Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ăn Mày Dĩ Vãng - Chu Lai

'Ăn mày dĩ vãng' của Chu Lai là một tiểu thuyết chiến tranh nhưng kỳ thực nó phô bày hết mọi mặt của cuộc sống. Từ cuộc chiến tranh đẫm máu giữa hai phe: ta và kẻ thù đến tâm sinh lý con người, đến tình yêu lãng mạn trong thời kỳ dã man và khốc liệt, rồi cả những mặt trái trong thời chiến lẫn thời bình đều được lôi ra tuồn tuột trưng bày cho độc giả nhấm nháp và chiêm nghiệm suy tư. Hải Giang (Cuốn sách của tôi) Tôi - một con nhỏ 21 tuổi, sinh ra, lớn lên và đang sống trong bình, hiếm khi để mắt, hứng thú với đề tài chiến tranh và những cái thuộc về quá khứ. Nhưng không biết một sự đẩy đưa vô duyên cớ nào mà tôi đã tập trung hết sức lực của đầu óc và tim gan một cách cao độ để đọc hết quyển Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai. Về chiến tranh. Phải, ngòi bút chu Lai đã vẽ ra, không, phải nói là đã tạc vào không gian trước mắt người đọc toàn bộ cảnh tượng hãi hùng, đầy mất mát thương đau đến độ cái buồn dai dẳng mà không biểu lộ ra bằng nước mắt, chỉ bằng tiếng kêu inh ỏi trong tim gan, trong óc. Tôi thật sững sờ, ngóng theo từng trang viết và cái tâm hồn yếu đuối, ủy mị thiếu rèn luyện của va chạm cuộc đời, của những vất vả khổ đau, của bất hạnh hay chông gai trở ngại đã bị thay đổi hoàn toàn. Tôi nhận ra quá khứ bị bỏ quên một cách phũ phàng. Đành rằng con người ta sống trên đời cần phải sống cho hiện tại thật tốt và hướng đến tương lai. Nhưng không vì vậy mà phủi sạch mọi thứ của quá khứ, của dĩ vãng kinh người khiến bao nhiêu số phận trở nên lao đao lận đận. Họ lận đận là vì ai, vì họ, không, vì tất cả, vì lẽ sống cho nhân loại, vì yên bình cho mọi người, cho tất cả chúng ta. Tiểu thuyết không vênh vang ca ngợi bằng những lời lẽ khô khốc khuôn sáo, mà chính từ những gì đã xảy ra theo một diễn biến tự nhiên sinh động, thực, rất thực đã tự cho ta thấy được giá trị của những đức hy sinh chân chính. Không hoàn toàn hoàn hảo như thiên thần, họ, những con người vì quê hương bán mạng bám lấy từng mảnh rừng, quyết giữ gìn từng tấc đất, không nề hà sống trong những chốn hiểm nguy, cốt mơ ước khát khao thực thi cho được sứ mệnh cứu nước vĩ đại, cũng đôi lúc "phàm tục". Đó là khi đói quá họ phải ăn trộm hộp sữa trong bồng của đồng đội ăn, hay như cái ông Tám Tính đi vồ con gái người ta để thỏa mãn nhục dục đang lên đến mức cuồng tính, hay để cướp cò B41 làm chết người bạn đồng chí, đồng hương của mình... Họ hết sức bình thường, bình dị giản đơn, những con người chứa đựng cả hai mặt ưu và khuyết điểm. Chỉ những người trong cuộc, từng sống chung và trải qua mới kể lại một cách rành rọt chi tiết, tỉ mỉ và y như thật như thế. Nếu không thì Chu Lai quả là một ngòi bút thiện xạ, có một đôi mắt và óc nhìn khuất lấp, ít nhất là với tôi, ông ấy đã để lại một ấn tượng không phai nhòa về một thời ở một vùng khói lửa chiến chinh với muôn mặt người tốt xấu. Đọc tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng, người ta thấy dù trong thời chiến hay thời bình đều có những nhân vật thừa nước đục thả câu, đục nước béo cò, mà sự thật của những bộ mặt ấy thật đáng nguy hại cho xã hội loài người. Thằng Địch là đồ khốn, nó đáng phải bị bắn nổ sọ vì những trò gian manh ác ôn của nó, của thằng bán nước. Và tôi yêu mến cô Sương từ đoạn đầu tiểu thuyết cho tới lúc cô bị đạn bắn chi chít lên người, "óc phòi ra" khi từ dưới hầm chạy lên, không vì cái ống quần ác nghiệt trong giây phút nghiệt ngã vô thường này, đã chạy đến được với tình yêu đang đợi ở bên suối, sau lưng là sự truy đuổi ráo riết. Tôi sẽ yêu mến cô đến cuối cùng nếu như cô chết ngay lúc đó. Về sau sự yếu đuối và dung dưỡng của cô, và cả cái tình yêu "dần dần mà ra" với tên địch khốn kiếp thiệt đáng trách, đáng ghét, đáng bực mình làm sao. Cô Ba Sương đáng yêu nồng hậu và quyết đoán lại xử sự như thế trước một tên ác ôn quả là đáng lên án, không chịu được, tôi đọc mải miết và cảm thấy bức xúc vô cùng, lần theo từng trang sách tôi vừa hồi hộp vừa run run, tiếc nuối một Ba Sương với bờ vai chim sẻ, thật đáng yêu và đáng trân trọng... Giờ đây, cái tên Tư Lan lạ lẫm, cô ta không xứng với tình yêu của hai Hùng. Anh hai Hùng! Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, tình yêu vẫn đẹp và lãng mạn, dường như đó là một đặc tính, là bản chất muôn thuở của tình yê. Lối viết của Chu Lai khiến độc giả hồi hộp, tập trung, thần kinh như bị căng ra đến độ muốn đứt nhưng không đứt được, cứ lằn nhằn, khó chịu, bứt rứt, rồi đứng im, rồi hụt hẫng, chao đảo, buồn thương, tiếc nhớ. Xen lẫn một chương hiện tại với một chương quá khứ, Ăn mày dĩ vãng đúng thực là ăn mày dĩ vãng, gã ăn mày không cần tiền vàng chức tước mà chỉ cần một cái quá khứ bị đánh cắp, một cái sự thật rõ ràng, không ngại khó mà lội ngược dòng tìm người thương và những bối rối cả đời cần được tháo gỡ, cần được giải đáp. Thương lắm, cảm động lắm, tình yêu ấy đẹp lung linh và tỏa ra một thứ ánh sáng muôn vẻ... Tôi thầm lặng nhìn lại, chao, tôi đang phí hoài quá một tuổi trẻ, một tình yêu nông cạn và lầm lỗi của chính mình. Cái cách đan xen giữa quá khứ và thực tại như thế làm cuốn hút người đọc, đồng thời nó tạo bố cục hợp lý chặt chẽ giữa các tình tiết một cách tự nhiên, không gượng ép, như cái chương hai Hùng và Ba Sương yêu nhau trong căn hầm, nhờ lần đó mà hai Hùng phát hiện ra nốt rùi nhỏ phía ngực trái như "mắt đôi chim câu" của Sương, sang chương sau - chương hiện tại - đó lại là chi tiết để hai Hùng nhận ra Ba Sương một cách rõ ràng nhất... dù đau khổ và tê tái hay trong tình huống nguy nan kịch liệt, hoặc là dở khóc dở cười, giọng văn của Chu Lai vẫn hóm hỉnh, lạnh nhưng vẫn ấm. Bút pháp mạnh mẽ đến kỳ lạ, cách dùng từ lạ lẫm có sức hút người đọc độc đáo. Tôi còn nhớ mãi cái búi lãi trong bọc nước ở cái bụng mở tang hoác của Bảo khi bị B41 cướp cò từ tay Tuấn, cái họng đầy những đất cát, cỏ cây, đờm dãi và máu của một anh lính mắc ho khi đứng sát chân thằng địch, chỉ vì - cái cách tác giả giải thích cho những điều ông ấy viết ra luôn tự nhiên, tự nhiên đến đau lòng – "lôi được cậu ta ra ngoài hàng rào thì mặt mày đã tím bầm, sưng tấy, mồm miệng nhoe nhoét những dãi dớt trộn máu, trộn đất... Ở cái giây phút cuối cùng, cậu ta đã âm thầm tự nhét đất, nhét cỏ vào đầy cổ họng mình đến tắc thở để cho tiếng ho thứ hai khỏi phụt ra kéo theo cái chết của bạn bè!" Những con người hy sinh nhiều nhất là những con người sau hòa bình lập lại sẽ ẩn sâu vào cuộc sống bình dị đời thường hay ẩn náu nơi chốn nào đó thư thái tâm hồn mà nhớ chuyện ngày xưa, họ sống như một công dân bình thường... Họ không huênh hoang chiến công này, chiến tích nọ, họ luôn im lặng để mặc cho năm tháng chiến tranh, năm tháng mà họ phải chiến đấu gian khổ cực nhọc bào mòn đi tuổi trẻ và hạnh phúc của họ, để lại trên thân thể họ những vết thương đau âm ỉ. Mặc kệ luôn cả những thói đời đang từng ngày làm tổn thương họ thêm lần thứ hai, lần này là về mặt tinh thần, những sự thật méo mó, giả dối tràn ngập giữa dòng đời đang chảy dữ dội, sức người khó lội ngược, vượt qua, nếu cứ lội ngược thì không bèo nhèo thì cũng dễ chết lắm. Mà họ thì không lội ngược không được, thấy nghịch lòng trái lương tâm lắm! Ăn mày dĩ vãng có một cái kết thúc vừa có hậu vừa không có hậu. Nó hợp lý, hợp lẽ, hợp tình. Chỉ tội cái mảnh tình thủy chung của hai Hùng không ráp lại được với Ba Sương ngày gặp mặt sau 20 năm. Nhưng tâm hồn anh hai Hùng giờ đã nhẹ ra và bên anh còn những ông bạn chí cốt, thế là lẽ sống đã không tuyệt đường, vẫn đâu đó niềm hy vọng, một cuộc sống vui vẻ và hạnh phúc, mãi mãi! Cần Thơ ngày 13 tháng 04 năm 2010 *** Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Nắng Đồng Bằng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Người lính trong Nắng đồng bằng không chỉ biết có chiến đấu vì lý tưởng, biết đấu tranh, giành giật sự sống trước bom đạn, trước kẻ thù mà cũng có những suy tư, tính toán thiệt hơn... nhưng cuối cùng họ vượt qua tất cả để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chính Chu Lai từng bộc bạch "Cuộc đời có thể xô đẩy người lính, quăng quật người lính nhưng người lính vẫn bật lại để sống xứng đáng với màu xanh áo lính". Có thể nói mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. Một số tác phẩm của tác giả Chu Lai: Cuộc Đời Dài Lắm Phố Nắng Đồng Bằng Ăn Mày Dĩ Vãng Út Teng Truyện Ngắn Chu Lai Hùng Karô Chỉ Còn Một Lần Khúc Bi Tráng Cuối Cùng Người Im Lặng Nhà Lao Cây Dừa 3 Lần Và 1 Lần Sông Xa Vòng Tròn Bội Bạc Bãi bờ hoang lạnh Gió không thổi từ biển Mời các bạn đón đọc Ăn Mày Dĩ Vãng của tác giả Chu Lai.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vì Đó Là Em - Susan Elizabeth Phillips
Bằng lối viết giàu cảm xúc của Susan.E.Phillips, đã thực sự cuốn hút tôi suốt chiều dài gần 600 trang sách. Tôi yêu những mẩu đối thoại, những cuộc chiến ngôn từ đầy thú vị của hai nhân vật chính. Tôi cũng yêu cái cách mà Susan.E.Phillips tạo ra tiếng cười ngay trong những tình huống căng thẳng nhất, yêu cái cách bà lồng ghép cho câu chuyện tình lãng mạn những pha hồi hộp đứng tim như trong sách trinh thám. Và điều tôi yêu hơn nữa, đấy là một câu chuyện lãng mạn, nhưng không quá bóng bẩy và kiểu cách. Ở đó, ngoài những nụ hôn ngọt ngào và những lời yêu đương có cánh, còn là mùi mồ hôi của việc luyện tập thể lực, còn là những pha tranh chấp và xô xát nhau trên sàn đấu, thậm chí là cả những câu văng tục, chửi thề. Tất cả như cuộc sống ngoài kia vẫn vậy – một sự hỗn độn rất đỗi ngọt ngào! Thành phố Chicago chưa sẵn sàng chào đón Phoebe Somerville - quả bom sex xinh đẹp nhưng bất cần đời đến từ New York, người vừa mới được trao quyền thừa kế đội bóng bầu dục Chicago Stars. Còn Phoebe cũng tuyệt đối chưa sẵn sàng đối mặt huấn luyện viên trưởng của đội Stars - Dan Calebow, huyền thoại bóng bầu dục đến từ vùng quê Alabama, đồng thời là một gã tóc vàng thô lỗ. Calebow hội tụ tất cả những gì mà Phoebe căm ghét - một tay chơi thể thao với quan điểm kỳ thị giới tính và suy nghĩ cực đoan phiến diện. Còn bà chủ xinh đẹp mới xuất hiện của đội Stars hội tụ tất cả những gì mà Dan khinh miệt - một ả bimbo lắm chuyện vốn chẳng biết gì về quả bóng cả khi nó đã sẵn sàng trên bục ném. Vậy tại sao Dan lại bị hút về phía quả bom sex trơ trẽn đó như một quả tên lửa tầm nhiệt như thế? Và tại sao sức quyến rũ miền quê của tay huấn luyện viên lại làm cho một phụ nữ giang hồ như Phoebe cảm thấy lúng túng, câm lặng... và hoảng sợ đến thế? Đột nhiên, thứ đang có nguy cơ sụp đổ không chỉ là chức vô địch. Bởi vì đam mê là tên của trận đấu này - và hai đối thủ ngoan cố đều đã vào trận một cách vô cùng nghiêm túc... *** Bộ sách Chicago Stars gồm có: It Had to Be You (Vì đó là em) [Chicago Stars #1] - Susan Elizabeth Phillips Heaven, Texas [Chicago Stars #2] - Susan Elizabeth Phillips Nobody's baby but mine [Chicago Stars #3] - Susan Elizabeth Phillips Dream a Little Dream [Chicago Stars #4] - Susan Elizabeth Phillips This Heart of Mine [Chicago Stars #5] - Susan Elizabeth Phillips Mai mối cho tôi nếu em có thể [Chicago Stars #6] - Susan Elizabeth Phillips Mời các bạn đón đọc ​Vì Đó Là Em của tác giả Susan Elizabeth Phillips.
Lưỡi - Jo Kyung-ran
 Jo Kyung Ran đã viết nên một tác phẩm mang nhiều sắc thái của tình yêu có lúc yên bình khi lại vô cùng dữ dội, thông qua "lưỡi" - một hình ảnh trần trụi khiến người ta phải tò mò. Jo Kyung Ran viết Lưỡi xoay quanh một đầu bếp người Hàn chuyên ẩm thực Ý. Mối tình 7 năm của cô vừa kết thúc, cô dần mất niềm đam mê cho nấu ăn và mất cả vị giác. Tác phẩm như một làn gió mới trong nền văn học Hàn hiện đại khi nó không đặt nặng yếu tố văn hóa quốc gia như thường thấy. Sách viết theo ngôi thứ nhất, với nhân vật chính kể về nỗ lực cô tiếp tục sống sau tan vỡ tình cảm, niềm đam mê ẩm thực, ký ức tuổi thơ và về cuộc sống đời thường của cô đầu bếp trẻ. Dù không yêu thích nấu ăn nhưng có lẽ bạn vẫn sẽ bị  Lưỡi cuốn hút bởi những khía canh khác tình cảm, gia đình, xã hội… được Jo Kyung Ran thể hiện nhiều trong cuốn sách. Tiểu thuyết Lưỡi vượt ra khỏi ranh giới Hàn Quốc, được cộng đồng độc giả Anh ngữ đánh giá cao. Những câu văn Jo Kyung Ran miêu tả thực phẩm, quá trình chế biến, phục vụ và thưởng thức đồ ăn thật sự độc đáo, chúng được tác giả sử dụng như ẩn dụ cho tình yêu và đôi lúc là cả tình dục. Nét miêu tả của tác giả biến hóa vô cùng đa dạng từ gợi hình gợi cảm của một trái táo tầm thường: "Táo có hương vị của tự nhiên , của huyền bí, của hình dáng những đám mây và tiếng gió luồn qua kẽ lá, nhưng chính các tăng lữ lại cấm người ta ăn táo. Tất cả là do vị ngọt ngập đầy khoang miệng khi vừa bập răng vào". Nhưng ngay lập tức lại khiến người đọc cảm thấy rợn người với cách người ta làm ra một món ăn xa xỉ như gan ngỗng: "Để có gan ngỗng béo, người ta gây sốc điện trên não bộ con ngỗng, thậm chí khoét mắt nó, vậy là con vật chẳng bận tâm điều gì khác ngoài thao tác ăn cặm cụi như máy bất chấp đói no cho đến khi béo xù đủ đem mổ thịt". Nữ nhà văn cũng nhiều lần đưa đầu mối về nội dung đoạn kết xuyên suốt tập truyện để người đọc giải mã nhưng cho đến chương cuối vẫn là một kết cục bất ngờ. Jo giữ vững văn phong giàu tính biểu tượng của mình như một tuyên ngôn bất hủ về tình yêu: “Đem lòng yêu cũng giống như xăm chữ lên mu bàn tay. Dù cố sức tẩy xóa thì về sau vẫn còn dấu tích mờ. Bởi vậy cậu phải chắc chắn rằng cậu thực sự muốn thế. Phải chắc chắn rằng cậu đã suy nghĩ kỹ càng”. Tình yêu còn được Jo lồng ghép vào những món ăn qua cách miêu tả gia vị cũng giàu hình tượng càm cảm xúc. Với cô, lá húng quế là biểu tượng của nỗi buồn, dù điều này có thể khiến các ẩm thực gia phản đối.  Xuyên suốt tác phẩm, nhà văn 45 tuổi đổi giọng văn liên tục để tách biệt suy nghĩ của cô về tình yêu và cuộc sống. Tác giả đưa vào truyện một vụ tự tử - một cái chết buồn – chi tiết hay được Jo đưa vào truyện của mình. Cô xuất sắc lựa chọn câu chữ thể hiện rõ nét buồn và bất ổn trong tính cách nhân vật chính, qua việc cô đầu bếp xui xẻo thay đổi tâm trạng và nơi ở liên tục. Câu chuyện nhiều tình tiết kết nối, nút thắt, là kiệt tác viết về một tâm hồn trẻ tan vỡ, mất định hướng trước cuộc sống. Nhưng đôi khi người đọc lại cảm thấy không hài lòng về lối viết văn tự sự chắp nối nhiều câu chuyện của tác giả. Dù cho những ai yêu thích văn chương Hàn đều nhận ra đó là phong cách viết rất được ưa chuộng nhất trong thể loại văn viễn tưởng tại quốc gia này. Và còn một điều lạ lùng nhất khiến nhiều người đọc thắc mắc sau khi khép cuốn sách lại đó chính là các nhân vật trong Lưỡi ăn uống với tốc độ tia chớp – điều được Jo đưa vào tác phẩm để nhấn mạnh tới chủ đề nỗi ám ảnh. *** Jo Kyung Ran sinh năm 1969 tại Hàn Quốc, tốt nghiệp khoa Sáng tác Học viện Nghệ thuật Seoul, từng tham gia Chương trình Viết văn Quốc tế của Đại học Iowa. Từ khi ra mắt tác phẩm đầu tay vào năm 28 tuổi đến nay, cô đã giành được nhiều giải thưởng văn học, đáng kể nhất là Giải Văn học Dong-in, Giải Nghệ sĩ Trẻ Ngày nay của Bộ Văn hóa và Du lịch Hàn Quốc… *** Đồng tử to, ánh đen và nâu nhạt. Đôi mắt này từng lấp lánh vì ý chí mạnh mẽ, từng lung linh vì khoái cảm mãnh liệt. Tôi không thể chịu đựng được chúng – đôi mắt đẫm lệ đang phản chiếu dưới đáy nồi đồng, đôi mắt mong chờ một điểu gì từ ai đó mặc dù biết rõ kết quả chỉ là thất vọng mà thôi. Đừng khóc nào, mình không thể khóc được. Tôi nhắm mắt, rồi lại mở ra. Giờ thì ổn rồi. Tôi lật nghiêng cái nồi và treo nó lên móc. Thật may, nước mắt không ứa ra. Tôi chuyển hướng đến cái giá xoay chất đầy dầu mỡ, chọn lấy một chai dầu ô liu nguyên chất và quay lại với chín học viên đã tụ tập ở đây từ bảy giờ tối, trong những trang phục nhăn nhúm lúc cuối ngày. Chúng tôi đang tập trung ở đây – Bếp Won – giữa lò nướng pizza bằng đá sứ, tủ lạnh, máy rửa bát đĩa, máy pha cà phê, máy xay, máy trộn, máy nghiền thực phẩm, nồi cơm điện, bếp ga. Trên tường, từ cao xuống thấp là nồi đồng và chảo thép không gỉ treo lẩn lượt theo cỡ: to-vừa-nhỏ. Ngoài ra còn ly cốc tách, quạt thông gió, máy nghiền-nén thức ăn thừa, vỉ điện, chạn, chụp hút khói, lò hâm nóng, bàn bếp, ghế đẩu, và một nồi nước sôi sùng sục. Bà tôi luôn kê một chiếc bàn lớn trong bếp. Cả nhà hay quây quần quanh chiếc bàn gỗ hình chữ nhật đơn giản và mộc mạc như bàn làm việc ấy đến tận khuya mới giải tán. Sau này chuyển lên thành phố ở, Bà vẫn giữ cái bàn, giữa bàn thường đặt giỏ tre đựng hoa quả hoặc rau. Cứ bày nguyên liệu nấu ăn trong tầm mắt như thế, Bà sẽ có hứng chế biến món mới mỗi lần đi ngang qua bàn. Thi thoảng trong giỏ lại xuất hiện khoai lang hoặc khoai tây luộc còn nóng, bốc hơi nghi ngút. Bà là đẩu bếp cừ nhất mà tôi từng biết, nhưng với những nguyên liệu như khoai lang, khoai tây hay bí ngô, Bà lại không làm gì cầu kỳ hơn là luộc hoặc nướng. Chỉ cần rải phô mai lên khi còn nóng hoặc thả vào nước xuýt là có ngay món xúp hay cháo đặc, nhưng Bà không làm thế. Bà nói những món này nên ăn theo cách chân chất, vì mình đang ăn tinh hoa của đất đai. Khi tôi nhận ra câu nói ấy tượng trưng cho đời Bà, cho cuộc sống giản dị và đẹp đẽ của Bà, thì Bà không còn ở bên chúng tôi nữa. Nắng sớm lăn tăn trên những bông hoa lê và hoa táo bên ngoài, chảy vào bếp qua ô cửa trổ hướng Đông, Bà che mắt cho khỏi chói và xì xụp món xúp cải dại. Bíp. Âm báo hẹn giờ lò nướng. Tôi rải khoai tây phơi khô, nấm xắt lát dày, lá húng quế và phô mai mozzarella lên khay bột nhào, xong rưới hai thìa dầu ô liu và đút cả vào lò đã bật nóng. Nướng mười lăm phút để phô mai chảy ra và vỏ bột sém màu bắt mắt, thế là có món chính cho buổi hôm nay, pizza-khoai-tây-khô-và-nấm. Hôm nay tôi không nghĩ mình có thể làm mấy món ân vặt để chia cho các học viên hoặc chuyện phiếm về thời tiết trong lúc đợi bánh chín như mọi ngày. Thay vào đó, tôi hướng dẫn họ cách làm khoai tây khô bằng lò sấy ở nhà. Khoai tây phơi khô tự nhiên có hương vị đậm đà hơn khoai tây tươi, nhưng lại là nguyên liệu chuyên dụng đắt đỏ. Vẫn còn mười phút. Tôi thò tay vào cái giỏ trước mặt và nhặt lấy thứ chạm đến đầu tiên. Một quả táo. – Đa dạng và ngẫu hứng, là hai điều tối quan trọng cẩn ghi nhớ trong khi nấu nướng. Mọi người đổ dồn mắt vào quả táo tôi đang giơ ngang tầm mắt. Theo giới tăng lữ thời Trung cổ, loại quả này chứa đựng tâm ý của đấng Sáng tạo. Táo có hương vị của tự nhiên, của huyền bí, của hình dáng những đám mây và của tiếng gió luồn qua kẽ lá, nhưng chính các tăng lữ lại cấm người ta ăn táo. Tất cả là do vị ngọt ngập đầy khoang miệng khi vừa bập răng vào. Họ tin rằng vị ngọt đó là một sự cám dỗ, khiến con người chểnh mảng với lời răn dạy của Thượng đế. Rồi khi vị ngọt qua đi, thì nơi đầu lưỡi còn lại toàn chua với gắt. Các tăng lữ cho rằng đó là hương vị của độc dược, của quỷ dữ. Vị ngọt, giôn giốt, chua gắt của táo chính là hương vị làm Eva lạc lối. – Nếu khống thích nấm, các bạn có thể thay bằng táo. Xắt nó thành những lát mỏng cỡ năm mi-li-mét và nếm trải một sự khác biệt. Khác hắn với vị dìu dịu của nấm, táo hơi ngọt, nhưng độ giòn của nó sẽ khiến bạn thấy mới mẻ. Giá tôi đang cẩm cà tím chứ không phải táo. Tôi chưa bao giờ làm pizza mà lại dùng táo thay cho nấm. Dối trá! Điều tôi trông chờ ở anh hóa ra lại là sự dối trá ư? Vị thứ nhất của táo, lời dụ dỗ của con rắn, ngọt ngào như mật. Vị thứ hai, tư vị khi bị trục xuất khỏi vườn Địa đàng, thì chua. Khác với trái cây thông thường, táo chín sẽ giòn lên chứ không mềm đi. Tôi rút con dao nhỏ gọt hoa quả từ giá dao mười hai chiếc. Thay vì bổ quả táo làm đôi, tôi bập chéo dao theo hình chữ V, khoét một miếng và thảy nó vào miệng.  Ngày trước, trong căn bếp đầu tiên của mình, tôi đã có đủ mọi thứ, giống như Bà. Nắng, chậu cây, đồng hồ, báo, thư, hoa quả, rau, sữa, phô mai, bánh mì, bơ, các hũ thủy tinh lớn đựng rượu trái cây, các hũ nhỏ hơn đựng gia vị, mùi cơm đẩm ấm và hương thảo ngan ngát. Có cả anh bên tôi. Để mở trường nấu ăn, chúng tôi bắt đầu tìm một nơi khác có chỗ cho căn bếp rộng hơn. Với các cửa sổ lớn, như yêu cầu của tôi. Tôi không ngó ngàng tới dạng tầng hầm dù chúng thường rộng rãi và giá thuê rẻ như cho. Ý thích về cửa sổ có lẽ bắt nguồn từ những ký ức vể căn bếp của Bà. Tôi cho rẳng mọi thứ vào nhà qua đường bếp, vì thế chúng tôi cần những khung cửa cao đảm bảo được nguồn sáng tốt. Đi du lịch tôi cũng chỉ đến những quán hàng quay mặt ra phố. Chính anh đã tìm được ngôi nhà hai tầng nhiều cửa sổ này. Tôi vô cùng phấn khích, trước cả khi cải tạo xong căn bếp để làm cho nó rộng hơn. ... Mời các bạn đón đọc Lưỡi của tác giả Jo Kyung-ran.
Lâu Đài
Frank Kafka (3/7/1883 – 3/6/1924), sinh ra trong một gia đình Do Thái trung lưu ở Prague, Bohemia (nay thuộc cộng hòa Czech), viết bằng tiếng Đức. Tác phẩm của ông, nhiều tác phẩm chưa hoàn thành và phần lớn xuất bản sau khi ông mất – đã trở thành những thành tựu lớn, có tầm ảnh hưởng bậc nhất của văn học phương Tây. Các tác phẩm chính: tiểu thuyết Vụ án (1925), Lâu đài (1926), Nước Mỹ (1927) và nhiều truyện ngắn. *** Tiểu thuyết kể về một người làm đạc điền đến lâu đài của bá tước West West để tìm việc là K., anh được thông báo là chuẩn bị nhận việc, và chức sắc trong vùng là Klamm còn viết thư động viên K. làm việc. Tuy có quen một số người như Barnabás , Olga, Frida, nhưng K. cũng không sao gặp được nhà chức trách để xem kết quả tuyển dụng. * K. đành phải chờ và sống mòn mỏi , kiệt sức trong cảnh lo âu chờ đợi. K. sống trong một thế giới có thực mà cứ như là ảo, anh nhìn thấy Lâu đài, nhưng không sao trực tiếp gặp được Klamm cũng như chức sắc cao nhất trong vùng. Tiểu thuyết "Lâu đài" là hình ảnh huyền thoại về một tổ chức quyền lực quan liêu với những sợi dây vô hình đã trói buộc cuộc đời của từng con người. Thế giới của Lâu đài là thế giới của mê cung, mang sức mạnh siêu nhiên. Con đường dẫn K vào Lâu đài là một tiểu mê cung. Ngay từ đầu, K đã muốn đi vào nhưng con đường rất dài và nó không dẫn chàng đến Lâu đài. Khi đến gần, dường như cố ý, nó lại vòng sang lối khác. Nhìn từ xa, K có thể thấy Lâu đài, song chàng không thể và vĩnh viễn không bao giờ đến được Cùng với con đường, hình ảnh Lâu đài thấp thoáng hiện lên trái với logic thông thường. Lâu đài không có vẻ cổ kính, tráng lệ mà chỉ là những quần thể nhà hợp thành, không ai biết đó là Lâu đài. Có một tháp chuông nhưng không thể nhận ra đó là tháp chuông ở nhà thờ hay của nhà ở. Con quạ xuất hiện báo hiệu sự chết chóc. Đó là quan sát từ xa. Còn nhìn gần, "Lâu đài này trong thực tế chỉ là một thị trấn thảm hại". Tiếng chuông nghe ma quái "Đổ từng hồi trầm ấm vang lên một cách vui vẻ, tiếng chuông như đe dọa vì nó cũng vang lên đau đớn". Sau đó là những tiếng chuông yếu ớt vang lên "lay lắt". Bộ máy hành chính của Lâu đài cũng là một thứ mê cung. Lâu đài thông qua những mắt xích vô tận các viên chức, thư ký, liên lạc đều nhằm đích là chống lại K. Ngẫu nhiên, Lâu đài viết thư nhận K làm đạc điền, rồi có thư khen thưởng K về công việc tuy thật ra K chưa hề biết công việc đạc điền. Qua những cuộc tiếp xúc của K với nhân viên Lâu đài, ta thấy K bị lừa. Viên trưởng thôn đã nói trắng ra: "Những cuộc tiếp xúc ấy chỉ là giả tạo, nhưng vì thiếu hiểu biết ông lại tưởng thật". K chỉ còn biết tìm đến chánh thanh tra Klamm để tìm hiểu thực hư. Song, Klamm là một chánh thanh tra quan liêu, không thèm nói chuyện với bất cứ ai trong làng, chưa một ai thật sự biết mặt y, bởi Klamm luôn thay đổi hình dạng, bí hiểm. Vì vậy, K cố biết sự thật về Lâu đài, nhưng càng theo đuổi mục đích này, anh lại càng xa nó hơn. Lâu đài là một mê cung của thế giới hành chính quyền lực vô hình. Nó cũng giống như mê cung luật pháp trong Vụ án: không thể tiếp cận, không thể tìm gặp, nó tồn tại trong cụ thể; khắp mọi nơi đều có nó mà vẫn như không có nó. *** Khi K. đến nơi thì đêm đã khuya. Ngôi làng yên nghỉ dưới lớp tuyết dày. Sương mù và bóng tối bao phủ, không thể nhìn thấy ngọn đồi có thành lũy và tòa Lâu đài lớn, dù chỉ là một ít ánh sáng mờ nhạt nhất. K. đứng hồi lâu trên chiếc cầu gỗ dẫn từ đường quốc lộ vào làng và nhìn vào khoảng không. Sau đó chàng đi tìm nơi nghỉ. Trong quán trọ người ta vẫn còn thức. Không có phòng cho thuê, nhưng ông khách đến muộn này đã làm cho người chủ quán bị bất ngờ và bối rối, anh ta đề nghị K. ngủ trên đệm rơm trong quầy uống. K. đã đồng ý. Một vài người nông dân vẫn còn ngồi lom khom bên cốc bia, nhưng chàng không muốn bắt chuyện với ai cả. Chàng mang đệm rơm xuống nằm cạnh lò sưởi. Quán trọ ấm áp, những người nông dân ngồi im lặng. K. quan sát họ một lúc bằng đôi mắt mệt mỏi rồi chàng ngủ thiếp đi. Nhưng chẳng mấy chốc người ta đã đánh thức chàng dậy. Một gã trẻ tuổi mặc quần áo như người thành phố, có khuôn mặt nghệ sĩ, - mắt ti hí, lông mày rậm, - đang đứng bên chàng cùng với chủ quán. Những người nông dân vẫn chưa về, một số quay ghế lại để nhìn và nghe cho rõ hơn. Gã trẻ tuổi xin lỗi K. một cách lịch sự vì đã đánh thức chàng dậy rồi tự giới thiệu mình là con trai quan phòng thành. Gã nói: - Cái làng này là của Lâu đài, ai sống hoặc nghỉ đêm ở đây cũng đều như là sông hoặc nghỉ đêm trong Lâu đài. phải được phép của bá tước. Ngài không có giấy tờ gì, chí ít thì ngài đã không cho chúng tôi xem. K. chống hai tay ngồi dậy, vuốt lại tóc, nhìn mọi người, hỏi: - Tôi lạc vào làng nào thế này? Chẳng lẽ ở đây có Lâu đài à? - Có chớ! - gã trẻ tuổi kiên nhẫn trả lời, và K. thấy một vài người lắc đầu. - Lâu đài của bá tước West West. - Phải có giấy phép thì mới được nghỉ đêm tại đây à? - K. hỏi như thể muốn tin chắc điều mình vừa nghe là không phải ở trong mơ. - Phải có giấy phép. - có tiếng đáp, và như để cợt nhạo K., gã trẻ tuổi dang cánh tay về phía chủ quán và những người khách: - Hay là không cần giấy phép nhỉ? - Vậy thì tôi đi xin phép. - K. vừa ngáp vừa nói, rồi hất chiếc chăn khỏi người như thể chàng muốn ngồi dậy. ... Mời các bạn đón đọc Lâu Đài của tác giả Franz Kafka & Trương Đăng Dung (dịch).
Hiệu Hạnh Phúc Các Bà - Emile Zola
Tác giả được xem như sáng lập và nhà lý luận của chủ nghĩa tự nhiên trong văn học Pháp, nhưng ông đã trờ thành nhà văn lớn chính lại nhờ ông đã vượt lên trên những nguyên lý của chủ nghĩa tự nhiên để tiến gần đến chủ nghĩa hiện thực. Với một số điểm cách tân so với chủ nghĩa hiện thực phê phán cổ điển của Banzắc và Xtăngđan và mở ra thời kỳ của chủ nghĩa hiện thực phê phán. Thường được biết đến với tên Émile Zola, là một nhà văn nổi tiếng của văn học Pháp trong thế kỉ 19, người được coi là nhà văn tiên phong của chủ nghĩa tự nhiên (naturalism). Bên cạnh những tiểu thuyết nổi tiếng, Zola còn được biết tới như là một trong những nhân vật quan trọng dẫn tới việc xét xử lại Vụ Dreyfus. Sách của ông đa phần đều thuộc loại ăn khách. “Hiệu Hạnh phúc các bà" không trở thành cái gì nặng nề quá quắt như ở một số tác phẩm khác của Émile Zola, nó là nền tảng cho hai cuộc đấu tranh gay gắt và căng thẳng - Cuộc đấu tranh giữa buôn bán nhỏ và buôn bán lớn; cuộc đấu tranh nội bộ giữa các nhân viên bán hàng thể hiện cái học thuyết đấu tranh sinh tồn của của Charles Darwin. *** Denise cùng hai em trai xuống tàu Cherbourg ở ga Saint Lazare, đi bộ sau một đêm ngồi ghế cứng trên một toa xe hạng ba. Nàng dắt tay Pépé, Jean đi theo sau, cả ba mỏi nhừ vì chuyến đi, kinh hoàng và lạc lõng giữa Paris mênh mông, hếch mũi lên như các nhà, ở mỗi ngã tư lại hỏi thăm về phố La Michodière, nơi có nhà ông chú Baudu. Nhưng cuối cùng, khi tới quảng trường Gaillon, cô gái đột ngột dừng lại ngỡ ngàng. - Ôi! - Cô nói - Jean ơi, trông kìa! Và họ đứng sững, siết chặt lấy nhau cả ba đều mặc đồ đen đã cũ vì sắp mãn tang bố. Cô gái, mảnh khảnh với tuổi hai mươi, vẻ con nhà nghèo, tay xách một gói nhẹ; còn phía bên kia thì đứa em nhỏ lên năm, níu lấy tay, sau lưng là thằng anh lớn, mười sáu tuổi, vênh vênh, phơi phới, đứng thõng hai tay. - Chà, tuyệt, - Sau một phút im lặng cô nói - một cửa hàng như thế chứ! Đó là, ở góc phố La Michodière và phố Neuve Saint Augustin, một cửa hiệu tân phẩm, hàng bày nổi bật lên những màu rực rỡ trong ánh ngày tháng mười dịu nhạt. Chuông nhà thờ Saint Roch điểm tám giờ, trên bờ hè chỉ có dân Paris dậy sớm, những nhân viên tới sở và những bà nội trợ chạy các cửa hàng. Trước cửa hiệu, hai viên thư ký bán hàng len trên một chiếc thang đôi, sắp treo xong những hàng len, còn trong một tủ kính phố Neuve Saint Augustin thì một viên thư ký khác, ngồi xổm và quay lưng đang thận trọng xếp nếp một tấm lụa xanh da trời. Trong cửa hiệu còn vắng khách mà nhân viên, thì mới đến lác đác, râm ran như một tổ ong thức dậy. - Ui chao! - Jean nói - Nó đánh bạt Valognes... Hiệu của chị chẳng đẹp đến thế. Denise lắc đầu. Cô đã hai năm làm việc ở đó, nhà Comai, tay bán tân phẩm số một thành phố; thế mà cửa hiệu này, cô bắt gặp đột ngột, nó thật là đổ sộ đối với cô, khiến cô hào hứng, xúc động, chăm chú, quên hết mọi sự. Trên vạt tường cách ngang nhìn ra quảng trường Gaillon, chiếc cửa ra vào, toàn bằng gương, cao tới tầng một, giữa những trang trí phức tạp, mạ vàng khắp lượt. Hai nhân vật biểu tượng, hai người đàn bà tươi cười, hở vú và ưỡn ra, trương lên tấm biển: Hiệu hạnh phúc các bà. Rồi những tủ kính chạy dài, suốt dọc phố La Michodière và phố Neuve Saint Augustin, ngoài ngôi nhà ở góc, chúng choán bốn ngôi nhà khác, hai bên phải, hai bên trái, gần đây mới mua và được tu sửa. Cả một cuộc triển khai dường như vô tận, mất hút theo đường viễn thị, với những hàng bầy ở tầng dưới và những tấm gương không tráng ở tầng trên, qua đó người ta nhìn thấy cả cuộc sống bên trong của các quầy hàng. Ở phía trên, một cô gái, mặc đồ lụa, gọt một chiếc bút chì trong khi hai cô khác, gần đấy, mở ra những chiếc măng-tô nhung. ... Mời các bạn đón đọc Hiệu Hạnh Phúc Các Bà của tác giả Emile Zola.