Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Danh Nghĩa Nhân Dân

Danh nghĩa nhân dân xuất bản tháng 1/2017, đến tháng 5 đã được tái bản lần thứ mười, tổng lượng bán ra hơn 1 triệu 500 ngàn bản. Tại Liên hoan truyền hình quốc tế Macao lần thứ 8 năm 2017, bộ phim truyền hình chuyển thể cùng tên đã đoạt bốn giải thưởng lớn, trong đó có giải Phim truyền hình xuất sắc nhất và Biên kịch xuất sắc nhất. Nội dung kể về cuộc chiến chống tham nhũng, làm trong sạch đội ngũ cán bộ đảng. Lấy bối cảnh chính trường tỉnh H, Trung Quốc, tác giả miêu tả cuộc chiến cam go giữa một bên là Hầu Cảnh Bình, cục trưởng cục chống tham nhũng tỉnh H và các kiểm sát viên viện kiểm sát, với một bên các quan chức cao cấp đã tha hóa trong bộ máy tỉnh chuyên lấy danh nghĩa nhân dân ra để biện minh, phục vụ cho lợi ích của mình. Vốn dĩ, viết về quyền lực chính trị của các phe phái trong một bộ máy cán bộ chính quyền không bao giờ là việc dễ dàng. Nhưng Danh nghĩa nhân dân của Chu Mai Sâm đã thực sự làm được điều đó. Không đơn giản hư cấu nên một cuộc đấu đá chốn quan trường, tác phẩm đã trở thành một tấm gương phản chiếu đời sống xã hội Trung Quốc trong thời đại phát triển mới, sâu hơn nữa soi tỏ nội tâm đấu tranh giữa danh lợi và sự công minh, để lộ phần nhân tính bản chất trong mỗi con người. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ: Chu Mai Sâm sinh năm 1956, người Từ Châu, Giang Tô. Là nhà văn chuyên nghiệp, phó chủ tịch Hội Nhà văn tỉnh Giang Tô, ủy viên Hội Nhà văn Trung Quốc các khóa 7, 8, 9. Các tác phẩm của Chu Mai Sâm thường xoay quanh chủ đề chính trị, quan trường, giành được nhiều giải thưởng cao, như Nhân gian chính đạo đoạt giải Sách Quốc gia năm 1996, Made in China đoạt giải Sách Quốc gia và giải Năm Công trình năm 1998, Lợi ích tối cao đoạt giải Sách Quốc gia năm 1999, Quyền lực tuyệt đối đoạt giải Sách Quốc gia năm 2002. Nhiều tác phẩm của Chu Mai Sâm được chuyển thể thành phim truyền hình dài tập do chính ông là biên kịch, và được khán giả vô cùng yêu thích. Danh nghĩa nhân dân xuất bản tháng 1/2017, đến tháng 5 đã được tái bản lần thứ mười, tổng lượng bán ra hơn 1 triệu 500 ngàn bản. Tại Liên hoan truyền hình quốc tế Macao lần thứ 8 năm 2017, bộ phim truyền hình chuyển thể cùng tên đã đoạt bốn giải thưởng lớn, trong đó có giải Phim truyền hình xuất sắc nhất và Biên kịch xuất sắc nhất. *** Danh nghĩa nhân dân: Lời nhắc nhở những người làm phòng tuyến chống tham nhũng Mỗi khi hai chữ nhân dân được viết ra trên trang giấy, người đọc như khựng lại mấy nhịp: có phải một tên quan tham nữa sắp lộ nguyên hình rồi không? Tiểu thuyết Danh nghĩa nhân dân (Lục Hương dịch) của nhà văn Chu Mai Sâm ra đời trong bối cảnh chiến dịch chống tham nhũng "đả hổ diệt ruồi" dâng lên cao trào ở Trung Quốc.  Viết về một đề tài khó cả nghề văn lẫn nghề chính trị, Chu Mai Sâm đã lão luyện vẽ ra màn kịch đấu trí ở chốn quan trường tỉnh H, giữa một bên chống tham nhũng và bên kia là bè lũ đã bị danh lợi làm cho hủ bại. Vào cái đêm lời khai của một viên trưởng phòng thuộc Bộ Xây dựng tuôn ra, chính trường tỉnh H đã không còn được trở về như cũ, từng thớ đất bị trốc lên để tìm kẻ tham nhũng, những vụ án mạng nhằm vào cán bộ điều tra được thi triển lạnh lùng. Trung tâm của cuộc chiến là Hầu Lượng Bình - cục trưởng Cục Chống tham nhũng tỉnh H. Như Tôn Hành Giả trở mình phá ngọn núi tảng bằng ý chí sắt đá, Hầu Lượng Bình đã từng bước đưa bè phái hủ bại ra ánh sáng công lý, chỉ có điều sợi dây tham nhũng càng kéo càng dài, càng giật càng thấy người thân... "Lượng Bình, cậu nhớ kỹ cho tôi, viện kiểm sát của chúng ta là viện kiểm sát nhân dân, tòa án của chúng ta là tòa án nhân dân, công an của chúng ta gọi là công an nhân dân.  Vì vậy chúng ta vĩnh viễn phải đặt lợi ích của nhân dân trong lòng mình, vĩnh viễn, vĩnh viễn" - những lời nói khiến người ta run run xúc động này là từ Cao Dục Lương, thầy giáo cũ của Hầu Lượng Bình và nay là bí thư ủy ban chính trị tỉnh H. Khoảnh khắc nghe được lời khuyên nhủ, Hầu Lượng Bình thực sự đã bị kích động mãnh liệt, trong lòng tự nhủ sẽ đeo đuổi vụ án tham nhũng đến cùng. Cả anh cũng không ngờ người nói ra câu chữ hùng hồn kia lại chính là kẻ sừng sỏ nhất đứng đằng sau tấm màn trướng giăng biểu ngữ nhân dân. Các nhân vật trong cuốn sách của Chu Mai Sâm ngoài mặt chữ thì được chia làm hai tuyến chính - tà nhưng tựu trung lại chỉ là một tuyến: chính trị gia. Nói như vậy có nghĩa là những mưu kế chính trị được rải lớp lang khắp các trang sách.  Người ngay thẳng cũng muốn leo lên địa vị cao hơn, kẻ dính chàm lại càng muốn cao hơn nữa, nếu chống tham nhũng mà không có nghề chính trị thì sớm muộn cũng bị người ủng hộ mình quay lưng lại. Sự nghiệp tiểu thuyết của Chu Mai Sâm đều là về chốn quan trường, cách ông viết về thủ thuật Hầu Lượng Bình lách qua những cạm bẫy chính trị cũng khiến người đọc phải rùng mình vì sự liều lĩnh trong ngòi bút, sự sắc bén trong tư duy. Nhân dân là tầng lớp ít xuất hiện nhất trong tập sách. Những quan chức đấu đá nhau, nhân dân chính là người chịu hậu quả sau rốt, nhưng trên mặt trận danh nghĩa, mặt trận phát biểu, mặt trận hội nghị... lúc nào cũng nghe bô bô hai chữ này.  Đương đầu với những kẻ giả nhân giả nghĩa, lại có quyền thế, có chỗ dựa (tài nguyên chính trị nói như lời tác giả Chu Mai Sâm), cục trưởng Hầu Lượng Bình như một người đi giữa bão lửa. Dẫu đến cuối truyện, "củi ướt củi khô" từ địa phương đến trung ương đều bị cháy rụi nhưng mầm mống tham nhũng vẫn tiếp tục sinh sôi. Cuốn sách như một lời nhắc nhở đến những con người làm phòng tuyến chống tham nhũng: khi nào còn có người dựa vào quyền lực để mưu cầu hư vinh cho bản thân, ngày ấy tham nhũng còn cơ hội ngóc dậy từ tro tàn. Cuốn sách đi sâu vào bản chất của con người, nơi lương tri phải đấu tranh với quyền lực để giành giật lại chính mình. Chỉ trong hoàn cảnh cam go, thử thách như vậy, chúng ta mới biết được chỗ đứng của nhân dân là ở đâu. *** Hầu Lượng Bình nhận được tin chuyến bay bị hoãn vô thời hạn, sốt ruột muốn nhảy dựng lên. Anh vốn định đáp chuyến bay cuối cùng đến tỉnh H, phối hợp chỉ huy hành động bắt giữ phó thị trưởng thành phố Kinh Châu Đinh Nghĩa Trân, phen này thì kế hoạch lỡ dở hết cả. Trên loa vang lên tiếng nữ phát thanh viên hết lượt này đến lượt khác thông báo cáo lỗi bằng tiếng Anh và tiếng Trung, bầu trời phía trên sân bay có vùng mây dông, vì sự an toàn của hành khách, máy bay tạm thời không thể cất cánh. Trán Hầu Lượng Bình rịn mồ hôi lấm tấm, anh đã biết nỗi khổ bị giam chân ở sân bay, giờ lại phải nếm mùi đau khổ thêm lần nữa rồi. Màn hình tivi cỡ lớn đang chiếu hình ảnh khí tượng, từng đám từng đám mây trắng dày đặc đang xoay tròn theo hình lốc xoáy, trông có vẻ rất nguy hiểm. Hàng chữ thuyết minh là kiến thức phổ cập ngành hàng không: dông sét gây nguy hiểm cho an toàn bay như thế nào, lọt vào vùng mây dông sẽ dẫn đến tai nạn hàng không ra sao. Nhưng tất cả đều không thể làm tâm trạng lo lắng bồn chồn của mọi người lắng xuống, thời điểm này, cả sảnh chờ máy bay dường như đã biến thành một cái tổ ong khổng lồ, tiếng người nhao nhao ồn ào, cũng không ngoài hỏi thăm thời gian chuyến bay của mình có thể cất cánh, truy hỏi phương án bồi thường, vân vân và vân vân. Hầu Lượng Bình chẳng cần chen lên phía trước cũng hiểu được một điều: chỉ cần vùng mây dông ấy vẫn còn trên đỉnh đầu mình, đừng hòng có chuyến bay nào được cất cánh. Hầu Lượng Bình rảo bước đi ra khỏi sảnh chờ, tìm một chỗ yên tĩnh vắng vẻ, gọi hết số di động này đến số di động khác. Viện trưởng Viện kiểm sát tỉnh H Quý Xương Minh tắt máy. Cục trưởng Cục chống tham nhũng Trần Hải tắt máy. Đương khi bận rộn thì mất tích bà nó hết. Đương nhiên, Hầu Lượng Bình biết bọn họ không mất tích, mà đang tham gia một cuộc họp khẩn cấp, báo cáo về vụ án Đinh Nghĩa Trân với phó bí thư tỉnh ủy phụ trách công tác chính trị pháp luật Cao Dục Lương, thông thường, những người tham gia họp đều phải tắt máy. Nhưng Hầu Lượng Bình thà tin rằng bọn họ cố tình tắt máy, chơi trò mất tích với anh. Với tư cách trưởng phòng điều tra của Tổng cục chống tham nhũng thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hầu Lượng Bình đã nhiều lần nhấn mạnh, thậm chí là thỉnh cầu các đồng nghiệp ở tỉnh H: bắt người trước, rồi họp sau! Gã phó thị trưởng họ Đinh này quá quan trọng, là một mắt xích then chốt trong vụ án Triệu Đức Hán nhận hối lộ vừa phá được. Nếu để lộ phong thanh làm hắn ta chạy mất, rất nhiều bí mật trong quan trường của tỉnh H có thể sẽ như đá chìm đáy biển. Hầu Lượng Bình cực kỳ bất mãn với người bạn học cùng đại học Trần Hải, anh đã đặc biệt dặn đi dặn lại Trần Hải đừng báo cáo, cứ khống chế Đinh Nghĩa Trân trước rồi tính sau, nhưng Trần Hải nhát gan, quanh co mấy câu rồi rốt cuộc vẫn báo lên cấp trên. Hầu Lượng Bình chính là sợ đêm dài lắm mộng, bắt Triệu Đức Hán xong liền lập tức lên chuyến bay đêm đến tỉnh H, không ngờ lại gặp phải vùng mây dông thế này. Hầu Lượng Bình đột nhiên phát hiện, bên ngoài chẳng có gió cũng chẳng có mưa, bình yên tĩnh lặng, đến cả tiếng xe đưa đón khách như thoi dệt cửi ồn ã cũng đã biến mất. Dông sét ở đâu ra? Vùng mây dông ở chỗ quái nào? Anh chạy ra cửa sảnh chờ, ngước nhìn bầu trời đêm. Bầu không tuy mây đen mờ mịt, trăng lu sao mờ, nhưng chẳng thấy ánh chớp mà cũng càng không nghe thấy tiếng sấm đâu, hình như máy bay không thể cất cánh là một sai lầm! Vừa khéo bên cạnh anh có một nhân viên sân bay đi qua bên cạnh, Hầu Lượng Bình chặn ông ta lại chất vấn. Vị cán bộ sân bay đã có tuổi này liếc nhìn anh một cái đầy ngụ ý, rồi ra vẻ triết lý nói, nhìn sự vật không thể chỉ nhìn bề ngoài, anh thấy được phía bên trên tầng mây kia à? Đằng sau sự tĩnh lặng bao giờ cũng ẩn chứa bão giông. Hầu Lượng Bình nhìn theo bóng lưng ông ta mà ngẩn người, tựa như vừa nghe được một ẩn dụ nào đó, những lời nói ấy khiến anh không ngừng liên tưởng... Hầu Lượng Bình tốt nghiệp khoa chính trị pháp luật trường đại học H, thầy giáo và bạn học rải khắp cả quan trường tỉnh H, khiến anh có một tình cảm vướng vít đặc biệt với tỉnh này. Cơn bão chống hủ bại tham nhũng đang càng lúc càng mạnh lên ở khắp nơi, chỉ riêng tỉnh H lại bình lặng khác thường, các lời đồn khi nổi chỗ này khi chìm chỗ khác bao năm nay đa phần đều chỉ dừng lại ở mức độ lời đồn mà thôi. Đương nhiên, Hầu Lượng Bình hiểu đây chỉ là hiện tượng giả tạo, người trần mắt thịt không thể thấy được thế giới bên trên tầng mây dày đặc, cũng không thể nhìn thấy những chỗ tối tăm ẩn giấu bên dưới ánh mặt trời. Vụ Đinh Nghĩa Trân nổi lên mặt nước cơ hồ là một sự ngẫu nhiên, nếu không phải vụ án động trời của Triệu Đức Hán dính dáng đến hắn, nhất thời cũng khó mà nắm được chứng cứ nào chắc chắn. Trưởng phòng điều tra hiểu rõ tầm quan trọng của thời cơ, bước chân đầu tiên ra cửa lúc nào cũng là mấu chốt quyết định thắng hay bại. Hầu Lượng Bình sốt ruột lắm, nhưng sốt ruột cũng chẳng ích gì, trên trời có dông sét ngăn cản anh lại. Anh đi qua cửa kiểm tra an toàn lần nữa, quay lại sảnh chờ. Trong sảnh vẫn hết sức ồn ào. Anh cố ép mình bình tĩnh lại, đứng trước máy nước sạch uống mấy ngụm, tìm một ghế trống ngồi xuống, nhắm mắt nghỉ ngơi. Hình ảnh Triệu Đức Hán sa lưới liền hiện lên trước mắt anh, Hầu Lượng Bình không kìm được, lại chìm vào những hồi ức về Triệu Đức Hán. Tối hôm qua, khi người này đang bê cái bát tô lên ăn mì tương đen, cánh cửa gỗ cũ kỹ "cót két" mở ra, anh chính là người thay mặt cho số mệnh đến gõ cửa nhà tay tham quan này. Ông ta có gương mặt trung hậu thật thà, thoạt nhìn không giống một cán bộ cơ quan nhà nước cho lắm, mà như một lão nông dân vừa ở ruộng về nhà. Tay nông dân này rất bình tĩnh, tố chất tâm lý cực tốt, gặp biến mà không kinh hoảng. Hầu Lượng Bình liếc qua đã nhìn thấu, đây là trạng thái mạnh mẽ do nắm quyền lớn trong tay thời gian dài rèn nên. Đương nhiên, có lẽ ông ta đã đoán trước được cảnh tượng ấy từ lâu, đã có chuẩn bị tâm lý. Chỉ có điều, Hầu Lượng Bình không ngờ, một trưởng phòng dự án của ủy ban cấp bộ bị chỉ đích danh tố cáo nhận hối lộ đến mấy chục triệu nhân dân tệ lại sống ở nơi tồi tàn thế này! Đây là một căn hộ cơ quan cải tạo lại khá phổ biến, khoảng bảy mươi mét vuông, đã cũ kỹ lắm rồi. Đồ đạc trong nhà toàn là mua từ thời Triệu Đức Hán kết hôn, quê kệch hết sức, góc xô pha đã mòn bục cả ra. Ngoài cửa chỏng chơ mấy đôi dép lê rách nát, có vứt ra đường cũng chẳng ai thèm nhặt. Bồn cầu trong nhà vệ sinh đang rò nước, cứ hai ba giây lại nghe "tí tách" một tiếng. Vòi nước trong nhà bếp cũng đang nhỏ nước, nhưng hình như không phải bị rò, mà là cố ý trộm nước. Chứng cứ rất rõ ràng, chậu rửa mặt bên dưới vòi đã hứng được nửa chậu nước sạch không phải trả tiền. Mời các bạn đón đọc Danh Nghĩa Nhân Dân của tác giả Chu Mai Sâm & Lục Hương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Dạ Khúc: Năm Câu Chuyện Về Âm Nhạc Và Đêm Buông - Kazuo Ishiguro
Dạ khúc là một chuỗi năm truyện ngắn không liên quan về tình tiết, nhưng hợp lại thành tổng thể quanh một chủ đề chung: “âm nhạc và đêm buông”. Xuất hiện trong Dạ khúc là một dàn nhân vật toàn cầu với những câu chuyện đặt trong những bối cảnh khác nhau. Một nhạc công ghi ta quê Đông Âu chật vật tìm chỗ đứng ở quảng trường Venice. Một nhóm bạn bè đại học gặp lại nhau ở London khi tuổi trẻ đã gần cạn, nhớ lại thời sinh viên xa xôi giữa tình yêu âm nhạc và những say mê lý tưởng. Một nhạc sĩ trẻ trốn nền công nghiệp âm nhạc London về khu đồi Malvern của tuổi thơ mình, tình cờ gặp gỡ cặp vợ chồng nhạc công Thụy Sĩ. Một tay kèn saxo Mỹ tài cao nhưng phận thấp, đụng độ giới giao tế trong khách sạn ở Beverly Hills. Một nghệ sĩ cello Hungary ôm mộng thiên tài giữa lúc dùng tiếng đàn kiếm miếng ăn. Những con người thuộc những giai tầng xã hội rất khác, được kết nối với nhau, và với người đọc, bằng âm nhạc - thứ ngôn ngữ quốc tế chung cho mọi tâm hồn. Nhưng đó không phải thứ âm nhạc công cộng hoành tráng hay âm nhạc thính phòng sang trọng, mà là âm nhạc vào thời khắc lặng lẽ, chiêm nghiệm riêng tư. Trong mỗi câu chuyện có sự đụng chạm rất khẽ giữa hai thế giới: thế giới cá nhân nhỏ bé nhưng chân thực, nơi các ước vọng hoài bão còn ấp ủ, và thế giới của thành công, hào nhoáng, nơi các ước vọng đã thành hiện thực, nhưng cũng có quá nhiều điều có thể mất đi. Nỗi lưu luyến của mỗi nhân vật với thế giới thứ nhất, và khao khát nhưng e dè trước thế giới thứ hai, khiến ta nhớ lại bài hát của cô bé trong Mãi đừng xa tôi, và khiến mỗi câu chuyện đều nhuốm một vẻ buồn rầu dịu ngọt. Ishiguro từng theo đuổi âm nhạc thời trẻ, chơi nhạc đường phố trong ga điện ngầm ở Paris và gửi băng thu thử cho các hãng đĩa, khi đã thành nhà văn nổi tiếng, ông còn tham gia sáng tác cho một album nhạc jazz. Trong các tiểu thuyết của ông, âm nhạc vẫn thường xuất hiện làm bối cảnh phụ, hoặc một chi tiết quan trọng trong cốt truyện. Nay với Dạ khúc, Ishiguro được dịp khám phá trọn vẹn nỗi đam mê ngày trước, và ý nghĩa của nó trong đời sống của những con người hàng ngày mà mỗi độc giả đều có thể thấy mình trong đó. Về tác giả Kazuo Ishiguro Kazuo Ishiguro là một trong những nhà văn hàng đầu trong nền văn chương Anh đương đại. Sinh 8/11/1954 tại Nagasaki, gia đình ông chuyển tới Anh sống năm 1960, nơi ông lấy bằng cử nhân rồi thạc sĩ về sáng tác văn học. Năm 1982, Ishiguro chính thức nhập tịch Anh, cho ra đời tiểu thuyết đầu tay A Pale View of Hills, trở thành một cây bút trẻ sáng giá “ngang với Martin Amis, Salman Rushdie và Ian McEwan” (The Guardian). Hai cuốn sách đầu tiên của ông đều lấy bối cảnh ở Nhật, cuốn thứ hai, An Artist of the Floating World (1986), bắt đầu chuỗi giải thưởng dồn dập đổ xuống ông. Bốn trên sáu tiểu thuyết của Ishiguro đã được đề cử Booker, gần nhất là Never Let Me Go (2005, Nhã Nam ấn hành 2008 dưới tên Mãi đừng xa tôi) chỉ đứng sau cuốn Biển của John Banville. Cuốn sách được giải thực sự là The Remains of the Day (1989), được dựng thành phim năm 1993 có Anthony Hopkins và Emma Thompson đóng với 8 đề cử Oscar. Kazuo Ishiguro có viết truyện ngắn rải rác trên các báo, nhưng Dạ khúc là tập truyện ngắn đầu tiên của ông. Đây cũng là cuốn sách mới nhất ông xuất bản năm 2009.
Bị Thiêu Sống - Souad
Một cô gái quê sống ở ngôi làng hẻo lánh xứ Cisjordaine, Palestine, bị đánh đập dã man hàng chục năm, bị gia đình tẩm xăng đốt cháy vì không chồng có con. Tác phẩm 'Bị thiêu sống' là hồi ký rung động lòng người về tội ác với phụ nữ. Cuốn hồi ký khá đặc biệt, bởi nhân vật chính không muốn nêu tên thật, không tiết lộ nơi ở hiện tại vì mối lo sợ bị truy đuổi và trả thù. "Một nơi nào đó ở châu Âu" và cái tên giả Souad là hai điều riêng nhất của người phụ nữ trong cuốn sách mà độc giả có thể hình dung. Như phần lớn các cô gái sống ở vùng nông thôn hẻo lánh của Palestine, Souad chỉ được xem như là nô lệ trong gia đình. Cô cùng mẹ, các chị em gái phải làm việc quần quật từ sáng đến tối trên cánh đồng, trên vườn nhà, trong xó bếp, chuồng cừu... Chỉ cần cô gái nói chuyện với người đàn ông ngoài gia đình, cô ta sẽ bị kết tội là charmuta (con đĩ) và mang nỗi nhục suốt đời. Khi nhận thức được cuộc sống quanh mình, Souad biết, sinh ra là con gái, điều đó có nghĩa là suốt đời phải cúi đầu vâng lệnh, nghe theo mọi chỉ dẫn, sai khiến của cha, anh em trai và sau này là người chồng. Sống trong tuổi thơ khiếp hãi và bị ám ảnh về cái chết chỉ vì mình "không có cái ấy giữa hai chân", Souad từng chứng kiến mẹ ruột của mình, vì trót sinh quá nhiều con gái nên những lần vượt cạn sau phải giết ngay đứa con lọt lòng, để chúng không trải qua nỗi tủi hổ khi lớn lên. Đến độ tuổi vừa chín của người con gái, Souad không thể nào lấy được chồng chỉ vì người chị trước của cô chưa có ai ngỏ lời cầu hồn. Tuyệt vọng, cô tìm mọi cách quyến rũ một người đàn ông với mong mỏi anh ta giải thoát mình khỏi cuộc sống hiện tại. Nhưng kết quả cô gái mười bảy tuổi nhận được là: ba lần bị buộc làm tình trong sợ hãi, một bào thai, bị người tình bỏ rơi và sự trừng phạt "vì danh dự" của dòng tộc. Jacqueline, một nhân viên của tổ chức nhân đạo Surgir (Thụy Sĩ) vượt qua nhiều khó khăn, nguy hiểm để giải thoát cô gái bị chính gia đình tẩm xăng đốt cho kỳ chết. Souad được đưa ra khỏi Palestine và cô là một trong những nạn nhân ít ỏi còn giữ được mạng sống, dù phải từ bỏ quê hương vĩnh viễn. Bên cạnh sức hấp dẫn đặc biệt từ thực tế rùng mình áp đặt lên người phụ nữ, Bị thiêu sống còn thu hút độc giả qua giọng văn giản dị, truyền cảm. Những đoạn miêu tả nội tâm của nhân vật lẫn miêu tả phong tục, sinh hoạt, nét văn hóa riêng của một làng quê Ảrập rất sống động, giàu hình ảnh. Nhà văn Marie Thérèse Cuny, người cộng tác với nhân chứng Souad thực hiện cuốn Bị thiêu sống, nhận xét: "Souad là người phát ngôn cho tất cả phụ nữ trên toàn thế giới là nạn nhân của thứ luật hà khắc do đàn ông đặt ra. Cô chính là vị anh hùng. Tôi rất vinh hạnh là người chấp bút cho cô". *** Tôi là một đứa con gái, và là con gái thì phải bước nhanh, đầu lúc nào cũng phải cuối xuống đất như thể đang đếm bước. Mắt không được nhìn lên, không được liếc sang phải hay sang trái trên đừờng đi. Vì nếu lỡ để ánh mắt mình bắt gặp ánh mắt của một người đàn ông thì sẽ bị cả làng gọi là “charmuta[1]” Nếu để một chị hàng xóm đã có chồng, một cụ già hoặc bất cứ một người nào khác bắt gặp cô gái đi một mình trong hẻm nhỏ, không có mẹ hay chị đi kèm, không dắt cừu, không đội bó rơm hay sọt đựng quả vả thì cũng bị gọi là “charmuta”. Con gái phải có chồng mới được phép nhìn thẳng về phía trước, mới được phép bước vào hàng quán, mới được phép tự nhổ lông và đeo nữ nữ trang. Khi bước sang tuổi mười bốn mà chưa có chồng như mẹ tôi thì người con gái bắt đầu bị cả làng chế nhạo. Nhưng muốn được lấy chồng thì phải đợi đến lượt mình. Chị cả trong nhà lấy trước, sau đó mới tuần tự đến các cô em. Trong nhà bố tôi có quá nhiều con gái, bốn đứa lớn đều đến tuổi lấy chồng. Ngoài ra còn có hai đứa em gái cùng cha khác mẹ do bà vợ hai của cha tôi sinh ra. Chúng vẫn còn nhỏ. Đứa con trai duy nhất trong gia đình mà ai cũng yêu quí là thằng Assad đã chào đời trong vinh quang giữa bấy nhiêu đứa con gái, nó là đứa thứ tư trong nhà. Tôi là đứa thứ ba. Cha tôi (ông tên là Adnan) vẫn tỏ ý không bằng lòng với mẹ tôi (bà tên Leila) bởi bà đã sinh cho ông quá nhiều con gái. Ông cũng không ưa bà vợ hai Aicha, vì bà này đẻ toàn con gái. Noura, chị cả tôi lấy chồng muộn, lúc tôi khoảng mười lăm tuổi. Chị thứ Kainat thì chẳng được người đàn ông nào hỏi đến.Tôi có nghe nói có người gặp cha tôi để dạm hỏi tôi nhưng tôi còn phải đợi chị Kainat đi lấy chồng thì mới dám nghĩ đến chuyện cưới xin của mình. Nhưng chị Kainat có lẽ không có nhan sắc mấy hoặc giả chị làm việc gì cũng chậm chạp....Tôi không rõ tại sao chị không được ai hỏi đến nhưng nếu chị ế chồng và trở thành gái già thì chị sẽ bị cả làng chế giễu và tôi cũng sẽ bị như vậy. Từ ngày đầu óc tôi ghi nhớ được sự việc, tôi nhận ra mình chưa một lần được sung sướng, được chơi đùa. Sinh ra là con gái trong làng tôi là một điều bất hạnh. Niềm mơ ước tự do duy nhất là lấy chồng. Rời nhà cha mẹ đẻ để về nhà chồng và không bao giờ được phép quay lại dù có bị chồng đánh đập. Con gái có chồng mà trở về nhà cha mẹ là một điều sỉ nhục. Cũng không được phép xin một nhà nào khác che chở.Gia đình người con gái có nghĩa vụ đưa con gái trở lại nhà chồng. Chị cả tôi bị chồng đánh đập dám quay về thở than khóc lóc khiến cả nhà tôi mang nhục. Có được một tấm chồng là cái may của chị. Tôi vẫn mơ ước được như thế. Từ hôm nghe có người đến gặp cha tôi xin cưới tôi, tôi đâm ra vừa tò mò vừa bồn chồn. Tôi biết anh ấy chỉ cách nhà tôi ba bốn bước chân. Thỉnh thoảng khi lên sân thượng phơi quần áo tôi vẫn thoáng thấy anh. Tôi biết anh có một chiếc ôtô, mặc âu phục, tay lúc nào cũng xách cái cặp nhỏ đựng giáy tờ và anh làm việc ngoài thành phố, một công việc khá tốt vì anh không bao giờ ăn mặc như công nhân mà luôn luôn chỉnh tề, sang trọng. Tôi rất muốn được nhìn mặt anh rõ hơn nhưng lại sợ bị gia đình bắt gặp tôi đang ngóng anh. Vì thế, khi đi lấy rơm cho một con cừu ốm ở ngoài chuồng, tôi bước thật nhanh trên đường với hy vọng nhìn thấy anh gần hơn. Nhưng anh lại đỗ xe xa quá. Nhờ quan sát, tôi đại khái biết được mấy giờ anh đi làm. Bảy giờ sáng, tôi giả vờ lên sân thượng thu quần áo hay nhặt một quả vả chín hoặc giũ tấm chăn để được, trong một thoáng chốc không đầy một phút, nhìn thấy anh bứơc lên ôtô đi làm. Tôi phải thật nhanh để không ai chú ý. Tôi lên cầu thang, băng qua mấy gian phòng để ra tới sân thượng, vừa cầm một tấm thảm giũ mạnh vừa đưa mắt nhìn qua bức tường xi măng, liếc nhẹ sang phải. Từ xa nếu có ai trông thấy cũng không thể ngờ là tôi đang ngó xuống đường. Thỉnh thoảng tôi cũng có đủ thời gian nhìn thấy anh. Tôi đâm ra phải lòng anh cùng chiếc ôtô của anh! Đứng trên sân thượng, tôi tưởng tượng ra khối chuyện: tôi kết hôn với anh và như hôm nay, tôi nhìn theo chiếc ôtô cho đến khi khuất bóng nhưng đến chiều, khi mặt trời lặn, anh sẽ trở về từ nơi làm việc. Tôi sẽ cởi giày cho anh và tôi sẽ quì xuống lau chân cho anh như mẹ tôi vẫn thường làm cho cha tôi. Tôi sẽ pha trà mời anh, sẽ nhìn anh ngồi oai vệ như một ông vua phì phà chiếc tẩu dài ngay trước cửa nhà. Tôi sẽ là một phụ nữ có chồng! Và thậm chí tôi có thể trang điểm, dạo phố mua hàng, cùng chồng ngồi vào xe và lên thành phố. Tôi sẵn sàng chịu đựng mọi điều tệ hại nhất, miễn là khi nào thấy muốn, tôi được tự do một mình bước qua cánh cửa kia để đi mua bánh mì! Nhưng tôi sẽ không bao giờ là một “charmuta”. Tôi sẽ không nhìn những người đàn ông khác, tôi sẽ tiếp tục bước nhanh, giữ người thẳng, vẻ kiêu hãnh, nhưng không đếm bước, mắt vẫn nhìn xuống và cả làng không ai còn có thể nói xấu tôi bởi lẽ tôi đã có chồng. Câu chuyện kinh khủng của tôi bắt đầu ngay trên cái sân thượng ấy. Tôi đã nhiều tuổi hơn chị cả tôi nếu so với ngày chị ấy lấy chồng, và tôi đã hy vọng để rồi thất vọng. Dạo ấy tôi khoảng mưới tám tuổi hay hơn. Tôi cũng không biết nữa. Ký ức tôi đã tan thành mây khói ngay hôm hoả hình ập xuống đầu tôi. Chú thích [1] Charmuta (Tiếng Ả Rập): Đồ lăng loàn, con đĩ. ... Mời các bạn đón đọc Bị Thiêu Sống của tác giả Souad.
Bản Sonata Kreutzer - Lev Tolstoy
"Bản sonata Kreutzer" được viết vào giai đoạn sau trong cuộc đời Tolstoy, khi ông đã trải qua những sóng gió của cuộc sống gia đình và luôn bị ám ảnh bởi cái chết. Đây cũng là khi ông viết những tác phẩm dữ dội và đau đớn, với nhiều tự vấn cay đắng về cuộc đời, như Cái chết của Ivan lllich, Đức cha Sergei, Phục sinh. Pozdnyshev là một tay ăn chơi khét tiếng. Vợ anh là một cô gái xinh đẹp và lãng mạn. Họ gặp nhau, yêu nhau, và cùng nhau bước vào hôn nhân, để rồi thực hiện những nghĩa vụ mà một cuộc hôn nhân cần phải có. Pozdnyshev từ bỏ những cuộc ăn chơi trác táng, vợ anh từ bỏ đam mê âm nhạc. Họ sống yên ổn với việc xây dựng gia đình và sinh con đẻ cái. Nhưng những điều kìm nén sâu thẳm bên trong, giống như một con thú dữ, chỉ đợi đến khi có cơ hội sổ lồng. Hai vợ chồng họ, một người bị quyến rũ bởi mối tình lãng mạn với chàng nghệ sĩ, đã khơi dậy lòng ghen tuông chết chóc quỷ dữ trong lòng người kia. Và cái kết cục bi thảm trong đêm đen ấy, kỳ thực chẳng có gì lạ. Cuốn tiểu thuyết chặt chẽ, ít sự kiện nhưng ngôn ngữ vô cùng sắc bén, quyết liệt, đã diễn tả được những phức tạp trong suy nghĩ của mỗi nhân vật. Bản sonata Kreutzer của Lev Tolstoy. Tolstoy là nhà văn rất quan tâm đến vấn đề gia đình. Trước đây khi viết Anna Karenina, ông đã miêu tả hai thái cực của tình yêu thông qua hai cặp tình nhân khiến người đọc được trải nghiệm những cung bậc của tình yêu và hôn nhân. Trong khi đó chỉ với dung lượng cực ngắn trong Bản sonata Kreutzer, Tolstoy đã đưa độc giả vào trạng thái cực đoan khi phơi bày mặt trái của hôn nhân, với một kết thúc cay đắng, như lời kết luận cuối cùng đầy tuyệt vọng và phản kháng. Vấn đề hôn nhân mà Tolstoy đặt ra trong tác phẩm này cho đến ngày hôm nay vẫn là một vấn đề đầy nhức nhối. Hôn nhân có thực là một  nấm mồ chôn cất tình yêu hay không? Có lẽ cuốn sách của Tolstoy đã phần nào trả lời được câu hỏi ấy. Tuy nhiên, điều mà cuốn sách đặt ra không chỉ là hôn nhân, ấy còn là dục vọng của con người. Thứ dục vọng mà ngay cả tình yêu cũng khó kìm chế. Dục vọng khiến con người phát điên, và hành động một cách rồ dại bỏ qua mọi quy ước đạo đức, lý trí đạo đức mà con người vốn luôn hướng đến. Pozdnyshev hiểu được sự tồn tại của vợ mình, nhưng hành động bạo lực khủng khiếp của anh ta đã làm mất đi khả năng được nhận ra là con người của chính mình. Đáp lại lời cầu xin "tha thứ cho anh", trên khuôn mặt người vợ trước khi chết chỉ còn biểu hiện lạnh lùng của lòng hận thù. Cuối tác phẩm, khi chia tay với người bạn đồng hành trên chuyến tàu, người đã được anh ta kể cho câu chuyện của mình, thay cho lời "xin từ biệt", anh ta nói "hãy tha thứ".   Được viết dựa trên nền nhạc sonata vừa êm dịu vừa dữ dội của bản nhạc cùng tên, do Beethoven sáng tác, tác phẩm mang lại âm vang vô cùng đẹp đẽ, nhưng ấy là cái đẹp đẽ của sự bạo liệt, sự hủy diệt. Một tác phẩm hoàn hảo của Tolstoy. Ngay từ khi ra đời, cuốn tiểu thuyết đã bị kiểm duyệt cấm xuất bản năm 1890, song lệnh cấm sau đó được đích thân Nga hoàng Alexandr III hủy bỏ. Trước khi được chính thức xuất bản ở Nga năm 1891, nó đã được lưu hành hàng ngàn bản dưới dạng in thạch bản và được dịch ra một số tiếng nước ngoài. Bản sonata Kreutzer gây xôn xao dư luận vì đã đưa ra những vấn đề mà trước đó chưa bao giờ được nói đến một cách công khai. Nhiều nhà nghiên cứu Tolstoy nhận định rằng đây là cuốn tiểu thuyết ngắn bi thảm nhất của ông.  Ivan Bunin sau khi đọc tác phẩm cũng đã viết thư cho Tolstoy ca ngợi và xin phép được đến gặp văn hào.
Trà Hoa Nữ - Alexandre Dumas
Trà hoa nữ (tiếng Pháp: La Dame aux camélias) là một tiểu thuyết của Alexandre Dumas con (1824 – 1895) viết năm ông 23 tuổi và được xuất bản lần đầu vào năm 1848, là cuốn tiểu thuyết bán tự truyện dựa trên mối tình ngắn ngủi của tác giả và kỹ nữ Marie Duplessis. Trà hoa nữ là một câu chuyện đau thương về cuộc đời nàng kỹ nữ yêu hoa trà có tên là Marguerite Gautier. Nội dung Trà hoa nữ kể về mối tình bất thành của anh nhà giàu Duval với cô kỹ nữ Marguerite, một đề tài tưởng đâu là quen thuộc, nhưng bằng ngòi bút sắc sảo cộng với tình cảm bao dung mà tác giả muốn truyền tải, truyện được độc giả đón nhận không ngần ngại, dù là giới quý tộc, cái giới bị hạ thấp hơn cả cô kỹ nữ trong truyện. Mặc dù Marguerite sống bằng nghề kỹ nữ nhưng trái với nghề của mình, Marguerite là người có tâm hồn và cá tính; nàng có lòng vị tha, biết hi sinh bản thân mình cho người mình yêu. Marguerite Gautier trong chuyện được viết dựa trên hình mẫu của Marie Duplessis, người yêu của chính tác giả. *** Dumas Davy De La Pailleterie (sau này là Alexandre Dumas) sinh năm 1802 tại Villers Cotterêts trong khu Aisne, ở Picardy, Pháp. Ông có hai chị gái là Marie Alexandrine (sinh năm 1794) và Louise Alexandrine (1796 - 1797). Cha mẹ ông là bà Marie Louise Élisabeth Labouret, con gái của một chủ nhà trọ và ông Thomas Alexandre Dumas. Ông Thomas Alexandre được sinh ra tại thuộc địa Saint Domingue của Pháp (nay là Haiti), là con lai ngoài giá thú của Hầu Tước Alexandre Antoine Davy De La Pailleterie, một quý tộc Pháp, Cao Ủy Trưởng về pháo binh trong khu thuộc địa với Marie Cessette Dumas, nữ nô lệ da đen có nguồn gốc từ Afro Caribbean. Không ai biết rõ bà được sinh ra tại Saint Domingue hay ở Châu Phi (dù thực tế bà đã có một tên họ bằng tiếng Pháp nên có lẽ bà là người thiểu số Creole) và cũng không biết rằng cội nguồn của bà là ở đâu. Được cha đem về Pháp và cậu bé Thomas đã sống tự do một cách hợp pháp tại đây, Thomas Alexandre Dumas Davy theo học một trường quân đội và gia nhập quân ngũ khi còn thiếu niên. Khi trưởng thành, Thomas Alexandre lấy tên của mẹ là Dumas làm họ sau khi cắt đứt quan hệ với cha. Dumas được thăng cấp tướng năm 31 tuổi, người lính đầu tiên có gốc gác Afro Antilles đạt được cấp bậc này trong hàng ngũ quân đội Pháp. Ông đã tham gia trong Chiến Tranh Cách Mạng Pháp. Ông trở thành Tổng Chỉ Huy Trưởng trong Quân Đội Pyrenees, người đàn ông da màu đầu tiên đạt được cấp bậc đó. Dù là một vị tướng dưới trướng của Napoléon Bonaparte trong các chiến dịch ở Ý và Ai Cập nhưng Thomas Dumas không còn được tín nhiệm vào năm 1800 nên đã yêu cầu nghỉ phép để quay về Pháp. Trên đường về, tàu của ông phải dừng lại ở Taranto thuộc Vương quốc Napoli, tại đây ông và những người khác bị giữ làm tù binh. Trong hai năm bị giam giữ, sức khỏe ông đã bị yếu đi. Tại thời điểm Alexandre Dumas được sinh ra, cha ông bị suy kiệt nặng nề. Ông Thomas qua đời vì ung thu năm 1806 khi Alexandre lên 4. Người mẹ góa phụ Marie Louise không đủ sức lo cho việc học hành của con trai nhưng Dumas tập đọc mọi thứ trong khả năng và còn tự học tiếng Tây Ban Nha. Những câu truyện kể của mẹ về lòng dũng cảm của người cha trong các trận đánh đã truyền cảm hứng cho trí tưởng tượng sinh động của cậu bé. Mặc dù trở nên nghèo túng, gia đình vẫn có danh tiếng lỗi lạc của người cha để lại và thứ hạng quý tộc để trợ giúp con cái thăng quan tiến chức. Năm 1822, sau khi triều Bourbon phục hưng, Alexandre Dumas 20 tuổi chuyển đến Paris. Ông đã có được một vị trí trong văn phòng thuộc Cung Điện Hoàng Gia của Công Tước Orléans - Louis Philippe. Ông lớn lên với sự chăm sóc và giáo dục của mẹ Dumas học hành chểnh mảng, khi học xong ông làm thư ký cho một phòng công chứng, và bắt đầu viết những vở kịch đầu tiên cùng với một người bạn, Tử Tước Adolphe Ribbing De Leuven. Nhưng những tác phẩm đầu tay đó thất bại. Năm 1823, nhờ viết chữ đẹp, ông được tới làm việc cho Công Tước Orléans với công việc giao gửi hàng ở Paris. Dumas tiếp tục viết kịch và cuối cùng cũng tìm được thành công với vở diễn Henri III và triều đình tại nhà hát Comédie Française, công diễn lần đầu ngày 10 tháng 2 năm 1829. Sự nghiệp văn chương của ông tiếp tục thành công, đặc biệt trong hai thể loại ông ưa thích: Kịch và tiểu thuyết lịch sử. Alexandre Dumas là một nhà văn có sức sáng tác mạnh mẽ. Ông để lại khoảng 250 tác phẩm, gồm 100 là tiểu thuyết, số còn lại là 91 vở kịch, rồi bút ký, phóng sự, hồi ký. Dumas có cả một đội ngũ cộng sự, đặc biệt là Auguste Maquet, người góp phần vào nhiều thành công của Dumas. Trong những tiểu thuyết của ông, nổi tiếng hơn cả là Ba Người Lính Ngự Lâm, còn được dịch Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ (Trois Mousquetaires) và Bá Tước Monte Cristo (Le Comte de Monte Cristo) năm 1844. Đương thời, Dumas bị chê trách là người ham ăn, ham chơi. Ông thường xuyên thết đãi thịnh soạn bạn bè, người thân, công chúng hâm mộ, với những bữa tiệc sang trọng khiến ngay cả Paris cũng loá mắt, trầm trồ. Ông còn để lại một công trình đặc biệt: Cuốn Đại Từ Điển Ăn Uống, mà ông muốn được hậu thế coi là đỉnh cao sự nghiệp văn chương của mình. Trong đời mình Dumas kiếm được 18 triệu franc vàng, song ông luôn luôn nợ nần, nhiều lần trốn nợ, thậm chí ra nước ngoài, những năm cuối đời, phải đến tá túc ở nhà con. Ông mất năm 1870 ở Puys, vùng Dieppe. Thi hài của ông được chuyển về Điện Panthéon năm 2002, bất chấp ý nguyện cuối đời của ông: “Trở về bóng đêm của tương lai cùng nơi tôi ra đời” (rentrer dans la nuit de l'avenir au même endroit que je suis sorti De La vie du passé), “nơi một nghĩa địa đẹp (Villers Cotterêts) trong mùi hoa của rào quanh...” (dans ce charmant cimetière qui a bien plus l'air d'un enclos de fleurs où faire jouer les enfants que d'un champ funèbre à faire coucher les cadavres) • Các Tác Phẩm Những Tội Ác Trứ Danh (1839 -1841); Ba Người Lính Ngự Lâm (1844); Hai Mươi Năm Sau (1845); Những Quận Chúa Nổi Loạn (1845); Bá Tước Monte Cristo (1845 - 1846); Hoàng Hậu Margot (1845); Kỵ Sĩ Nhà Đỏ (1845 - 1846); Tử Tước De Bragelonne (Cái chết Của Ba Người Lính Ngự Lâm, Mười Năm Sau Nữa - 1848); Hoa Tulip Đen (Bông Uất Kim Hương Đen - 1850) *** Người ta chỉ tạo nên nhân vật sau khi đã nghiên cứu kỹ con người. Cũng như, người ta chỉ nói được tiếng nước ngoài sau khi đã học hỏi nghiêm túc tiếng nói đó. Tôi chưa đến tuổi để đi vào sáng tạo. Tôi xin chỉ làm công việc của người kể chuyện. Xin bạn đọc tin chắc với tôi: chuyện này là một chuyện có thật. Tất cả những nhân vật trong đó, trừ vai chính, đều còn sống. Vả chăng, ở Paris vẫn còn có chứng cho hầu hết những sự việc tôi thu thập ở đây. Những nhân chứng đó có thể xác nhận hoặc bổ sung cho câu chuyện, nếu ghi nhận của tôi còn thiếu sót. Nhờ một trường hợp đặc biệt, chỉ riêng tôi mới có thể viết laị sự việc đó. Bởi vì tôi là người độc nhất nắm được những chi tiết cuối cùng của nó. Thiếu những chi tiết này, không thể nào kể lại câu chuyện một cách đầy đủ và thú vị được. Tôi xin cho biết tất cả những chi tiết đến với tôi như thế nào. Ngày 13 tháng 03 năm 1847, tôi đọc được ở đường Lapphit một yết thị lớn màu vàng, thông báo một cuộc bán đấu giá những động sản và những đồ vật hiếm đắt tiền. Cuộc đấu giá này được thực hiện sau khi người chủ đã chết. Trên yết thị không ghi tên người chủ là ai. Nhưng cuộc bán đấu giá sẽ bắt đầu vào ngày 16, từ trưa đến năm giờ chiều, tại đường Anti, nhà số 9. Yết thị còn cho biết trong hai ngày 13 và 14, mọi người có thể đến thăm căn nhà và xem trước đồ đạc. Vốn là người yêu thích những đồ vật quý hiếm, tôi tự nhủ sẽ không bỏ qua dịp này, nếu không mua gì thì cũng đến để xem. Ngày hôm sau, tôi đến ngôi nhà số 9 đường Anti. Còn sớm lắm, thế nhưng nhiều người đã có mặt trong phòng. Họ ăn mặc nhung lụa đẹp đẽ, có xe song mã sang trọng dừng đợi trước cửa, nhưng vẫn ngắm nhìn sự xa hoa tráng lệ đang trải ra trước mắt một cách ngạc nhiên, có thể nói có ý thán phục nữa là khác. Lát sau, tôi hiểu sự thán phục và ngạc nhiên ấy. Bởi vì khi đã xem xét kỹ, tôi nhận biết một cách rõ ràng: đây là căn phòng của một người đàn bà chuyên sống với tình nhân. Nay, nếu có một điều mà các bà phong nhã muốn xem – và ở đây có những bà phong nhã – thì đó chính là tư thất của người đàn bà phóng đãng, mà cách phục sức hàng ngày dám cạnh tranh với các bà. Những người đàn bà này, cũng như các bà, thuê những lô riêng ngay bên cạnh các bà trong các nhà hát; và ở Paris, họ cũng phô bày một cách xấc xược cái nhan sắc hào nhoáng, đồ nữ trang và những vụ tại tiếng. Người đàn bà trước kia là chủ căn phòng này đã chết rồi. Những người đàn bà khác, những con người đạo đức nhất, có thể đi sâu vào bên trong căn phòng của người đã khuất. Cái chết đã thuần khiết hoá không khí cái hang ổ uế tạp lộng lẫy này. Hơn nữa, nếu cần, các bà vẫn có lý do để tự biện hộ: các bà đến đây để mua đồ đạc và không cần biết đây là nhà của ai. Các bà đã đọc yết thị, để có thể lựa chọn trước. Thật là đơn giản. Điều này không thể ngăn cản các bà tìm kiếm, giữa tất cả những cái đẹp đẽ đó, những dấu vết đời tư của cô gái giang hồ sang trọng mà những kẻ khác, chắc chắc, đã từng truyền tụng cho nhau nhiều mẩu chuyện lạ lùng, đặc sắc. Khốn thay! Những bí mật đã chết cả rồi cũng với nữ thần của nó. Vì vậy, dù với tất cả thịên chí, các bà cũng chỉ có thể bắt gặp được nhưng thứ được bày bán sau khi người chủ đã chết và không bắt gặp một cái gì được bán lúc người chủ còn sống. Vả lại, lắm thứ có thể mua được: bàn ghế rất đẹp, những đồ đạc bằng gỗ quý, những chậu sành sứ Xevơ, Trung Quốc, những tượng nhỏ ở Xâcxơ, xatanh, nhung, đăng ten, không thiếu thứ gì. Tôi đi dạo trong căn phòng, theo chân những bà quý tộc tò mò đã đến đó trước tôi. Các bà đi vào một gian phòng căng đầy rèm vải Ba Tư. Tôi sắp bước vào thì bắt gặp các bà đang bước vội ra, miệng tủm tỉm cười. Hình như các bà hơi thẹn vì sự tò mò mới mẻ của mình. Tôi như bị kích thích, lòng ham muốn được vào xem càng mạnh hơn. Đó chính là phòng trang sức đầy những chi tiết tỉ mỉ, mà tất cả đã biểu lộ đến cao độ sự hoang phí của người chủ đã chết. Trên một cái bàn lớn kê sát vách, rộng ba thước, dài sáu thước (thước Anh) tất cả những bảo vật Ocôc và Ôđiôt sáng rực lên. Đó là một bộ sưu tập cực kỳ phong phú. Không một vật nào trong số hàng ngàn vật đó - những thứ rất cần cho sự trang sức của một người đàn bà như người chủ căn nhà này - được làm bằng một kim loại nào khác hơn vàng và bạc. Bộ sưu tập này chỉ có thể được hình thành dần dần, và chắc chắn không phải chỉ do riêng một tình nhân nào tạo lập được. Không chút ngại ngùng, tôi đứng nhìn phòng trang sức của một kỹ nữ. Tôi thích thú quan sát từng chi tiết dù nó thế nào chăng nữa. Tất cả những vật này được chạm khắc rất đẹp và đều mang chữ đầu của những tên họ khác nhau. Tôi nhìn tất cả những vật đó, mỗi vật biểu trưng cho một sự "bán mình" của cô gái đáng thương. Tôi tự nhủ, Thượng Đế đã khoan hồng đối với nàng; vì đã cho nàng được chết trong xa hoa và sắc đẹp, không để nàng phải chịu sự trừng phạt thông thường; nhìn thấy tuổi già của mình - tức cái chết đầu tiên đối với những cô gái giang hồ. Thực vậy, còn gì buồn hơn là phải nhìn thấy sự già nua của tội lỗi, nhất là nơi người đàn bà? Nó không giữ được phẩm giá và cũng không gây được sự hấp dẫn. Sự hối hận cứ triền miên, không phải họ hối hận vì đã đi theo con đường xấu, mà vì những tính toán sai lầm đã có và vì những đồng tiền đã không dùng đúng chỗ. Đó là điều đáng buồn nhất mà người ta thường được nghe nói. Tôi được biết một người đàn bà, ngày trước lẳng lơ đã sinh được một cô bé. Theo lời những người cùng thời cô bé này đẹp không kém gì người mẹ xưa. Với đứa con khốn nạn này, chẳng bao giờ người mẹ đó bảo: "Con là con gái của mẹ", trừ phi để ra lệnh cho cô phải nuôi bà lúc già yếu, như ngày trước bà phải nuôi cô, lúc cô còn thơ ấu. Cô bé khốn khổ tên là Luidơ, vâng lời mẹ làm việc hiến thân lấy tiền, không dục vọng, không đam mê, không thích thú; như cô đã chọn một cái nghề, nếu người ta nghĩ đến việc dạy cho cô một nghề. Bắt buộc hàng ngày phải chứng kiến cảnh ăn chơi sa đoạ ngày từ lúc còn qúa trẻ, cộng thêm vào đó là tình trạng bện hoạn triền miên, cô gái đã đánh mất ý thức về thiện và ác mà Thượng Đế đã phân phát cho cô, nhưng chẳng một ai để ý giữ gìn và phát triển cái ý thức ấy cả. ... Mời các bạn đón đọc Trà Hoa Nữ của tác giả Alexandre Dumas.