ". Câu nói này, không chỉ ví von cách nhà văn "thai nghén" ra tác phẩm mà còn ở chỗ "đứa trẻ" đó có một sinh mệnh riêng, những dự phóng riêng vượt ra khỏi tầm kiểm soát của "cha mẹ", những tác giả không có nhiệm vụ quyết định thay độc giả tương lai của tác phẩm. Tiêu biểu cho văn chương hậu hiện đại Milorad Pavic sinh năm 1929, nhà văn người Serbia. Trong suốt sự nghiệp của mình, ông từng được nhiều lần dự đoán là ứng cử viên sáng giá của Serbia cho giải Nobel Văn chương. Các tiểu thuyết của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng và được các nhà phê bình trên thế giới đánh giá cao bởi những sáng tạo độc đáo, kích thích độc giả. Ngoài "Tiểu thuyết - từ điển gồm 100.000 từ", "Từ điển Khazar", Milorad Pavic còn có các tiểu thuyết độc đáo khác: "Tiểu thuyết ô chữ", "Phong cảnh vẽ bằng trà" (1988); "Tiểu thuyết - đồng hồ cát", "Mặt trong của gió"(1991) và "Tiểu thuyết - bài tarot", "Mối tình cuối ở Constantinople" (1994). Cũng giống như nhà văn Italo Calvino của Ý hay Jorge Luis Borges của Argentina, ông được xem là nhà văn tiêu biểu cho văn chương hậu hiện đại. Huỳnh Trọng Khang Mời các bạn đón đọc Từ Điển Khazar của tác giả Milorad Pavic.
Thế Giới Kết Thúc Dịu Dàng Đến Thế
Câu chuyện bắt đầu từ khi đám mây xám trì xuất hiện phía trên một thị trấn hẻo lánh của Nhật, chiếu cột ánh sáng xanh lạnh xuống. Mọi vật bị ánh sáng xanh rọi vào sẽ đông cứng lại như đá hoa cương, lạnh ngắt và cũng tỏa ra sắc xanh lạnh. Dần dần, diện tích bị đóng băng lan rộng khắp trái đất. Mọi người cuống cuồng tìm về bên người thân yêu chờ đón giây phút cuối cùng. Yoshizawa cũng lên đường đạp xe đến nơi ở cách hàng trăm cây số của Shirakawa Yukino, người bạn học thân thương và cũng là mối tình đầu của cậu. Trên con đường ngày một lạnh lẽo và chết chóc, thứ duy nhất sưởi ấm cậu là những trang thư đã đọc đi đọc lại đến sờn giấy, là bức hình chụp chung mờ nhòe. Liệu cậu có kịp gặp được Yukino, hay nàng đã hóa thành pho tượng băng giá câm lặng vĩnh viễn? Chưa bao giờ sự kết thúc hay cuộc gặp mặt cuối cùng lại được nhà văn Ichikawa Takuji miêu tả dịu dàng và nâng niu đến thế. Bởi dù thế nào, “Yêu một ai đó là thế đấy. Trọn vẹn tất cả mọi thứ. Không kén chọn cái này hay cái kia. Dâng hiến cả cuộc đời mình. Tuyệt đối không nuối tiếc.” *** Có bao giờ bạn từng nghĩ về ngày tận thế của Trái Đất? Ngày mà con người chấm dứt sự sống, ngày giống như hàng vạn năm về trước của thế giới thuở hồng hoang. Chắc hẳn là có, nhưng đa số chúng ta hay nghĩ tới một cái kết đáng sợ như việc một thảm họa kinh hoàng xảy ra y hệt những bộ phim bom tấn. Nhà văn Ichikawa Takuji thì không như vậy, ông nghĩ tới tận thế bằng một đôi mắt lãng mạn và yêu thương nhất có thể. Đó chính là hạt giống đẹp đẽ nảy mầm lên cuốn sách  Thế giới kết thúc dịu dàng đến thế  _ tác phẩm gần đây nhất của ông. Cuốn sách lấy bối cảnh của thế giới những ngày đi vào hồi kết hay chính là tận thế. Chúng ta sẽ không thấy khói lửa, sóng thần hay bất cứ nạn dịch nào hủy hoại sự sống con người như trên màn ảnh nhỏ. Tận thế của Takuji đầy chất thơ _ thế giới kết thúc khi bị cột ánh sáng xanh bao phủ. …một khi đã bị ánh sáng ấy bao trùm, tất cả sẽ chấm dứt. Con người hay muông thú, chim chóc hay cỏ cây, đất đá và nước cũng vậy, mọi thứ đều ngừng chuyển động, rồi có lẽ sẽ chẳng có gì xảy ra nữa. Nhân vật chính là Yoshizawa Yuu, khi biết ánh sáng xanh đang lan tỏa trên diện tích rộng đồng nghĩa với việc thời gian sống ngày càng thu hẹp, anh quyết định lên đường đi tìm Shirakawa Yukino cô bạn gái anh yêu thương suốt 10 năm trời. Yuu đã từng hứa: Tôi đã hứa sẽ đi gặp nàng. Bất kể có chuyện gì xảy ra, tôi nhất định phải giữ lời đến cùng. Đó là kim chỉ nam cho hành trình của anh, cũng là hành trình xuyên suốt cuốn sách. Trên những bước chân đầu tiên của chặng đường dài, Yuu gặp Mizuki _ chàng trai cũng đang đi tìm gặp cô gái mà anh từng bỏ rơi chỉ để nói lời xin lỗi và được ở lại bên cô mãi mãi. Hai người là bạn đồng hành và trên chuyến đi của cả hai, tác giả lồng ghép những câu chuyện nhỏ. Mỗi câu chuyện là một mảnh ghép hoàn thiện cho bức tranh về lòng yêu thương trong một thế giới đang kết thúc. Cuối cùng thì Mizuki cũng trở về với Eriko, cô gái anh luôn mong muốn được ở bên. Yuu cũng tìm được Yukino và hạnh phúc bên nhau trong thời khắc cuối cùng. Tác giả để ra một kết thúc mở, tôi không nghĩ là vui khi mọi người đều biến mất, nhưng cũng không được coi là buồn khi mọi người đều cảm thấy hạnh phúc vì được ở bên nhau trong khoảnh khắc cuối cùng của sự sống. Sau tất cả, đọng lại trong tôi là giọt buồn man mác, là yêu thương đong đầy và những rung động trong veo như ánh xanh dịu dàng khắp câu chữ len lỏi vào từng ngõ ngách của trái tim. Tác phẩm xây dựng trên một khung cảnh siêu thực, một thế giới tưởng tượng như phong cách vốn dĩ của Takuji. Văn chương của ông lúc nào cũng ám ảnh tình yêu và chia ly, đan xen giữa nỗi buồn và cái đẹp gây một cảm giác rung động khó tả đối với người đọc. Truyện được kể đan lồng quá khứ - hiện tại với nhiều nhân vật, mang nhiều thông điệp khác nhau. Dưới đây là những gì tôi tổng kết được về ý nghĩa của cuốn sách.   Một thế giới tưởng tượng gần gũi với hiện thực mà ta đang sống. Standal từng viết “Văn học là tấm gương phản ánh đời sống xã hội”. Một tác phẩm văn học dù có viết về một thế giới tưởng tượng thì vẫn luôn đề cập tới các vấn đề xã hội. Thế giới kết thúc dịu dàng đến thế cũng không phải ngoại lệ. Nó là một tác phẩm lãng mạn, viết về một câu chuyện không có thực nhưng không đơn thuần chỉ để thỏa mãn trí tưởng tượng của con người. Đằng sau mỗi trang sách, chúng ta nhận thấy xã hội mà ta đang sống, thấy con người của hiện thực đi vào trong bóng dáng của các nhân vật. Một kênh chiếu hình ảnh chiến tranh ở nước nào đó, có cảnh một đứa trẻ khóc vì mất cha mẹ. Cuộc sống vốn đã chẳng dài lắm, thế mà nhiều người lớn cứ nóng lòng cướp đoạt cho bằng được. Đó chẳng phải là tin tức mà chúng ta đã từng xem hằng ngày hay sao? Những đứa trẻ tại vùng giao tranh hay nội chiến, chúng bị cướp đi quyền học tập, thậm chí là quyền được sống. Những em bé như vậy, không phải chỉ có trong sách vở mà đang từng giây từng phút chịu đau thương trong thế giới này. Một góc hiện thực khác gần chúng ta hơn, nói về đạo đức của con người hiện nay cũng được phản chiếu trong câu văn: Tài xế ô tô nhấn còi xua người đi bộ như lùa gia súc. Ông khách trung niên mắng mỏ người phục vụ làm thêm vì những sai sót nhỏ nhặt. Đám thanh niên thản nhiên xô đẩy người già yếu bước đi chậm chạp. Đường phố ngày nay, tôi thấy thực sự sợ khi đi trên vỉa hè không khác nào đi dưới lòng đường. Tại sao con người ta có thể vô liêm sỉ mà cướp đường đi của người khác, cướp đi sự an toàn của người đi bộ? Và những sự việc như vậy khiến chúng ta cũng phải thốt lên như các nhân vật trong câu chuyện: “Chẳng tử tế gì cả”. Takuji còn có thể nhìn thấy bản chất của xã hội mà đúc kết nên rằng: Trong thời đại ngày nay, vứt bỏ đồ đạc mới được coi là đức hạnh. Bởi có thế thì mới làm cho “kinh tế vận hành” được. Vì mục đích cao cả ấy mà cụm từ “mốt năm nay” được sinh ra, con người có thể an tâm mà bỏ đồ mua năm ngoái đi. Đó là việc con người sống quá nhanh, quá chóng vánh mà không biết trân trọng những điều nhỏ nhặt. Cứ thế, dòng người lướt qua ào ào trên những con xe từ sáng đến đêm, và trái tim họ cũng vụt qua như vậy. Yêu thương chẳng đủ ấm nồng mà hời hợt lướt nhanh. Tôi từng nghe câu thơ “Đủ nắng hoa sẽ nở/ Đủ yêu thương hạnh phúc sẽ đong đầy”. Phải chăng con người cứ kêu không hạnh phúc, chỉ vì họ sống chưa đủ yêu thương? Hiện thực trong cuốn sách đã phần nào đánh thức trái tim vẫn đang ngủ say trong tôi với những giấc mơ màu hồng, khiến tôi nhận ra mình cần trưởng thành hơn, cần phải nhìn thẳng vào sự thật vốn dĩ bề bộn và phức tạp.   Có những tình cảm nhân văn và dịu dàng đến thế. Có lẽ đây là điều tôi thích nhất ở cuốn sách. Một tác phẩm lãng mạn nhưng không sến súa, tình cảm cực kì nhân văn và trong trẻo. Thế giới dù có những góc tối tàn nhẫn nhưng ta vẫn yêu nó bởi cuộc đời vẫn còn vô vàn điều tốt đẹp. Mà đẹp nhất, còn gì khác ngoài “Người với người sống để yêu nhau”. Đó cũng chính là thông điệp lớn nhất tôi nhận từ cuốn sách.  Nếu đời người là một cuốn sách, tôi những muốn lấp kín các trang bằng những câu chữ đong đầy tình yêu thương. Tôi không muốn giở từ trang nọ sang trang kia mà chỉ thấy không có gì ngoài những lời phỉ báng nhiếc móc. Đúng như thế, Takuji đã lấp đầy từng con chữ bằng tình yêu thương cao đẹp. Đó là tình yêu trong sáng của Yuu và Yukino, thứ tình cảm chân thành có thể sẵn sàng hy sinh bản thân chỉ để người kia không bị tổn thương. Họ trân trọng nhau từ những điều nhỏ nhặt nhất, từ những kỉ niệm như chiếc máy chế tạo hoàng hôn, tấm ảnh chụp chung hay câu chuyện về những đám mây. Và tôi nghĩ tình yêu chỉ đơn giản thế thôi, đâu cần như thiên tình sử đau thương của Romeo và Juliet. Yuu là một chàng trai nhát cáy nhưng vẫn luôn bảo vệ Yukino đến cùng, dù thế giới có tận diệt cũng phải trở về bên cô bởi vì “Dù là những siêu nhân không mấy đáng tin cậy, mỗi chúng ta đều muốn bảo vệ người mình yêu”. Tình cảm cao thượng trong gia đình cũng được phản ánh một cách sâu sắc. Đó là ông bố hiền lành của Yuu, cả đời chưa bao giờ mắng cậu nửa lời, chỉ dùng sự dịu dàng vỗ về, chở che cho cậu đến giây phút cuối cùng. Ông từng nói với cậu: …khoảnh khắc con nằm trên giường, nhìn lại bố với ánh mắt ngây thơ, bố chợt nghĩ đứa trẻ này tin tưởng mình. Nó giao sinh mạng bản thân cho bố, chẳng chút nghi ngờ. … Không thể phản bội lại lòng tin này được. Bằng bất cứ giá nào cũng phải bảo vệ sinh linh này. Phải cho nó được vui sướng. Một trái tim vĩ đại ẩn sau dáng hình nhỏ bé của người bố, một tình yêu thương cao cả có thể hy sinh mạng sống chỉ để bảo vệ đứa con trai. Takuji đã cho chúng ta hiểu tình cảm gia đình quan trọng nhường nào. Mẹ của Yuu đã mất, nhưng bà vẫn luôn là động lực cho hai bố con sống tiếp. Người ta không được coi là biến mất hoàn toàn khi mà họ vẫn sống trong trái tim và kí ức của ai đó. Tình yêu, từ giây phút con người đặt chân lên mặt đất cho tới tận ngày diệt vong, nó vẫn luôn là nguồn sức mạnh kì diệu nâng đỡ tâm hồn con người. Nó trao cho ta ý chí, giúp ta làm những điều tưởng chừng không thể. Bởi vì có yêu thương, nên thế giới dẫu có kết thúc, ta vẫn thấy nó dịu dàng đến thế…   Hạt mầm của hy vọng sống. Khi biết Trái Đất đang đi đến hồi kết, Yuu từng nghĩ: Dẫu vậy, biết đâu trên hành tinh này vẫn còn một nơi mà ánh sáng xanh sẽ không bao giờ chạm tới và ở đó chúng ta có thể tiếp tục sống trong yên bình?
Latte Không Ngọt
“NEWTON VÌ NHÌN THẤY MỘT QUẢ TÁO RƠI MÀ PHÁT HIỆN RA LỰC HẤP DẪN LOÀI NGƯỜI CŨNG CHÍNH VÌ ĂN PHẢI MỘT QUẢ TÁO CÓ ĐỘC MÀ RƠI VÀO LÒNG LUẨN QUẨN” Latte không ngọt – món quà dành cho thanh xuân. Có lẽ rằng ai cũng mong một lần được quay trở lại tuổi trẻ với tình yêu ngây dại và đầy ngọt ngào đó. Và thanh xuân chẳng thể không có mối tình đầu. Với bạn mối tình đầu là gì với Latte Không Ngọt mối tình đầu của ai cũng đều có chút ngây ngô nó còn pha thêm cảm giác tuyệt vọng. Có mối tình đầu thanh xuân thêm dư vị Có mối tình đầu thanh xuân của cậu ngập tràn ánh nắng ấm áp *** [REVIEW SÁCH LATTE KHÔNG NGỌT] Thanh xuân ai cũng sẽ trải qua một lần trong đời, ký ức thanh xuân của mỗi người lại có những dư vị khác nhau, dẫu vậy ký ức nào cũng đẹp vô cùng. Đọc cuốn sách Latte không ngọt của tác giả Evon, lại thêm một lần nữa được bước vào vùng ký ức thăm thẳm của những người trẻ tuổi, để hoài niệm thời thanh xuân, cũng là trải nghiệm thêm một vị khác của thanh xuân. Latte không ngọt xoay quanh câu chuyện của bốn bạn trẻ Vương Đinh, Phương Sâm Đề, Ngô Lặc, Thi Khả Đệ tại Đài Loan. Họ là những người trẻ tuổi hiện đại, năng động luôn sẵn sàng dấn thân vào đời sống. Mỗi người một tính cách nhưng đã gặp gỡ và trở thành những người bạn thân thiết. Vương Đinh là người kể chuyện, cũng có thể xem là người dung hòa giữa các mối quan hệ trong tiểu thuyết. Anh đóng vai người hòa giải, quan sát, lắng nghe những câu chuyện của những người bạn. Dư vị đậm đà nhất trong ký ức thanh xuân của Latte không ngọt tình yêu. Mỗi người trẻ trong cuốn sách đều yêu say đắm, si mê. Xoay quanh vòng xoáy của tình yêu khiến mạch chuyện càng về sau càng lôi cuốn mạnh mẽ. Phương Sâm Đề là người hài hước, có tính cách mạnh mẽ nhưng khi đã bước vào tình yêu lại vô cùng nhẫn nại, dịu dàng, chung tình. Đem lòng yêu Phó Lỗi Nhã, cô bạn cùng lớp cấp ba thuở nào, rồi giữ mãi mối tình ấy, âm thầm theo dõi cô ấy, cho đến tận khi cô ấy nhận được thâm tình mà cảm động. Tưởng rằng tình yêu từ ấy đã viên mãn, hai kẻ yêu nhau say đắm có thể ở bên cạnh nhau mãi về sau, nhưng hóa ra ở bên cạnh nhau lại không thể chịu đựng được nhau. Sâm Đề từng kiên nhẫn chờ đợi đến thế lại không thể chịu đựng được tính khí ghen tuông ích kỷ của người yêu. Lỗi Nhã từng cảm động bởi sự chung tình của người yêu lại không thể đem lòng tin tưởng người mình yêu. Bởi thế nên chia tay, mệt mỏi, và đau khổ. Tình yêu thanh xuân thường gắn liền với những cảm xúc ngây thơ, trong sáng, có chút nổi loạn, nhưng tình yêu trong Latte không ngọt lại là vị đắng chát chất chứa nhiều đau thương và mất mát. Như Khả Đệ đã phải day dứt suốt đời vì không ở bên cạnh người yêu trong những giờ phút cuối cùng, ngược lại còn hiểu nhầm anh, ngỡ rằng anh đã thay lòng mà dày vò anh. Trong bộ phim Tro bụi thời gian, nhân vật Âu Dương Phong có một câu thoại rất hay rằng “nếu không thể có được thứ gì đó, hãy giữ nó trong ký ức”. Ký ức cũng bởi thế luôn mênh mang và thăm thẳm.Đến khi biết tin cái chết của người yêu, mới như sét đánh ngang tai, đau đớn tột cùng, tự nhủ trong nước mắt: “Em sẽ không bao giờ để bất cứ nỗi đau nào khiến mình trở nên đáng thương nữa, có một số việc… sẽ luôn được lưu giữ. Cho đến… mãi mãi”. Cũng giống như chàng thiếu niên đã rời khỏi cuộc sống này, nhưng sẽ mãi được lưu giữ trong tim người ở lại với nỗi lưu luyến day dứt. Khả Đệ là cô gái nhỏ nhắn, nhưng lại là người con gái dữ dội, quyết liệt. Khi rơi vào tình yêu đã yêu đến cuồng dại say đắm, khi đau khổ cũng mù quáng mà làm tổn thương bản thân. Nhưng Khả Đệ lại chính là hình dung sắc nét của tuổi thanh xuân, là khi ấy chúng ta còn quá trẻ để lý trí tỉnh táo, ta chỉ biết lao vào đời sống, yêu và sống cuồng nhiệt như nhau. Mỗi người trẻ, họ sống trong đời sống đi về mỗi phía khác nhau, hạnh phúc đau khổ trải qua trên đường sống khác nhau, nhưng thanh xuân có sự hiện hữu của nhau đã trở thành dấu ấn đẹp đẽ trong cuộc đời. Thanh xuân của họ giống như ly Latte nhưng đậm vị cà phê đắng hơn vị sữa ngọt ngào, nhưng lại có sức hấp dẫn khó cưỡng. Trong Latte không ngọt, thanh xuân gắn liền với những mối tình, đồng thời cũng từ tình yêu ấy tác giả đã khéo léo tạo nên bầu không khí hiện đại, trẻ trung của đời sống đương đại Đài Loan bằng lối viết dung dị, uyển chuyển, thấm đẫm chất thơ. Ở đó những người trẻ ngày ngày vẫn làm việc, mơ ước, đau đớn, và trưởng thành. Nhân vật Vương Đinh, là người quan sát và viết lại câu chuyện thanh xuân của những người bạn, sau cùng đã xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình. Theo anh cũng là cách lưu giữ ký ức và tự chữa lành cho chính bản thân mình. *** Tác giả Evon tên thật là Dư Dật Phàm, là nam tác giả trẻ trong giới văn học Đài Loan, đam mê nhiều thể loại sách như tình yêu, cuộc sống, lý luận, kinh dị, viễn tưởng… nhưng thể loại yêu thích nhất là tiểu thuyết kinh dị, đã từng cho ra mắt tác phẩm Câu chuyện kinh dị của Evon, là một tuyển tập các câu chuyện kinh dị ngắn - ở dạng sách điện tử. Tiểu thuyết tình cảm Latte không ngọt là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của anh được xuất bản dưới dạng sách giấy truyền thống. Cuốn sách đã được đông đảo độc giả trẻ Đài Loan yêu mến. *** GIỚI THIỆU NHÂN VẬT Vương Đinh: nam chính (người duy nhất kể chuyện theo vai “tôi”), nam cung Xử Nữ, hai mươi tuổi. Chiều cao trung bình, hơi gầy, tóc đen cột thành một chỏm đuôi ngựa ngắn, là mẫu người lịch thiệp, nước da trắng, thị lực khá tốt. Tính cách hướng nội, tinh tế, nhanh nhạy. Gặp phải chuyện gì đều phải trăn trở suy xét nhiêu lần, vì vậy mà thường khiến bản thân cảm thấy phiền muộn vô cớ, tự làm khổ mình. Tiểu thuyết “Latte không ngọt” là câu chuyện do chính anh viết về những trải nghiệm của bản thân cùng ba người bạn thanh mai trúc mã, được đăng tải trên mạng để mọi người cùng đọc. Hiện đang nuôi một chú chó Shiba Inu đặt tên là Tiểu Nặc. Là một người đặc biệt thích uống Latte đá. Phương Sâm Đề: nhân vật chính, nam cung Sư Tử, hai mươi tuổi, ngoại hình bình thường, hơi cao, dáng người tiểu chuẩn, tóc đen cắt ngắn, cách nói chuyện hài hước, thường hay tấu hài, từ nhỏ đã có năng khiếu lãnh đạo, rất giỏi trong việc giao tiếp với người khác, tính cách mạnh mẽ luôn tự tin vào chính mình. Thuộc phái hành động, một khi nghĩ ra cách giải quyết thích hợp cho chuyện gì sẽ hạ quyết tâm ngay lập tức, không bao giờ do dự. Mong muốn trở thành một giáo viên. Ngô Lặc: nhân vật chính, nam cung Thiên Yết, hai mươi tuổi, dáng người cao gầy, tóc đen, luôn để ngắn, lúc nào cũng đeo một cặp kính dày cộm, khi nói chuyện hay có thói quen đưa tay đẩy gọng kính để điều chỉnh lại vị trí. Gia đình giàu có, vô cùng thông minh, thành tích học tập và thể thao đều tốt, thuộc loại văn võ song toàn, miệng rất “độc”*, luôn một lời nói thẳng vào trọng tâm. Trong mắt người khác là một người rất lạnh lùng, nhưng khi đã quen biết sẽ nhận ra cậu ta rất quan tâm đến bạn bè. Quyết tâm trở thành một cảnh sát. Thi Khả Đệ: nhân vật chính (nhân vật nữ chính duy nhất), nữ cung Cự Giải, hai mươi tuổi. Dáng người nhỏ nhắn, hơi gầy, tóc đen dài mềm mượt xen lẫn vài sợi màu cà phê, gương mặt xinh đẹp, nước da trắng ngần, thân hình cân đối. Từ trung học đã sang Mỹ, tới đại học mới quay về Đài Loan, cũng chính vì thế nên có xu hướng suy nghĩ theo phong cách Mỹ. Vừa đi làm vừa học, hiện đang làm người dẫn chương trình cho một đài truyền hình địa phương. Có tính cách khá mạnh mẽ, vì quan điểm cá nhân, cách nhìn cuộc sống hoàn toàn trái ngược với Ngô Lặc nên thường hay đấu khẩu. • Nguyên văn: “Nhất châm kiến huyết”, chỉ lời nói thẳng thắn, sắc bén, nói trực tiếp vào vấn đề chính một cách tàn nhẫn. Mời các bạn đón đọc Latte Không Ngọt của tác giả Evon & Grant Zhan (dịch).