Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Không Quê Hương

Người không quê hương là tuyển tập các tiểu luận và bài phát biểu của Vonnegut với những trang minh họa của chính tác giả, được dày công thực hiện trong suốt năm năm. Đứng trên lập trường của một nhà nhân văn và tư tưởng gia tự do, ông đã công khai thể hiện quan điểm sắc bén về nước Mỹ trên nhiều lĩnh vực, chính trị, nghệ thuật, tình dục…Xuyên suốt cuốn sách mỏng là một Vonnegut trào phúng mà sâu sắc, một người tự nhận mình là “người không quê hương” nhưng lại không hề bàng quan trước thực tại đất nước. Kurt Vonnegut (1922-2007), là một trong những nhà văn Mỹ xuất sắc nhất thế kỷ XX. Vai trò của ông được đánh giá cao đến nỗi nếu thiếu ông, thuật ngữ văn học Mỹ sẽ chẳng còn trọn vẹn. Ông sinh tại Indianapolis, tiểu bang Indiana, theo học chuyên ngành Hóa-Sinh, Đại học Cornell từ năm 1940-1942, sau đó đăng lính phục vụ trong Thế Chiến II. Xuất ngũ trở về, Vonnegut theo học Đại học Chicago và bắt tay vào sự nghiệp cầm bút. Tiểu thuyết đầu tay của ông, Player Piano, xuất bản năm 1952. Các tác phẩm tiêu biểu khác bao gồm Slaughterhouse-Five, Cat’s Cradle, Jailbird, Deadeye Dick…Vonnegut nổi tiếng vì văn phong đặc biệt với những câu văn dài và rất ít dấu câu, thẫm đẫm tinh thần hài hước. Người không quê hương (2005) là tác phẩm cuối cùng trong văn nghiệp của ông. *** Kurt Vonnegut (1922-2007), là một trong những nhà văn Mỹ xuất sắc nhất thế kỷ XX. Vai trò của ông được đánh giá cao đến nỗi nếu thiếu ông, thuật ngữ văn học Mỹ sẽ chẳng còn trọn vẹn. Ông sinh tại Indianapolis, tiểu bang Indiana, trong một gia đình người Mỹ gốc Đức, và sớm phải đối mặt với sóng gió cuộc đời. Cuộc Đại Khủng Hoảng 1930 đã khiến gia đình ông khánh kiệt, cha ông suy sụp, mẹ mất vì dùng thuốc ngủ quá liều. Chủ đề “Giấc mơ Mỹ - đạt được và đánh mất” xuất hiện khá nhiều trong những tác phẩm của ông sau này. Vonnegut theo học chuyên nghành Hóa-Sinh, Đại học Cornell từ năm 1940-1942, sau đó đăng lính phục vụ trong Thế Chiến II. Ông từng tham gia trận Bulge lịch sử và bị bắt làm tù binh tại Dresden, Đức. Trải nghiệm khốc liệt đó được tái hiện trong cuốn sách nổi tiếng nhất của ông, Slaughterhouse-Five (1969). Xuất ngũ trở về, ông theo học ngành Nhân chủng học, Đại học Chicago, sau đó chuyển đến làm việc tại công ty General Electric, Schenectady. Trong thời gian này, ông bắt đầu viết báo và truyện ngắn. Năm 1951, ông từ chức và dành toàn bộ tâm sức vào văn nghiệp. *** Khi còn bé tôi là thành viên nhỏ tuổi nhất trong gia đình, và đứa trẻ nhỏ tuổi nhất trong bất kỳ gia đình nào cũng luôn thích đùa, vì nói đùa là cách duy nhất để nó có thể tham gia câu chuyện của người lớn. Chị tôi lớn hơn tôi năm tuổi, anh tôi hơn tôi chín tuổi, và cả bố lẫn mẹ tôi đều là những người hoạt ngôn. Vì thế hồi tôi còn nhỏ xíu, mỗi khi ăn tối với cả nhà, tôi luôn khiến mọi người chán chết. Họ không muốn nghe mấy chuyện trẻ con ngốc nghếch đã xảy ra trong ngày với tôi. Họ muốn nói về những thứ thực sự quan trọng xảy ra ở trường phổ thông không thì cũng ở trường đại học hay chốn công sở. Vì vậy cách duy nhất để tôi có thể tham gia một câu chuyện là nói cái gì đó vui vui. Tôi nghĩ mới đầu chắc chỉ do tôi tình cờ thôi, tình cờ chơi chữ trong lời nói khiến cuộc đàm thoại phải ngừng lại, đại loại vậy. Và sau đó tôi nhận ra rằng bông đùa là một cách để xen vào cuộc trò chuyện của người lớn. Tôi lớn lên trong thời kỳ mà hài kịch ở đất nuớc này rất huy hoàng - thời kỳ Đại Suy Thoái. Có rất nhiều diễn viên hài kỳ cựu hàng đầu trên sóng phát thanh. Và dù không chủ định, tôi đã thực sự học hỏi họ. Tôi thường nghe hài kịch ít nhất một tiếng đồng hồ mỗi đêm suốt cả thời trai trẻ và rất quan tâm muốn biết thế nào là chuyện đùa, làm cách nào nó lại gây cười. Khi nói đùa, tôi cố gắng không xúc phạm đến ai. Tôi nghĩ phần lớn những gì mình làm chưa gây phản cảm cho người nào. Tôi nghĩ mình chưa làm nhiều người phải ngượng ngùng hay căng thẳng. Cách nói chuyện gây sốc duy nhất mà tôi sử dụng là thỉnh thoảng dùng một từ dung tục. Có vài thứ chẳng thể gây cười. Chẳng hạn, tôi không thể tưởng tượng ra nổi một cuốn sách hay một vở kịch trào phúng nào nói về trại tập trung Auschwitz. Tôi cũng chẳng thể nào đùa giỡn về cái chết của John F. Kennedy hay Martin Luther King. Ngoài những thứ đó ra, chưa có đề tài nào mà tôi lại tránh né hay không thể tận dụng. Những thảm họa lớn cũng hài hước chết đi được, như Voltaire đã từng chứng minh. Các bạn biết đó, vụ động đất ở Lisbon thật buồn cười[1]. Tôi đã chứng kiến Dresden bị tàn phá. Tôi đã thấy cái thành phố đó trước khi trốn vào hầm tránh bom và thấy lại nó sau khi ra khỏi hầm, và dĩ nhiên tiếng cười là một phản ứng. Có Chúa chứng giám, ấy là linh hồn tìm kiếm chút khuây khỏa. Bất cứ đề tài nào cũng có thể gây cười, và tôi cho rằng có một loại tiếng cười rất kinh hãi - tiếng cười của những nạn nhân ở trại Auschwitz. Tiếng cười là một phản ứng gần như bản năng của cơ thể trước nỗi sợ hãi. Freud[2] nói tiếng cười là một trong những phản ứng trước sự thất vọng. Ông nói một con chó khi không thể ra khỏi cổng sẽ cào cửa và bắt đầu đào bới rồi có những động tác vô nghĩa, có lẽ là gầm gừ hay làm gì đó, để đối phó với sự thất vọng hay ngạc nhiên hay sợ hãi. Và rất nhiều tiếng cười phát sinh từ nỗi sợ. Mấy năm trước tôi tham gia thực hiện một chương trình truyền hình hài dài tập. Chúng tôi cố gắng cùng tạo nên một chương trình theo nguyên tắc cơ bản: luôn đề cập tới cái chết trong mỗi tập. Yếu tố này làm cho tiếng cười trở nên sâu sắc hơn mà khán giả không nhận ra được cách thức chúng tôi tạo ra những tiếng cười thắt ruột. Có một loại tiếng cười hời hợt. Bob Hope chẳng hạn, ông không hẳn là nhà hài hước. Ông là diễn viên hài với thiên tư rất mỏng, chưa bao giờ đề cập đến bất cứ vấn đề gì nhức nhối. Trước đây tôi thường cười ngặt nghẽo khi xem Laurel và Hardy[3] diễn xuất. Có một sự bi ai thê lương phảng phất đâu đó trong cách diễn của họ. Những con người ấy quá hiền lành để có thể tồn tại trong thế giới này và luôn đứng trước nguy cơ rất lớn. Họ có thể dễ dàng bị thủ tiêu. *** Ngay cả những chuyện đùa đơn giản nhất cũng dựa trên những cái giật mình sợ hãi khe khẽ, chẳng hạn như câu hỏi, “Cái thứ màu trăng trắng trong phân chim là gì?” Người nghe, như thể bị gọi trả bài trong trường, ngập ngừng trong giây lát vì sợ sẽ nói ra điều gì đó ngu ngốc. Khi nghe được câu trả lời, “Cũng là phân chim thôi!”, họ xua tan nỗi sợ bản năng bằng tiếng cười. Dù sao thì họ cũng chưa từng bị làm vật thí nghiệm bao giờ mà. “Tại sao lính cứu hỏa lại mặc dây đeo quần màu đỏ?” Và “Tại sao người ta lại chôn George Washington trên sườn đồi?” Vân vân và vân vân. Lẽ đương nhiên, còn có những chuyện đùa không cười nổi, cái mà Freud gọi là “hài hước giá treo cổ”[4]. Có những tình huống thật ngoài đời vô vọng đến nỗi không bao giờ người ta có thể thấy khuây khỏa. Khi chúng tôi bị dội bom ở Dresden, ngồi trong hầm trú, hai tay ôm đầu đề phòng trần hầm sụp xuống, chúng tôi nghe một anh chiến sĩ nói như thể mình là nữ công tước trong lâu đài vào một đêm mưa lạnh lẽo, “Ta tự hỏi những người dân nghèo đang làm gì tối nay.” Chẳng ai cười, nhưng chúng tôi ai cũng vẫn mừng là anh đã nói câu ấy. Ít ra thì chúng tôi vẫn còn sống! Anh đã chứng minh được điều đó. Mời các bạn đón đọc Người Không Quê Hương của tác giả Kurt Vonnegut Jr..

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tầm Nhìn Thay Đổi Quốc Gia - Điều Kỳ Diệu Ở Du Bai
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Tầm Nhìn Thay Đổi Quốc Gia - Điều Kỳ Diệu Ở Du Bai của tác giả Mohammed bin Rashid. DUBAI – SỰ THẦN KỲ ĐẾN TỪ TẦM NHÌN CỦA NHỮNG NHÀ LÃNH ĐẠO Nhắc đến Dubai, nhiều người Việt Nam thường nghĩ đến một đất nước Hồi giáo có diện tích nhỏ bé thuộc thế giới Ả Rập và toàn sa mạc, người dân mặc những bộ quần áo màu trắng truyền thống của nam giới, mạng che mặt và quần áo đen phủ kín toàn thân của phụ nữ. Dubai ngày nay vẫn vậy, nhưng Tiểu quốc này hiện được xem là một thành phố năng động và hiện đại bậc nhất thế giới. Chỉ trong 20 năm, với dân số khoảng 2 triệu người trên một diện tích 4.000 km2, Dubai đã phát triển thần kỳ, nổi lên như một thành phố toàn cầu và là một trung tâm kinh tế của thế giới với các trung tâm tài chính, công nghệ thông tin, du lịch, cảng biển, bất động sản, các công trình đồ sộ bậc nhất thế giới: The Palm – quần đảo nhân tạo lớn và đẹp nhất thế giới; Burj Khalifa – tòa nhà cao nhất thế giới; Jebel Ali – cảng nước sâu nhân tạo lớn nhất thế giới,… Điều gì đã tạo nên sự phát triển thần kỳ đó, từ một Tiểu quốc mà ở thời điểm sau Thế chiến thứ nhất đã từng có nhiều người dân phải chết đói trong một nền kinh tế sụp đổ, kiệt quệ? Nhiều người nghĩ ngay đến dầu mỏ. Đúng. Và không đúng. Khi dầu mỏ được phát hiện vào năm 1971 ở Dubai, Tiểu quốc này bắt đầu phát triển mạnh. Nhưng hiện nay, thu nhập từ dầu mỏ và khí đốt chỉ chiếm dưới 6% tổng thu nhập của Dubai. Đóng góp nhiều cho nền kinh tế của Dubai chủ yếu đến từ các ngành hàng không, bất động sản và xây dựng, thương mại, trung chuyển hàng hóa và dịch vụ tài chính. Để có được kết quả này, các nhà lãnh đạo Dubai từ thập niên 1970 đã có tầm nhìn chiến lược, định hướng để Dubai trở thành trung tâm thương mại, tài chính, dịch vụ và du lịch của khu vực và thế giới. Các chính sách của chính phủ nhằm đa dạng hóa một nền kinh tế dựa vào dầu khí và thương mại trở thành một nền kinh tế phát triển dựa trên dịch vụ và du lịch. Và điều đó ngày nay đã đem lại vị thế vượt trội của Dubai trong thế giới Ả Rập và trên toàn thế giới. Quốc vương Mohammed bin Rashid Al Maktoum của Tiểu quốc Dubai, Toàn quyền Dubai, và là Phó Tổng thống kiêm Thủ tướng của Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE), đã tóm tắt và chỉ rõ con đường tiến đến sự vượt trội này của Dubai trong quyển sách My Vision – Challenges in the Race for Excellence, được First News xuất bản với tựa tiếng Việt là TẦM NHÌN THAY ĐỔI QUỐC GIA – Thách thức trong cuộc đua vươn tới sự vượt trội. Đây là quyển sách có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ, đầy tính khơi gợi và khích lệ đối với những quốc gia đang trên đường phát triển như Việt Nam. Tôi cho rằng các vấn đề Dubai gặp phải trên bước đường phát triển thật sự là các tham chiếu hữu ích đối với nỗ lực của chúng ta trong sự nghiệp đưa đất nước tiến tới phồn vinh và thịnh vượng. Tôi trân trọng giới thiệu và mong rằng quyển sách này sẽ được nhiều người tìm đọc. TRẦN NGỌC THẠCH Đại sứ Việt Nam tại UAE ***   Mời các bạn mượn đọc sách Tầm Nhìn Thay Đổi Quốc Gia - Điều Kỳ Diệu Ở Du Bai của tác giả Mohammed bin Rashid.
Người Tù Thế Kỷ
Tóm tắt & Review (Đánh giá) sách Người Tù Thế Kỷ của tác giả Nelson Mandela: Báo giới nhiều nước trên thế giới gọi ông là “Người tù thế kỷ”. Tên ông là NELSON MANDELA. Tổng thống nước Cộng hòa Nam Phi, chủ tịch Đảng Đại hội Dân tộc Phi của Nam Phi (ANC). Ông là vị tổng thống người da đen đầu tiên của nhà nước ở cực nam châu Phi. NELSON MANDELA bị chính quyền phân biệt chủng tộc tệ hại nhất trong lịch sử nước này nói riêng, ở châu Phi và thế giới nói chung, bắt khi đang lãnh đạo đội quân vũ trang của ANC  chống lại kẻ thù của các dân tộc trên vùng đất đau thương từng phải sống hơn 300 năm dưới chế độ Apartheid tàn bạo. Ông bị kết án tù chung thân và bị đày ra đảo Robben Island trên biển Đại Tây Dương suốt hơn hai thập niên. Từ trong nhà tù, NELSON MANDELA viết hồi ký về đời hoạt động của mình, về những cuộc chiến đấu của các chiến sĩ ANC và của các tầng lớp nhân dân bị áp bức Nam Phi mà ông là vị chỉ huy tối cao. Những trang gọi là hồi ký này trong thực tế là những bài học kinh nghiệm xương máu mà NELSON MANDELA và các đồng chí của ông mong muốn chuyển tận tay các chiến sĩ kiên cường trên tất cả các mặt trận chống lại kẻ thù. Những trang viết tâm huyết ấy đã vượt biển từ đảo Robben Island đến với đồng chí và chiến sĩ của ông trên đất liền, đến các Ban lãnh đạo ANC từ cơ sở đến trung ương, trong và ngoài nước, các đơn vị vũ trang luôn chắc tay súng trong trận chiến đấu không cân sức... và đã trở thành vũ khí sắc bén của ANC trong suốt hơn hai thập niên. Những dòng cuối cùng của tập hồi ký này được ông viết sau khi ANC giành thắng lợi với đa số tuyệt đối trong cuộc tuyển cử dân chủ theo chế độ phổ thông đầu phiếu đầu tiên trong lịch sử nước Nam Phi. Cuộc bầu cử này đã đưa NELSON MANDELA lên vị trí nguyên thủ của nhà nước Nam Phi mới. Hồi ký của NELSON MANDELA chia thành II phần, tuần tự từ buổi thiếu thời đến tuổi trưởng thành rồi đi theo “con đường tất yếu” của người chiến sĩ chiến đấu cho tự do và phẩm giá của con người. NELSON MANDELA gọi hơn 60 năm chiến đấu của ông là “con đường trường chinh dẫn đến tự do” và câu kết luận cuối cùng của tập hồi ký này khẳng định rằng “con đường dài ấy chưa kết thúc”. Nhân kỷ niệm 80 năm ngày sinh của NELSON MANDELA (18.7.1918 - 18.7.1998), chúng tôi biên dịch cuốn hồi ký này và trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc, cuốn hồi ký được chia thành bốn phần lớn nhưng vẫn giữ được tính liên tục của các sự kiện, đồng thời bảo đảm tính trung thực và khách quan, chỉ lược bỏ bớt một số chi tiết cụ thể. Cuốn hồi ký của NELSON MANDELA đã được xuất bản ở nhiều nước và được bạn đọc hưởng ứng nồng nhiệt. Theo bình luận của nhiều tờ báo lớn ở phương Tây thì “Hồi ký của Nelson Mandela không chỉ nói về cuộc đời của một trong những nhân vật chính trị xuất sắc nhất của nửa sau thế kỷ 20 mà còn là một tác phẩm văn học đượm chất trữ tình... Nhiều người trên thế giới coi Nelson Mandela là một trong ít người nổi tiếng nhất thế giới còn sống. Hồi ký và những trang viết của ông thể hiện khá sắc nét điều bình thường đến giản dị và chính điều đó đã nâng ông thành “con người vĩ đại bình dân” với những kiến thức uyên bác của một nhà hàn lâm, là cơ sở đảm bảo cho sự hòa giải dân tộc, tránh được cuộc nội chiến đẫm máu cho các màu da, sắc tộc trên mảnh đất đầu đau thương nhưng hết sức kiên cường này. Hồi ký của Nelson Mandela là một bài thơ, một trường ca mà người đọc không thể dừng lại giữa chừng. Không một trang nào là người đọc hờ hững”. TS. Trần Nhu *** Tóm tắt Cuốn hồi ký "Người tù thế kỷ" của Nelson Mandela kể về cuộc đời của ông, từ thời thơ ấu ở một ngôi làng nhỏ ở Nam Phi đến khi trở thành tổng thống của đất nước này. Mandela sinh ra trong một gia đình Xhosa thuộc tầng lớp trung lưu. Ông theo học đại học ở Đại học Fort Hare và Đại học Witwatersrand, nơi ông bắt đầu tham gia các hoạt động chính trị chống lại chế độ phân biệt chủng tộc Apartheid. Mandela bị bắt giam vào năm 1962 và bị kết án tù chung thân. Ông bị giam giữ trong 27 năm trên đảo Robben Island, nơi ông phải chịu đựng những điều kiện sống khắc nghiệt. Trong thời gian bị giam cầm, Mandela tiếp tục hoạt động chính trị và trở thành một biểu tượng của phong trào đấu tranh chống Apartheid. Ông được trả tự do vào năm 1990 và lãnh đạo ANC giành chiến thắng trong cuộc bầu cử đa chủng tộc đầu tiên ở Nam Phi vào năm 1994. Mandela trở thành tổng thống đầu tiên của Nam Phi không phải là người da trắng. Ông phục vụ trong hai nhiệm kỳ và tập trung vào việc hàn gắn đất nước sau nhiều thập kỷ chia rẽ. Review Cuốn hồi ký "Người tù thế kỷ" là một tác phẩm lịch sử và văn học quan trọng. Nó cung cấp một cái nhìn sâu sắc về cuộc đời và sự nghiệp của Nelson Mandela, một trong những nhân vật chính trị nổi tiếng nhất của thế kỷ 20. Cuốn hồi ký được viết với giọng văn chân thành và giản dị. Mandela kể về cuộc đời của mình một cách thẳng thắn và trung thực, không né tránh những khó khăn và thử thách mà ông phải đối mặt. Cuốn hồi ký cũng là một bài ca về lòng dũng cảm và hy vọng. Mandela đã dành cả cuộc đời mình để đấu tranh cho tự do và phẩm giá của con người. Câu chuyện của ông là một nguồn cảm hứng cho mọi người trên thế giới. Đánh giá Cuốn hồi ký "Người tù thế kỷ" là một tác phẩm xuất sắc về nhiều mặt. Nó là một tài liệu lịch sử quan trọng, một tác phẩm văn học hấp dẫn và một nguồn cảm hứng cho mọi người. Điểm cộng: Cuốn hồi ký cung cấp một cái nhìn sâu sắc về cuộc đời và sự nghiệp của Nelson Mandela. Cuốn hồi ký được viết với giọng văn chân thành và giản dị. Cuốn hồi ký là một bài ca về lòng dũng cảm và hy vọng. Điểm trừ: Cuốn hồi ký có thể hơi dài dòng và chi tiết ở một số chỗ. Kết luận: Cuốn hồi ký "Người tù thế kỷ" là một tác phẩm xuất sắc mà mọi người nên đọc. Mời các bạn mượn đọc sách Người Tù Thế Kỷ của tác giả Nelson Mandela.
Lạc Giữa Nhân Gian
Tóm tắt, Review và Đánh giá sách Lạc Giữa Nhân Gian của tác giả Đặng Nguyễn Đông Vy: Nếu Trên đường rong ruổi là những chia sẻ giản dị và chân thành của Phạm Công Luận thì Lạc giữa nhân gian lại là những suy tư dịu dàng mà sâu sắc của Đặng Nguyễn Đông Vy. Những đoạn văn nhỏ có tính tự sự riêng tư đã tình cờ tạo nên một cuộc đối thoại lạ lẫm và không kém kỳ thú về cuộc đời. Sự kết hợp của đôi vợ chồng nhà báo này dường như đã chứng minh một quan niệm thú vị của Rainer Maria Rilke: "Mục tiêu của hôn nhân không phải tạo ra sự tương đồng bằng cách cắt đứt mọi ranh giới; ngược lại đó là nơi mà cả vợ lẫn chồng đều chọn đối phương là người bảo vệ cho sự cô độc của chính mình, và theo cách đó, họ bày tỏ cho nhau sự tin tưởng mãnh liệt nhất."  *** Nếu Lạc giữa nhân gian là những suy tư dịu dàng mà sâu sắc của Đặng Nguyễn Đông Vy thì Trên đường rong ruổi lại là những chia sẻ giản dị và chân thành của Phạm Công Luận. Những đoạn văn nhỏ có tính tự sự riêng tư đã tình cờ tạo nên một cuộc đối thoại lạ lẫm và không kém kỳ thú về cuộc đời. Sự kết hợp của đôi vợ chồng nhà báo này dường như đã chứng minh một quan niệm thú vị của Rainer Maria Rilke: "Mục tiêu của hôn nhân không phải tạo ra sự tương đồng bằng cách cắt đứt mọi ranh giới; ngược lại đó là nơi mà cả vợ lẫn chồng đều chọn đối phương là người bảo vệ cho sự cô độc của chính mình, và theo cách đó, họ bày tỏ cho nhau sự tin tưởng mãnh liệt nhất." *** Tóm tắt: Lạc giữa nhân gian là một cuốn sách tản văn của tác giả Đặng Nguyễn Đông Vy, được phát hành năm 2023.   Lạc giữa nhân gian là những suy tư dịu dàng mà sâu sắc của tác giả về cuộc sống, về tình yêu, về hạnh phúc. Tác giả viết về những điều bình dị trong cuộc sống, những khoảnh khắc nhỏ bé nhưng đáng nhớ, những suy ngẫm về bản thân và thế giới xung quanh. Review: Lạc giữa nhân gian là một cuốn sách nhẹ nhàng và sâu lắng. Cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm xúc bình yên và những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống. Tác giả Đặng Nguyễn Đông Vy có lối viết giản dị, mộc mạc nhưng cũng rất tinh tế và sâu sắc. Cô viết về những điều bình dị trong cuộc sống nhưng lại chạm đến trái tim người đọc. Những suy ngẫm của cô về cuộc sống, về tình yêu, về hạnh phúc rất đáng suy ngẫm. Phần Lạc giữa nhân gian là phần mà mình yêu thích nhất. Tác giả viết về những điều bình dị trong cuộc sống, những khoảnh khắc nhỏ bé nhưng đáng nhớ, những suy ngẫm về bản thân và thế giới xung quanh. Những suy ngẫm của tác giả rất sâu sắc và đáng suy ngẫm. Tác giả viết về những vùng đất, những con người, những trải nghiệm mà cô đã gặp trên hành trình. Những chia sẻ của tác giả rất chân thành và gần gũi. Đánh giá: Lạc giữa nhân gian là một cuốn sách đáng đọc. Cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm xúc bình yên và những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống. Một số ý kiến đánh giá khác: Ý kiến 1: "Lạc giữa nhân gian là một cuốn sách nhẹ nhàng và sâu lắng. Cuốn sách mang đến cho mình những cảm xúc bình yên và những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống. Mình rất thích cách viết của tác giả Đặng Nguyễn Đông Vy. Cô viết rất giản dị nhưng cũng rất tinh tế và sâu sắc." Ý kiến 2: "Mình rất thích những suy ngẫm của tác giả về cuộc sống, về tình yêu, về hạnh phúc. Những suy ngẫm đó rất đáng suy ngẫm và giúp mình có cái nhìn sâu sắc hơn về cuộc sống." Ý kiến 3: Nhìn chung, Lạc giữa nhân gian là một cuốn sách đáng đọc. Cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm xúc bình yên và những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống. *** Đặng Nguyễn Đông Vy, sinh năm 1979, tại Khánh Hòa. Cô là cựu học sinh của trường THPT chuyên Lê Quý Đôn – Khánh Hòa. Đặng Nguyễn Đông Vy là một cái tên không mấy xa lạ với độc giả, đặc biệt là độc giả của các tờ báo hướng đến đối tượng tuổi mới lớn: Hoa Học Trò, Báo Sinh viên Việt Nam… Đặng Nguyễn Đông Vy còn là thành viên của gia đình “Vì ngày mai phát triển” báo Tuổi Trẻ. Với tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và thuần hậu đặc biệt của mình, Đăng Nguyễn Đông Vy - người phụ nữ vừa làm báo vừa viết văn đã mang đến cho độc giả những sáng tác vô cùng sâu lắng, thú vị và độc đáo. Tác phẩm chính - Hãy tìm tôi giữa cánh đồng - NXB Trẻ - Làm ơn hãy để con yên (biên dịch) - NXB Trẻ - Những lối về ấu thơ (viết chung với Phạm Công Luận - bút danh Phạm Lữ Ân) - NXB Hội Nhà văn - Nếu biết trăm năm là hữu hạn (viết chung với Phạm Công Luận - bút danh Phạm Lữ Ân) - NXB Hội Nhà văn Mời các bạn mượn đọc sách Lạc Giữa Nhân Gian của tác giả Đặng Nguyễn Đông Vy.
Lý Lịch Sự Vụ
“Lý lịch sự vụ” được viết từ năm 1822, từ chủ trương của Vua Minh Mạng, cho các quan từng giữ trọng trách trong triều, viết lý lịch sự vụ nạp tại Sử quán để làm tài liệu viết sử. Sách gồm 2 bản, khổ 34 x 28cm, có 148 tờ tức 296 trang. Mỗi trang 12 dòng, mỗi dòng đủ có từ 32 đến 39 chữ, phạm vi ghi chép từ năm 1780 đến 1822. Một bản đã nộp vào Sử quán ngày 22 tháng 6 năm Nhâm Ngọ (1822), một bản lưu chiếu tại nhà riêng. Theo nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh, cách viết của tài liệu này là lối viết biên niên theo trình tự năm tháng ngày. Nội dung bao gồm đủ mọi việc liên quan đến công vụ của Nguyễn Đức Xuyên trong suốt 43 năm. Tính chất quan trọng của bản hồi ký này thể hiện trên nhiều mặt, trong đó nổi bật là việc bảo lưu những văn bản chính thức thời Nguyễn vương còn đóng ở Gia Định, và cả những văn bản triều Gia Long. Tài liệu này cũng bảo lưu những văn thư trao đổi, giao thương giữa các Tổng trấn thành Lữ Tống (Luzon, Philippines), Ma Đa Đạt (Madras, Ấn Độ), Ma Cao, Đông phương Tổng trấn nước Anh, thư của vua Louis nước Pháp với nhà chức trách Việt Nam cũng như phúc tư của Việt Nam. Phần chiếm đa số trong tài liệu là mô tả quá trình chiến đấu của Nguyễn vương, từ năm 1780 cho đến khi chiếm Thăng Long, với những trận chiến cụ thể trên các vùng đất theo cách gọi dân dã ở các địa bàn Nam Bộ, Phú Yên, Diên Khánh, Quy Nhơn, Nam Ngãi… Nguyễn Đức Xuyên sinh năm 1759 là hậu duệ đời thứ XV của dòng họ Nguyễn, khai canh làng Dương Nỗ (xã Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế). Năm 1780, ông theo tòng quân với Nguyễn Ánh, được làm đội viên đội cấm binh bảo vệ Chúa. 2 năm sau do có chiến công cùng toàn đội cấm binh truy kích quân Tây Sơn ở đồng Long Mạt nên được thăng làm nội đội Đội trưởng tòng quân tước Xuyên Đức hầu. *** Nguyễn Đức Xuyên (1759-1824) là hậu duệ đời thứ XV của dòng họ Nguyễn, khai canh làng Dương Nỗ, xã Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế; tổ tiên vốn thừa hưởng được linh khí của núi sông, truyền thống của gia tộc và thời vận của đất nước, đã có nhiều võ công lừng lẫy dưới thời Lê Trung hưng.  Năm 1822, do chủ trương của vua Minh Mạng, cho các quan từng giữ trọng trách trong triều viết lý lịch sự vụ nạp tại Sử quán để làm tài liệu viết sử, Nguyễn Đức Xuyên đã viết bản hồi ký này, gọi tên là Lý lịch sự vụ… Cách viết của tài liệu này là lối viết biên niên theo trình tự năm tháng ngày. Nội dung bao gồm đủ mọi việc liên quan đến công vụ của Nguyễn Đức Xuyên trong suốt 43 năm.  Tính chất quan trọng của bản hồi ký này thể hiện trên nhiều mặt:  Thứ nhất: Trong số các bản Lý lịch sự vụ của các trọng thần thực hiện theo lệnh của vua Minh Mạng, đến nay, chúng ta chỉ mới phát hiện được bản của Nguyễn Đức Xuyên.  Thứ hai: Việc bảo lưu những văn bản chính thức thời Nguyễn vương còn đóng ở Gia Định, và cả những văn bản triều Gia Long. Đó là những tờ truyền, tờ phó của bộ tham mưu Nguyễn Ánh, những chiếu, hịch, văn thệ sư, điều lệnh quân đội của Nguyễn Ánh, đều được viết hầu hết với lối văn Nôm có pha thành ngữ chữ Hán, vào cuối thế kỷ XVIII… Trong sách có chép lại những mật tấu của các cận thần như Nguyễn Đức Xuyên, Lê Văn Duyệt, những mật chỉ, mật chiếu của Nguyễn Ánh. Điều đó có ích cho việc tiếp cận với sự thực lịch sử khi nghiên cứu về Gia Long và vương triều Nguyễn.  Thứ ba: Phần chiếm đa số trong tài liệu là mô tả quá trình chiến đấu của Nguyễn vương, từ năm 1780 cho đến khi chiếm Thăng Long, với những trận chiến cụ thể trên các vùng đất theo cách gọi dân dã ở các địa bàn Nam Bộ, Phú Yên, Diên Khánh, Quy Nhơn, Nam Ngã  Tài liệu này tự nó có giá trị về các phương diện văn học, địa lý, đặc biệt là lịch sử cận đại, về các lĩnh vực quân sự, nội trị, ngoại giao, ngoại thương của buổi đầu thời Nguyễn.  Mặt khác, sách còn chép lại những văn thư trao đổi, giao thương giữa các Tổng trấn thành Lữ Tống (Luzon, Philippines), Ma Đa Đạt (Madras, Ấn Độ), Ma Cao, Tổng trấn phương Đông nước Anh, vua Louis nước Pháp với nhà Nguyễn. Các văn bản này hầu hết do các viên quan người Pháp trong triều Gia Long dịch ra văn Nôm. Điều đó sẽ góp phần tìm hiểu về phương diện ngoại giao cũng như việc buôn bán với nước ngoài, trang bị quân sự và tình hình quan thuế buổi đầu triều Nguyễn.  Cuốn sách này sẽ dành cho độc giả quan tâm đến lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử Việt Nam giai đoạn nội chiến giữa Nguyễn Tây Sơn và Nguyễn Gia Miêu. Đặc biệt yêu mến tìm hiểu về lĩnh vực quân sự, nội trị, ngoại giao, ngoại thương của buổi đầu thời Nguyễn.  Ảnh bìa là một trang trong bản gốc Lý lịch sự vụ của Nguyễn Đức Xuyên.  +TRÍCH ĐOẠN HAY:  10. Trong quân không được đánh bạc, uống rượu. Như ở tại đồn mà đánh bạc thời bất luận quý tiện đều đánh 100 roi, lại thu bao nhiêu tiền mà thưởng cho người đứng ra tố cáo. Uống rượu ở đồn sở thì bị đánh 100 roi, lại truất xuống làm lính bếp. Khi lâm trận đối lũy mà đánh bạc, uống rượu thời bất phân quý tiện đều xử theo quân pháp thị chúng. Bằng như lễ ban thưởng trong quân thời cho tướng sĩ yến ẩm.  11. Gián điệp ở đất địch về, tướng hiệu cũng không được hỏi, gián điệp cũng không được nói, trừ thưa chào mà thôi. Việc không được phép nói mà kẻ ngoại nhân hay đặng, thời gián điệp thám thính đều xử theo quân pháp thị chúng, để nghiêm quân cơ. ”  Mời các bạn mượn đọc sách Lý Lịch Sự Vụ của tác giả Nguyễn Đức Xuyên & Trần Đại Vinh (dịch).