Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trông Lên Rất Đẹp

Trông lên rất đẹp được Vương Sóc ra để tưởng niệm thời tuổi thơ của mình. Đó là câu chuyện về khoảng thời gian từ 3 tuổi đến 8 tuổi của một đứa bé trai ở một nơi rất đặc biệt.   Phương Thương Thương sinh vào năm 1960, khi mà cả đất nước Trung Quốc đang chuẩn bị cho một cuộc Cách mạng Văn hóa rầm rộ. Không có thời gian để chăm sóc con, bố mẹ cậu bé đã gửi cậu vào một trường quản dưỡng nội trú. Ở đây, trẻ em bị thiết quân luật chặt chẽ bỡi những cô giáo giáo điều và đôi khi tàn nhẫn.   Nhưng Phương Thương Thương là một trường hợp khiến họ cũng lắm lúc không khỏi đau đầu. Cậu bé sinh ra đã cứng đầu, lập dị. Những sinh hoạt hằng ngày nơi cái trại lính nhi đồng đó đã diễn ra hết sức đa dạng, bé nhỏ nhưng vô cùng sống động. Tất cả đã tương tác với tính cách của Phương Thương Thương, tạo nên những suy ngẫm trẻ thơ, những cú sốc, những vết thương. Từ đó, không khí của thời đại tiền Cách mạng Văn hóa được khắc họa sâu sắc, chất chứa những câu hỏi về sự hình thành ra nhân cách con người trong thế kìm hãm, mất tự do của bản ngã. Thêm một tác phẩm nữa từ một thế hệ nhà văn mới của Trung Quốc, những người không tin gì cả, cười nhạo tất cả…  *** Vương Sóc sinh năm 1958 tại Bắc Kinh trong một gia đình quân nhân. Năm 1976, sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học, Vương Sóc đi bộ đội, làm y tá ở một đơn vị hải quân. Năm 1978 tác phẩm đầu tay “Chờ đợi” ra đời. Năm 1980 ông được điều về toà soạn tạp chí “Văn nghệ quân giải phóng”. Sau khi phục viên ông về công tác ở Công ty Dược. Năm 1984, Vương Sóc xin thôi việc, làm nhà văn tự do, chuyên viết tiểu thuyết, kịch bản phim, tuỳ bút và phê bình văn học. Năm 1992, Văn tập Vương Sóc ra đời, gồm 4 cuốn, 31 loại, 1 triệu 60 vạn chữ. Tác phẩm chủ yếu của Vương Sóc là “Cô gái hàng không”, “Mất đứt tình yêu của tôi”, “Một nửa là ngọn lửa, một nửa là nước biển”, “Nổi lên mặt biển”, “Nghiền cho đã rồi chết”, “Chúa gàn”, “Chơi nhưng mà hồi hộp”, “Tao là bố mày”, “Ðộng vật hung dữ”, “Xin chớ coi tớ là người”... Nhiều tiểu thuyết của Vương Sóc đã chuyển thành kịch bản phim như “Khát Vọng”, “Câu chuyện ở ban biên tập”, “Anh không phải là người thường”, “Yêu em không thương lượng”.... Văn của Vương Sóc hóm hỉnh, dí dỏm, phóng túng, thường hay dùng ngôn ngữ lưu hành ở đô thị, tự xưng là “tiểu thuyết mang mùi vị đô thị mới”.   Sau một thời gian bảy năm gác bút đi buôn, lập công ty làm kinh tế, tháng 3 năm 1999, Vương Sóc lại xuất hiện trên Văn đàn với tác phẩm hoàn toàn khác trước: “Trông vào đẹp lắm” có độ dài 233.000 chữ, do Nhà xuất bản Hoa Nghệ xuất bản lần đầu 200.000 cuốn. Tháng 8 năm 2000, Vương Sóc lại cho ra cuốn phê bình tiểu luận: “Người đẹp bỏ tôi thuốc bùa mê”, dài 100.000 chữ do Nhà xuất bản Văn nghệ Trường Giang xuất bản, in lần đầu 200.000 cuốn.  *** Năm 1991, viết hơn một triệu chữ cả tiểu thuyết, kịch bản phim truyện, phim truyền hình. Năm sau đã gặp báo ứng, rơi vào khủng hoảng sáng tác. Thực tình thì đó là sự khủng hoảng của tinh thần, tôi bỗng nảy sinh mối hoài nghi rất lớn trước cuộc sống sáng tác của mình lẫn tất cả những gì đã viết ra. Còn nhớ như in thời gian, địa điểm xuất hiện cảm giác lung lay đó. Một buổi trưa, mười một giờ, trước cửa hàng bán đồ ăn Tây Bá Hà bên đường vành đai ba, tôi rẽ qua đó ăn bữa cơm. Hôm đó, chớm sang hè, nắng rất đẹp, tôi đi giữa sương khói bảng lảng bỗng chân nhũn xuống, dùng giọng lưỡi thậm xưng của đám đàn bà tiểu tư sản là tôi thấy trong tôi sụp đổ. Dĩ nhiên là không ngã xuống, nằm giữa phố, mà vẫn bước đi, có điều đầu óc quay cuồng những câu hỏi ngắn vụt tới tấp: Tôi đang làm gì? Thế này coi như tôi đang sống chăng? Cái tôi cần chính là những thứ đang ở trước mắt đây?   Bỗng dưng mất sạch hứng thú trước lối viết vốn đã rất thuần thục, cảm thấy đi cùng với nó là sự đánh mất, sự mai một những ý tưởng ban đầu, thuần thục nhưng lại để vuột mất những điều cốt tủy. Đó là chỗ lung lay cực kì rõ ràng, như lỗ thủng trên bít tất, người khác không thấy nhưng chính mình rất rõ: cái lối viết mà tôi những hô hào với rêu rao kia thực chất chỉ là đơn giản hóa cuộc sống.   Ấy là nói đỡ cho. Nghiêm khắc thì là: bóp méo cuộc sống. Cuộc sống nào cũng đan xen chằng chịt trăm thứ cảm xúc, mà nào có ai giống ai, cớ sao phản ánh vào văn chương lại thành một bộ mặt sơ sài, đơn giản, chẳng hạn: mang tính chất của thể hài kịch. Dĩ nhiên, ở đây cũng bao gồm những hạn chế tự thân của văn chương - một thứ công cụ biểu đạt: câu chuyện thường vẫn có xu hướng tìm tòi một kết thúc viên mãn, sự giới hạn về số lượng chữ khiến người ta chỉ có thể tập trung vào những phát triển chính, còn bao nhiêu sự thực khác đều không ôm đồm nổi. Cũng còn bởi vấn đề của sự thú vị. Tiếng Bắc Kinh đặc trưng khi nói có xu hướng ồn ào rôm rả, nói ra rất dễ lời tiếp lời, một chuyện giản đơn mà xoay tới trở lui viết ra hàng đống giấy, khoái cảm nơi cửa miệng khiến người nói say sưa, tưởng mình thông minh, lại càng “nổ”, càng “diễn”. Nếu đơn thuần chỉ để tạo điểm khác biệt, kiếm mấy tiếng tung hô, hoặc phụ họa cho hợp thế thời, thì cũng chả gì ghê gớm. Nhưng, không giấu quý vị, tôi còn có một “tâm nguyện ban đầu” với văn học, đó chính là: “trả lại cuộc sống nguyên vẹn”. Ý tôi là đi tìm những tác nhân thực sự ảnh hưởng đến hành động nhân vật, những thứ không bị đổi thay bởi ý thức con người, những nhân tố chi phối nguyên sơ nhất, ẩn bên trong của mọi thứ biểu cảm bề ngoài.   Bởi tôi không dám tin vào phản xạ đầu tiên của mình. Bởi hành động thường đa nghĩa. Bởi tư duy quá đỗi phức tạp, bóc tách từng chút một cũng chưa chắc đã khỏi bất ngờ sao mình lại có phản xạ như thế. Ở đây liên quan đến động cơ.   Chắc gì bạn có thể hiểu và nhìn thấu nhân vật dưới ngòi bút của chính mình. Chắc gì anh ta sẽ không mới vui đã buồn, gặp yêu sinh hận - dù nguyên mẫu chính là bạn. Động cơ không nắm rõ, hành vi trượt khỏi quỹ đạo, chỉ còn lại chút tính hài được dàn xếp sẵn, chạy theo những vui buồn yêu giận “lấy ngay”, tới đâu hay đó… trông cũng “thể diện”, nhưng rốt cuộc vẫn trơ trơ một lời tự vấn thiếu hồi đáp: vốn dĩ là vậy hay sao?   Khổ sở không chỉ mỗi điều đó. Chính bởi chưa tới được gốc gác nguồn ngọn, tự túm tóc phiêu diêu giữa lưng chừng, đã có người lôi xuống, thay mình tổng kết ra bộ ra hệ ra phương pháp nọ kia, nói mình chính là thế này thế này, lại còn được số đông chấp nhận. Tôi không nói những kẻ chê mắng tôi, quan hệ giữa tôi với bọn họ rất đơn giản, lập trường khác biệt, tình cảm, suy nghĩ tất thảy đều khác, những điều bọn họ chê tôi đại khái cũng không sai lệch, thỉnh thoảng có lạc sang tận nhà bà ngoại cũng chẳng ảnh hưởng gì. Tôi muốn nói đến những người yêu quý tôi, muốn gặp tôi, coi những thứ của tôi kia là của quý. Trước khi nói ra những lời dưới đây, tôi phải thanh minh trước: ở đây tôi nói sự việc, không nhắm vào người nào hết, tôi chỉ muốn làm rõ một số hiểu lầm từ bấy lâu nay, muốn tháo gỡ những thứ vốn không liên quan đến nhau, có thể là không công bằng, nhưng hoàn toàn không phải mượn dịp để hạ thấp ai đó, cố ý làm xấu ai đó, xin được độc giả chứng giám, xin người trong cuộc bỏ quá cho.   Tôi muốn nói tới những hình tượng nhân vật đã được điển hình hóa qua các phim ảnh chuyển thể từ tiểu thuyết của tôi, hoặc do chính tôi viết kịch bản. Diễn viên rất thành công, được khán giả quan tâm yêu thích, tôi cũng thích thế, cũng như thích những nhân vật khác trong các vở kịch vui khác đã khiến tôi bật cười. Nếu bảo loại hình tượng đó xuất phát từ những sáng tác của tôi, một cách độc đáo, thực tình chẳng dám. Như thế là ốc mò cò xơi, cướp vinh quang của người ta; bất quá như kiểu khôn ngoan của loại người: nhờ người mang thai hộ.   Họ thuộc một dạng người Bắc Kinh khác. Nói thế nào nhỉ? Chắc cũng lương thiện thật, có chút ranh ma, cực kì biết lắng (lấy) phần trong, gạn (bỏ) phần đục, vốn liếng to nhất là đầy một miệng “thấu hiểu” với “cảm thông”, sống “cặm cụi” kĩ càng, không bỏ lỡ cái gì bao giờ, bàn tính gảy rào rào trong bụng người ngoài cũng nghe thấy, một chút xúc cảm đã ngỡ là sâu sắc.   Người tốt! Người có tính như thế, trong cuộc sống này chỉ có lợi, không hại, ra trước công chúng phần lớn đều được cưng chiều, nhưng xuất hiện trong tác phẩm của tôi lại thành lầm lẫn. Toàn thể hiện sai. Chính là kết quả của sự sáng tạo lại của nghệ thuật điện ảnh.   Khác biệt giữa điện ảnh với tiểu thuyết đại để ở chỗ cho ra sản phẩm của ý chí tập thể, rất nhiều người tham gia lao động, cuối cùng đều nêu ý kiến, đều “gửi gắm” những phẩm chất ưa thích của mình vào trong nhân vật, rốt cuộc trả về cho anh một con người hoàn toàn xa lạ. Đương nhiên, điện ảnh ngày nay trước tiên phải là lợi nhuận, được ưa chuộng tức là thành công, hỏi tôi về ý tưởng trong nguyên tác, tôi nào có định như thế, viết hàng lô lốc những thứ dớ dẩn kia chỉ để dựng cho quần chúng một con người tốt. Đúng như lời người phê bình, tôi toàn viết những thứ “láo lếu”. Những lời nói có vẻ đầy nhiệt tình kia thật ra là trêu chọc. Cái thú trêu chọc người khác bắt nguồn từ cảm giác thâm căn cố đế: hơn người. Đúng vậy, tự nghĩ mình “siêu”, có sức nhào nhồi, có tài lập thân lập ngôn, rơi xuống đáy của xã hội mà không hay biết, thịt nát xương tan cái miệng vẫn còn, cho nên nói năng tự cao tự đại, như sống trong mơ, không hòa đồng cũng chẳng hòa tan. Là dạng thích ra oai, là lưu manh giả trượng nghĩa, không cam tâm sống đời hiu quạnh, nhưng rồi chẳng qua vẫn chỉ là hạng cười gắng nói gượng vô danh tiểu tốt.   Hồi nhỏ, tôi là đứa bé hư, quen nhận từ xung quanh những trách mắng và “lừ mắt”, như thế mới cảm thấy mình là mình. Bỗng một ngày, tiếng vỗ tay vang lên, lại còn có người đi theo, tôi hoang mang mất phương hướng, cảm giác đó thật lạ lẫm, đột ngột, vừa dễ chịu vừa không thoải mái, cùng lúc với dễ chịu thường là không tự nhiên, hay đó là sa ngã?   Còn nhớ năm ấy đọc được bài phê phán đầu tiên dành cho mình (trước đó cũng đã có, tôi muốn nói loạt mới khi tôi bắt đầu để mắt tới). Bài do một kẻ nhàn rỗi viết ra, đăng trên Nhật báo Bắc Kinh số cuối tuần. Nội dung phê phán không nhớ nữa, cũng chẳng quan trọng, tóm lại là nói tôi không tốt, chẳng có chỗ nào được, cũng chẳng sao, quan trọng là bài phê bình khiến cảm giác của tôi thay đổi, có thể miêu tả là “cả trái tim rơi tọt xuống ổ bụng”. So với những động viên, khen ngợi từ sau lưng, những công kích, chửi mắng vỗ ngang trước mặt càng khiến tôi nhìn rõ mình đang ở đâu, mình là cái thứ gì, nhờ vậy càng giữ được bản chất - ý tôi là: tính ăn miếng trả miếng của chó sói. Làm sói thực ra tôi không ham, thành chó tôi cũng chẳng thích, so sánh hơn thiệt phải chọn cái đỡ thiệt hơn. Đây chính là cái lợi và sự cần thiết của kẻ thù. Tôi nghĩ tôi cần kẻ thù còn hơn cần bạn bè chiến hữu. Dĩ nhiên, tôi không muốn nói người phê phán tôi đều là loại kẻ thù vác súng bắn, đó chỉ là phép tu từ, nếu nói thế không ổn, tôi rất vui lòng gọi đó là những người sáng suốt, ra roi chỉ lối.   Đó là lời nói thật, tôi cảm ơn những người phê phán tôi. Chính những phê phán “buốt tai” đó giúp tôi nhìn rõ hơn những thứ bị “trông gà hóa quốc”. Tôi nghĩ trước thực tại đó mình cũng không nên quá tiêu cực, nói cách khác là cự tuyệt với nó. Bị hiểu lầm vốn là cái nghiệp của người diễn đạt, cũng chẳng nên coi tất cả những người đó là ngu dốt hết thuốc chữa hoặc nhận định có âm mưu này khác. Một phần nguyên nhân chắc chắn là ở bản thân, chính mình diễn đạt có chỗ mâu thuẫn, để người khác túm được gáy. Tôi nghĩ có một lối viết truyện có thể đem cuộc sống mà tôi nhìn thấy - cái diện mạo vốn có của nó - lột tả một cách chân thực. Kể cũng khá thú vị, đối mặt với những phê phán và mô phỏng chế giễu, tôi lại cảm thấy tư liệu cuộc sống của mình đầy đủ và tròn trịa, vẫn giữ được sự mới lạ khi chưa bị người ta khám phá, nhận biết, giữ được hương vị hoang dã, trinh nguyên. Điều đó quả thực không gì sánh nổi, cho một người viết lách ngót chục năm mà vẫn còn rất ham muốn sáng tác. Nó cũng có nghĩa là tôi vẫn còn cơ hội xây dựng một diện mạo mới mẻ, bước lên một bậc cao hơn, hoặc nói cách khác là lại tìm thấy chốn đào nguyên trong văn học.   Có thể chỉ là tôi đang quan trọng hóa mình quá mức, quá bận tâm với chính mình, không đủ thoải mái ung dung, làm hỏng mất tác phong của kiểu người như chúng tôi. Thế thì đã sao nhỉ? Thì coi như tôi còn thiển cận đi.   Mời các bạn đón đọc Trông Lên Rất Đẹp của tác giả Vương Sóc.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Gái Điếm
Là một cô gái đã bộc phát bản năng của mình. Vì số tiền nợ của bố mình mà cô bị bán vào quán Bar. Còn anh là chàng trai lạnh lùng, không thích sự náo nhiệt nhưng nguyên nhân do đâu làm anh và cô gặp nhau và đến bên nhau vậy? *** Từ ngày hôm ấy, tôi bị bán vào quán bar, tôi buồn lắm! Cũng từ ngày hôm ấy, tôi bị bắt đi nhiều nơi để phục vụ cho khách nam. Cái nghề này, tôi phải đi bán trinh tiết của phụ nữ để thỏa mãn dục vọng của đàn ông. Hôm ấy, tôi được mời đến một căn biệt thự rất lớn để..... Bước qua cánh cửa chính là một người con trai đẹp như tranh vậy! Anh ta nhìn tôi với một vẻ mỉa mai nhưng tôi cảm thấy khá quen thuộc với ánh mắt ấy. Tôi vội mỉm cười nhẹ rồi nhanh chóng bước ra khỏi cửa. - Cô định đi đâu chứ? Tôi thuê cô đến đây để làm gì cô nên nhớ! -Là anh thuê tôi sao? Tôi bước vào cánh cửa ấy đầy sự u tối. Tôi cởi từng chiếc cúc trên chiếc áo của mình ra..... Tôi tự tủi thân cho bản thân mình phải đi làm cái nghề bôi nhọ trinh tiết thế này! Mời các bạn đón đọc Gái Điếm của tác giả Mây+.
Bí Ẩn Thanh Minh Thượng Hà Đồ
Đằng sau mỗi món đồ cổ, là tầng tầng lớp lớp lịch sử và văn hóa truyền thừa bao đời; Đằng sau mỗi món đồ giả, là mánh lới tính toán tinh vi cùng cạm bẫy khó bề tưởng tượng. Hứa Nguyện rửa được nỗi oan cho ông nội, nổi lên như một anh hùng đánh hàng giả trên thị trường cổ ngoạn, song lòng vẫn canh cánh mối thù gia tộc với Lão Triều Phụng - bàn tay đen đứng sau bi kịch bao đời nhà họ Hứa. “Tình cờ” thay, mọi manh mối về kẻ cầm đầu dòng chảy ngầm lớn nhất giới cổ vật này đều dẫn gã đến với quốc bảo Trung Hoa - Thanh minh thượng hà đồ. Một lần nữa Hứa Nguyện đơn thương độc mã dấn thân trên con đường trừ giả giữ thật mà không lường đến những gì mình sẽ phải đương đầu. Lôi Lão Triều Phụng ra ánh sáng, bảo vệ Minh Nhãn Mai Hoa trước nguy cơ lụi bại, giữ vững tôn chỉ của người giám định… ngần ấy nhiệm vụ hệ trọng dường như quá sức với một kẻ đang nôn nóng báo thù như gã. Bởi trong khi con người giám định cổ vật, cổ vật cũng giám định con người… *** Nửa đêm trộm mộ “ăn trên chiếu” Chơi đồ cổ quan trọng nhất là gì? Người nói là mắt nhìn, kẻ lại bảo là quan hệ, thực ra đều không chính xác. Ngành này xét đến cùng phải chú trọng hai chữ: “duyên phận”. Thế nên người chơi đồ cổ thế hệ trước phần nhiều đều tin số mệnh, cho rằng số đã có ắt có, số không có thì đừng cố. Nếu không có duyên với một món đồ mà cứ cố giành về tay, gọi là đi ngược ý trời, sẽ dẫn tới hậu họa khôn lường, món đồ ấy không còn là hàng tốt nữa, mà trở thành vật dữ cắn chủ, nhẹ thì thân bại danh liệt, nặng thì nguy tới tính mạng. Có điều đây đều là cách nói từ xưa, được quy vào mê tín dị đoan. Thời bây giờ ai cũng tiếp thu mấy chục năm giáo dục theo chủ nghĩa duy vật, chẳng tin mấy lời đó nữa. Hễ có tiền đưa tới tay thì bất chấp quy củ cách thức, ta cứ thế xông lên phá vỡ đạp bằng, chẳng sợ gì sất. Thần tài ngồi trên, yêu ma quỷ quái cũng phải đứng sang một bên. Ví như mấy người ngồi cùng xe với tôi hiện giờ, rõ ràng không phải hạng con buôn cổ hủ trọng truyền thống. Tôi đang ngồi trong một chiếc van Toyota chín chỗ cũ nát, ngoài lái xe ra tổng cộng có năm người. Bên trong xe lặng phắc như tờ, chẳng ai bắt chuyện, cũng chẳng ai hàn huyên. Bốn người kia đều ngồi im tại chỗ, trưng ra vẻ mặt hờ hững khó gần. Chỉ khi xe thình lình xóc nẩy lên, họ mới đảo mắt thật nhanh, vờ như vô tình liếc nhau một cái sắc lẻm. Tôi cảm giác được họ không giống mình. Tôi là chủ một tiệm đồ cổ nhỏ trong thành phố, còn họ là con buôn cổ vật chuyên thu mua đồ cũ từ nông thôn. Những người này quanh năm suốt tháng lê la dưới quê, qua lại với đám nông dân vừa chất phác vừa gian xảo nên người cũng thoang thoảng mùi bùn đất và sát khí. Bọn họ là ai? Xe chạy đi đâu? Tôi hoàn toàn không biết. Cửa xe đóng kín, bên ngoài đêm tối như mực, không trông rõ được cảnh vật. Chỉ có tiếng động cơ chạy ì ì cho thấy chúng tôi đang tiến tới một mục tiêu nào đó. Tôi cũng chẳng buồn nghĩ nhiều, dựa đầu vào cửa kính lạnh lẽo, huyệt Thái Dương tì vào chốt cửa, gà gật ngủ. Xe chạy lắc lư tròng trành dữ dội, trong lúc mê man, tôi chợt có một ảo giác lạ lùng: thùng xe chẳng khác nào cỗ áo quan khổng lồ vừa đóng đinh, kín mít không lọt một tia sáng. Tôi nằm trong, bên ngoài có mười sáu người khiêng quan tài băng qua nghĩa địa, bước xuống lối vào mộ, tiến về phía huyệt mộ cuối cùng... Phải rồi, quên chưa tự giới thiệu. Tôi tên Hứa Nguyện, hơn ba mươi, là một tay buôn cổ vật cò con dưới chân hoàng thành. Tôi có một cửa tiệm nhỏ ở Lưu Ly Xưởng, buôn bán kim thạch ngọc khí, gọi là Tứ Hối Trai. Tứ hối là gì? Chính là hối người, hối việc, hối lỗi, hối lòng. Đây là lời trăng trối của bố tôi, dạo Cách mạng Văn hóa, ông bị hãm hại phải nhảy xuống hồ Thái Bình tự tử, chỉ để lại tám chữ này. Song đằng sau đó còn ẩn giấu một câu chuyện dài. Tổ tiên tôi là một chi trong “Minh Nhãn Mai Hoa” gồm năm gia tộc lâu đời trong ngành cổ vật, mỗi nhà sở trường giám định một loại đồ cổ, có địa vị cực cao trong giới sưu tầm. Sau giải phóng, Minh Nhãn Mai Hoa cải tổ thành Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa, vẫn có sức ảnh hưởng không nhỏ. Hứa Nhất Thành, ông nội tôi là chưởng môn Minh Nhãn Mai Hoa thời Dân Quốc, xuất thân Bạch môn, về sau vì đánh cắp đầu Phật ngọc ở minh đường Võ Tắc Thiên tuồn cho người Nhật nên bị coi là Hán gian đem xử bắn. Từ đó nhà tôi cũng sa sút không gượng dậy nổi, rút lui khỏi Minh Nhãn Mai Hoa. Vào ngày sinh nhật ba mươi tuổi, do sự thúc đẩy của những người cố ý, tôi đã rơi vào vòng xoáy này. Trải qua một phen bôn ba trắc trở, cuối cùng xem như tôi cũng giải oan được cho ông nội, đưa đầu Phật về nước, kết thúc mối dây dưa ngàn năm giữa nhà họ Hứa và đầu Phật ngọc. Sau khi xong việc, tôi quay về Tứ Hối Trai, tiếp tục buôn đồ cổ, sống lặng lẽ. Đột nhiên nghe phanh két một tiếng, người tôi đổ nhào về phía trước, sực tỉnh khỏi dòng ký ức. Xe đã dừng lại, tôi mở mắt ra, lắc lắc đầu. Ngờ đâu vừa quay đầu sang, tôi chợt thấy một gương mặt trắng bệch với đôi mắt cực kỳ quái dị hiện lên giữa bóng tối bên ngoài xe, một bên to tướng như mắt trâu, lòng đen ít lòng trắng nhiều, bên kia lại nhỏ xíu, thi trừng mắt với rùa chưa chắc đã thắng nổi. Cặp mắt một to một nhỏ này, trông như lúc nào cũng đang ngắm bắn. Tôi giật thót mình, vô thức rụt người lại, suýt nữa ngã nhào khỏi ghế. Bốn kẻ cùng xe cười nửa miệng, lộ vẻ khinh bỉ. Bấy giờ tôi mới nhớ ra, gương mặt này hẳn là của tài xế. Chẳng để tôi nghĩ nhiều, cửa xe đã bị kéo đánh “xạch”, tài xế ló đầu vào, đảo tròn con mắt to rồi làm động tác mời, giọng khàn khàn, “Tôi tên Mắt Trố, làm chân chạy bàn, mời các vị theo tôi.” Tôi vội điều hòa hơi thở, theo bốn người kia xuống xe. Vừa đặt chân xuống đất đã thấy mùi cỏ dại và cành thông xộc vào mũi man mát. Khỏi cần hỏi cũng biết, đây là mùi đặc trưng của chốn đồng không mông quạnh, hơn nữa còn là nơi hết sức hoang vu. Tôi nhìn quanh, lờ mờ thấy mấy ngọn núi đằng xa, trông như thú dữ mai phục trong đêm, có thể nhào tới bất cứ lúc nào. Mắt Trố bảo bọn tôi theo sát sau y. Mây đen đang bao phủ bầu trời, che khuất mặt trăng, chỉ có ngọn đèn pin loang loáng thoắt sáng thoắt tối trong tay Mắt Trố soi đường. Cây đèn pin của y có vẻ rất được chăm chút, bóng đèn bọc một khoanh giấy bìa cứng, như vậy cột sáng chỉ tập trung vào phía trước, không chiếu sang hai bên, nên cách hơi xa sẽ không thấy được. Chúng tôi bước thấp bước cao trên triền núi theo y chừng hơn mười phút, rẽ ngoặt liên tục, còn băng qua hai khoảng rừng. Rốt cuộc một người không kìm được lên tiếng hỏi, “Anh đưa chúng tôi đến đâu đây? Cỗ ở đâu vậy?” Mắt Trố quay lại nhe răng cười đáp, “Nôn nóng làm gì, chủ đâu có rời chiếu cỗ được.” Nói đoạn còn cười khà, tiếng cười như quạ. Y vừa cười, nhiệt độ xung quanh chợt hạ xuống, lạnh buốt cả người. Kẻ kia không dám hỏi thêm nữa, đành “hừm” một tiếng rồi đi tiếp. Đám chúng tôi đi chừng hơn nửa tiếng thì tới một khe núi vắng. Khe núi bị hai dãy núi cao ngất kẹp vào giữa, tạo nên một bình nguyên dưới chân núi. Từ đằng xa loáng thoáng nghe thấy tiếng nước chảy róc rách, hẳn là dòng suối từ trên núi chảy xuống, uốn quanh chỗ này, cắt khe núi thành hình tam giác. Khe suối là đáy, hai dãy núi sừng sững hai bên. Địa hình này trong phong thủy gọi là hai rồng xuống nước, là đất lành hợp xây mồ mả. Mắt Trố tiến vào khe núi thì dừng chân, rọi đèn pin về phía trước. “Bên này.” Chúng tôi nhìn theo ánh đèn, thấy thấp thoáng đằng xa một người trẻ tuổi mặc đồ rằn ri đang ngồi trước mặt là một cái hố rộng chừng nửa mét, mép hố còn gác ba chiếc xẻng cán thép và cả đống đất mới đào. Khỏi cần hỏi cũng biết ở nơi đất báu phong thủy thế này đào sâu ba thước ắt có mồ mả, có mồ mả tất có trộm mộ đánh hơi được kéo đến. “Đào tới đâu rồi?” Một tên mặt sẹo đi cùng tôi hỏi. Mắt Trố di chân xuống đất, hể hả đáp, “Tìm ra vị trí mộ rồi, vừa rồi chúng tôi mới đào đến vách sau, chỉ một nhát nữa là tới cửa thôi, đợi các vị đến mở chiếu đấy.” Mấy người đi cùng tôi đến trước hố đất, gạt lớp đất mới đào ra, vẻ mặt không ai giống ai. Nghe nói trộm mộ lâu năm chỉ cần nhìn đất là biết niên đại mộ. Có điều tôi chẳng có tài ấy, chắc hẳn mấy kẻ đi cùng cũng chẳng khá hơn. Chúng nhìn đất chỉ để yên tâm chứ đâu nhận ra cái gì. Kiểm tra đất xong, Mắt Trố cười khì, “Các vị may thật đấy, món lần này là thịt kho của bếp trưởng. Nếu không có gì thắc mắc thì lên món nhé?” Cả năm chúng tôi đồng loạt gật đầu, đứng tránh ra một quãng. Mắt Trố soi đèn pin về phía kia, hô “mở bát”, tức thì tên chạy bàn mặc đồ rằn ri đứng dậy, cầm chùy sắt và xẻng lên. Dáng gã gầy gò, lách vào hầm dễ như bỡn. Mắt Trố rút trong ngực áo ra một chai rượu trắng hàng chiết lẻ và năm cái chén, lần lượt đưa cho năm chúng tôi, “Trong núi sương dày lạnh giá, làm ít rượu trắng cho ấm người, phải chờ một lúc nữa cơ.” Không nói thì thôi, y vừa nói tôi liền thấy gió lạnh bốn bề, sương mù bảng lảng, vô thức liếc nhìn vào cánh rừng tối om. Mắt Trố đưa chén tới trước mặt tôi cười, “Chú em lần đầu ăn trên chiếu à?” Thấy tôi cười ngượng, y nói, “Ăn quen bén mùi, anh em mình vất vả một tí, nhưng chắc ăn hơn, có phải không?” Tôi gật đầu lia lịa, đón lấy chén rượu uống cạn, rượu trắng cay nồng như ngọn lửa cháy lan theo cổ họng xuống tận dạ dày, song mắt tôi vẫn dán vào đống bùn đất đang không ngừng đùn ra từ cửa hầm, lòng quặn lên. “Ăn trên chiếu” như lời Mắt Trố là một hoạt động khá kín đáo trong giới đồ cổ, trước đây tôi chỉ nghe nói, không ngờ hôm nay cũng được tận mắt chứng kiến. Phần lớn đồ cổ đến từ hai nguồn: một là đồ gia truyền đời đời lưu giữ, hai là đồ tùy táng bị đào ra. Loại trước được truyền đời rõ ràng, nhưng loại sau hơi khó phân định thật giả. Anh bảo món đồ này đào được trong mộ ra, bằng chứng đâu? Lỡ lừa gạt người ta thì sao? Phải biết có những món đồ cổ bản thân nó hoàn toàn không đáng tiền, tất cả giá trị đều nằm ở xuất xứ. Cùng một hạt dưa, mua từ hàng tạp hóa thì chẳng đáng một xu, nhưng nếu từ trong bụng xác nữ ở gò Mã Vương thì nghìn vàng chưa mua nổi. Thế là có kẻ nảy ra một cách, thăm dò xác định vị trí mộ đâu vào đấy, đào đường hầm đến cạnh mộ rồi để đó, mời vài người mua đến hiện trường, mở cửa mộ ngay trước mặt họ, đào lên bán sang tay luôn. Người mua chính mắt thấy đồ được đào dưới mộ lên, dĩ nhiên khỏi cần lo hàng giả. Trò này trong ngành đồ cổ gọi là “ăn trên chiếu”, không phải chiếu rượu, mà là chiếu cói, chiếu cói để làm gì? Thời xưa người ta dùng chiếu cói bọc xác chết, nên nó ý chỉ mồ mả. Những người mua như chúng tôi gọi là “khách”, trộm mộ thì gọi là “chạy bàn”, dĩ nhiên “chủ” chỉ người chết trong mộ. Bởi vậy vừa rồi Mắt Trố nói “chủ không rời được chiếu cỗ” khiến mấy người kia sợ quá nín thít. Mời bạn đón đọc Bí Ẩn Thanh Minh Thượng Hà Đồ của tác giả Mã Bá Dung & Tố Hinh (dịch).
Tiệm Bá Nghệ Tada Trước Ga Mahoro
Tada Keisuke, một nhân viên bán ô tô quyết định bỏ nghề, mở tiệm bá nghệ. Gyoten Haruhiko, một nhà nghiên cứu bệnh lý bỗng nhiên bỏ việc, lang bạt nay đây mai đó. Hai người bạn cấp ba chung lớp chưa một lần trò chuyện và chẳng khác nào hai đường thẳng song song ấy chỉ vì một lần trùng phùng nơi trạm xe buýt mà bước vào cuộc sống của nhau. Để rồi, ngày ngày họ rong ruổi khắp những con phố ở Mahoro trên chiếc xe tải nhẹ, làm đủ loại việc vặt mà khách yêu cầu; dắt chó đi dạo, thăm nom người ốm, quét dọn vườn tược, sửa chữa chuồng chó… Hai con người với hai tâm hồn cô độc chưa bao giờ cố để hiểu nhau, càng chẳng đòi hỏi gì ở đối phương, chỉ lặng lẽ sống như vậy qua ngày. Bởi họ biết rằng, một ngày nào đấy, hạnh phúc nhất định sẽ lại tìm đến mình dưới một hình hài nào đó thật khác. *** Miura Shion Cô sinh năm 1976 tại Tokyo, là con gái một học giả cổ điển nổi tiếng của Nhật Bản, vì vậy tình yêu với sách của tác giả được nảy sinh từ khi còn rất trẻ . Khi còn là sinh viên năm cuối khoa Văn Thư tại Đại học Waseda, cô bắt đầu tìm kiếm cho mình một vị trí biên tập, một công ty văn học đã nhận ra được tài năng viết lách của cô và thuê cô để bắt đầu viết một cột nhận xét sách trực tuyến ngay cả trước khi cô tốt nghiệp. Cô đã giành được nhiều giải thưởng lớn như:  Giải thưởng Naoki lần thứ 135.   Giải thưởng Oda Sakunosuke và Giải thưởng Nhà sách Nhật Bản năm 2012.   Một số các phẩm của cô đã được chuyển thể cho phim ngắn hoặc phim truyền hình. Sách của cô đã được dịch sang tiếng Trung, tiếng Hàn, tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Đức và tiếng Ý. Tác phẩm: Bước Chạy Thanh Xuân Người Đan Chữ Xếp Thuyền Tiệm Bá Nghệ Tada Trước Ga Mahoro Những Vị Khách Của Tiệm Bá Nghệ Tada ... *** Bà Soneda đã tiên đoán như vậy “Sang năm là mầy bận rộn lắm đó con.” Vào buổi chiều một ngày cuối năm nọ, bầu trời quang đãng, bà Soneda đã buông một câu như vậy. Phòng khách của bệnh viện yên ắng quá đỗi. Ngoài khung cửa là bãi cỏ khô và những lùm cây rụng lá. Hai chiếc ti vi cỡ lớn đều giảm âm lượng xuống mức tối thiểu, một chiếc đang phát lại phim truyền hình dài tập, chiếc khác thì chiếu trận đua ngựa. Các ông già bà cả tập trung ngoài phòng khách thích ngồi bàn nào thì ngồi bàn đó, tự chia làm hai tốp rồi dán mắt vào một trong hai chiếc ti vi. Thi thoảng đâu đó sẽ vang lên những tiếng thọc tay vào gói bánh kiều mạch mang từ phòng bệnh tới hay tiếng bánh xe lăn kêu ken két. “Chả có nhẽ lại buôn may bán đắt nhỉ?” Tada Keisuke vừa cắt nhỏ bánh bông lan mật ong mua tới làm quà ra cho vừa miệng, vừa hỏi lại. Bà Soneda thì còn đang bận gườm chiếc bánh bằng cặp mắt sáng quắc như hổ rình mồi. Tada chỉ cắt ra hai miếng để vào đĩa giấy trên bàn rồi cất phần còn lại vào trong hộp nhựa, miệng căn dặn bà già: “Mẹ không thể ăn hết cả cái cùng lúc đâu! Đợi đến giờ ăn vặt rồi chia cho các bạn cùng phòng nhé.” Hắn rót trà nóng mua ở máy bán hàng tự động vào cốc giấy rồi đưa cho bà già. Bà nhúng bánh bông lan vào trà cho mềm ra rồi khởi sự ăn. “Buôn bán thì chả khác gì năm nay đâu! Mầy bận là bận chuyện của mầy ấy!” Bà già lại nói. “Không khéo mất luôn con vợ cũng chẳng biết chừng!” Vợ thì con bỏ từ đời rồi bà ơi! Tada nghĩ thầm trong bụng, song cũng chỉ im lặng nghe bà già nói tiếp. “Tiếp nhé, rồi mầy còn sẽ bắt đầu một cuộc thiên di, khóc khóc cười cười nữa cơ.” “Thiên di? Đi đâu cơ?” “Một nơi rất xa, rất xa. Xa như trong thẳm sâu trái tim mầy vậy.” Kể từ sau cái hồi bị bác sĩ phán rằng: “Những con ma xuất hiện vào ban đêm ấy thực chất chỉ là tâm cảnh của bà thôi, chúng được sinh ra từ trong lòng bà, bà Soneda à...” thì bà già đã không còn mấy lòng tin vào con tim mình nữa. Nên hẳn nơi mà bà nhắc đến phải xa cỡ nước ngoài, nơi người ta nói thứ ngôn ngữ hắn nghe không hiểu một chữ. “Ái chà, bà Kiku lại đang tiên tri kìa.” Nghe một giọng khàn đột ngột cất lên sau lưng, Tada ngoái lại. Ông lão hắn hay thấy trong bệnh viện với cây treo túi truyền dịch kiêm gậy batoong đang đứng đó. “Như nào rồi? Như nào rồi?” Ông lắc đầu, bỏ về phía chiếc ti vi. Bà già tiếp tục xì xụp hớp hết cốc trà. “Tóm lại là mầy sẽ bận bịu lên đấy, và không còn đến chỗ này mấy nữa.” “Kìa mẹ, chẳng có chuyện như vậy đâu!” Những lời sau đó nghẹn lại nơi cuống họng Tada. Hắn đã không thể thốt ra nổi một câu rằng: “Con sẽ lại đến.” Để xua đi giây phút ngượng ngập, hắn đề xuất: “Mình quay về phòng thôi nhỉ?” Nghe hắn nói vậy, bà Soneda chỉ lẳng lặng gật đầu. Bà già lững thững bước trên hành lang, Tada kiên nhẫn bước theo. Bà đã ngót nghét chín mươi đâm lưng còng xuống chỉ còn cao đến thắt lưng Tada. Phòng bệnh của bà là phòng cho sáu người, mỗi bên kê ba giường, giường của bà nằm ở giữa một bên. Tada lại giúp bà thật cẩn thận, cẩn thận, trèo lên giường. Bà già ngồi quỳ gối trên đó, cuộn người lại nom chẳng khác gì miếng bánh giầy Đại Phúc nhỏ bé. Tada đặt hộp nhựa đựng bánh bông lan lên chiếc tủ thép đầu giường rồi tính chào tạm biệt. Vừa lúc một y tá bước vào, khẽ gật đầu chào hắn, và thế là hắn để lỡ mất cơ hội chuồn cho nhanh của mình. Y tá vui vẻ bắt chuyện với bà lão. “Ôi! Bà Soneda có anh con trai ngoan quá. Anh lại đến thăm bà đấy à?” Đoạn cô ghé vào tai cụ già nằm giường trong cùng không rõ là ông lão hay bà lão, hét thật to: “Bác đau lưng ạ? Để cháu đổi tư thế cho bác nhé?” Rồi kéo roẹt tấm rèm ngăn hai giường lại. Có vẻ như ở phía bên kia rèm, cô y tá đang lật người cho cụ già, tránh để cụ bị loét lở vì nằm liệt. Tóc bà Soneda đã bạc trắng, còn lưa thưa có vài sợi. Tada cứ đứng đó hồi lâu nhìn xuống cái xoáy trên đầu bà, cuối cùng hắn nói. “Thế mẹ nhé, mẹ đón năm mới vui vẻ.” “Ừ.” Bà nói như đang thì thầm. Lúc nào chia tay bà cũng trở nên lầm lì ít nói. Tada bước vội ra ngoài hành lang, lúc đi khỏi cửa, hắn còn ngoái lại, bà lão vẫn cứ y chiếc bánh Đại Phúc ở trên giường, cúi gằm mặt xuống. Nếu thật sự là một “đứa con ngoan” thì đã chẳng để mặc bà mẹ già ốm o của mình lủi thà lủi thủi trong bệnh viện đón năm mới, càng chẳng để một người dưng nước lã tới thăm bà thay cho mình. Tuy nghĩ vậy nhưng Tada cũng hiểu chính vì bản thân hắn là một người xa lạ cho nên mới có thể nói ra những lời đãi bôi một cách vô tư như thế. Đến khi leo lên chiếc xe tải nhẹ màu trắng đậu trong bãi, hắn mới có thể thở phào nhẹ nhõm. Cho dẫu những bức tường kia có được sơn bằng màu kem tươi sáng cỡ nào chăng nữa, thì bầu không khí bên trong bệnh viện vẫn khiến tâm trạng người ta u sầu ủ dột chẳng rõ tại làm sao. Tada xoay chìa khóa khởi động xe, và trong lúc chờ hệ thống sưởi hoạt động, hắn đốt một điếu thuốc lá. Hỗn hợp mùi amoniac và thuốc sát trùng vẫn còn đẫm trong cuống mũi hắn. Hắn mở hé cửa sổ xe, đẩy tất cả theo làn khói thuốc thoát ra ngoài. Rút điện thoại khỏi túi áo khoác, hắn gọi vào một dãy số. Phải đến lần gọi thứ năm, hắn mới nghe được giọng một phụ nữ trung niên bắt máy. “Cửa hàng xây dựng Soneda xin nghe.” “Tôi là Tada bên tiệm bá nghệ, cho hỏi anh Masatoshi có đó không ạ?” “Ảnh đi ra ngoài rồi, cậu thăm bệnh xong rồi đó hả?” “Vâng, vừa mới xong.” “Cảm ơn cậu nhé. Tôi sẽ báo lại với chồng tôi.” Ê chị, cẩn thận đi thì hơn, năm sau có lẽ hai người sẽ ly hôn đấy.Hắn còn chẳng kịp nói những lời này thì điện thoại đã bị ngắt cái rụp. Thôi bỏ đi, hắn nghĩ, rồi gập điện thoại lại. Đương nhiên lời bà Soneda cũng có phải lời sấm truyền gì đâu, chỉ là chút thở than của người già thôi mà. Ngày mai hắn sẽ có năm đơn treo cây nêu ngày Tết, một đơn tổng vệ sinh nhà cửa. Tada lái con xe tải nhẹ, quay trở về văn phòng làm việc của mình nằm ở trước ga Mahoro. Mời bạn đón đọc Tiệm Bá Nghệ Tada Trước Ga Mahoro của tác giả Shion Miura & Phong (dịch).
Chiếc Vòng Thạch Lựu
Chiếc vòng thạch lựu, dịch giả Đoàn Tử Huyến. Tình yêu không vụ lợi là đây, đây là 1 trong những tác phẩm tình yêu hiếm hoi mình yêu thích   "Một trong những truyện ngát hương thơm và đầy day dứt về tình yêu - và buồn thảm nhất - đó là truyện Chiếc vòng thạch lựu của Cuprin" (Pauxtopxki) Chiếc vòng thạch lựu là thiên truyện tình hay nhất của nhà văn A. Cuprin, một mối tình trong sáng, mãnh liệt, cao cả, đẹp và buồn, sẵn sàng hi sinh bản thân bởi tình yêu, câu chuyện nhẹ nhàng đầy tính chất nhân văn. K. Pautovski từng nói về Cuprin rằng: "Chúng ta cần phải biết ơn Cuprin vì tất cả - vì tấm lòng nhân hậu sâu sắc của ông, vì tài năng vô cùng tinh tế của ông, vì tình yêu đối với tổ quốc và niềm tin không gì lay chuyển nổi vào hạnh phúc của dân tộc mình, và cuối cùng, vì khả năng không bao giờ mất đi ở ông, cái khả năng cháy lên từ những lần tiếp xúc dù ngắn ngủi nhất với chất thơ của cuộc sống, và viết về điều đó một cách thoải mái nhẹ nhàng." *** Aleksandr Kuprin là một trong những nhà văn Nga xuất sắc hồi cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20. Ở Việt Nam, ông được độc giả biết đến qua tác phẩm "Chiếc vòng thạch lựu" và "Người tình của vua Sô lô mông" (Суламифь). Aleksandr Ivanovich Kuprin (1870 - 1938) là một trong những đại diện cuối cùng của thế hệ bạc (Sliver Age) của dòng văn học Nga lãng mạn trước Cách mạng. Văn của ông có giọng điệu riêng và chiếm vị trí đặc biệt trong lòng độc giả Nga, ông được gọi một cách yêu quý là “Nhà văn của dân nghèo”.  Trong hơn 40 năm lao động sáng tác, ông đã để lại cho văn học Nga và thế giới một di sản đồ sộ với khoảng 300 tác phẩm lớn nhỏ. Các tác phẩm của ông bao quát nhiều lĩnh vực trong đời sống Nga cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Ông tập trung viết về cuộc sống đời thường, chủ đề tình yêu vẫn chiếm vị trí trung tâm. Các mối tình trong truyện của ông giản dị, không có kết thúc quá bi thảm, nhưng đa số đều không trọn vẹn, và đôi khi rất bất ngờ, để lại trong tâm trí người đọc một câu hỏi tuy chỉ thoáng qua nhưng day dứt. *** Vào giữa tháng tám, vừa mới bắt đầu có trăng non, thời tiết bỗng trở nên tồi tệ, như thường vẫn gặp ở vùng duyên hải bắc biển Đen. Khi thì một màn sương mù dày đặc suốt mấy ngày liền nặng nề bao trùm khắp mặt đất và mặt biển, và lúc đó chiếc còi lớn trên ngọn hải đăng ngày đêm rống lên như một gã trâu điên; khi thì ngày này sang ngày khác mưa phùn dai dẳng không dứt, biến các con đường đất sét lớn nhỏ thành bãi lầy đặc sệt, làm những cỗ xe ngựa chở khách và chở hàng thụt xuống mãi không lên được. Lại có khi một cơn bão tuyết hung dữ từ đồng cỏ hướng tây bắc tràn về, các ngọn cây ngả nghiêng, nằm rạp xuống rồi lại đứng thẳng lên như những cơn sóng biển trong dông tố; đêm đêm, mái nhà bằng sắt tây của các nhà nghỉ ngoại thành rung lên kêu loảng xoảng chắng khác gì có người đi ủng đế sắt chạy trên đó; những khung cửa sổ, của chính bị giật liên hồi; gió hú man dại trong các ống khói lò sưởi. Đã có mấy chiếc xuồng máy đánh cá bị lạc ngoài khơi, và hai chiếc vĩnh viễn không bao giờ về nữa; phải một tuần sau, sóng mới đánh dạt mấy xác người lên bờ ở những chỗ khác nhau. Những người trong khu nhà nghỉ ngoại ô cạnh bờ biển - phần lớn là dân Hi Lạp và Do Thái, yêu đời và cả lo như tất cả những người sống ở phương Nam - vội vã trở về thành phố. Dọc theo con đường cái lớn lầy lội, những đoàn xe bốn bánh chở hàng kéo dài tưởng như vô tận; trên xe chất đầy các vật dụng trong nhà - nệm giường, đi văng, hòm xiểng, bàn ghế, chậu rửa mặt, ấm xamôva. Vừa buốn, vừa thương hại, vừa khó chịu khi nhìn đoàn xe lôi thôi lốc thốc đến tồi tàn, bẩn thiửu và thê lương này qua màn mưa đục; nhìn đám hầu phòng và đầu bếp gái ngồi đè lên những tấm vải bạt ướt phía trên xe, tay giữ khư khư mấy chiếc bàn là, hộp sắt tây hoặc làn giỏ; nhìn những con ngựa kiệt sức, mình đẫm mồ hôi, thỉnh thoảng dừng lại, đầu gối run rẩy, hơi nước bốc lên như khói, cặp sườn thở gấp phập phồng; nhìn những người đánh xe quấn kín mình trong các tấm vải bố và chửi nhau đến khản cả giọng. Nhưng còn đáng buồn hơn nữa khi nhìn những ngôi nhà nghỉ đột ngột trở nên hoang vắng với những bồn hoa bị dẫm nát, những cửa kính bị vỡ toang, những con chó không chủ và đủ các thứ rác rưởi của đám người đi nghỉ bỏ lại - tàn thuốc lá, giấy lộn, mảnh gốm, vỏ diêm và ve lọ đựng thuốc ngổn ngang khắp nơi.   Mời các bạn đón đọc Chiếc Vòng Thạch Lựu của tác giả Aleksandr Kuprin.